Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

NGHIÊN cứu TÌNH HÌNH gãy XƯƠNG CHÍNH mũi và ĐÁNH GIÁ kết QUẢ điều TRỊ BỆNH NHÂN gãy XƯƠNG CHÍNH mũi tại BỆNH VIỆN TAI mũi HỌNG TRUNG ƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (627.84 KB, 54 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC Y H NI

B Y T

BI VIT TUN

NGHIÊN CứU TìNH HìNH GãY XƯƠNG CHíNH
MũI
Và ĐáNH GIá KếT QUả ĐIềU TRị BệNH NHÂN
GãY XƯƠNG CHíNH MũI TạI BệNH VIệN TAI MũI
HọNG TRUNG ƯƠNG

CNG LUN VN THC S Y HC

H NI - 2018


B GIO DC V O TO
TRNG I HC Y H NI

B Y T

BI VIT TUN

NGHIÊN CứU TìNH HìNH GãY XƯƠNG CHíNH
MũI
Và ĐáNH GIá KếT QUả ĐIềU TRị BệNH NHÂN
GãY XƯƠNG CHíNH MũI TạI BệNH VIệN TAI MũI
HọNG TRUNG ƯƠNG
Chuyờn ngnh: Tai Mi Hng


Mó s: 60720155

CNG LUN VN THC S Y HC
Ngi hng dn khoa hc:
PGS.TS. Phm Tun Cnh

H NI - 2018


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BN

: Bệnh nhân

BV TMH TW

: Bệnh viện Tai mũi họng trung ương

CLVT

: Cắt lớp vi tính (CT Scanner )

CT

: Chấn thương

GXCM

: Gãy xương chính mũi


HS-SV

: Học sinh - Sinh viên

RHM

: Răng hàm mặt

SAT

: Huyết thanh chống uốn ván (serum anti-tetanos)

TK

: Thần kinh

TMH

: Tai mũi họng

TN

: Tai nạn

TNGT

: Tai nạn giao thông

TNLĐ


: Tai nạn lao động

TNSH

: Tai nạn sinh hoạt

VT

: Vết thương


MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC HÌNH


6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Xương chính mũi (XCM) có cấu trúc gồm hai mảnh xương dẹt, dày ở
trên và mỏng ở dưới, XCM cùng với mỏm trán xương hàm trên và phần mũi
của xương trán khớp với nhau để tạo nên khung xương của tháp mũi-là phần
nằm ở giữa và nhô cao nhất trên khuôn mặt mỗi người, ảnh hưởng đáng kể
đến hình dáng, sự hài hòa thẩm mỹ của mặt và chức năng hô hấp, khứu giác,

phát âm của hốc mũi [1].
Do có cấu trúc và nằm ở một vị trí đặc biệt như vậy nên XCM là bộ phận
rất dễ bị chấn thương, tỷ lệ gãy xương chính mũi (GXCM) cao thứ 3 trong các
trường hợp gãy xương, sau xương đòn và xương cẳng tay [2], gần 40% các
trường hợp gãy xương trên khuôn mặt liên quan đến xương chính mũi [3].
GXCM mũi có các hình thái từ đơn giản như chỉ rạn, nứt hay gãy đơn thuần
đến phức tạp như phối hợp với lệch vẹo vách ngăn do trật khớp, gãy xương, đã
có báo cáo chỉ ra rằng 90% các GXCM có kèm theo tổn thương vách ngăn [4].
GXCM tuy ít nguy hiểm đến tính mạng người bệnh nhưng nếu không xử lý
kịp thời và đúng đắn sẽ để lại di chứng dị hình tháp mũi mắc phải ảnh hưởng đến
chức năng và thẩm mỹ, bắt buộc phải phẫu thuật để chỉnh hình [5].
GXCM khi phối hợp với các chấn thương khác (chấn thương sọ não, chấn
thương hàm mặt, chấn thương mắt...) phải đặc biệt chú ý vì rất dễ bị bỏ qua
[6], [7] và việc điều trị GXCM cần có sự phối hợp của các chuyên khoa này.
Hiện nay cùng với quá trình phát triển của xã hội, các hoạt động của con
người ngày càng trở nên phong phú. Các loại phương tiện giao thông tốc độ
cao ngày càng nhiều, sự phát triển của các môn thể thao, sự gia tăng của bạo
lực... làm cho các chấn thương nói chung và GXCM nói riêng thường xuyên
xảy ra, gặp ở mọi lứa tuổi, ở trẻ em nguyên nhân do thể thao là nhiều nhất,
trong khi ở người lớn đa phần là do đánh nhau [8], trong khi việc điều trị


7

GXCM vẫn còn gây tranh cãi và thử thách qua nhiều thế kỷ. Ngay cả
Hippocrats cũng bày tỏ sự thất vọng với việc điều trị gãy xương mũi hơn
2000 năm trước [9]. Trước tình hình đó, chúng tôi tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu tình hình gãy xương chính mũi và đánh giá kết quả
điều trị bệnh nhân gãy xương chính mũi tại bệnh viện TMH Trung
ương” với hai mục tiêu sau:

1. Mô tả đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng của gãy xương
chính mũi.
2. Đánh giá kết quả điều trị gãy xương chính mũi.


