Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Ưu đãi người có công với cách mạng theo pháp luật việt nam từ thực tiễn quận ngũ hành sơn, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THANH TRÀ

ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THANH TRÀ

ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Ngành

: Luật kinh tế

Mã số

: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. TRẦN THỊ THÚY LÂM

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Ưu đãi người có công với cách mạng theo pháp
luật Việt Nam từ thực tiễn Quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng” là công trình
nghiên cứu của riêng bản thân tôi, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và
khảo sát thực tiễn, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trần Thị Thúy Lâm.
Kết quả các số liệu, trích dẫn nêu trong luận văn đảm bảo tính chính xác, trung thực
và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Ngô Thanh Trà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG
VỚI CÁCH MẠNG ...................................................................................................8
1.1. Khái niệm người có công với cách mạng và ưu đãi người có công với cách
mạng ...........................................................................................................................8
1.2. Các nguyên tắc cơ bản của ưu đãi người có công với cách mạng .....................14
1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc ưu đãi người có công với cách mạng .........................18
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với
cách mạng ..................................................................................................................21
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI
CÁCH MẠNG VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI QUẬN NGŨ HÀNH SƠN,

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .......................................................................................24
2.1. Thực trạng pháp luật Ưu đãi người có công với cách mạng ..............................24
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng tại quận
Ngũ Hành Sơn, thành phố Đã Nẵng..........................................................................38
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI NGƯỜI
CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG TẠI QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG ................................................................................................................56
3.1. Hoàn thiện pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng ..........................56
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện ưu đãi người có công với
cách mạng tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng..........................................61
KẾT LUẬN ..............................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASXH

An sinh xã hội

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

BMVNAH


Bà mẹ Việt Nam anh hùng

HĐCM

Hoạt động cách mạng

HĐKC

Hoạt động kháng chiến

KT-XH

Kinh tế - Xã hội

LLVT

Lực lượng vũ trang

NCC

Người có công

NTLS

Nghĩa trang liệt sỹ

TGXH

Trợ giúp xã hội


ƯĐXH

Ưu đãi xã hội


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số
hiệu

Tên bảng

Trang

Đối tượng được hưởng ưu đãi xã hội ở quận Ngũ Hành Sơn,

41

bảng
2.1

thành phố Đà Nẵng
2.2.

Số lượng người có công hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng trên

43

địa bàn quận Ngũ Hành Sơn
2.3.


Số liệu cấp thẻ BHXH cho các đối tượng chính sách qua các

44

năm trong giai đoạn 2013 – 2017 trên địa bàn quận Ngũ Hành
Sơn
2.4.

Số lượng người có công và thân nhân được điều dưỡng, phục

45

hồi sức khỏe trên địa bàn quận
2.5.

Số liệu về sửa chữa, xây mới nhà cho đối tượng chính sách

47

người có công cách mạng năm 2013-2017
2.6.

Số liệu kinh phí tu bổ, nâng cấp, xây mới nghĩa trang liệt sỹ qua
các năm (từ 2013-2017)

49


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã
có biết bao thế hệ người Việt Nam với tinh thần yêu nước, ý chí anh dũng kiên
cường bất khuất hy sinh tính mạng, xương máu, sức lực, trí tuệ và tài sản để cho đất
nước được tự do, độc lập. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đời đời ghi nhớ công lao
to lớn và luôn nỗ lực dành sự ưu đãi cho những người con ưu tú ấy thông qua việc
ban hành và thực hiện một hệ thống chính sách ưu đãi. Ngay trong khi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp đang trong giai đoạn phòng ngự khó khăn, thay mặt
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 16-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây
là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên có vai trò pháp lý quan trọng trong công tác
thương binh - liệt sĩ của cả Nước. Trong thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Ban
Thường trực của Ban Tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc viết: Đang khi Tổ quốc
lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp,
cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa, của cải, ruộng nương,
nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập, ai là người xung phong trước hết để
chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta? Đó là những chiến sĩ mà nay
một số thành ra thương binh. Người nhấn mạnh: Thương binh là những người đã hy
sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ quốc, của
đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn,
phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy. Vì nghĩa cử và sự hy sinh cao cả của
thương binh, liệt sĩ và người có công nên Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: Đối
với những người con trung hiếu ấy, Chính phủ và đồng bào phải báo đáp cho xứng
đáng.
Thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu, với truyền thống và đạo lý của dân
tộc, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn thường xuyên dành sự ưu đãi cả vật chất
và tinh thần cho đối tượng người có công, tạo điều kiện để cuộc sống của họ ngày

