Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

NGHIÊN cứu TÌNH TRẠNG SUY DINH DƯỠNG của TRẺ EM từ 1 THÁNG đến 5 TUỔI tại KHOA NHI TỔNG hợp BỆNH VIỆN đa KHOA XANH pôn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.27 KB, 65 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

SOK SOKUNTHY

NGHI£N CøU T×NH TR¹NG SUY DINH D¦ìNG
CñA TRÎ EM Tõ 1 TH¸NG §ÕN 5 TUæI T¹I
KHOA NHI tæng hîpBÖNH VIÖN §A KHOA
XANH P¤N Hµ NéI

LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC


HÀ NỘI - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

SOK SOKUNTHY

NGHI£N CøU T×NH TR¹NG SUY DINH D¦ìNG
CñA TRÎ EM Tõ 1 TH¸NG §ÕN 5 TUæI T¹I
KHOA NHI tæng hîp BÖNH VIÖN §A KHOA
XANH P¤N Hµ NéI
Chuyên ngành: Nhi khoa
Mã số: 60720135



LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Ngô Thị Thu Hương


HÀ NỘI – 2018
LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến Tiến sỹ Ngô Thị
Thu Hương, giảng viên bộ môn Nhi, người đã trực tiếp hướng dẫn em cách
thực hiện một nghiên cứu khoa học, những kiến thức Nhi khoa, cách giao tiếp
với bệnh nhi và người nhà bệnh nhi, truyền cho em lòng nhiệt tình trong công
việc và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho em hoàn thành luận văn này.
Em xin được cảm ơn toàn thể các thầy cô giáo trong bộ môn Nhi –
Trường Đại học Y Hà Nội đã nhiệt tình, tận tụy dạy dỗ và truyền đạt cho em
những kiến thức Nhi khoa, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn
thành luận văn này.
Em xin được cảm ơn ban giám đốc, phòng kế hoạch tổng hợp, các bác
sỹ, điều dưỡng khoa Nhi tổng hợp bệnh viện đa khoa Xanh Pôn đã tạo điều
kiện giúp đỡ em trong quá trình thu thập số liệu phục vụ nghiên cứu.
Em xin được cảm ơn ban giám đốc, phòng kế hoạch tổng hợp, các bác
sỹ, điều dưỡng khoa Nhi tổng hợp bệnh viện đa khoa Xanh Pôn đã tạo điều
kiện giúp đỡ em trong quá trình thu thập số liệu phục vụ nghiên cứu.
Em cũng xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến bệnh nhi và gia đình
bệnh nhi đã hợp tác tốt cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho em trong quá
trình thu thập số liệu để hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng em muốn gửi lời cảm ơn đến bố mẹ, gia đình, cơ quan,
đồng nghiệp và bạn bè những người luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ em
trong quá trình học tập và thực hiện luận văn này.

Hà Nội, ngày 12 tháng 10 năm 2018


Học Viên
SOK SOKUNTHY
LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Sok Sokunthy, học viên cao học Nhi khóa 25, Trường Đại học Y
Hà Nội, chuyên ngành Nhi khoa, xin cam đoan:
1.

Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng
dẫn của TS.BS Ngô Thị Thu Hương.

2.

Công trình này không được trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào
khác đã công bố tại Việt Nam.

3.

Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở
nghiên cứu.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.

Hà Nội, ngày 2 tháng 10 năm 2018
Học Viên


SOK SOKUNTHY


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CBCNV

: Cán bộ công nhân viên

CBYT

: Cán bộ y tế

CC/T

: Chiều cao theo tuổi

CN/CC

: Cân nặng trên chiều cao

CN/T

: Cân nặng theo tuổi

NCHS

: Trung tâm thống kê sức khỏe quốc gia
(National Center for Health Statistic)


SDD

: Suy dinh dưỡng

TCYTTG

: Tổ chức y tế thế giới

TTDD

: Tình trạng dinh dưỡng

UNICEF

: Quỹ nhi đồng liên hợp quốc (united nations children´ s fund)

VSMT

: Vệ sinh môi trường

WHO

: Tổ chức y tế thế giới (world healthy organization)


