Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

Đánh giá tác dụng điều trị của phương pháp đầu châm kết hợp huyết phủ trục ứ thang trên bệnh nhân nhồi máu não sau giai đoạn cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.51 MB, 103 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai biến mạch máu não (TBMMN) là một trong 10 nguyên nhân gây tử
vong và tàn tật, chiếm vị trí hàng đầu trong các bệnh lý của hệ thần kinh trung
ương. Theo thống kê, tỷ lệ tử vong của nhóm này đứng hàng thứ hai trên toàn
thế giới, đứng hàng thứ ba sau các bệnh tim mạch và ung thư ở Mỹ, tỷ lệ tàn
phế chiếm vị trí hàng đầu trên toàn thế giới [1], [2], [3].
TBMMN bao gồm Nhồi máu não (NMN) chiếm 80 – 85% và Xuất
huyết não (XHN) chiếm 15 – 20%. Bệnh có thể xảy ra với mọi lứa tuổi
không phân biệt nghề nghiệp, giới tính, sắc tộc, địa dư và hoàn cảnh kinh tế
xã hội [3].
Mặt khác, chi phí chăm sóc sức khỏe và phí tổn cho việc mất khả năng
lao động là rất lớn. Ở Mỹ, con số này là 65.5 tỷ USD trong năm 2008 và
71,55 tỷ trong năm 2010 [4].
Ở nước ta, TBMMN cũng đang là vấn đề thời sự của y học về tính phổ
biến, tỷ lệ tử vong cao, di chứng nặng nề, chi phí điều trị tốn kém, thiệt hại về
sức lao động cho gia đình và xã hội [5]. Theo Lê Văn Thành (2003), tỷ lệ hiện
mắc tại thành phố Hồ Chí Minh là 6060/1.000.000 dân [6].
Như vậy, điều trị TBMMN chú trọng vào phục hồi vận động và điều trị
các yếu tố nguy cơ đề phòng tái phát. Bên cạnh thành tựu của Y học hiện đại,
Y học cổ truyền cũng có đóng góp to lớn trong phục hồi chức năng cho bệnh
nhân, đặc biệt là châm cứu. Nhiều phương pháp châm cứu đã được áp dụng như
dùng Hào châm, Mãng châm, Laser châm để châm các huyệt vị toàn cơ thể hoặc
1 số vùng nhất định như Đầu châm, Nhĩ châm, Diện châm với nhiều công thức
huyệt khác nhau nhằm phục hồi lại chức năng vận động cho người bệnh. Ngoài
ra, thuốc YHCT cũng có rất nhiều bài thuốc điều trị TBMMN hiệu quả như bài
thuốc Huyết phủ trục ứ thang, đây là bài thuốc từ đời nhà Thanh có tác dụng
hoạt huyết khứ ứ, lý khí chỉ thống, chuyên điều trị các chứng khí trệ huyết ứ.



2

Đầu châm là phương pháp điều trị bệnh bằng cách châm các điểm kích
thích ở đầu, là một phương pháp kết hợp giữa Y học hiện đại và Y học cổ
truyền. Nó dựa trên lý luận về sự quan hệ mật thiết giữa đầu và các cơ quan
tạng phủ và lý luận về phân khu từng vùng tại vỏ não của Y học hiện đại. Tại
Trung quốc, Đầu châm được phát triển từ những năm 70 của thế kỷ trước với
nhiều trường phái khác nhau và được áp dụng có hiệu quả trong việc điều trị
một số bệnh liên quan đến hệ thống thần kinh như: Di chứng viêm não, tai
biến mạch máu não…
Tại Việt Nam, cho đến nay chưa có nhiều các công trình nghiên cứu về
Đầu châm cũng như việc ứng dụng phương pháp này trên lâm sàng còn nhiều
hạn chế. Để tiếp tục phát huy thế mạnh của châm cứu, đặc biệt để góp phần
tìm hiểu kỹ hơn về hiệu quả của phương pháp Đầu châm và bài thuốc Huyết
phủ trục ứ thang trong việc điều trị phục hồi di chứng Nhồi máu não, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá tác dụng điều trị của phương
pháp đầu châm kết hợp Huyết phủ trục ứ thang trên bệnh nhân nhồi
máu não sau giai đoạn cấp” nhằm mục tiêu:
1.

Đánh giá kết quả điều trị của Đầu châm kết hợp Huyết phủ trục ứ
thang trên bệnh nhân Nhồi máu não sau giai đoạn cấp.

2.

Theo dõi tác dụng không mong muốn trên lâm sàng và cận lâm
sàng của phương pháp điều trị.