8

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Ở nước ngoài
Chấn thương sọ mặt nói chung và GXCM nói riêng đã được quan tâm
từ lâu.
Hippocrate (460 – 377 trước công nguyên) đã mô tả sửa mũi kín lần
đầu tiên [10].
Năm 1899 Lang mô tả lần đầu tiên vỡ blow – out của xương hàm trên [11]
Trong chiến tranh thế giới thứ I, Gillies (Anh); IVY, Kazaniian (Mỹ);
Ollivier, Morestin (Pháp); Ganzer Lindemann (Đức) đưa ra nhiều cách cố
định gãy xương mặt và xương chính mũi [10].
Năm 1974 Shultz, Devillers; 1978 Covruss; 1979 Harrison, Stranc, Robertson
đưa ra nhiều cách phân loại chấn thương mũi. Chung quy đều dựa vào mức độ,
hướng của lực tấn công, tính chất và các dạng tổn thương mũi [12].
Năm 2004 Kun Hwang, Sun Hye You, Sun Goo Kim đã mô tả các vết
gãy xương mũi trên phim chụp CLVT qua 503 bệnh nhân trong 6 năm (từ
1998 – 2004) [13].
Năm 2008 Seung Chul Rhee, Yoo Kyung Kim đã mô tả tổn thương
vách ngăn mũi trong chấn thương tháp mũi [14].
Năm 2009, Atigliechi và cộng sự đã có nghiên cứu so sánh về gây mê
toàn thân với gây tê tại chỗ trong nâng xương chính mũi nhận thấy gây mê có
nhiều ưu điểm hơn [15].

Năm 2010, Vikas Siha đã nghiên cứu về GXCM trên 68 bệnh nhân ở
Ấn Độ thấy rằng nhóm tuổi phổ biến nhất là 11-30 tuổi, trong đó nam chiếm
ưu thế so với nữ (5:1), bạo lực là nguyên nhân phổ biến nhất, và GXCM di


9

lệch chiếm đa số, thời gian trung bình nâng xương chính mũi sau chấn thương
là 30 giờ, các bệnh nhân trưởng thành được thực hiện dưới gây tê tại chỗ, còn
trẻ em thực hiện dưới gây mê toàn thân, và tất cả các bệnh nhân đều hài lòng
với kết quả thẩm mỹ của họ [16].
Năm 2013, Baek và cộng sự đã khẳng định cắt lớp vi tính có độ chính
xác cao hơn X-quang thông thường trong chẩn đoán GXCM [17].
Năm 2017, Hwang và cộng sự đã có 1 nghiên cứu phân tích gộp (metaanalysis) về gãy xương chính mũi , nghiên cứu này cho thấy nguyên nhân lớn
nhất gây GXCM ở người lớn là do đánh nhau, còn ở trẻ em là do các hoạt
động thể thao từ đó đề xuất các biện pháp nhằm hạ thấp tỷ lệ GXCM [8].
Những năm gần đây nhờ phát triển của phương tiện chẩn đoán bằng
hình ảnh CLVT, nội soi và phẫu thuật hiện đại đã giúp chẩn đoán và điều trị
hiệu quả hơn.
1.1.2. Ở Việt Nam
Lê Văn Lợi (1997) khi viết về vẹo lệch tháp mũi do chấn thương đã nói
đến phương pháp nắn kín xương chính mũi bằng một đầu kéo thẳng và cố định
mũi lệch sau khi nắn bằng đặt một bấc tẩm mỡ kháng sinh nhét chặt trong hốc
mũi và rút đi sau 7 ngày, trường hợp vỡ vụn nhiều thì phải cố định thêm phía
ngoài tháp bằng 1 mảnh kim khí cắt uốn theo hình tháp mũi hoặc bằng một
khuôn thạch cao [18].
Nguyễn Tấn Phong (2001) đã viết về phẫu thuật nội soi mũi xoang,
phẫu thuật điều trị chấn thương sọ mặt đặc biệt là cách phân loại xử trí chấn
thương tháp mũi [19], [20].
Phó Hồng Điệp khi nghiên cứu 49 bệnh nhân gãy xương chính mũi gặp

tại viện TMH Trung ương 2005 – 2007 đã nhận thấy tỷ lệ GXCM trong các
trường hợp chấn thương mũi xoang là 1/1,9, thời gian xảy ra chấn thương
nhiều nhất vào tháng 12, lứa tuổi bị GXCM hay gặp nhất là 15-29 tuổi, tai nạn