MỤC LỤC

PHỤ LỤC



DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


9

ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy dinh dưỡng (SDD) trẻ em là tình trạng phổ biến ở các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam. Theo báo cáo mới đây của Tổ chức Nhi
đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) năm 2013, hiện nay có khoảng 165 triệu trẻ
em, chiếm 26% tổng số trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn cầu bị thấp còi trong năm
2011 [1]. Trong phân tích về những thách thức của dinh dưỡng trẻ em năm
2013, Tổ chức Y tế Thế giới cho biết, trong năm 2011 toàn cầu có khoảng 6,9
triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị tử vong. Suy dinh dưỡng đóng vai trò trực tiếp hoặc
gián tiếp đối với nguyên nhân gây tử vong cho trẻ [2].
Năm 2010 nước ta có gần 1,3 triệu trẻ em dưới 5 tuổi SDD thể nhẹ cân,
khoảng 2,1 triệu trẻ em SDD thấp còi và khoảng 520.000 trẻ em SDD thể gầy
còm. Mức giảm trung bình SDD thể thấp còi trong 15 năm qua (1995-2010)
là 1,3% [3].
Suy dinh dưỡng là vấn đề của sức khỏe cộng đồng luôn được các quốc
gia quan tâm. Khoảng 3,9 triệu trẻ em tử vong mỗi năm do dinh dưỡng không
đầy đủ vẫn là nguyên nhân dẫn đến một phần ba số trẻ em tử vong ở trẻ em.
Hàng năm, trên thế giới có khoảng 10,9 triệu trẻ em sinh ra bị suy dinh dưỡng
bào thai, 17,1 triệu trẻ em bị suy dinh dưỡng thể thấp còi, 11,5 triệu trẻ em bị
gầy còm nặng [1].
Nguyên nhân phổ biến của tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em là do chế độ
ăn không cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng theo nhu cầu của trẻ và tình
trạng mắc các bệnh nhiễm khuẩn như tiêu chảy, nhiễm khuẩn hô hấp cấp.

Nguyên nhân này càng phổ biến hơn ở các vùng nông thôn nghèo, ở những
địa bàn có điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội còn hạn chế, khả năng tiếp cận
đến thông tin truyền thông giáo dục sức khỏe của người dân còn gặp khó
khăn, dẫn đến kiến thức, thực hành chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng trẻ em
của bà mẹ và người chăm sóc trẻ bị hạn chế [4].


10

Tổ chức Y tế thế giới ước tính có khoảng 500 triệu trẻ em bị suy dinh
dưỡng trên toàn cầu, trong đó 150 triệu trẻ em ở Châu Á, chiếm 44% tổng số
trẻ em dưới 5 tuổi [2]. Giai đoạn từ 1 đến 5 tuổi trẻ em có nguy cơ bị thiếu
hụt dinh dưỡng cao. Suy dinh dưỡng ở lứa tuổi này ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển thể chất và tinh thần của trẻ về sau. Mặc dù, suy dinh dưỡng ít khi
là nguyên nhân trực tiếp gây tử vong, nhưng suy dinh dưỡng được cho là yếu
tố liên quan đến tử vong của khoảng 54% trẻ em (10,8 triệu) ở các nước đang
phát triển. Qũy nhi đồng của Liên Hiệp Quốc cũng thông báo: trên thế giới
hiện có khoảng 146 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị thiếu cân, phần lớn tập trung ở
Châu Á, Châu Phi và châu Mỹ La tinh [5,6,7].
Từ đó có thể thấy lứa tuổi từ 1 tháng đến 5 tuổi là giai đoạn rất quan
trọng của trẻ. Nếu trong giai đoạn này trẻ không được bú mẹ và ăn sam với
chất lượng và số lượng đầy đủ thì sẽ dẫn đến chậm phát triển thể chất hay bị
mắc các bệnh nhiễm trùng gây nên tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ. Suy
dinh dưỡng và nhiễm trùng là vòng xoắn bệnh lý. Trẻ bị suy dinh dưỡng dễ
mắc các bệnh nhiễm trùng, ngược lại trẻ bị bệnh nhiễm trùng thì hậu quả dễ
đưa đến suy dinh dưỡng hoặc làm cho tình trạng SDD nặng lên.
Bệnh Viện Xanh Pôn là một bệnh viện đa khoa hạng I của thành phố
Hà Nội, số trẻ nhập viện hàng tuần vào khoa Nhi rất đông. Chủ yếu là các
bệnh nhiễm khuẩn, hàng đầu là viêm phổi và tiêu chảy. Đa số bệnh nhi khi
nhập viện đều chỉ được quan tâm điều trị bệnh chính, tình trạng dinh dưỡng

của trẻ chưa được quan tâm đầy đủ. Vì vậy phát hiện sớm tình trạng SDD của
bệnh nhi trong thời gian nằm viện sẽ giúp cho bác sỹ điều trị toàn diện đem
lại một sức khỏe tốt cho trẻ.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với mong muốn tìm hiểu
thực trạng SDD của trẻ em Hà Nội trong thời gian gần đây với nhóm trẻ bị
bệnh phải nằm viện. Có sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh, mức độ SDD của trẻ
và tình trạng SDD của trẻ có ảnh hưởng đến thời gian điều trị, về tiên lượng