3


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TÌNH HÌNH TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
1.1.1. Tình hình tai biến mạch máu não trên thế giới
Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới (TCYTTG), mỗi năm có hơn 15
triệu người mắc TBMMN, 5 triệu người tử vong, 5 triệu người tàn tật vĩnh
viễn do TBMMN. Trong số này, ước tính có khoảng 3,5 triệu người tử vong là
ở các nước phát triển. Các nước phát triển với chủ yếu là người da trắng, tỷ lệ
tử vong ở nhóm người này là 50 - 100/100.000 người mỗi năm [7]. Riêng ở
châu Á, hàng năm tử vong do TBMMN là 2,1 triệu người [1].
Tại Hoa Kỳ hàng năm có khoảng 700.000 - 750.000 người mới mắc, trong
đó tử vong là 130.000 người. Số sống sót chỉ 10% khỏi hoàn toàn, 25% di chứng
nhẹ, 40% di chứng vừa và nặng cần trợ giúp một phần hoặc hoàn toàn. Chi phí
cho điều trị là 65,5 tỷ USD trong năm 2008, 71,55 tỷ trong năm 2010 [4].
Theo Tổ chức Y tế thế giới, TBMMN xảy ra đa số ở lớp người cao tuổi
và tỷ lệ tăng nhanh theo tuổi. Khoảng 1/4 các trường hợp xảy ra ở tuổi dưới
65, khoảng 1/2 xảy ra ở độ tuổi dưới 75, ở tuổi 85 là 3000/100.000 người mắc
TBMMN. Trong nhiều độ tuổi, TBMMN ở nam cao hơn ở nữ. Tỷ lệ mới mắc
ở nam giới dao động từ 124 - 338 ca/100.000 người mỗi năm. Tỷ lệ này đối
với nữ là 61-312 ca/100.000 người mỗi năm [8].
Gần đây, nhiều công trình nghiên cứu đã nhấn mạnh đến TBMMN ở người
trẻ. Ở Ấn Độ, tỷ lệ mới mắc ở người trẻ chiếm 11- 30% các trường hợp TBMMN.
Ở Pháp tỷ lệ mới mắc ở người trẻ là 10 - 30/100.000 dân, chiếm 5% toàn bộ
TBMMN. Ở Italia, khoảng 3.300 trường hợp mới của TBMMN ở người trẻ xảy ra
mỗi năm, tỷ lệ mắc cao hơn tại Hoa Kỳ và các nước đang phát triển [7].


4


1.1.2. Tình hình tai biến mạch máu não ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, ở nước ra TBMMN đang có chiều hướng gia
tăng cướp đi sinh mạng của nhiều người hoặc để lại di chứng nặng nề gây
thiệt hại to lớn cho gia đình và xã hội.
Theo Nguyễn Văn Đăng (1996) thống kê tại Khoa thần kinh bệnh viện
Bạch Mai từ năm 1991- 1993, có 631 trường hợp TBMMN, tăng gấp 2.5 lần
so với thời kỳ từ năm 1986 đến năm 1989 [8].
Lê Văn Thành (2003) điều tra TBMMN ở thành phố Hồ Chí Minh thấy
tỷ lệ hiện mắc là 6060/1.000.000 dân, tăng hơn năm 1993 với tỷ lệ là
4160/1.000.000 dân [6].
Đinh Văn Thắng (2006) theo dõi tỷ lệ TBMMN tại bệnh viện Thanh
Nhàn từ 1999 - 2003, cho thấy năm 2003 TBMMN tăng 1,58 lần so với năm
1999, tỷ lệ nam/ nữ là 1,75 [9].
Nguyễn Minh Châu (2011) thống kê cho thấy tỷ lệ bệnh nhân TBMMN
chiếm 26,7% tổng số bệnh nhân vào điều trị nội trú tại bệnh viện Lão khoa
Trung ương năm 2010 [10].
Sự gia tăng nhanh chóng số lượng người mắc TBMMN đồng nghĩa với
nhu cầu PHCN sau tai biến ngày càng tăng cao. Theo kết quả nghiên cứu của
khoa PHCN bệnh viện Bạch Mai và khoa PHCN bệnh viện tỉnh Thái Bình,
92% người bệnh liệt nửa người đang sống tại nhà vẫn có nhu cầu PHCN [11].
1.2. TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO THEO Y HỌC HIỆN ĐẠI
1.2.1. Định nghĩa và phân loại tai biến mạch máu não
 Định nghĩa tai biến mạch máu não
Định nghĩa của TCYTTG (WHO): “Tai biến mạch máu não là các thiếu
sót chức năng thần kinh xảy ra đột ngột với các triệu chứng khu trú hơn là lan
tỏa, các triệu chứng tồn tại quá 24 giờ hoặc tử vong trong 24 giờ, loại trừ
nguyên nhân chấn thương sọ não” [3],[12].