1



càng tốt đẹp hơn. Sắc lệnh số 20/SL, ngày 16-2-1947, đặt nền móng cho hệ thống
văn bản chính sách trong lĩnh vực ưu đãi người có công với cách mạng. Tiếp theo,
nhiều văn bản chính sách được ban hành, thể hiện tính liên tục và luôn đổi mới, bảo
đảm tính phù hợp trong quá trình phát triển của thực tiễn đất nước, tạo cơ hội và
điều kiện để người có công được chăm sóc, ưu đãi và vươn lên hòa nhập cộng đồng;
đồng thời tiếp tục cống hiến cho đất nước. Các đối tượng được ghi công, được ưu
đãi ngày càng mở rộng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể và tăng trưởng kinh tế
gắn kết với bảo đảm an sinh xã hội trong hơn 70 năm qua, nhất là trong thời kỳ đẩy
mạnh công cuộc đổi mới đất nước hơn 30 năm qua, chẳng hạn: Pháp lệnh số
26/2005/PL-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung chính
sách, chế độ ưu đãi đối với người có công, mở rộng đối tượng hưởng chế độ, quy
định điều kiện tiêu chuẩn xác nhận người có công phù hợp với tiến trình cải cách
thủ tục hành chính và gắn với lộ trình cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội tương
ứng mức tiêu dùng bình quân của toàn xã hội; Nghị định số 54/2006/NĐ-CP, ngày
26-5-2006, của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh số 26;
Nghị định số 45/2006/NĐ-CP, ngày 28-4-2006, của Chính phủ ban hành Điều lệ
quản lý và sử dụng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa; Pháp lệnh số 35/2007/PL-UBTVQH11,
ngày 21-6-2007, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh số 26 và Nghị định số 89/2008/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Pháp lệnh số
35,... Có thể nói, trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn, chúng ta đang phải dành
nguồn lực để đầu tư xây dựng và phát triển đất nước, song, Đảng và Nhà nước ta
vẫn làm tất cả những gì có thể để chăm lo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho người có công. Cùng với chính sách ưu đãi của Nhà nước, phong trào “Đền ơn
đáp nghĩa” đã trở thành nét đẹp trong đời sống văn hóa của dân tộc, đã phát huy
được sức mạnh của cả cộng đồng. Vấn đề an sinh nói chung, đặc biệt là ưu đãi,
chăm sóc người có công để không ngừng nâng cao mức sống của họ nói riêng, có ý
nghĩa và tác động không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn có tác động mang tính
nhân văn, tính ưu việt của chế độ ở tầm khu vực và quốc tế.
Tuy nhiên, ưu đãi người có công cách mạng theo pháp luật Việt Nam hiện nay


2


còn một số mặt hạn chế nhất định như: Chưa quy định chế độ ưu đãi đối với người
tham gia chiến tranh bảo vệ tổ quốc, bị địch bắt sau 30/4/1975; Quy định người có
công thuộc 2 đối tượng trở lên được hưởng trợ cấp, phụ cấp với từng đối tượng dẫn
đến một người có thể được hưởng nhiều suất trợ cấp người phục vụ; Chưa quy định
chế độ BHYT đối với thân nhân cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa
còn sống; Chưa quy định việc giám định vết thương tái phát đối với người bị
thương đã giám định, kết luận tỷ lệ suy giảm khả năng lao động dưới 21%; Việc
hạn chế thân nhân liệt sĩ chỉ được hưởng tối đa 3 định suất càng không còn hợp lý
trong điều kiện hiện nay, chưa đảm bảo công bằng, hưởng chế độ theo mức độ,
công lao đóng góp; Chưa quy định chế độ ưu đãi đối với vợ hoặc chồng liệt sĩ đã
lấy chồng hoặc vợ khác. Hiện nay cũng còn có nhiều truờng hợp với nhiều lý do
khác nhau đã không đáp ứng được những yêu cầu về mặt thủ tục, giấy tờ mà pháp
luật yêu cầu nên đã không được công nhận là đối tượng người có công với cách
mạng để được hưởng các ưu đãi. Với mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về ưu đãi người có công với cách mạng theo pháp luật Việt Nam trên địa
bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, tôi chọn đề tài: “Ưu đãi người có
công với cách mạng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng”, làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về lĩnh vực này hiện nay có nhiều công trình, bài viết dưới nhiều
góc độ khác nhau. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu chỉ mới nghiên cứu một số
vấn đề cấp bách trong hoạt động chung chưa trình bày được các nội dung quản lý
Nhà nước về ưu đãi người có công với cách mạng theo pháp luật Việt Nam thực tiễn
tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Chính vì vậy đề tài luận văn thạc sỹ của
tác giả không có sự trùng lắp đề tài trước. Một số công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài mà tác giả tiếp cận được trong thời gian thực hiện luận văn thạc sỹ.

- Giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham khảo:
+ “Một số suy nghĩ về hoàn thiện pháp luật uu đãi nguời có công”, Nguyễn
Ðình Liêu - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội (2000).

3


+ “Giáo trình Ưu đãi xã hội”- NXB Đại học Lao động – Xã hội (2007)
+ “Giáo trình An sinh xã hội”, PGS.TS Nguyễn Văn Định (chủ biên) – NXB
Đại học Kinh tế quốc dân (2008)
+ “Giáo trình Chăm sóc sức khỏe người có công với cách mạng”, Hồ Thị Vân
Kiều - NXB Ðại học Quy Nhơn (2011).
+ “Giáo trình Luật An ninh xã hội”, Trường Đại học Luật Hà Nội – NXB
Công an nhân dân (2013)
- Về luận án, luận văn:
Về luận án: có luận án tiến sĩ của
+ Nguyễn Ðình Liêu:”Hoàn thiện pháp luật ưu đãi nguời có công ở Việt
Nam” (1996); luận án tiến sĩ của Lê Anh (2017), “Thực thi chính sách anh sinh xã
hội ở thành phố Ðà Nẵng hiện nay- thực trạng và giải pháp”
+ Lê Anh (2017), “Thực thi chính sách anh sinh xã hội ở thành phố Ðà Nẵng
hiện nay- thực trạng và giải pháp”, Luận án tiến sĩ.
Về luận văn thạc sĩ
+ Nguyễn Thị Tuyết Mai (2009), “Hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội ở Việt
Nam”, luận vănThạc sỹ Luật.
+ Ðỗ Huyền Trang (2017), “Hoạt động chăm sóc sức khỏe người có công với
cách mạng tại phường Tiền An, Thành phố Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn
thạc sỹ công tác xã hội.
+ Nguyễn Thị Thanh (2018), “Thực hiện chính sách người có công với cách mạng
từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng”, Luận văn thạc sỹ chính sách công.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trong nuớc đều đã đề cập được các vấn