11

bệnh của trẻ hay không? So với thời gian trước đây có gì thay đổi không? trên
cơ sở đó giúp cho điều trị toàn diện và đề xuất biện pháp phòng bệnh có hiệu
quả cho trẻ.
Mục tiêu nghiên cứu.
1. Xác định tỷ lệ và phân loại suy dinh dưỡng ở trẻ em từ 1 tháng đến 5 tuổi
điều trị tại khoa Nhi tổng hợp bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn Hà Nội.
2. Tìm hiểu nguyên nhân gây suy dinh dưỡng và sự thay đổi tình
trạng dinh dưỡng của trẻ em trong thời gian điều trị tại bệnh viện.


12

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm suy dinh dưỡng ở trẻ em
Dinh dưỡng: Là trạng thái cơ thể được cung cấp đầy đủ và cân đối các
chất dinh dưỡng để đảm bảo cho sự phát triển và sự tăng trưởng của cơ thể để
đảm bảo chức năng sinh lý và tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội [8].
Tình trạng dinh dưỡng

Là tính trạng tập hợp các đặc điểm về chức phận, cấu trúc và hóa sinh,
phản ánh mức đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể. Tính trạng dinh dưỡng
là kết quả tác động do một hay nhiều yếu tố như: do an ninh thực phẩm hộ gia
đình, thu nhập thấp và điều kiện vệ sinh môi trường, hoặc do công tác chăm
sóc trẻ em của bà mẹ…
Tình trạng dinh dưỡng tốt phản ánh sự cân bằng giữa thức ăn vào và tình
trạng sức khỏe, khi cơ thể của trẻ có tình trạng dinh dưỡng không tốt (thiếu
hoặc thừa dinh dưỡng) thì là thể hiện có vấn đề sức khỏe hoặc dinh dưỡng
hoặc cả hai [9,10].
Tình trạng suy dinh dưỡng
Suy dinh dưỡng (SDD) là tình trạng cơ thể ngừng phát triển do thiếu
dinh dưỡng, gây giảm năng lượng. Tất cả các chất dinh dưỡng đều là thiếu
nhưng thiếu phổ biến nhất là do thiếu protein và năng lượng. Có sự biểu hiện
mức độ khác nhau nhưng đều ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và tinh
thần của trẻ em. SDD có thể bắt đầu từ thể chậm lớn cho đến thể nặng là
Marasmus và Kwashiorkor.


13

• Thể Marasmus là thể nặng và hay gặp nhất, đó là hậu quả của chế độ
ăn thiếu.
• Thể Kwashiorkor là thể ít gặp hơn Marasmus thường do chế độ ăn
quá nghèo về protein mà gluxit tạm đủ. Ngoài ra có thể gặp cả hai
thể phối hợp nhau
Thiếu dinh dưỡng protein - năng lượng ở trẻ em thường xảy ra do chế
độ ăn thiếu về chất lượng và số lượng và tình trạng nhiễm khuẩn, đặc biệt là
các bệnh đường ruột hoặc do viêm đường hô hấp cấp [11].
1.2. Sơ lược về lịch sử
Các tình trạng gầy đét, phù do thiếu ăn đã được biết từ lâu. Mormet đã mô

tả rất sớm căn bệnh này với cái tên là Bouffissure ở An Nam và phát hiện ở Việt
Nam năm 1926, trước những công trình nghiên cứu của người Anh ở Biển Vàng
(Ghana 1930 -1933). Năm 1931, Cicely Williams đã dùng thuật ngữ
''Kwashiorkor'' để mô tả hôi chứng mà trước đó thường nhầm với bệnh Pellagra.
Năm 1959, Jellife D.B. dùng thuật ngữ ''thiếu dinh dưỡng Protein - năng lượng''
(PEM: Protein - Energy Malnutrition) vì thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa thể
phù và thể gầy đét thuật ngữ đó tiếp tục được sử dụng từ đó đến này.
Dinh dưỡng và sức khỏe
Ăn uống và sức khỏe càng ngày càng được chú ý và có nhiều nghiên cứu
chứng minh sự liên quan chặt chẽ giữa hai vấn đề này. Ăn uống không chỉ đáp
ứng nhu cầu cấp thiết hàng ngày, mà còn là biện pháp để duy trì và nâng cao
sức khỏe và tăng tuổi thọ.
Từ xa xưa, người ta đã biết mối liên quan giữa thực phẩm và sức khỏe. Từ
thời cổ Hy Lạp - La Mã người ta đã biết dùng gan động vật chứa nhiều vitamin
A để chữa bệnh quáng gà. Với mối liên quan đó, có thể nói thiếu dinh dưỡng là