5


 Phân loại tai biến mạch máu não
Tùy thuộc bản chất tổn thương, TBMMN được chia thành 2 thể lớn:
- Xuất huyết não: xuất huyết vào nhu mô não, chiếm 15 - 20%.
- Nhồi máu não: xảy ra khi một mạch máu bị tắc một phần hay toàn bộ,
khu vực não mà mạch máu đó cung cấp bị thiếu máu và hoại tử. TBMMN do
NMN chiếm khoảng 80% - 85% tổng số ca.
1.2.2. Nhồi máu não
1.2.2.1. Định nghĩa
Nhồi máu não là hậu quả của sự giảm đột ngột lưu lượng tuần hoàn não do
tắc một phần hay toàn bộ động mạch não, dẫn tới vùng não mà mạch đó nuôi
dưỡng bị thiếu máu và hoại tử, biểu hiện bằng sự xuất hiện đột ngột của các triệu
chứng thần kinh khu trú mà hay gặp nhất là liệt nửa người [2],[7].
Bao gồm 3 loại:
+ Cơn thiếu máu não thoáng qua: Cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua
là một giai đoạn rối loạn chức năng thần kinh ngắn do thiếu máu võng mạc
hoặc thiếu máu não cục bộ, các triệu chứng thường kéo dài dưới 1 giờ, và
không có bằng chứng của nhồi máu não. Loại này được coi như là yếu tố
nguy cơ của thiếu máu não cục bộ hình thành [13],[14].
+ Thiếu máu não cục bộ: Tai biến phục hồi trên 24 giờ và không để lại di
chứng hoặc di chứng không đáng kể.
+ Thiếu máu não cục bộ hình thành: Thời gian hồi phục kéo dài, để lại di
chứng hoặc tử vong.
1.2.2.2. Cơ chế bệnh sinh của nhồi máu não
Hai cơ chế chính chịu trách nhiệm cho NMN cấp: Cơ chế tắc mạch và cơ
chế lấp mạch.


6


Cơ chế tắc mạch
Cơ chế này thường xảy ra do tắc mạch hoặc huyết khối tại chỗ và gây tụt
giảm đột ngột lưu lượng máu não khu vực. Nguyên nhân gây tắc mạch được tạo
thành trong tim hoặc trong hệ thống mạch máu, di chuyển trong hệ động mạch,
kẹt lại trong một động mạch nhỏ hơn và làm nghẽn một phần hoặc hoàn toàn
động mạch đó. Các nguyên nhân như: Khí, mỡ, Cholesterol, vi trùng, tế bào u,
cục máu đông. Huyết khối tắc mạch, là tình trạng tắc dòng chảy do hình thành
cục huyết khối từ một quá trình bệnh lý tắc nghẽn khởi phát bên trong thành
mạch máu, nguyên nhân hay gặp là xơ vữa động mạch, ít gặp hơn là bóc tách
thành động mạch, co mạch, chèn ép từ bên ngoài như khối u [7].
 Cơ chế lấp mạch.
Nguồn gốc từ xơ vữa: Chỗ phân đôi động mạch cảnh (50%), vòi cảnh
(20%), động mạch sống lưng khúc tận, quai động mạch chủ. Nguồn gốc từ
tim khoảng 20% ( tim bẩm sinh, hẹp 2 lá, thấp tim..). Ngoài ra còn có ung thư
phổi, động kinh… [7].

Xuất huyết não

Nhồi máu não

Hình 1.1. Xuất huyết và nhồi máu não [15]

1.2.2.3. Lâm sàng
Các triệu chứng lâm sàng của nhồi máu não phụ thuộc vào vị trí của ổ
nhồi máu não [15],[16].


7

 Nhồi máu não nhánh nông của động mạch não giữa

Các rối loạn cảm giác, vận động, thị giác đối diện với bên bị tổn thương
bao gồm: Liệt nửa người với ưu thế tay – mặt do tổn thương hồi trán lên,
giảm cảm giác nông và sâu nửa người do tổn thương hồi đỉnh lên, bán manh,
Aphasie Broca hoặc Vernicke, thờ ơ đôi khi có lú lẫn...

 Nhồi máu nhánh sâu của động mạch não giữa
Liệt hoàn toàn, đồng đều nửa người bên đối diện, thường không có rối
loạn cảm giác, không có rối loạn thị trường, đôi khi có thất ngôn dưới vỏ do
tổn thương nhân xám của bán cầu não ưu thế.

 Nhồi máu toàn bộ của động mạch não giữa
Các triệu chứng nặng nề của cả hai loại nhồi máu nhánh nông và nhánh
sâu kết hợp.

Não bình thường
Hình 1.2. Hình ảnh nhồi máu não [16].