đề lý luận và thực tiễn việc thực hiện chính sách ưu đãi nguời có công với cách
mạng ở cấp quốc gia, địa phương. Song hiện vẫn chưa có công trình nghiên cứu
đánh giá việc thực hiện ưu đãi người có công với cách mạng theo pháp luật Việt
Nam tại địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Ðà Nẵng khi số lượng người có
công chiếm một tỷ lệ đáng kể.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về ưu đãi người
có công với cách mạng, đồng thời đánh giá thực trạng pháp luật về ưu đãi người có
công cũng như thực tiễn ưu đãi người có công với cách mạng trên địa bàn quận
Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số giải
pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật ưu đãi người có công với cách mạng trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, góp
phần nâng cao đời sống, đảm bảo công bằng cho người có công với cách mạng...
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước nhà.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các văn bản pháp luật ưu đãi người có công
với cách mạng và thực tiễn thực hiện ưu đãi người có công với cách mạng trên địa
bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Ưu đãi người có công là vấn đề rộng có thể
được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Trong luận văn này, tác giả nghiên cứu
vấn đề ưu đãi xã hội dưới góc độ luật học và chủ yếu ở các nội dung như đối tượng
hưởng, điều kiện hưởng và chế độ hưởng ưu đãi. Luận văn không nghiên cứu những
vấn đề về giải quyết khiếu nại hay tranh chấp về ưu đãi xã hội.
- Phạm vi về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu công tác ưu đãi người

có công với cách mạng theo pháp luật Việt Nam trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi về thời gian: Phân tích thực trạng công ưu đãi người có công với
cách mạng theo pháp luật Việt Nam trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà
Nẵng giai đoạn 2012 - 2017. Ðề xuất giải pháp cho công tác ưu đãi người có công
với cách mạng theo pháp luật Việt Nam trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố
Đà Nẵngtrong thời gian tới.

5


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu trên, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chung của khoa học như: phương pháp thực chứng, phương pháp phân tích, thống
kê mô tả, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp….
- Phương pháp tổng hợp: được sử dụng chủ yếu nhằm tập hợp, chọn lọc những
thông tin có ý nghĩa với luận văn, từ đó sắp xếp, khái quát hóa thông tin theo từng
nội dung cần luận giải trong luận văn.
- Phương pháp mô tả: được sử dụng nhằm mục đích khái quát các kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học trước đây, đồng thời mô tả các quy định
pháp luật cũng như tình hình thực hiện pháp luật. Thông qua đó tạo nên bức tranh
tổng thể về pháp luật ưu đãi người có công ở Việt Nam.
- Phương pháp phân tích: được sử dụng chủ yếu trong tìm kiếm các vấn đề cần
làm rõ trong quy định của pháp luật về ưu đãi người có công cũng như trong tìm
hiểu thực trạng tổ chức thực hiện, tìm ra các nguyên nhân của từng thực trạng đó.
Tùy thuộc vào nội dung của từng chương mà tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu nêu trên cho phù hợp.
- Phương pháp thu thập số liệu:
Để phân tích thực trạng ưu đãi người có công với cách mạng theo pháp luật
Việt Nam trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua,

kết hợp với việc thu thập nguồn tài liệu thứ cấp, tác giả đã tiến hành thu thập tài liệu sơ
cấp về ưu đãi người có công với cách mạng theo pháp luật Việt Nam trên địa bàn quận
Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng bằng phương pháp điều tra thông qua bảng hỏi và
câu hỏi phỏng vấn. Bảng câu hỏi được thiết kế nhằm mục đích lấy ý kiến của ưu đãi
người có công với cách mạng theo pháp luật Việt Nam trên địa bàn quận Ngũ Hành
Sơn, thành phố Đà Nẵng về thực trạng ưu đãi người có công với cách mạng theo pháp
luật Việt Nam trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
- Phương pháp xử lý số liệu:
Kết quả điều tra được tác giả sử dụng phần mềm Microsoft Excel để thống kê,
tổng hợp số liệu.

6


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiển
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về ưu đãi người có
công với cách mạng từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Đồng thời, ở
một mức độ nhất định, luận văn cũng cung cấp những kiến thức hữu ích cho những
người cần nghiên cứu về cơ sở lý luận cũng như những người làm công tác thực tiễn
trong lĩnh vực ưu đãi người có công để áp dụng và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật ưu đãi người có công một cách hiệu quả.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu,
giảng dạy và công tác chăm lo đời sống người có công cách mạng. Những phương
hướng và giải pháp được đề xuất có thể gợi mở cho các cơ quan quản lý có những
điều chỉnh phù hợp để thực hiện ưu đãi xã hội người có công cách mạng theo pháp
luật hiệu quả hơn, qua đó góp phần nâng cao vai trò của Nhà nuớc trong ưu đãi
người có công với cách mạng theo pháp luật Việt Nam ở nước ta nói chung và thực
tiễn tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về ưu đãi người có công với cách mạng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về Ưu đãi người có công với cách mạng và
thực tiễn thực hiện tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
việc thực hiện ưu đãi ngươì có công với cách mạng tại quận Ngũ Hành Sơn, thành
phố Đà Nẵng

7


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG
VỚI CÁCH MẠNG
1.1. Khái niệm người có công với cách mạng và ưu đãi người có công với
cách mạng
1.1.1. Khái niệm người có công với cách mạng
Theo nghĩa rộng: “Người có công là những người không phân biệt tôn giáo,
tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã tự nguyện hiến dâng cuộc đời mình cho sự
nghiệp dựng nước, giữ nước và kiến thiết đất nước. Họ có những đóng góp, những
cống hiến xuất sắc và vì lợi ích của dân tộc”. Người có công với cách mạng là
người bình thường, làm việc đại nghĩa, có công lao to lớn đối với đất nước, tự coi
đó là nghĩa vụ đối với cộng đồng không bao giờ kể công và đòi hỏi cộng đồng phải
bảo nghĩa. Sự công hiến của người có công với cách mạng là vì lợi ích của đất
nước, được nhân dân tôn vinh và được Nhà nước thông qua cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ghi nhận theo quy định của pháp luật, đồng thời đảm bảo cho họ các
chế độ ưu đãi về kinh tế, về chính trị, xã hội.
Theo khái niệm này, người có công với Nước sẽ không chỉ bao gồm những