14

trạng thái bệnh lý biểu hiện những dấu hiệu rõ rệt do thiếu một hay nhiều chất
dinh dưỡng được đừa vào từ bữa ăn và có thể điều trị hay là phòng ngừa được
qua ăn uống [12]. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và tổ chức Lương thực thế giới
(FAO) đã đề nghị một bảng phân loại các bệnh thuộc dinh dưỡng như sau:
- Bệnh do thiếu các chất dinh dưỡng gồm: bệnh suy dinh dưỡng protein
và năng lượng, bệnh thiếu máu do thiếu sắt, bệnh kho mắt do thiếu vitamin A.
- Bệnh do thừa các chất dinh dưỡng gồm: bệnh béo phì, thừa vitamin A, B, C…
1.3. Tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em trên thế giới và Việt Nam
1.3.1. Trên thế giới
Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực trong những năm gần đây
nhưng tình hình SDD ở trẻ em dưới 5 tuổi hiện vẫn là một vấn đề có ý nghĩa

sức khỏe cộng đồng rất phổ biến tại các quốc gia đang phát triển trong đó có
Việt Nam.
Thống kê tỷ lệ SDD qua các cuộc điều tra quốc gia từ năm 1980 - 1992
của 72 nước đang phát triển cho thấy tỷ lệ trẻ bị SDD thể nhẹ cân là 35,8%, tỷ
lệ trẻ còi cọc 42,7% và tỷ lệ trẻ gầy còm là 9,2%. Trong đó châu Á có tỷ lệcao
nhất, 42% trẻ em dưới 5 tuổi bị SDD thể nhẹ cân, 47,1% trẻ bị SDD thểcòi
cọc và 10,8% trẻ gầy còm. Nhiều năm gần đây, SDD ở trẻ em dưới 5 tuổitrên
phạm vi toàn thế giới có xu hướng giảm. Theo số liệu điều tra của 61 quốc gia
năm 1998 cho thấy tỷ lệ SDD trong 15 năm (1983-1998) giảm trungbình
0,54%/ năm, các nước Đông Nam Á có tỷ lệ giảm nhanh nhất khoảng 0,9%/
năm [13].
Theo Báo cáo của Liên hiệp Quốc năm 2008 về việc thực hiện các
mục tiêu Thiên niên ký và báo cáo của Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc
(UNICEF) năm 2006 về Tiến triển tình hình dinh dưỡng trẻ em cho thấy:


15

trong khoảng 16 năm (1990 - 2006) tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ
cân toàn thế giới giảm được 7% (từ 33% xuống còn 26%) nhưng trong
khoảng 146 triệu trẻ hiện tại đang bị SDD thì có tới 106 triệu (73%) sống ở
10 nước đang phát triển và hơn một nửa số đó sống ở 3 nước: Bangladesh
(48%), Ấn độ (47%), Pakixtan (38%). Việt Nam đóng góp khoảng 2 triệu
trẻ (1,5%) [14,15]. Đối với khu vực Đông Nam Á, các nước có tỷ lệ SDD
cao và không có khả năng đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỳ bao
gồm: Lào (40%), Campuchia (36%), Miyanma (32%) và Đông Timor
(46%). Các nước đã đạt được tiến bộ trong giảm SDD ở mức độ quốc gia
song một bộ phận dân cư vẫn phải đối mặt với điều kiện chăm sóc sức khỏe
và dinh dưỡng kém là Indonesia (28%), Philipines (28%) và Việt Nam
(21%). Còn lại là những nước có tốc độ giảm SDD rõ rệt, tỷ lệ SDD được

kiểm soát tốt ở mức thấp, bao gồm các nước Singapore (3%), Malaysia
(8%) và Thái Lan (9%) [15].
Các cuộc điều tra của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy tỷ lệ suy
dinh dưỡng có sự chênh lệch nhiều giữa vùng nông thôn và thành thị. Kết quả
cuộc khảo sát về tình hình kinh tế xã hội quốc gia ở Indonesia năm 2003 cho
thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở vùng thành thị là 25%, trong
khi đó ở nông thôn là 30% [16]. Tại Kenya, theo báo cáo chung năm 2003, tỷ
lệ suy dinh dưỡng ở thành thị là 13% còn ở nông thôn là 21%. Theo báo cáo
tạm thời của HAS năm 2003 tại vùng thành thị của Ai Cập, tỷ lệ trẻ em dưới 5
tuổi bị suy dinh dưỡng là 7%, vùng nông thôn tỷ lệ đó là 10%. Báo cáo của
UNICEF cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới năm tuổi tại Iraq giữa
vùng thành thị và nông thôn cũng có sự khác biệt (ở thành thị là 15%, nông
thôn 18%). Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách dinh dưỡng Quốc tế
(IFPRI) trên cơ sở phân tích và tổng hợp các yếu tố, các khu vực đưa ra một