10

giao thông là nguyên nhân gây GXCM thường gặp nhất, X quang mũi
nghiêng và Blondeau là phương tiện hình ảnh thường được dùng giúp chẩn
đoán GXCM và thủ thuật nâng xương chính mũi dưới gây tê là phương pháp
thường dùng nhất trong điều trị GXCM. Tuy nhiên trong nghiên cứu này chưa
có sự đánh giá sau điều trị các bệnh nhân GXCM [21].
Trần Thị Phương khi nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng và chụp cắt lớp
vi tính của chấn thương tháp mũi tại viện TMH trung ương năm 2009 đã nhận
thấy chấn thương tháp mũi chiếm tỷ lệ cao trong chấn thương TMH và hầu
hết gặp ở nam giới, tổn thương CLVT phản ánh đúng tổn thương chấn thương
tháp mũi trên thực tế được kiểm tra trong khi phẫu thuật, đa số BN được điều
trị trong vòng 1 tuần đầu sau khi bị CT, thời gian nằm viện trung bình là 6,03
ngày, tuy nhiên trong nghiên cứu này cũng chưa có sự đánh giá kết quả sau
điều trị các bệnh nhân GXCM [22].
Nhan Trừng Sơn (2008) khi nghiên cứu về GXCM ở trẻ em đã nhận
thấy GXCM thường đi đôi với vỡ sụn nhiều hơn ở người lớn, hốc mũi quá
nhỏ cũng là một yếu tố gây khó khăn trong định bệnh cũng như trong điều trị
phẫu thuật, phim X quang ít hỗ trợ trong xác định gãy xương ở trẻ em hơn ở
người lớn, tụ máu vách ngăn mũi là triệu chứng thường gặp mà lại khó phát
hiện, chỗ gãy xương trở nên cứng trong vòng 2-4 ngày, phải xử trí trước thời
điểm này và bắt buộc phải xử trí dưới gây mê [1].
Bùi Duy Vũ khi nghiên cứu về đặc điểm hình thái lâm sàng của dị hình
tháp mũi mắc phải và biện pháp can thiệp năm 2011 đã nhận thấy nguyên nhân
của dị hình tháp mũi mắc phải chủ yếu gặp do chấn thương, trong đó nguyên

nhân do TNSH nhiều hơn nguyên nhân do TNGT, bệnh nhân chủ yếu đến nhập
viện sau 10 ngày, số bệnh nhân dị hình tháp mũi đơn thuần, lệch vẹo sống mũi
chiếm tỷ lệ cao nhất, các phương pháp phẫu thuật đã được áp dụng là đục phá
can xương nắn chỉnh tháp mũi, nâng sống mũi bằng chất liệu, tạo hình cánh


11

mũi bằng chất liệu và ghép da, kết hợp xương bằng nẹp vít trong vỡ khối mũi
sàng, chất liệu được sử dụng trong phẫu thuật tạo hình tháp mũi chủ yếu sử
dụng các vật liệu tự thân, trong đó sụn vách ngăn được sử dụng nhiều nhất [5].
Đặng Hanh Biên và cộng sự đã nghiên cứu một số yếu tố dịch tễ và sơ
bộ đánh giá kết quả điều trị chấn thương mũi tại bệnh viện Việt Nam- Cu Ba
2/2006-10/2010 đưa ra kết luận chấn thương gãy xương mũi xảy ra chủ yếu ở
tuổi thanh niên, nam nhiều hơn nữ trong đó TNGT(xe máy) là chủ yếu,
GXCM kín-đơn thuần gặp nhiều nhất, những trường hợp có tổn thương phối
hợp, đa chấn thương, việc điều trị đòi hỏi kỹ thuật cao, kinh nghiệm cũng như
thời gian điều trị kéo dài, kết quả cũng còn hạn chế. Nghiên cứu này cũng đã
có sự đánh giá sơ bộ về kết quả điều trị bệnh nhân GXCM, theo đó những BN
ở nhóm chấn thương phần mềm đạt kết quả tốt cao nhất, nhóm chấn thương
GXCM đơn thuần và đa chấn thương phức tạp vẫn còn một tỷ lệ không đạt
yêu cầu, để lại di chứng về thẩm mỹ và chức năng như mũi gồ vẹo, ngạt mũi,
mất ngửi, viêm xoang sau chấn thương [23].
Hà Hữu Tùng và Đỗ Thế Hùng khi nghiên cứu các bệnh nhân gãy xương
chính mũi gặp tại bệnh viện đa khoa Nông Nghiệp từ 2011-2016 thấy rằng, lứa
tuổi 15-29 hay gặp nhất, nam giới chiếm ưu thế hơn so với nữ giới, TNGT là
nguyên nhân gây GXCM chiếm đa số, biến dạng mũi và đau chói là những
triệu chứng hay gặp nhất và rất có giá trị để chẩn đoán GXCM, X quang mũi
nghiêng và Blondeau là phương tiện hình ảnh thường được dùng giúp chẩn
đoán GXCM, phần lớn GXCM được điều trị trong 3 ngày đầu, thủ thuật nâng

xương chính mũi dưới gây tê là phương pháp thường được dùng nhất trong
điều trị GXCM và thời gian nằm viện của BN ngắn, thường dưới 1 tuần [24].
Với việc áp dụng CLVT từ năm 1993 ở nước ta đặc biệt trong những
năm gần đây, việc chụp CLVT đã trở thành phổ biến gần như thường quy,
cùng với các phương tiện phẫu thuật, các cơ sở TMH đã có nhiều tiến bộ
trong chẩn đoán, xử trí chấn thương mũi ngày càng tốt hơn.