người có công trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc bảo vệ tổ quốc mà còn
bao gồm cả những người có cống hiến đáng kể trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước, những người xả thân bảo vệ cuộc sống yên bình hoặc đem lại thành tích,
đem lại vẻ vang cho đất nước, cho dân tộc. Vì vậy, người có công theo cách tiếp
cận này sẽ rất rộng và bao gồm nhiều đối tượng khác nhau.
Theo nghĩa hẹp: “Người có công là những người không phân biệt tôn giáo, tín
ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã có những đóng góp, những cống hiến xuất sắc
trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945; trong các cuộc giải phóng dân
tộc và bảo vệ Tổ quốc, được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận.
Như vậy, người có công chỉ được xác định là những người có những đóng
góp, cống hiến trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Hay nói

8


cách khác ở góc độ này, người có công chỉ đồng nghĩa với người có công với cách
mạng, tức là những người có đóng góp trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và
bảo vệ Tổ quốc được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ghi nhận như thương
binh, liệt sỹ, người hoạt động và giúp đỡ cách mạng...
Dưới góc độ này thì người có công với cách mạng bao gồm những người tham
gia hoặc giúp đỡ cách mạng, họ đã hy sinh cả cuộc đời hoặc một phần thân thể hoặc
có những thành tích, đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm ưu đãi người có công với cách mạng
Những người có công với nước bao giờ cũng được đất nước, dân tộc, xã hội
ghi nhận và tôn vinh. Một trong những ghi nhận và thể hiện sự tôn vinh đó là họ
được nhà nước, được xã hội dành cho những ưu tiên, đãi ngộ đặc biệt cả về vật chất
lẫn tinh thần trong mọi mặt của đời sống xã hội. Những ưu tiên, đãi ngộ đặc biệt
hơn bình thường đó được gọi là ưu đãi xã hội. [31, tr.263]
Ưu đãi và chăm sóc người có công luôn là một chủ trương nhất quán của Đảng

và Nhà nước ta kể từ khi Bác Hồ lấy ngày 27/7 là ngày Thương binh - Liệt sĩ. Trong
suốt hơn 70 năm qua, hệ thống pháp luật, chính sách ưu đãi người có công đã không
ngừng được hoàn thiện và được thực hiện đồng bộ; góp phần to lớn vào những
thành tựu trong lĩnh vực người có công nói riêng, của ngành Lao động – Thương
binh và Xã hội nói chung. Thấm nhuần đạo lý “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ
kẻ trồng cây” trong những năm qua dù ở bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào của đất
nước thì công tác chăm lo cho người có công với cách mạng luôn được Đảng, Nhà
nước, Chính phủ quan tâm đặc biệt.
Ưu đãi xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta được cụ thể hóa thực
hiện thông qua hệ thống pháp luật có bề dày lịch sử. Với vai trò là bộ phận cấu
thành đặc biệt của hệ thống pháp luật an sinh xã hội Việt Nam, pháp luật ưu đãi xã
hội giữ vai trò trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội quốc gia. 70 năm qua, chính
sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng được Đảng và Nhà nước đặc biệt
quan tâm, có thể điểm qua các giai đoạn:

9


Từ năm 1947 đến kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1954), Nhà nước đã ban hành 24 văn bản dưới hình thức Sắc lệnh, Nghị định,
Thông tư, Thông lệnh quy định những vấn đề cơ bản như:Quy định tiêu chuẩn để
xác định thương binh, tử sĩ; quy định trợ cấp hằng tháng đối với thương binh, thân
nhân tử sĩ, việc huấn luyện nghề, sắp xếp việc làm, các chính sách ưu tiên đối với
thương binh; gia đình tử sĩ được tặng "Bảng Tổ quốc ghi ơn", thương binh được cấp
Huy hiệu Thương binh; tổ chức các Trại an dưỡng để thu nhận và chăm sóc thương
binh, bệnh binh; đồng thời tháng 7-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong
trào "Đón thương binh về làng" chăm sóc; lập quỹ nghĩa thương; tổ chức bộ máy
Bộ Thương binh - Cựu binh. Thành lập trong mỗi khu kháng chiến một Sở Thương
binh - Cựu binh, trong mỗi tỉnh hoặc liên tỉnh một Ty Thương binh - Cựu binh.
Như vậy, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù hoàn cảnh đất

nước còn nghèo, nhưng Nhà nước đã ban hành một số văn bản thể hiện sự ưu đãi
đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, đồng thời đề ra chủ trương hết sức đúng đắn là
toàn dân tham gia chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), chế độ ưu đãi đối với
thương binh, gia đình liệt sĩ được quan tâm với việc ban hành 184 văn bản pháp
luật, trong đó quy định một số điểm quan trọng như: Tiếp tục xác nhận và giải quyết
quyền lợi cho những quân nhân, dân quân, du kích, thanh niên xung phong bị
thương tật, bị chết trong chiến tranh; đối với những người hy sinh trong kháng chiến
chống Pháp, Nhà nước đã sửa đổi tiêu chuẩn "liệt sĩ" thay tiêu chuẩn "tử sĩ" trước
đây, cấp Bằng Tổ quốc ghi công thay "Bảng Tổ quốc ghi ơn" liệt sĩ; quy định việc
cất bốc quy tập mộ liệt sĩ, xây dựng các nghĩa trang liệt sĩ. Cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước ngày càng cam go, quyết liệt, Đảng, Nhà nước đã phát động cuộc
chiến tranh toàn dân, toàn diện với sự đóng góp hy sinh to lớn của mọi tầng lớp,
mọi lực lượng, chế độ ưu đãi đối với người có công được bổ sung các đối tượng
mới như: Chế độ đối với thanh niên xung phong (Chỉ thị số 71/TTg ngày 21-61965); Chế độ đối với dân công thời chiến (Nghị định số 77/CP ngày 26-4-1966);
Chế độ đối với lực lượng vận tải nhân dân (Quyết định số 84/CP ngày 04-5-1966);