Nhồi máu não

 Nhồi máu động mạch não trước
Ít khi riêng rẽ, thường bị cùng với động mạch não giữa, liệt nửa người ưu
thế ở chân, câm ở giai đoạn đầu, hội chứng thùy trán: Thờ ơ, vô cảm, hưng cảm,
rối loạn chú ý, rối loạn hành vi, rối loạn ngôn ngữ nếu tổn thương bên trái.


8

 Nhồi máu não động mạch não sau
Triệu chứng thị giác nổi bật: Bán manh, mất đọc, mất nhận thức thị giác,
trạng thái lú lẫn. Giảm cảm giác nông sâu bên đối diện, đau nửa người đối bên,

đau tự phát hoặc do kích thích, cảm giác đau rất mãnh liệt. Liệt nhẹ nửa người
bên đối diện, có thể có động tác múa vờn ở bàn tay bên đối diện với tổn thương.

 Nhồi máu động mạch bên của hành tủy
Ở bên tổn thương: Phân ly cảm giác, còn cảm giác sờ, mất cảm giác đau
nóng, lạnh. Tổn thương dây thân kinh (IX, X, XI): Rối loạn nuốt, phát âm,
nấc, liệt màn hầu, thanh quản. Hội chứng tiền đình: Chóng mặt, nôn, Nystagmus
do tổn thương nhân tiền đình. Ở bên đối diện: Mất cảm giác nửa người, mất cảm
giác đau, nóng, lạnh, còn cảm giác sâu.

 Nhồi máu tiểu não
Nhức đầu, nôn, chóng mặt, hội chứng tiểu não. Có thể là một cấp cứu vì
ép vào thân não hoặc gây não úng thủy cấp do ép vào não thất bốn.
1.2.2.4. Các yếu tố nguy cơ
Các yếu tố nguy cơ được chia làm hai nhóm: Nhóm không thay đổi được
và nhóm có thể thay đổi được [7], [17]. Nhóm không thay đổi được bao gồm:
Tuổi, giới, chủng tộc, di truyền, địa lý. Có thể coi, tuổi, giới, tiền sử gia đình là
những yếu tố nhận dạng khá quan trọng, giúp chúng ta kiểm soát tích cực hơn
các yếu tố nguy cơ khác. Những nghiên cứu trong và ngoài nước đều đưa đến
kết luận TBMMN tăng theo tuổi và tăng vọt lên từ lứa tuổi 50 trở đi. Nam giới bị
TBMMN nhiều hơn nữ từ 1,5 đến 2 [7]. Nhóm có thể thay đổi được:
- Tăng huyết áp: Tăng huyết áp là nguy cơ hàng đầu trong cơ chế bệnh
sinh của TBMMN. Tăng huyết áp tâm thu, tâm trương hay cả tâm thu lẫn tâm
trương là yếu tố nguy cơ độc lập gây ra cả các loại TBMMN khi huyết áp tâm
thu (HATT) từ 160 mmHg trở lên và/hoặc huyết áp tâm trương (HATTr) từ 95
mmHg trở lên, tỉ lệ TBMMN ở người THA so với những người HA bình
thường sẽ tăng từ 2,9 lần (đối với nữ) và 3,1 lần (đối với nam) [7],[16].


9


- Rối loạn Lipid máu: Mức độ HDL thấp (dưới 0,9mmol/l), mức độ cao
của Tryglycerid (trên 2,3mmol/l) cộng với sự tăng huyết áp sẽ tăng gấp đôi
nguy cơ TBMMN [7],[18]. Mới đây, một công trình tập hợp 10 năm nghiên
cứu về nguy cơ TBMMN ở những người có Cholesterol máu tăng cao trên
200mg/l đã cho thấy nguy cơ là 2,9. Nếu điều trị tốt có thể ngăn ngừa được
22.000 người trên 55 tuổi bị TBMMN ở nước Anh. Ở Nhật và Mỹ, việc giảm
tỉ lệ chảy máu nội não được cho là có liên quan đến tăng Cholesterol máu [19].
- Béo phì là một yếu tố không trực tiếp gây TBMMN mà thông qua các
bệnh tim mạch. Có sự liên quan rất rõ rệt giữa béo phì, tăng huyết áp và sự đề
kháng Insulin.
- Các bệnh tim mạch: Rung nhĩ không có bệnh lý van tim, nhồi máu cơ
tim cấp, phì đại thất trái, bệnh tim do thấp, các tai biến do van tim giả là
nguyên nhân chủ yếu gây tắc mạch não từ tim. Tần suất và tính phổ biến của
rung nhĩ tăng theo tuổi, với mỗi khoảng 10 năm liên tục sau 55 tuổi tỷ lệ rung
nhĩ tăng gấp đôi [7],[19].
- Đái tháo đường: Là yếu tố nguy cơ gây ra tất cả các thể TBMMN [7],
[17],[19].
- Hút thuốc lá: Hút thuốc lá trực tiếp hay thụ động đều làm tăng nguy cơ
bệnh lý tim mạch và nhất là tùy thuộc số lượng hút kết hợp với thời gian hút.
Nguy cơ tương đối của TBMMN ở người hút thuốc lá nhiều (trên 40
điếu/ngày) gấp hai lần ở người hút thuốc lá ít (dưới 10 điếu /ngày).
- Rượu: Lạm dụng rượu (56 đến 70 gam rượu hàng ngày hoặc say quá
chén) sẽ làm tăng áp lực máu, tăng kết tập tiểu cầu, tăng đông máu, tăng mức
Triglycerid, cơn rung nhĩ kịch phát, bệnh cơ tim và liên quan đến sự gia tăng
của nguy cơ TBMMN (đặc biệt là thể chảy máu não) [7].
- Tiền sử bị tai biến thoáng qua: Nguy cơ xảy ra TBMMN sau cơn thiếu máu
thoáng qua là 10% trong năm đầu tiên, sau đó trong năm tiếp theo có tỷ lệ 5% [7].