12

1.2. ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU, SINH LÝ MŨI
1.2.1. Giải phẫu mũi: Gồm có mũi ngoài và hốc mũi [25]
1.2.1.1. Mũi ngoài
Hình thể ngoài: Mũi ngoài có hình tháp. Góc trên của tháp mũi liên tiếp
với trán tại gốc mũi; nơi gặp nhau của hai mặt bên tháp mũi trên đường giữa
là một gờ tròn gọi là sống mũi. Sống mũi tận cùng tại một đầu tự do ở phía
trước - dưới có tên là đỉnh mũi; các mặt bên tháp mũi mở rộng và tận cùng ở
phía dưới tại các cánh mũi. Ở phia dưới, ở 2 bên đỉnh mũi có 2 lỗ mũi trước
ngăn cách với nhau bởi vách mũi.
Cấu tạo:
Bộ khung chống đỡ cho mũi ngoài được cấu tạo bằng xương và sụn.
Khung xương chống đỡ cho phần trên của mũi bao gồm các xương chính mũi,
phần mũi của xương trán và các mỏm trán của xương hàm trên. Khung sụn
nâng đỡ cho phần dưới của mũi bao gồm các sụn cánh mũi lớn và nhỏ, các
sụn mũi phụ, các sụn mũi bên và sụn vách mũi.

Hình 1.1. Giải phẫu tháp mũi [25]


13


1.2.1.2. Hốc mũi
Hốc mũi được vách mũi chia dọc thành 2 ngăn; mỗi ngăn mở thông ra
mặt tại lỗ mũi trước, liên tiếp với họng mũi ở sau qua lỗ mũi sau và có 4
thành. Phần trước của mỗi ngăn hốc mũi là tiền đình mũi nằm ở ngay sau lỗ
mũi trước. Tiền đình ngăn cách với phần hốc mũi còn lại bởi một đường gờ
cong gọi là thềm mũi. Da phủ tiền đình mũi có lông và tuyến nhầy để cản bụi.
Thành trên hay trần ổ mũi là thành xương ngăn cách hốc mũi với hộp
sọ do các xương mũi, xương trán, mảnh sàng và thân xương bướm tạo nên.
Thành dưới hay sàn mũi là thành xương ngăn cách hốc mũi với
hốc miệng do mỏm khẩu cái xương hàm trên và mảnh ngang xương khẩu cái
tạo nên.
Thành trong hay vách mũi là một vách xương sụn tạo nên bởi mảnh
đứng xương sàng, xương lá mía ở sau và sụn vách ngăn ở trước.
Thành ngoài chủ yếu do xương hàm trên, mê đạo sàng và các xương
cuốn mũi dưới tạo nên. Thành này gồ ghề do có ba cuốn mũi nhô lên:

Hình 1.2. Giải phẫu thành trong hốc mũi [25]
- Cuốn dưới và khe dưới: cuốn dưới là một xương độc lập,khớp ở trước
với xương hàm trên và ở sau với xương khẩu cái.Cuốn dưới được phủ bằng
một lớp niêm mạc dày nhất, bên trong có các hốc chứa máu gọi là hồ huyết.


14

Dưới cuốn dưới là khe dưới, có lỗ đổ vào của ống lệ mũi, cách lỗ mũi trước
khoảng 3cm.
Cuốn giữa và khe giữa: là mảnh của xương sàng,khe giữa có lỗ đổ vào
của xoang trán,xoang hàm trên và xoang sàng trước.
Cuốn trên và khe trên: là một mảnh xương sàng nằm phía trên sau của

xương sàng, đầu và thân tự do. Đuôi gắn vào thành trước xoang bướm, khe
trên có lỗ thông với xoang bướm và sàng sau.

Hình 1.3. Giải phẫu thành ngoài hốc mũi [25]
1.2.1.3. Niêm mạc hốc mũi
Niêm mạc hốc mũi được lót bởi 2 loại biểu mô là biểu mô hô hấp và
biểu mô ngửi. Biểu mô hô hấp là biểu mô trụ giả tầng có lông chuyển với 3
loại tế bào: tế bào lông, tế bào hình đài chế tiết và tế bào đáy. Từ cuốn giữa
trở xuống là vùng hô hấp, niêm mạc màu hồng nhạt. Vùng khứu ở trên cuốn
mũi trên và 1/3 trên vách mũi niêm mạc màu vàng, dày, chứa đựng tế bào
khứu. Sợi trục của các tế bào chui qua lỗ mảnh sàng và tập hợp thành thần
kinh khứu giác.
1.2.1.4. Mạch máu - Thần kinh


Mạch máu:
Có 3 nhánh nuôi dưỡng:
* Động mạch góc: là nhánh của động mạch mặt, thuộc hệ cảnh ngoài,

nuôi dưỡng cho da, cơ vùng mũi ngoài.