10


Chế độ đối với công nhân viên chức, cán bộ giữ chức vụ chủ chốt ở xã, dân công
phục vụ các chiến trường quan trọng và nhân dân (Nghị định số 111B/CP) ngày 207-1968; Chế đô đối với cán bộ y tế làm nhiệm vụ cấp cứu phòng không (Nghị định
số 111/CP ngày 28-6-1973). Đồng thời Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản thể
hiện trách nhiệm đối với người có công như: Văn bản quy định những ngành nghề
dành để sắp xếp thương binh vào làm việc, các cơ quan xí nghiệp phải nhận thương
binh theo tỷ lệ 5% biên chế; quy định chế độ ưu đãi trong giáo dục - đào tạo, trong y
tế, được miễn, giảm giá vé tàu xe… Sự quan tâm của Đảng, Chính phủ đối với
người có công trong giai đoạn này đã góp phần to lớn, ổn định hậu phương, động
viên cán bộ chiến sĩ và nhân dân hăng hái trong chiến đấu, hết lòng chi viện sức
người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước.
Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1985, chính sách ưu đãi người có công có
những thay đổi bổ sung cho phù hợp tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước
sau khi Tổ quốc thống nhất. Chính sách ưu đãi người có công tập trung vào các
nhiệm vụ như giải quyết các tồn đọng sau chiến tranh, thống nhất các chế độ ưu đãi
trong cả nước. Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước đã ban hành 523 văn bản
pháp luật ưu đãi người có công, điển hình như: Chỉ thị 223/CT-TƯ ngày 8-7-1975
của Ban Bí thư Trung ương Đảng xác định yêu cầu nhiệm vụ của công tác thương
binh, liệt sĩ sau chiến tranh. Ban Đại diện Trung ương Đảng ở miền Nam có Chỉ thị
số 15/CT-76 về việc tăng cuờng công tác thương binh xã hội ở miền Nam, tập trung
vào công tác xác nhận thương binh, liệt sĩ, cất bốc quy tập mộ liệt sĩ, xây dựng
nghĩa trang liệt sĩ, tổ chức ổn định cuộc sống của người có công. v.v.. Thực hiện
thống nhất chính sách ưu đãi trong cả nước, Nhà nước đã bổ sung, sửa đổi một số
quy định về chế độ đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, về công tác mộ liệt sĩ (Nghị
định số 45/CP ngày 13-01-1976; Quyết định số 60/CP ngày 05-4-1976); bổ sung
quy định ưu đãi người có công giúp đỡ cách mạng (Quyết định số 208/CP ngày 207-1977) và bệnh binh (Quyết định số 78/CP ngày 13-4-1978) là đối tượng người có
công với cách mạng. Bổ sung đối tượng, tiêu chuẩn xác nhận thương binh, bệnh

11


binh, liệt sĩ trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế
(Quyết định số 301/CP ngày 20-9-1980). Có thể khẳng định trong giai đoạn 19751985, trong điều kiện đất nước vừa có hòa bình lại phải tiến hành cuộc chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam (1978) và biên giới phía Bắc (1979), song Nhà
nước đã ban hành, bổ sung, sửa đổi nhiều văn bản pháp luật ưu đãi đối với người có
công, khắc phục được một số bất hợp lý, hình thành một số văn bản pháp quy có
hiệu lực thực hiện thống nhất trong cả nước, giải quyết một khối lượng lớn công
việc do hậu quả chiến tranh để lại.
Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo (từ năm 1986 đến nay),
cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng hết sức quan tâm đến việc

thực hiện chính sách ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) nhấn mạnh: "Quan
tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ và những nguời có công với
cách mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn
dân; sớm ban hành chế độ toàn dân đóng góp vào Quỹ đền ơn, trả nghĩa để chăm lo
đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và những nguời có công với cách mạng".
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã ban hành một số văn bản quy phạm
ưu đãi người có công, trong đó đáng lưu ý nhất là Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động
cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng
chiến, người có công giúp đỡ cách mạng (gọi tắt là Pháp lệnh ưu đãi người có công)
và Pháp lệnh phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
được công bố ngày 10-9-1994.
Chính sách ưu đãi đối với người có công tiếp tục được sửa đổi với việc Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng,
số 26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 29-6-2005. Tiếp đó, ngày 21-6-2007, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, số 35/2007/PL-UBTVQH11, theo đó
Điều 9 và Điều 10 của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng được sửa đổi,
bổ sung. Đến năm 2012, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Sửa