10

Ngoài ra, còn có một số yếu tố khác cũng được xếp vào nhóm này như
sử dụng thuốc ngừa thai, lạm dụng thuốc và sử dụng thuốc gây nghiện, ít vận
động thể lực, hẹp động mạch cảnh chưa có triệu chứng [7],[17],[19].
1.2.2.5. Các xét nghiệm cận lâm sàng
- Các xét nghiệm thường quy
+ Xét nghiệm máu: Công thức máu, đông máu cơ bản, hóa sinh máu
(Glucose, Ure, Creatinin, định lượng Cholesterol – LDL, Cholesterol – HDL,
Cholesterol và Triglycerid, điện giải đồ, AST, ALT).
+ Chụp XQ tim phổi.
+ Ghi điện tim, siêu âm ổ bụng tổng quát.
+ Xét nghiệm nước tiểu.
- Các xét nghiệm chuyên biệt.
+ Chụp cắt lớp vi tính sọ não: Nên được làm, vì đây là một trong những
bước thiết yếu đầu tiên trong xử trí bệnh nhân đột quỵ não và giúp loại trừ
chảy máu não [20].
+ Chụp cộng hưởng từ não (MRI). Có thể cung cấp các thông tin cụ thể về
vị trí đột quỵ não, thời gian chảy máu não và tình trạng nhu mô não [20].
+ Chụp cắt lớp vi tính mạch não (CTA): Có thể cung cấp nhanh hình ảnh
toàn bộ động mạch não và có thể chẩn đoán hẹp mạch ở trong và ngoài sọ, túi
phình mạch não hoặc các bóc tách mạch [20].
+ Siêu âm Doppler xuyên sọ: Có thể được thực hiện để phát hiện tình
trạng tắc nghẽn, tái thông và tắc lại các động mạch não lớn trong sọ theo thời
gian [20].
+ Siêu âm động mạch cảnh: Để đánh giá tắc nghẽn hoặc hẹp động mạch
cảnh trong, cho thấy hướng dòng chảy của động mạch đốt sống [20].
+ Xét nghiệm dịch não tủy: Giúp chẩn đoán phân biệt giữa NMN và
chảy máu trong sọ. Nhồi máu não có dịch não tủy trong, các thành phần dịch
não tủy không thay đổi [20].



11

1.2.2.6. Chẩn đoán nhồi máu não
+ Lâm sàng: Tính chất xuất hiện đột ngột của các triệu chứng thiếu sót thần
kinh. Khái niệm đột ngột là từ vài phút đến vài ngày. Các triệu chứng thần kinh
ổ, rối loạn ý thức, cơn động kinh. Hỏi bệnh, hỏi về tiền sử bệnh tật, đặc biệt là
các bệnh có liên quan, các yếu tố nguy cơ. Chú ý phát hiện tiền sử cơn thiếu máu
não thoáng qua. Khám toàn thân đặc biệt là tim mạch [21],[22].
+ Cận lâm sàng
- Chụp cắt lớp vi tính sọ não: Giúp chẩn đoán xác định nhồi máu não, vị
trí, tính chất của tổn thương não, nó cũng giúp chẩn đoán phân biệt với xuất
huyết não, u não.Tuy nhiên, bệnh nhân dễ bị nhiễm xạ và giá trị chẩn đoán
của chụp cộng hưởng từ cao hơn nên nếu có điều kiện nên cho bệnh nhân
chụp cộng hưởng từ.
- Các thăm dò cận lâm sàng khác:
 Chụp cộng hưởng từ não.
 Chụp động mạch não.
 Các xét nghiệm một cách hệ thống.
1.2.2.7. Điều trị nhồi máu não
Mục tiêu chính trong điều trị nhồi máu não cấp là tái thông mạch máu
não bị tắc nghẽn do huyết khối. Phương pháp điều trị tiêu chuẩn hiện tại là
tiêu sợi huyết tĩnh mạch bằng rtPA áp dụng đối với bệnh nhân bị nhồi máu
não trong vòng 4,5 giờ kể từ khi khởi phát, phương pháp này còn hạn chế cho
những trường hợp tắc mạch máu lớn như động mạch cảnh trong, động mạch
não giữa và hệ động mạch đốt sống thân nền. Hiện nay phương pháp can thiệp
nội mạch là một lựa chọn mới trong điều trị nhồi máu não đem lại nhiều kết
quả khả quan [23].