16

tính toán dự báo tỷ lệ suy dinh dưỡng (%) đến năm 2020 ở các nước đang
phát triển [16, 17].
Bảng1.1.Dự báo tỷ lệ SDD(%) đến 2020 ở các nước đang phát triển [18]

Khuvực

1995

2020
Biquan

2020


2020

Trung bình Lạc quan

Nam Á

49,3

40,3

37,4

34,5

Cận sa mạc Châu Phi

31,1

32,4

28,8

25,7

Khu vực Đông Nam Á

22,9

13,1


12,8

12,6

Đông và Nam Phi

14,6

7,4

5,0

3,7

Mỹ LaTinh/Caribê

9,5

4,0

1,9

-

31,0

21,8

18,4


15,1

Chung các nước đang
phát triển

1.2.2. Tại Việt Nam
Trong các nước Đông Nam Á, tỷ lệ SDD ở nước ta vẫn ở mức cao so với
một số nước trong khu vực. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở Việt
Nam năm 1985 là 51,5%, năm 1995 là 44,9%, năm 2005 là 25,5% và năm
2013 tỷ lệ này là 15,3%. Nguyên nhân chính là do khẩu phần ăn chưa đáp ứng
được nhu cầu dinh dưỡng của trẻ, do thiếu kiến thức nuôi dưỡng trẻ và còn do
bệnh tật gây nên. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân so với tuổi ở trẻ dưới 5
tuổi nước ta giảm trung bình 2%/năm và Việt Nam trở thành một trong những
nước có mức giảm SDD nhanh nhất trên thế giới [10].


17

Biểu đồ1.1.Tỷ lệ (%) suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở Việt Nam
Tình trạng dinh dưỡng tốt phản ánh sự cân bằng giữa thức ăn ăn vào
và tình trạng sức khỏe. Khi cơ thể có tình trạng dinh dưỡng không tốt
(thiếu hoặc thừa dinh dưỡng) là thể hiện có vấn đề sức khỏe hoặc dinh
dưỡng hoặc cả hai.


18

1.4. Một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng
1.4.1. Vấn đề suy dinh dưỡng với địa dư

Theo báo cáo của bộ y tế năm 2013, tỷ lệ suy dinh dưỡng của các tỉnh
thành có sự dao động và có cải thiện rõ rệt so với những năm trước đây.
Bảng 1.2. Tỷ lệ SDD của trẻ em dưới 5 tuổi của Việt Nam phân bố
theovùng sinh thái - Năm 2013 [19]
Tên vùng

CN/T (%)

CC/T (%)

CN/CC(%)

Toàn quốc

16,2

26,7

6,7

Đồng bằng Sông Hồng

11,8

21,9

5,5

Trung du và miền núi phía Bắc


20,9

31,9

7,4

BắcTrung bộ, duyên hải miền Trung

19,5

31,2

7,5

Tây Nguyên

25,0

36,8

8,1

Đông Nam Bộ

11,3

20,7

5,4


Đồng bằng Sông Cửu Long

14,8

26,0

6,8

Tỷ lệ suy dinh dưỡng đạt được kết quả như vậy là nhờ chương trình
phòng chống SDD trẻ em trong chăm sóc sức khỏe ban đầu và tiêu chí Quốc
gia về y tế xã một cách sâu rộng trên phạm vi toàn quốc trong nhiều năm qua
Bên cạnh đó, những tiến bộ trong công cuộc đổi mới và tăng trưởng kinh tế
cũng góp phần tạo nên nhiều cải thiện về tình hình cung cấp thực phẩm trên
bình diện vĩ mô. Khẩu phần ăn của người Việt Nam đã có những thay đổi rõ
rệt, cân đối hơn về mặt chất lượng, nhiều thức ăn động vật, dầu mỡ, quả chín
hơn trước đây [20,],[21],[22].
Trong suốt thập kỷ qua, mặc dù tốc độ giảm suy dinh dưỡng của nước
ta là khá nhanh và liên tục, song hiện nay SDD trẻ em vẫn còn ở mức cao,
số lượng trẻ dưới 5 tuổi bị SDD thể nhẹ cân vẫn còn gần 1,3 triệu trẻ và số