12


đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, số
04/2012/PL-UBTVQH13. Như vậy, đến nay lĩnh vực ưu đãi xã hội đối với người
có công với cách mạng có 04 Pháp lệnh được điều chỉnh là: Pháp lệnh Quy định
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Pháp lệnh ưu đãi người có
công với cách mạng và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu
đãi người có công. Các hệ thống văn bản pháp luật về ưu đãi người có công tương
đối đầy đủ và cơ bản đã thể chế hóa được các chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước đối với người có công, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để các cơ quan,
tổ chức, gia đình và cá nhân tham gia tích cực vào việc đền ơn đáp nghĩa, chăm lo,
trợ giúp người có công và tạo môi trường thuận lợi để họ khắc phục khó khăn,
khẳng định vai trò trong cộng đồng xã hội.
Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) nhấn mạnh: "Huy
động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật
chất và tinh thần của những người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn
đọng về chính sách người có công..." Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng
(2016) tiếp tục khẳng định: "Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công trên
cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp với nguồn lực của Nhà nước; bảo đảm
người có công có mức sống từ trung bình trở lên". Hệ thống chính sách ưu đãi đối
với người có công tiếp tục được hoàn thiện với việc ban hành Thông tư số
22/2016/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội ngày 29-6-2016
Hướng dẫn điều chỉnh trợ cấp ưu đãi đối với nhóm đối tượng người hoạt động
kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học được công nhận và đang hưởng trợ cấp
trước ngày 01-9-2012. Như vậy, chính sách ưu đãi đối với người có công với cách
mạng của Đảng và Nhà nước trong 70 năm qua được ban hành, bổ sung, sửa đổi và
hoàn thiện. Chính sách đó đã nhanh chóng được thực hiện tạo ra sức mạnh tổng hợp
về chính trị, kinh tế và xã hội, sự đồng thuận giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân và bản
thân người có công với cách mạng, có tác động sâu sắc đến toàn xã hội, cùng với
Nhà nước chăm lo người có công với cách mạng, phát huy truyền thống, đạo lý của
dân tộc "uống nước nhớ nguồn, "đền ơn đáp nghĩa" trong thời kỳ đổi mới.

13


1.2. Các nguyên tắc cơ bản của ưu đãi người có công với cách mạng
Các nguyên tắc cơ bản của luật an sinh xã hội Việt Nam là những tư tưởng chủ
đạo xuyên suốt và chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật an sinh xã hội.
Các nguyên tắc cơ bản của ưu đãi xã hội người có công với cách mạng chính là các

quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà Nước về kinh tế - xã hội nói
chung và về vị trí, vai trò của con người trong cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa nói riêng.
Thứ nhất là: Mọi thành viên trong xã hội đều có quyền được hưởng an sinh xã hội
Tại Điều 3 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người của Liên hợp quốc
(10/12/1948) đã tuyên bố: “mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh cá
nhân”. Tại Điều 22, Tuyên ngôn còn tuyên bố: “Mỗi người, vì là một thành viên
của xã hội, có quyền được đảm bảo an ninh xã hội và được đảm bảo để được thực
hiện các quyền không thể thiếu được về kinh tế, xã hội và văn hóa, phẩm giá và sự
phát triển tự do nhân cách cá nhân”. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa (16/12/1966) đã một lần nữa ghi nhận: “Các quốc gia thành viên của
công ước công nhận quyền của mọi người được hưởng an toàn xã hội”. Như vậy, rõ
ràng “được đảm bảo về an sinh xã hội” là quyền quan trọng trong lĩnh vực rộng lớn
các quyền của con người. [31, tr.27]
Trong phạm vi một quốc gia, được đảm bảo an ninh xã hội cũng là một trong
những quyền cơ bản của công dân, với các mức độ khác nhau, được hầu hết hiến
pháp các nước ghi nhận. Ở nước ta, quyền an sinh xã hội được đề cập tại nhiều điều
của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), cụ thể như về bảo hiểm xã hội (Điều 59), về ưu
đãi xã hội, cứu trợ xã hội (Điều 67)…
Được hưởng an sinh xã hội là quyền của công dân và được thực hiện bình
đẳng giữa các thành viên xã hội là một nguyên tắc quan trọng. Tuy nhiên, để được
hưởng một chế độ trợ giúp cụ thể nào đó thì đối tượng được trợ giúp phải thỏa mãn
những điều kiện nhất định.
Thứ hai: Nhà nước thống nhất quản lý vấn đề an sinh xã hội
Cơ sở của nguyên tắc này nằm ngay chính ở chức năng xã hội của Nhà nước.

14


Nhà nước, người sở hữu cao nhất, đồng thời là người chủ sử dụng lao động lớn

nhất, người đại diện cho toàn bộ xã hội phải là người thống nhất quản lý toàn bộ
lĩnh vực an sinh xã hội. Sự thống nhất quản lý an sinh xã hội thể hiện ở chỗ “Nhà
nước định ra các chính sách xã hội”, cùng với các chính sách kinh tế, chính sách
văn hóa, an ninh quốc phòng. Đồng thời, Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật an
ninh xã hội nhằm thể chế hóa các chính sách xã hội ấy. Để thực thi có hiệu quả các
văn bản pháp luật, Nhà nước thành lập các hệ thông các cơ quan chức năng về an
sinh xã hội cũng như kiểm tra việc tổ chức, thực hiện các chính sách, chế độ an sinh
xã hội của các cơ quan này. Là người chủ sở hữu lớn nhất, Nhà nước còn trực tiếp
đóng góp hoặc hỗ trợ vào nguồn thực hiện các chế độ an sinh xã hội.
Tuy nhiên, nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lý an sinh xã hội không có
nghĩa là hoàn toàn loại trừ sự tham gia quản lý của các tổ chức chính trị - xã hội,
các tổ chức, đoàn thể xã hội. Tùy theo vị trí, chức năng của từng tổ chức như Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn, Hội nông dân Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ,
Hội cựu chiến binh, Hội chữ thập đỏ … mà pháp luật trao cho họ một số quyền và
cả trách nhiệm tương ứng trong việc tham gia tổ chức, quản lý một số mặt hoạt
động thuộc an sinh xã hội. [31, tr.28]
Thứ ba: Kết hợp hài hòa chính sách kinh tế và chính sách xã hội
Nguyên tắc kết hợp hài hòa chính sách kinh tế và chính sách xã hội xuất phát
từ quan niệm “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chính sách xã hội”
của Nhà nước ta. Mục tiêu của chính sách xã hội là nhằm phát huy sức mạnh của
nhân tố con người. Trong khi đó, nguồn lực con người lại được xác định là “yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Phát triển
kinh tế đóng vai trò là cơ sở, là tiền đề để thực hiện chính sách xã hội. Do vậy,
sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa – xã hội, giữa
tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một chủ trương có tính chiến lược của
Nhà nước ta. [31, tr.29]
Thứ tư: Kết hợp hài hòa giữa nguyên tắc “hưởng thụ theo đóng góp” và
nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”