15

* Động mạch bướm khẩu cái: là 1 nhánh của động mạch hàm trong
xuất phát từ hệ động mạch cảnh ngoài. Qua lỗ bướm - khẩu cái động mạch
phân làm 2 nhánh:
- Nhánh ngoài nuôi cuốn giữa, cuốn dưới;
- Nhánh trong nuôi cuốn trên và vách ngăn.
* Động mạch sàng trước và sàng sau: Là nhánh bên của động mạch mắt

(thuộc hệ động mạch cảnh trong) nuôi phần trước mũi cả thành ngoài và vách ngăn.
Các nhánh tận của động mạch sàng và bướm khẩu cái đan xen tạo nên
một vùng có nhiều mạch máu ở 2 bên vách ngăn mũi, cách cửa mũi trước 11,5cm và cách sàn mũi 1cm, gọi là điểm mạch KIESSELBACH, nơi thường
xảy ra chảy máu mũi.
Thần kinh:
* Thần kinh giác quan (dây I): Dây khứu giác bắt đầu từ tế bào thụ cảm
ở niêm mạc tầng trên mũi, qua lỗ sàng tạo thành hành khứu đi vào trung khu
khứu giác (vùng vỏ não hồi hải mã).
* Thần kinh cảm giác (dây V): có 2 nhánh chính chi phối cảm giác hốc mũi
- Nhánh mũi trong của thần kinh dưới ổ mắt: chi phối phần trước hốc mũi
- Nhánh mũi trong và mũi ngoài của thần kinh sàng trước: chi phối
phần trong hốc mũi và phía trước tháp mũi.
* Thần kinh vận động (dây VII) chi phối vận động cơ bám da mũi.
* Thần kinh giao cảm có nguồn gốc từ hạch bướm - khẩu cái, giữ vai
trò quan trọng trong điều hoà vận mạch của mũi, chủ yếu là điều hoà cuốn
dưới. Các rối loạn về giao cảm, đặc biệt là cường phó giao cảm sẽ dẫn đến rối
loạn chức năng mũi gây viêm mũi vận mạch.
1.2.2. Liên hệ của mũi với các cơ quan lân cận
• Liên hệ với xoang:
Mũi liên hệ chặt chẽ với các xoang. Xoang là những hốc rỗng của
xương mặt và xương sọ.


16

Trong xương hàm có xoang hàm, trong xương trán có xoang trán, trong
xương sàng có xoang sàng và trong xương bướm có xoang bướm. Các xoang
đều được lót 1 lớp niêm mạc. Niêm mạc này được cấu tạo như niêm mạc mũi
nhưng mỏng hơn. Mỗi xoang có lỗ thông với hố mũi. Riêng đối với xoang
trán lỗ thông được thay thế bằng một cái ống hơi ngoằn nghèo gọi là ống mũi

trán. Các xoang được sắp xếp thành hai nhóm tùy theo vị trí của nó. Nhóm
xoang trước gồm có xoang hàm, trán và xoang sàng trước. Lỗ thông của các
xoang này đổ vào ngách giữa. Nhóm xoang sau gồm có xoang sàng sau và
xoang bướm đổ vào ngách trên. Tác dụng của các xoang là làm nhẹ bớt khối
xương mặt đồng thời có ảnh hưởng đối với tiếng nói do thanh quản phát ra.
• Liên hệ với tai: mũi liên hệ với tai bằng vòi Eutachie. Lỗ vòi này nằm ở
vách ngăn bên của vòm mũi họng, ngay sau đuôi cuốn dưới.
• Liên hệ với hố mắt: mũi liên hệ với hố mắt bằng ống mũi lệ. Ống này
nối liền khe dưới của mũi với túi lệ của mắt. Ngoài ra xoang sàng chỉ cách ổ
mắt bởi một lớp xương mỏng, nên viêm xoang sàng có thể lan sang ổ mắt.
• Liên hệ với sọ: mũi liên hệ với sọ thông qua xoang sàng, mảnh sàng
và xoang trán. Thành của các xoang này liên hệ trực tiếp với màng não.
• Mũi còn liên hệ với răng: thông qua xoang hàm, đặc biệt răng nanh và
răng hàm nhỏ, chân của răng này thường lên đến sát đáy xoang và đôi khi
chui hẳn vào xoang hàm.
1.2.3. Chức năng sinh lý của mũi [26]
1.2.3.1. Chức năng thở
Là chức năng chính của mũi. Mũi được coi là cửa ngõ của đường hô
hấp. Nhờ các cuốn mũi làm chậm luồng không khí hít vào mũi, mũi thực hiện
chức năng sưởi ấm, làm ẩm và lọc sạch không khí trước khi vào phổi.
Nhờ tổ chức cương của cuốn dưới với hệ thống mạch (do thần kinh
giao cảm điều chỉnh), nhờ các tế bào tiết nhầy làm cho không khí đi qua mũi
được sưởi ấm (lên đến 33 độ C) và làm ẩm (lên đến 100%).


17

Nhờ sự có mặt của lông mũi, sự chuyển động nhịp nhàng từ trước ra
sau của hệ thống lông chuyển, với độ ẩm cao và dịch nhầy trên bề mặt, các
bụi bẩn được giữ lại phía ngoài, không khí được làm sạch khi đi qua mũi