19

trẻdưới 5 tuổi SDD thể thấp còi vẫn còn hơn 2,1 triệu trẻ [23]. Chính vì
vậy, chotới thời điểm này, SDD trẻ em vẫn còn là một thách thức lớn đối
với nước ta.
Tỷ lệ này cũng khác nhau giữa các vùng sinh thái. Điều tra của Viện
Dinh Dưỡng năm 2012 cho thấy những vùng có tỷ lệ SDD cao là Tây
Nguyên, vùng núi phía Bắc. Nhìn chung ở vùng đồng bằng tỷ lệ SDD trẻ
em thấp hơn ở các vùng khác. Như vậy, tỷ lệ SDD trẻ em miền núi ở cả 3

thể luôn cao nhất. Sự khác biệt khá lớn về tỷ lệ SDD trẻ em ở các vùng
sinh thái khác nhau, nhất là giữa nông thôn và thành thị ở nước ta một lần
nữa khẳng định nguyên nhân gây ra SDD trẻ em ở các vùng các tỉnh có sự
khác biệt [19].
Nghiên cứu tại Sóc Sơn Hà Nội (2011) cho thấy tỷ lệ SDD thể nhẹ cân
(CN/T) đánh giá theo chuẩn WHO của trẻ em năm 2009 là 9,6% đã ở mức
thấp theo phân loại ý nghĩa sức khoẻ cộng đồng của tổ chức y tế thế giới, tuy
nhiên tỷ lệ SDD thể thấp còi (CC/T) là 28,7% vẫn còn ở mức cao. Suy dinh
dưỡng CN/T và CC/T đều xuất hiện rất sớm (ngay từ 1 tháng tuổi). SDD thấp
còi tăng nhanh sau 6 tháng tuổi và duy trì ở mức cao cho đến 24 tháng tuổi
(28,7%) [24].
Đinh Đạo và CS (2011) [25], nghiên cứu hiệu quả phòng chống suy
dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi dân tộc thiểu số tại Bắc Trà My - Quảng
Nam cho thấy: Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở dân tộc thiểu số;
tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân: 36,5% (28,3% độ I, 6,8% độ II, 1,4% độ
III). Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi: 62,8%, (43,0% độ I, 19,8% độ II).
Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể gầy còm: 8,4%. Các yếu tố liên quan suy dinh
dưỡng trẻ em như nhóm tuổi; nhiễm khuẩn hô hấp cấp. Các yếu tố liên
quan đến bà mẹ: như kinh tế gia đình; nghề nghiệp; kiến thức về ăn bổ


20

sung, chất béo, rau quả và kiến thức chung; thực hành về ăn bổ sung, ăn 4
nhóm dinh dưỡng hàng ngày.
1.4.2. Do sai lầm về phương pháp nuôi dưỡng
- Do trẻ không được bú mẹ: sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ. Sữa mẹ là
thức ăn dễ tiêu hóa, dễ hấp thu và có tác dụng kháng khuẩn. Trẻ bú mẹ ít bị
SDD và ít mắc các bệnh về tiêu hóa,dị ứng, nhiễm trùng hơn những trẻ được
nuôi dưỡng bằng sữa bò [8].

- Do trẻ được ăn bổ sung không đúng: từ tháng thứ 7 trở đi cần phải cho
trẻ ăn bổ sung, đây cũng là thời kỳ trẻ hay mắc bệnh SDD nhất. Cho trẻ ăn bổ
sung quá sớm, trẻ không hấp thu được, dễ bị rối loạn tiêu hóa ngược lại, cho
trẻ ăn bổ sung quá muộn gây nên thiếu vi chất dinh dưỡng và năng lượng.
Bên cạnh đó, cách cho ăn bổ sung không đúng về số lượng và chất lượng,
thiếu vệ sinh cũng dẫn tới SDD và bệnh tật [8, 26].
- Do trẻ bị cai sữa sớm: cai sữa sớm làm mất đi nguồn dinh dưỡng quý
giá đối với trẻ, nhất là khi mà nguồn dinh dưỡng từ thức ăn bổ sung không
được đầy đủ. Hiện nay, WHO khuyến cáo các bà mẹ nên cho trẻ bú kéo dài
18-24 tháng, không nên cai sữa cho trẻ trước 12 tháng tuổi. Nghiên cứu ở Tây
Nguyên cho thấy tỷ lệ SDD ở nhóm trẻ được cai sữa trước 12 tháng (45,8%),
cao hơn nhóm trẻ được cai sữa sau 12 tháng (32,2%) [27].
1.4.3. Do nhiễm khuẩn
Suy dinh dưỡng hay gặp ở những trẻ sau khi bị mắc các bệnh nhiễm
khuẩn như viêm phổi, ỉa chảy, lao,… Các bệnh nhiễm trùng, đặc biệt là tiêu
chảy ảnh hưởng rất nhiều đều tình trạng dinh dưỡng của đứa trẻ. Nhiễm trùng
đường tiêu hóa làm giảm hấp thu, đặc biệt các vi chất, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi chocác vi khuẩn dễ xâm nhập. Bên cạnh tiêu chảy, nhiễm khuẩn
đường hô hấp cũng ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Người ta