15



Nguyên tắc có “tính chất kép” này rất đặc trưng cho pháp luật an sinh xã hội.
Nếu nhìn riêng từng nguyên tắc nhỏ thì thấy chúng chứa đựng những nội dung khác
nhau, tuy nhiên chúng không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau. Nguyên tắc
“hưởng thụ theo đóng góp” trong luật an ninh xã hội chính là sự cụ thể hóa nguyên
tắc “công bằng xã hội” – nguyên tắc bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống. Điều
này là cần thiết, bởi vì đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì hưởng
thụ tương ứng với đóng góp, vẫn còn là một điều không tránh khỏi. Tuy nhiên,
nguyên tắc “hưởng thụ theo đóng góp” trong an sinh xã hội không hoàn toàn giống
nguyên tắc “phân phối theo lao động” trong luật lao động. Nguyên tắc này thường
được áp dụng trong việc thực hiện trợ cấp bảo hiểm xã hội cho người có công với
cách mạng. [31, tr.30]
Nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” thể hiện tính nhân đạo xã hội. Nguyên tắc
này thường chủ yếu được áp dụng trong các chế độ bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội.
Tinh thần cơ bản của nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” là ở chỗ, bằng sự đóng góp,
trợ giúp của nhiều người sẽ hạn chế, giảm thiểu khó khăn, bất hạnh cho một thiểu số
người. Ở đây tính tương trợ, tương ái thể hiện rất rõ. Những đối tượng gặp rủi ro
không phải đóng góp gì và được trợ giúp căn cứ chủ yếu vào hoàn cảnh, mức độ
khó khăn, hiểm nghèo của từng trường hợp.
Tuy nhiên, cũng không nên hiểu “sự kết hợp hài hòa” trong nguyên tắc này
một cách máy móc như nhau ở mọi lúc, mọi nơi. Tùy thuộc vào từng mặt của các
mối quan hệ, hoặc từng khâu của mỗi chế độ, thậm chí từng loại đối tượng của an
sinh xã hội mà có sự áp dụng cho linh hoạt và phù hợp. Có như vậy mới thực sự
phát huy đúng tinh thần của nguyên tắc có “tính chất kép” này.
Thứ năm: Nguyên tắc đa dạng hóa, xã hội hóa hoạt động an sinh xã hội
Hoạt động an sinh xã hội là một trong những hoạt động xã hội cơ bản của mỗi
quốc gia để hướng tới mục tiêu phát triển con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ,
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Trong cuộc sống, có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro cho con người mà

chúng ta không thể lường trước được, nhu cầu bảo vệ của con người rất đa dạng

16


xuất phát từ các nguyên nhân rủi ro khác nhau. Sự đa dạng của các nguyên nhân rủi
ro dẫn đến sự đa dạng và phong phú trong các hình thức bảo vệ của hoạt động
ASXH. Căn cứ vào các nguyên nhân rủi ro khác nhau đã hình thành nên các nhóm
đối tượng với các hình thức bảo vệ phù hợp, có đối tượng cần bảo đảm thu nhập, có
đối tượng cần trợ giúp để vượt qua tình trạng nguy kịch của cuộc sống nhưng cũng
có đối tượng cần sự nâng đỡ, động viên tinh thần, tạo cơ hội vươn lên hòa nhập
cộng đồng. Hơn nữa, không phải lúc nào và bao giờ các nhu cầu ASXH cũng giống
nhau, thậm chí ngay trong cùng một nhóm đối tượng có cùng một nguyên nhân rủi
ro. Chẳng hạn khi một cơn bão đi qua gây hậu quả nhưng nhu cầu của mỗi người là
khác nhau, có đối tượng cần nơi ở, có đối tượng cần lương thực để tồn tại, nhưng
cũng có đối tượng cần trợ giúp về y tế, phương tiện sinh sống. Chính vì thế, ASXH
cần thực hiện theo hướng đa dạng hóa hoạt động với các cách khác nhau mới đảm
bảo được mục đích, công bằng và an toàn chung xã hội.
Nguyên tắc này được thể hiện rất rõ trong việc quy định nội dung ASXH với
đa dạng các chế độ trợ cấp BHXH, BHYT, TGXH, UĐXH, … hình thành theo các
nhóm đối tượng và hình thức thực hiện khác nhau. Sự phát triển của ASXH trong
lịch sử cũng chứng minh cho sự đa dạng hóa các hoạt động ASXH bằng việc thiết
lập các “ lưới an toàn xã hội” ngày càng dày đặc hơn với nhiều “tầng tầng, lớp lớp”
chế độ bảo vệ nhằm bao quát các thành viên xã hội. Việc thực hiện ASXH trước
tiên thuộc về trách nhiệm của nhà nước nhưng đồng thời đây cũng là mối quan tâm
e sợ chung của toàn thể xã hội. Do vậy, bên cạnh vai trò của nhà nước trong thực
hiện ASXH, sự tham gia thực hiện của các tổ chức, đoàn thể, quần chúng nhân dân
toàn xã hội cũng quyết định đến sự thành công của sự nghiệp ASXH. Mặt khác, suy
cho cùng các công việc xã hội, các vấn đề xã hội phải do toàn xã hội đảm nhiệm,
gánh vác trong đó Nhà nước giữ vai trò ví như người “nhạc trưởng”. Nhà nước với

vai trò trung tâm của mình điều tiết các hoạt động ASXH đồng thời khuyến khích
và tạo điều kiện để bất kỳ cá nhân, tổ chức nào cũng có thể tham gia thực hiện
ASXH, miễn không có mưu đồ chính trị hay vụ lợi cá nhân. Chính vì vậy, xã hội
hóa các hoạt động ASXH trở thành nguyên tắc quan trọng nhằm đảm bảo thực hiện