1.2.3.2. Chức năng ngửi
Được thực hiện ở phần cao của hốc mũi bởi đầu tận của dây thần kinh
khứu giác (dây I).
Để ngửi được trước hết luồng hơi phải đi đến được vùng ngửi, không bị
cản trở bởi dịch đọng, dị vật, sẹo dính, u, dị hình... ngoài ra các chất có mùi
phải tan được trong dịch nhầy phủ lên các tế bảo thần kinh mới có thể tạo ra
được kích thích.
1.2.3.3. Dẫn lưu, thông khí cho các xoang mặt
- Chức năng dẫn lưu giúp tống những chất xuất tiết bình thường cũng
như bệnh lý qua các lỗ thông xoang ra ngoài đồng thời có sự trao đổi khí liên
tục giữa mũi và hệ thống xoang.
- Các lỗ thông với các xoang khi bị tắc do chấn thương, viêm nhiễm,
khối u, polype... hay gây ra tình trạng viêm nhiễm ở các hệ thống xoang
tương ứng.
1.2.3.4. Tham gia vào phát âm
Mũi và xoang đóng vai trò là hộp cộng hưởng, tạo nên độ vang và âm
sắc của giọng. Khi hốc mũi bị tắc giọng sẽ bị thay đổi thành giọng mũi kín.
1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA GÃY XƯƠNG CHÍNH MŨI
1.3.1. Nguyên nhân
Nguyên nhân gây GXCM rất đa dạng
• Tai nạn giao thông
• Tai nạn lao động
• Tai nạn sinh hoạt


18

• Do đánh nhau
• Tai nạn thể thao
• Ngoài ra còn có tể gặp chấn thương ở trẻ em mới sinh ra trong quá

trình chuyển dạ đẻ như thủ thuật lấy thai bằng forceps hay những can thiệp
thô bạo khi lấy thai.
1.3.2. Cơ chế chấn GXCM [1]
Hình thái và mức độ chấn thương gãy xương chính mũi thay đổi theo
cường độ, vị trí, tính chất và hướng của lực tác động.
- Nếu hướng chấn thương thẳng góc sẽ làm vỡ xương chính mũi,
sống mũi không còn thẳng nữa mà bị lõm xuống, vách ngăn cũng vỡ theo
và chảy máu.

Hình 1.4. Gãy xương chính mũi với lực tác động từ trái sang phải [1]
- Nếu chấn thương đập chéo góc thì tháp mũi sẽ lệch về bên đối diện,
sống mũi không bị lõm xuống nhưng bị lệch rõ ràng về một phía bên, kèm
chảy máu.
+ Với lực ngang mạnh, xương chính mũi có thể bị gãy vụn kèm theo
chấn thương sụn và rách da. Vách ngăn mũi bị vặn và trở thành hình chữ C,
chữ S, hoặc chữ Z.


19

Hình 1.5. Các hình thái chấn thương tháp mũi [1]
1.3.3. Tổn thương bệnh lý [20]
* Gãy xương chính mũi:
Hay gặp ở phần thấp của xương. Các dạng gãy xương rất đa dạng, có
thể gặp: nứt, không di lệch, di lệch ít hay nhiều, vỡ một hay nhiều đường (vỡ
vụn)... ở người lớn hay gặp vỡ vụn xương, trẻ em hay gặp vỡ từng đoạn
xương lớn, gãy kiểu cành tươi.
* Tổn thương phần mềm:
- Vùng da phủ lên xương chính mũi tương đối mỏng, những vết
thương vùng này thường dễ lộ xương gây nên tình trạng gãy xương hở. Nếu

không xử trí kịp thời vết thương, lấy bỏ dị vật, hậu quả có thể gặp là nhiễm
trùng, sẹo xấu…
- Da mũi nối với da vùng khoé mắt và gò má lỏng lẻo nên dễ tụ máu lan
toả khi bị đụng dập, hay gặp tụ máu sống mũi, rãnh mũi má, khoé mắt trong..,
tụ máu kiểu đeo kính râm.


20

Hiện tượng phù nề, tụ máu phần mềm có thể che giấu triệu chứng của
một ổ gãy xương bên dưới, thường dễ bị bỏ sót khi khám.
- Niêm mạc vùng vách ngăn và cuốn mũi rất giàu mạch máu (điểm
mạch KIESSELBACH). Trong GXCM luôn gặp hiện tượng chảy máu mũi,
máu chảy ra ngoài theo cửa mũi trước và, hoặc theo cửa mũi sau xuống họng.
Hiện tượng phù nề, đọng máu trong hốc mũi cản trở luồng không khí ra
vào mũi là một trong những yếu tố chính gây ngạt mũi và giảm , mất ngửi.
* Vách ngăn mũi là phần dễ bị tổn thương khi có GXCM, có thể gặp:
dị hình do vỡ mảnh đứng xương sàng, sụn vách ngăn, trật khớp sụn xương
hoặc vỡ vụn vách ngăn…
* Tổn thương phối hợp khác: RHM, mắt, sọ não…
1.3.4. Đặc điểm tiến triển của GXCM [27]
- Nếu không được nắn chỉnh sớm, sau 1 tuần, hiện tượng phù nề hết để
lại hình ảnh lệch vẹo sống mũi rất rõ. Việc nâng xương lúc này có thể có kết
quả song khó đạt được hình dáng ban đầu trước khi gãy xương.
- Nếu bệnh nhân đến muộn quá 2 tuần, vết gãy bắt đầu tự tạo thành can
lệch trong tư thế xấu và rất khó nắn chỉnh.
- Sau 3 tuần là quá muộn, không nắn được và bắt buộc phải mổ phá
can xương.
1.4. TRIỆU CHỨNG VÀ CHẨN ĐOÁN [1], [6], [27]
Có thể gặp GXCM đơn thuần và GXCM phối hợp.