21

ước đoán rằng nhiễm trùng ảnh hưởng đến 30% sự giảm chiều cao ở trẻ.
Ngược lại, SDD làm nặng thêm tình trạng nhiễm trùng, dẫn đến tăng nguy cơ
và tỷ lệ tử vong của trẻ.
1.5. Một số phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng
Tình trạng dinh dưỡng là tập hợp các đặc điểm chức phận, cấu trúc và
hoá sinh phản ảnh mức đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể. Để đánh giá
tình trạng dinh dưỡng, thời kỳ đầu người ta chỉ dựa vào các nhận xét đơn giản

như gầy, béo, tiếp đó là dựa vào một số chỉ tiêu nhân trắc như cân nặng, chiều
cao, vòng cánh tay... Ngày nay, người ta thấy tình trạng dinh dưỡng còn là kết
quả tác động qua lại phức tạp giữa các yếu tố với nhau như yếu tố môi trường,
kinh tế, văn hoá... cho nên tính chất phổ biến và nghiêm trọng của tình trạng
SDD có thể coi như một số chỉ số hữu ích để đánh giá trình độ phát triển kinh
tế - xã hội. Trong đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em hiện nay người ta
thường kết hợp sử dụng các phương pháp:
- Nhân trắc học;
- Điều tra khẩu phần và tập quán ăn uống;
- Khám lâm sàng
- Các xét nghiệm chủ yếu là hóa sinh (máu, nước tiểu,...);
- Các kiểm nghiệm chức phận để xác định các rối loạn chức phận do
thiếu hụt dinh dưỡng.
- Điều tra tỷ lệ bệnh tật và tử vong để tìm hiểu mối liên quan giữa bệnh
tật và tình trạng dinh dưỡng.
- Đánh giá các yếu tố sinh thái liên quan đến tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe.


22

Trong đó hai phương pháp thường được sử dụng nhiều nhất là nhân trắc
và điều tra nhân khẩu, mà các số đo nhân trắc là các chỉ số đánh giá trực tiếp
tình trạng dinh dưỡng [28].
Mô hình hóa các yếu tố gây suy dinh dưỡng
Theo UNICEFF mô hình hóa các yếu tố liên quan đến SDD của trẻ <5 tuổi

Sơ đồ 1.2. Mô hình nguyên nhân SDD và tử vong [1]
Nguyên nhân chính gây ra bệnh suy dinh dưỡng là do trẻ có chế độ dinh
dưỡng nghèo nàn, ăn uống thiếu chất đạm và các chất dinh dưỡng cần thiết
cho cơ thể hoặc cũng có thể do các bậc thiếu kiến thức về nuôi con, chằng hạn



23

như cho trẻ ăn dặm quá sớm, bú sữa mẹ quá ít hoặc ăn và bú quá ít lần trong
một ngày.
Trong đó là do tổng hợp từ nhiều yếu tố:
- Do dinh dưỡng: là nuôi trẻ không đúng phương pháp khi mẹ thiếu hoặc
mất sữa, cho trẻ ăn bổ sung không đúng cả về số lượng và chất lượng, nguyên
nhân quan trọng nhất hay gặp là do bà mẹ thiếu kiến thức dinh dưỡng hoặc
không có thời gian chăm sóc con.
- Do ốm đau kéo dài: trẻ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiêu
hóa nhiều lần, biến chứng sau các bệnh viêm phổi, sởi, lỵ…
- Do thể trạng dị tật: trẻ đẻ non, suy dinh dưỡng bào thai, các dị tật sứt
môi, hở hàm ếch, tim bẩm sinh.
- Do điều kiện kinh tế xã hội: suy dinh dưỡng về bệnh của nghèo nàn và
lạc hậu, có liên quan đến kinh tế, văn hóa, dân trí. Đây là mô hình hệ bệnh tật
đặc trưng của các nước đang phát triển.
1.6. Các phân loại suy dinh dưỡng
TCYTTG cũng đã khuyến cáo có ba chỉ số nên dùng là cân nặng theo
tuổi, cân nặng theo chiều cao và chiều cao theo tuổi [2].
Cân nặng theo tuổi (W/A) là chỉ số đánh giá TTDD được dùng sớm
nhất và phổ biến nhất. Chỉ số này được dùng để đánh giá TTDD của cá thể
hay cộng đồng. Cân nặng theo chiều cao thấp là hậu quả của thiếu dinh dưỡng
mạn tính từ trước [41,40]. Chỉ số CN/T nhạy cảm và có thể quan sát trong
một thời gian ngắn nhất. Bên cạnh đó chỉ số này liên quan tới tuổi của trẻ và
đó cũng là một vấn đề khó khăn khi thu thập số liệu nếu người dân không nhớ
rõ ngày tháng năm sinh của trẻ.