 Bốn thành tố trong chăm sóc thiếu máu não cục bộ cấp
- Điều trị cấp cứu và tối ưu hóa tình trạng thần kinh.
- Thực hiện quy trình chẩn đoán căn nguyên để dự phòng cấp II.


12

- Dự phòng suy thoái thần kinh hoặc các biến chứng nội khoa.
- Hồi phục và phục hồi chức năng.

 Điều trị nhồi máu não sau giai đoạn cấp
Sau giai đoạn cấp thường kết hợp nhiều phương pháp để điều trị như
thuốc, vật lý trị liệu, phục hồi chức năng, chế độ ăn uống, sinh hoạt và luyện tập.
a. Điều trị bằng thuốc
- Thuốc chống ngưng tập tiểu cầu (Aspirin 81mg, Plavix 75mg, Aggrenox..).
- Thuốc cải thiện tuần hoàn não, bảo vệ tế bào thần kinh (Cerebrolysin
10ml, Citicolin 0,5g, Gliatilin...).
- Điều trị các yếu tố nguy cơ và các bệnh kèm theo: Thuốc tăng huyết áp,
rối loạn Lipid máu, đái tháo đường, bệnh lý tim mạch...).
- Các biến chứng nội khoa: Huyết khối tĩnh mạch sâu, viêm phổi, nhiễm
trùng đường tiết niệu, loét do bất động lâu ngày, viêm khớp vai...) [23],[24],[25].
b. Phục hồi chức năng sau giai đoạn cấp
Mục tiêu ban đầu của phục hồi chức năng là ngăn ngừa các biến chứng,
làm giảm mức tối thiểu các khiếm khuyết chức năng và tối đa hóa khả năng phục
hồi chức năng. Các ưu tiên của phục hồi chức năng đột quỵ não sớm là dự phòng
cấp II đột quỵ não, xử trí các bệnh nội khoa phối hợp và ngăn ngừa các biến
chứng. Các thành phần chính của phục hồi chức năng bao gồm: Điều trị rối loạn
ngôn ngữ, vật lý trị liệu, liệu pháp hoạt động, liệu pháp tâm lý – xã hội [11].
1.3. TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN
Trong YHCT không có bệnh danh TBMMN nói chung và NMN nói

riêng. Căn cứ vào triệu chứng lâm sàng và tính chất xuất hiện đột ngột như
trong giai đoạn cấp của YHHĐ thì YHCT xếp TBMMN vào chứng Trúng
phong, giai đoạn sau cấp của YHHĐ với triệu chứng liệt nửa người nổi bật thì
YHCT xếp vào chứng Bán thân bất toại [26].
1.3.1. Quan niệm nguyên nhân của chứng trúng phong
Trúng phong còn gọi là thốt trúng (đột ngột), bệnh này phát ra gấp vội,


13

triệu chứng xuất hiện nhiều cách biến hóa giống với tính chất của phong: Dễ
lưu hành, biến đổi nhanh cho nên gọi là trúng phong. Bệnh nhân tối sầm ngã
ra, mê man, kiêm có chứng miệng mặt méo xệch, bán thân bất toại, nói không
thuận lời, có trường hợp không ngã mà chỉ mặt méo lệch, không cử động là
chủ chứng [27]. Trong Linh khu nói: “Hư tà xâm vào một phía người, xâm
vào sâu ở phía trong vinh vệ, vinh vệ hơi suy thì chân khí tán mất, tà khí đóng
lại phát thành chứng thiệt khô”, Sách Tố Vấn nói: “Về dương khí, giận quá thì
hình khí tuyệt mà huyết dần lên trên làm cho người ta bị trúng phong”, Sách
Kim quỹ yếu lược nói: “Kinh lạc trống rỗng, phong tà nhân chỗ hư xâm vào
trong và lấy tà trúng nông sâu, bệnh tình nặng nhẹ mà chia ra trúng lạc, trúng
kinh, trúng phủ, trúng tạng” [28]. Thầy thuốc gần đây đã có một số tổng kết
kinh nghiệm tiền nhân và kết hợp YHHĐ để tìm ra cơ chế phát sinh bệnh, đã
kết luận rằng chứng này phát sinh chủ yếu do can dương hóa phong, khí huyết
cùng nghịch, xông thẳng lên phạm vào não [28],[29].
- Nguyên nhân trúng phong theo YHCT
+ Chính khí suy hư: Người già cơ thể suy yếu, can thận âm hư, can
dương thịnh lên hoặc lo nghĩ phiền lao quá độ, khí huyết suy tổn, chân khí
hao tán hoặc vì giữ gìn không thích đáng, làm cho âm suy ở dưới, dương cang
bốc mạnh lên, dương hỏa phong động, khí huyết nghịch lên che mờ nguyên
thần, đột nhiên phát ra bệnh này [28].