1.4.1.Triệu chứng lâm sàng
1.4.1.1. GXCM đơn thuần
* Triệu chứng cơ năng:
- Đau bao giờ cũng có, đau khu trú ở vùng mũi tổn thương và có cảm
giác căng tức. Triệu chứng này có thể bị che mờ và bỏ qua khi có các thương
tổn phối hợp và thường giảm dần ngay cả khi không được điều trị.


21

- Chảy máu mũi: chảy máu đỏ tươi, số lượng ít hay nhiều tuỳ thuộc vào
mức độ tổn thương. Máu chảy ra mũi hoặc chảy xuống họng, bệnh nhân khạc
ra máu và nuốt xuống đường tiêu hoá.
- Ngạt mũi, giảm ngửi, nói giọng mũi là những triệu chứng ít được
bệnh nhân quan tâm sau chấn thương, nhưng có thể là lý do khiến bệnh nhân
phải khám trong giai đoạn di chứng.
* Triệu chứng toàn thân:
- Ý thức: đa số các trường hợp chấn thương tháp mũi đơn thuần không
gây rối loạn ý thức, bệnh nhân tỉnh táo hoàn toàn, có một số ít trường hợp
bệnh nhân ngất trong thời gian ngắn.
- Dấu hiệu thiếu máu: có thể gặp nhưng ít.
- Dấu hiệu nhiễm trùng: ít gặp, thường khi bệnh nhân đến muộn.
* Triệu chứng thực thể:
- Nhìn:
+ Sưng nề, bầm tím sống mũi, thâm tím vùng quanh hố mắt hoặc đọng
máu giác mạc phía trong mắt.
+ Máu chảy qua cửa mũi trước.
+ Biến dạng tháp mũi:
. Sống mũi võng hình yên ngựa và bị sập xuống.
. Lệch vẹo sống mũi sang 1 bên.

. Nặng hơn có thể thấy toàn bộ tháp mũi lún xuống.
Chú ý những trường hợp mũi sưng nề nhiều, hình ảnh biến dạng tháp
mũi có thể khó phát hiện được ngay.
- Sờ:
Với những trường hợp hốc mũi bị phù nề có thể che giấu ổ gãy xương
bên dưới. Do vậy việc thăm khám này có thể chậm lại vài ngày để tìm dấu
hiệu lạo xạo nơi xương bị gãy. Biết được nơi vùng xương bị lõm vào, bị đổi vị


22

trí để xử trí đúng mực. Cần thăm khám kỹ bằng cách cho một dụng cụ vào
hốc mũi phối hợp với ngón tay nắn bên ngoài, ta có thể biết được nơi xương
bị gãy kiểm tra thật cẩn thận vùng XCM, nhiều khi có thể phát hiện được trật
khớp XCM, sụn cánh mũi, sụn tứ giác, các phần này dễ bị tổn thương.
Chóp mũi phải được nắn tìm xem có còn di động hay không và để ý
chấn thương gãy các phần ở dưới mà không hay biết. Nắn với hai ngón tay, ép
gai mũi trước để biết tình trạng của xương gãy. Mọi di lệch khác hoặc xương
bị gập góc là dấu hiệu của gãy xương.
Ngoài ra sờ có thể thấy dấu hiệu tràn khí dưới da
* Nội soi mũi
Sau khi đặt thuốc co mạch hoặc phun thuốc co mạch xác định rõ hơn
các tổn thương trong hốc mũi.
Có thể thấy niêm mạc mũi phù nề - đọng máu trong hốc mũi hoặc máu
chảy từ vết rách hoặc từ trên cao xuống khó xác định vị trí. Phải cẩn thận khi
lấy vảy máu khô trong mũi, nếu không bệnh nhân sẽ bị chảy máu mũi tái phát
có khi máu chảy nhiều và khó cầm.
- Có thể vùng vách ngăn mũi bị lệch sang 1 bên, hoặc là vùng van có
thể bị sập xuống.
- Kiểm tra kỹ xem niêm mạc mũi có bị tổn thương, bị rách, bị chọc

thủng không, những trường hợp vết thương hở sát xương có thể có dị vật,
mảnh xương vụn…
- Đặc biệt nội soi đánh giá xem có chảy dịch não tuỷ không
1.4.1.2. GXCM phối hợp
- Thông thường gãy xương chính mũi thường có dấu hiệu tụ máu. Hiện
tượng tụ máu và phù nề ở góc trong của khoé mắt lan rộng ra thường ẩn giấu
bên dưới một ổ vỡ sàng - mũi kèm theo cả vỡ xoang trán hoặc là đường vỡ
lefort. Cần phải đánh giá vị trí bám vào xương lệ của dây chằng trong khoé