17


mục đích của ASXH.
Nguyên tắc này được cụ thể hóa rõ nét nhất trong các quy định của pháp luật
ASXH điều chỉnh các quan hệ TGXH, ƯĐXH. Theo đó, nhà nước huy động mọi
nguồn lực tài chính và nhân lực thực hiện, hình thành phong trào có tính chất sâu
rộng với toàn thể các tầng lớp nhân dân. Thực tế cho thấy bên cạnh các chế độ trợ
cấp từ Ngân sách nhà nước, sự hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước góp phần quan trọng trong việc bảo vệ cuộc sống của người dân, từng
bước nâng cao chất lượng cuộc sống. Những đóng góp của các tổ chức, cá nhân tiêu
biểu như Quỹ đền ơn đáp nghĩa, Quỹ vì người nghèo, Quỹ bảo trợ trẻ em tàn tật,
Quỹ ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam… trong thời gian qua đã chứng minh rõ
nét cho những thành công của việc xã hội hóa hoạt động an sinh xã hội. Xã hội hóa
thực hiện các hoạt động ASXH vừa là nguyên tắc, vừa là cách thực hiện đảm bảo
mục tiêu của ASXH. Trong điều kiện hiện nay, việc thực hiện nguyên tắc này được
đặt trên cơ sở của tư tưởng tiến bộ với vai trò của Nhà nước. Cần xác định rõ vai trò
của nhà nước, của cá nhân, cộng đồng và cả những thiết chế thị trường. Tư tưởng
bao cấp với quan niệm Nhà nước là người bảo trợ lớn nhất với nguồn tài chính lớn
cần được thay thế bằng việc xác định giới hạn cần thiết của sự bảo vệ, và quan trọng
hơn cả là Nhà nước cần có những biện pháp huy động sự tham gia của đông đảo
thành viên xã hội, của chính bản thân đối tượng tạo cơ sở, nền tảng đảm bảo ổn định
và phát triển bền vững. Nhà nước không nên can thiệp rộng, cụ thể, chi tiết và thực
hiện thay các nghĩa vụ cộng đồng mà sự tham gia trực tiếp của Nhà nước cần theo
hướng “Nhà nước ít như cần thiết, cộng đồng nhiều như có thể”. Để có được một hệ

thống an sinh xã hội phát triển, đủ sức chống đỡ với các rủi ro xã hội ngày một tăng
lên đòi hỏi nhà nước và mỗi cá nhân trong xã hội phải nỗ lực hết mình và chia sẻ
những rủi ro cho nhau, có như vậy hoạt động an sinh xã hội mới thể hiện được đúng
bản chất “tương trợ cộng đồng” của nó.
1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc ưu đãi người có công với cách mạng
1.3.1. Vai trò của ưu đãi người có công với cách mạng
Về chính trị: Trong tình hình hiện nay, khi đất nước bước vào thời kỳ xây

18


dựng và phát triển kinh tế nhưng các thế lực thù địch vẫn không ngừng chống phá
cách mạng bằng các hoạt động và các thủ đoạn diễn biến hòa bình. Trước những
biến đổi, những tác động của mặt trái cơ chế thị trường chính sách ưu đãi đối với
NCC có ý nghĩa lớn lao, nó thể hiện rõ rệt quyền con người. Mỗi sai lầm trong việc
thực hiện chính sách NCC không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của họ mà còn đem
lại những hậu quả khó lường.
Về kinh tế: Việc đảm bảo đời sống vật chất cho NCC trong sinh hoạt hằng
ngày nhất là đối với những người có công lao thành tích đặc biệt, có thương tật,
bệnh tật nặng hoặc bù đắp một phần mất mát của họ. Được sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước, các văn bản pháp quy lần lượt ra đời đưa ra những chính sách ưu đãi
đối với NCC, trong đó qui định các loại trợ cấp, mức trợ cấp phù hợp với chính sách
phát triển kinh tế - xã hội.
Về pháp lý: Dưới sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta và hàng loạt những
chính sách về ƯĐXH đối với NCC đã ra đời, đánh dấu sự phát triển về mặt lập pháp
của nước ta. Chính những văn bản quy phạm pháp luật này đã mang lại sự công
bằng trong xã hội đối với những người đã hy sinh một phần xương máu vì sự
nghiệp độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khi có chế độ ưu đãi, sự ưu
tiên suy tôn của xã hội trở thành quyền pháp lý của NCC, quyền này được đảm bảo
thực hiện một cách chắc chắn. Pháp luật ƯĐXH là sự thể chế hóa những chính sách

ưu đãi đối với NCC của Đảng, Nhà nước ta, là sự đảm bảo sự ưu tiên ưu đãi cho
NCC được thực hiện hay nói cách khác là sự đảm bảo về mặt pháp lý cho những
quyền được hưởng ưu đãi của NCC.
1.3.2. Ý nghĩa của ưu đãi người có công với cách mạng
- Về chính trị: Qua các gia đoạn phát triển của đất nước, các thế lực thù địch
vẫn không ngừng chống phá cách mạng Nước ta bằng nhiều hoạt động khác nhau,
nhất là chiến lược “Diễn biến hòa bình” và trước những biến đổi, những mặt trái của
kinh tế thị trường thì chính sách ưu đãi người có công với cách mạng có ý nghĩa vô
cùng lớn lao, nó thể hiện rõ rệt quyền con người. Văn kiện Đại hội IX của Đảng chỉ
rõ: “Giải quyết tốt các vấn đề xã hội … Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và vận

19


×