+ Ăn uống không điều độ: Do ăn uống không điều độ, trung khí suy hư, tỳ
không kiện vận, tụ thấp sinh đàm, đàm uất hóa nhiệt, trở trệ kinh lạc, che mờ thanh
khiếu bệnh nhân đột nhiên hôn mê, ngã ra, chân tay không cử động được [28].
+ Tổn thương về tình chí: Ngũ chí quá cực, đàm hỏa thịnh lên hoặc
người vốn âm hư, thủy không dưỡng mộc, lại vì tình chí tổn thương, can
dương động lên mạnh, dẫn động tâm hỏa, phong hỏa cùng bốc, khí huyết
nghịch lên, tâm thần tối mờ làm cho bỗng nhiên ngã lăn ra không biết gì [28].
+ Khí hư tà trúng: Khí huyết không đủ, mạch lạc trống rỗng, phong tà
nhân chỗ hư trúng vào kinh lạc, khí huyết bị trở tắc, cơ nhục gân mạch mất sự


14

nhu dưỡng hoặc người hình thịnh khí suy, đàm thấp vốn thịnh, ngoại phong dẫn
động đàm thấp, bế trở kinh lạc, làm cho chân tay không cử động [28].
1.3.2. Phân loại và điều trị trúng phong
1.3.2.1. Phân loại
Trúng phong chia làm hai loại
Trúng phong kinh lạc: Không có sự thay đổi về thần chí, bệnh nhẹ. Triệu
chứng là chân tay tê dại, yếu nửa người, nói khó, rêu lưỡi trắng, mạch phù sác.
Trúng phong tạng phủ: Bệnh xuất hiện đột ngột, liệt nửa người, có hôn
mê. Có hai chứng: Chứng bế: bệnh nhân đột nhiên hôn mê ngã ra, bất tỉnh
nhân sự, hàm răng mím chặt, miệng câm, hai tay nắm chặt, đại tiểu tiện không
được, chân tay mình mẩy cứng đờ, mạch huyền hoạt hoặc trầm hoạt. Chứng
thoát: đột nhiên hôn mê ngã ra, bất tỉnh nhân sự, mắt nhắm, miệng há, thở
nhỏ, tay xòe ra, chân tay lạnh, ra nhiều mô hôi, đại tiểu tiện són ra không
biết, chân tay liệt mềm, lưỡi liệt, mạch tế nhược hoặc mạch vi muốn tuyệt.
1.3.2.2. Điều trị
Trúng phong chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn cấp tính, giai đoạn hồi
phục, giai đoạn di chứng.

Giai đoạn cấp có ba trạng thái: Không có rối loạn ý thức, bệnh nhân tỉnh
táo, hôn mê nông, hôn mê sâu.
- Điều trị trường hợp không có rối loạn ý thức: Bệnh thường xuất hiện
khi bệnh nhân đang nghỉ ngơi, sau khi làm việc mệt mỏi hoặc sau khi ngủ
dậy. Phong tà trúng kinh lạc làm khí huyết bị trở ngại. Pháp chữa là trừ
phong, dưỡng huyết thông kinh hoạt lạc. Bài thuốc thường dùng là “Đại tần
giao thang” [28]. Hoặc do can thận âm hư, phong dương nhiễu lên, hiệp với
đàm chạy vào kinh lạc, lạc mạch không thông gây nên miệng méo, mắt xếch,
lưỡi cứng, khó nói, nửa người không cử động. Pháp chữa là tư âm tiềm
dương, tức phong thông lạc. Bài thuốc thường dùng là “Trấn can tức phong