23

mắt có bị tổn thương hay không, nếu có thì thường biểu hiện mi dưới bị kéo
xuống dưới.
Lưu ý khoảng cách giữa 2 đầu trong của khoé mắt, thông thường
khoảng cách này bằng chiều dài của con mắt.
Nếu khoảng cách này bị giãn rộng ra và lún xuống thì phải nghĩ đến vỡ
phức hợp sàng mũi. Trong trường hợp này ta có thể thấy ổ gãy hở nằm ở vị trí
chân bám của cuốn giữa và hiện tượng chảy nước não tuỷ có thể kèm theo.
Chấn thương mũi phức tạp thường gặp liên quan tới tổn thương sàng,
trán, xương lá mía, bờ trong ổ mắt. Đây thực sự là tổn thương thành ổ mắt do
tấn công từ 1 hoặc 2 bên mấu trán của xương hàm trên làm vỡ thứ phát các tế
bào sàng (Mathog, Sargent) [28], [29].
- Ngoài ra còn có các tổn thương khác thuộc TMH: chấn thương xoang,
chấn thương tai, họng, thanh quản.
- Chấn thương mắt: xung huyết hay xuất huyết kết mạc, giảm thị lực,
vỡ nhãn cầu.
- Chấn thương hàm mặt: chấn thương phần mềm, chấn thương gãy
xương hàm, gãy răng.
- Chấn thương sọ não: vỡ xương trán, tụ máu nội sọ, chảy dịch não tuỷ.

- Chấn thương khác: gãy xương, trật khớp, chấn thương ngực, bụng.
1.4.2. Triệu chứng cận lâm sàng
1.4.2.1. X quang thường
Rất có giá trị trong chẩn đoán GXCM, tuy rằng không phải trường hợp
GXCM nào cũng thấy rõ trên phim.
* Phim mũi nghiêng tia mềm có thể thấy gián đoạn xương chính mũi
với nhiều hình thái: nứt, gãy, vỡ vụn…; di lệch hay không di lệch.
* Phim Blondeau (phim mũi-cằm) có thể thấy hình ảnh vỡ hoặc lệch
vẹo vách ngăn.


24

* Phim Hirtz (phim cằm-đỉnh) không thấy được hình ảnh GXCM
nhưng giúp phát hiện các tổn thương phối hợp vùng hàm mặt.
1.4.2.2. Chụp cắt lớp vi tính ( CLVT) [20], [30]
Chụp CLVT là rất cần thiết để xác định những hiện tượng bệnh lý mà ta
không thể phát hiện được qua thăm khám lâm sàng, nội soi và chụp XQuang.
Thông thường các phim chụp XQuang kinh điển như Blondeau, Hirtz, sọ
nghiêng, mũi nghiêng đối với chấn thương mũi thì kém giá trị, đặc biệt là trong
những tổn thương chỉ gây gãy vỡ phần sụn cũng khó nhìn thấy trên phim. Do
vậy trong trường hợp nghi ngờ chấn thương tháp mũi có vỡ phức hợp sàng –
mũi thì tốt nhất nên chỉ định chụp CLVT hai lát cắt coronal và axial.
Hai lát cắt axial và coronal này sẽ cung cấp cho ta những thông tin hữu
ích. Lát cắt axial sẽ giúp ta đánh giá được vị trí xương chính mũi, xương lệ,
thành trong ổ mắt và các thành của xoang trán.
Lát cắt coronal giúp ta đánh giá sàn của tầng sọ trước, hố sàng, sàn ổ
mắt và hai khối sàng hai bên. Việc xem xét tỷ mỉ những tổn thương trên phim
CLVT giúp ta phân loại đường vỡ thành các nhóm khác nhau.
1.4.2.3. Các xét nghiệm khác

Xét nghiệm máu, Xquang tim phổi, điện tim… giúp cho quá trình điều
trị và theo dõi bệnh nhân.
1.4.3. Biến chứng
* Biến chứng sớm: Bệnh nhân bị GXCM nếu không được xử trí kịp thời có
thể gặp biến chứng sau:
- Chảy máu mũi
- Biến dạng tháp mũi
- Ngạt tắc mũi
- Giảm hay mất ngửi


25

* Biến chứng muộn:
- Biến dạng mũi: lệch vẹo, lõm, bè sống mũi…
- Sẹo xấu, sẹo lồi, co rúm da vùng mũi
- Xơ dính hốc mũi
- Ngạt mũi thường xuyên
- Mất ngửi
- Viêm mũi họng, viêm xoang, viêm đường hô hấp mạn tính.
1.4.4. Chẩn đoán
1.4.4.1. Chẩn đoán xác định
- Tiền sử chấn thương: Khai thác biết được vật gây chấn thương,
hướng đi, vị trí tác động, phương tiện bảo hiểm để đánh giá sơ bộ mức độ
tổn thương.
- Triệu chứng lâm sàng: Dựa vào triệu chứng chủ quan như đau, chảy
máu mũi… kết hợp khám tại vị trí xương gãy và các thương tổn phối hợp như
mắt, RHM, sọ não…
- X quang mũi nghiêng có hình ảnh gãy xương chính mũi, CLVT để
xác định tổn thương phối hợp.

1.4.4.2. Phân loại
* Dựa vào có hay không có thương tổn phối hợp, chia 2 loại
- GXCM đơn thuần: GXCM không kèm theo một thương tổn khác
- GXCM phối hợp: GXCM kèm một hay nhiều thương tổn phối hợp
như chấn thương phần mềm, RHM, mắt, sọ não…
* Dựa vào có hay không kèm theo vết thương da và phần mềm vùng mũi, chia
2 loại
- GXCM kín: không có vết thương rách da vùng mũi.
- GXCM hở: có vết thương rách da, phần mềm vùng xương chính mũi,
có thể thấy lộ xương hoặc không.


×