24

Chiều cao theo tuổi (H/A) phản ánh tiền sử dinh dưỡng. Chiều cao theo
tuổi thấp phản ánh ảnh hưởng của thiếu dinh dưỡng kéo dài và bệnh nhiễm
khuẩn với các điều kiện vệ sinh môi trường thấp và SDD sớm làm cho đứa trẻ
bị còi (stuning). Tuy nhiên, chỉ số này không nhạy vì sự phát triển chiều cao
của trẻ là từ từ mà các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của chiều cao xảy ra
trước khi chiều cao bị ảnh hưởng. Như vậy khi thấy trẻ bị còi thì đã bị muộn,
trước đó trẻ đã bị thiếu ăn hay nhiễm trùng từ lâu [11].
Cân nặng theo chiều cao (W/H) là chỉ số đánh giá TTDD hiện tại.
Chỉ số này phản ánh SDD cấp hay còn gọi là ''wasting''. Cân nặng theo
chiều cao thấp phản ánh sự không tăng cân hay giảm cân nếu so sánh với
trẻ có cùng chiều cao, chính thức là phản ánh mức độ thiếu ăn và nhiễm
khuẩn là 2 nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này. Tỷ lệ CN/CC thấp
thường xuất hiện nhiều ở trẻ từ 12-23 tháng, là giai đoạn trẻ hay bị bệnh và
thiếu ăn do chăm sóc. Chỉ số này không cần biết tuổi của trẻ và cũng không
phụ thuộc vào yếu tố dân tộc vì trẻ dưới 5 tuổi có thể phát triển như nhau
trên toàn thế giới [29].
1.6.1. Phân loại theo Gomez (1956)
Phương pháp phân loại được dùng sớm nhất và hiện nay được dùng rộng rãi,
nó dựa trên chỉ số cân nặng theo tuổi và sử dụng quần thể tham khảo Harvard.
% cân nặng theo tuổi

Phân loại dinh dưỡng

Độ suy dinh dưỡng

>90%

BT


BT

76 -90%

SDD nhẹ

SDD độ I

61-75%

SDD trung bình

SDD độ II

>60%

SDD nặng

SDD độ III


25

Cách phân loại này không phân biệt giữa Marasmus và Kwashiorkor
cũng như giữa SDD cấp hay mãn bởi vì cách phân loại này không để ý tới
chiều cao.
1.6.2. Phân loại theo Wellcome (1970)
Theo tác giả dấu hiệu phù được kết hợp với tỷ lệ giảm cân của trẻ.
Phù


Tỷ lệ % cân nặng



Không

80 -60%

Kwashiorkor

Thiếu cân

<60%

Marasmus -Kwashiorkor

Marasmus

1.6.3. Phân loại theo Waterlow (1972)
Cân nặn theo chiều cao (80% hay - 2SD)

Chiều cao theo tuổi
(90% hay - 2SD)

Trên

Trên

Dưới


Bình thường

Thiếu DD gầy còm

Dưới Thiếu DD còi cọc

thiếu DD nặng kéo dài

1.6.4. Phân loại dựa vào độ lệch chuẩn (hoặc Z-Score)
Hiện này, Tổ chức y tế thế giới đề nghị lấy điểm ngưỡng dưới 2 độ lệch
chuẩn (-2SD) so với quần thể tham khảo NCHS để coi là trẻ SDD trong đó:
+ Từ -2SD đến dưới -3SD là SDD vừa (độ I)
+ Từ -3SD đến dưới -4SD là SDD nặng (độ II)
+ Dưới -4SD là suy DD rất nặng (độ III)
1.7. Triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng suy dinh dưỡng ở trẻ em
1.7.1. Triệu chứng lâm sàng


×