15

thang” [30].
- Điều trị trường hợp hôn mê nông: Thường do phong nhiệt nhiễu thanh
khiếu, đàm thấp hoặc đàm nhiệt làm bế tắc tâm khiếu gây ra trúng phong tạng
phủ [30]. Người bệnh thường lúc tỉnh lúc mê, mặt đỏ, người nóng, hàm răng
cắn chặt, nằm không yên, thở thô, có nhiều đờm, đại tiểu tiện không thông,
mạch huyền sác. Pháp điều trị là khai bế tỉnh thần. Bài thuốc thường dùng là
“An cung ngưu hoàng hoàn” [28],[30],[31]. Châm cứu chích nặn máu các
huyệt Bách hội, Thập tuyên để thanh nhiệt, hạ áp. Châm kích thích mạnh các
huyệt Nhân trung, Thập nhị tỉnh để khai khiếu tỉnh thần.
- Điều trị giai đoạn hôn mê sâu YHCT gọi là chứng thoát: Đột nhiên hôn
mê sâu, mắt mở, vã mồ hôi, chân tay lạnh, thở yếu, mạch vi muốn tuyệt. Pháp
điều trị hồi dương cố thoát. Bài thuốc thường dùng là “Sâm phụ thang gia vị”.
Cứu huyệt Thần khuyết, hoặc Quan nguyên, Khí hải đến khi chân tay ấm, sờ
thấy mạch đập [28].
Phục hồi sau giai đoạn cấp: Sau giai đoạn cấp bệnh nhân hoặc tử vong,
hoặc hồi phục để lại di chứng như liệt nửa người, miệng méo, mắt xếch, nói khó.

YHCT kết hợp dùng thuốc và châm cứu, xoa bóp bấm huyệt phục hồi di chứng
đạt hiệu quả cao. Các phương pháp trên đều có tác dụng cơ bản là điều hòa lại sự
mất cân bằng âm dương, làm cho kinh mạch, khí huyết được lưu thông, giúp cơ
thể được khỏe mạnh chống lại tác nhân gây bệnh, phục hồi di chứng.
Điều trị chứng trúng phong sau giai đoạn cấp bằng thuốc YHCT.
Thể khí hư huyết ứ: Liệt nửa người, liệt mặt cùng bên, có nói ngọng hoặc
không, song trước khi xảy ra hôn mê thường có dấu hiệu báo động như: rối
loạn cảm giác, nói khó, triệu chứng liệt khởi đầu từ từ, giai đoạn toàn phát có
thể hôn mê vừa và nhẹ hoặc không hôn mê. Bài thuốc hay dùng là “Bổ dương
hoàn ngũ thang” [28],[29].
Thể can thận âm hư: liệt nửa người, nửa mặt dưới cùng bên, tay chân
bên liệt tê dại, hay hoa mắt, chóng mặt, mạch huyền tế sác. Bài thuốc hay


16

dùng là “Lục vị” gia giảm [29].
Thể do phong đàm: Liệt nửa người kèm theo nửa mặt dưới cùng bên, tay
chân tê dại, nặng nề, lưỡi cử động khó, có nói ngọng hoặc không, rêu lưỡi trắng
dầy, nhớt, mạch phù hoạt hoặc huyền hoạt. Bài thuốc hay dùng là “Thiên ma câu
đằng ẩm” [29].
Điều trị chứng trúng phong sau giai đoạn cấp bằng phương pháp
không dùng thuốc.
+ Điều trị trúng phong bằng châm cứu
Phác đồ của Bộ Y tế ban hành: Bách hội, Đại chùy, Kiên tỉnh, Tý nhu,
Khúc trì, Thủ tam lý, Chi câu, Ngoại quan, Hợp cốc, Quyền liêu, Hạ quan,
Địa thương, Giáp xa, Liêm tuyền, Ngoại kim tân, Ngoại ngọc dịch, Hoàn
khiêu, Trật biên, Ân môn, Thừa phù, Dương lăng tuyền, Túc tam lý, Thượng
cự hư, Giải khê, Tam âm giao, Giáp tích C4-C7, D12-L5 [33].
+ Điều trị trúng phong bằng xoa bóp bấm huyệt

Mục đích tăng cường dinh dưỡng, chống teo cơ, cứng khớp, giúp nhanh
chóng phục hồi chức năng vận động nửa người bên liệt [35]. Bao gồm xoa bóp,
vận động, bấm huyệt vùng đầu mặt, khớp vai, chi trên, chi dưới bên liệt.
+ Ngoài ra còn một số phương pháp điều trị trúng phong bằng phương
pháp không dùng thuốc khác như: Laser châm, Sóng ngắn, Siêu âm điều trị,
Cấy chỉ, Nhĩ châm..
1.4. PHƯƠNG PHÁP ĐẦU CHÂM
1.4.1. Phương pháp Đầu châm theo Y học hiện đại
1.4.1.1. Khái niệm
Đầu châm là một phương pháp kết hợp YHHĐ và YHCT, nhưng dựa vào
lý luận thần kinh của YHHĐ, trên cơ sở sự tương ứng giữa các bộ phận da
đầu và các vùng chức năng ở vỏ não. Châm các bộ phận da đầu tương ứng với
các vùng chức năng ở vỏ não làm cho tế bào vỏ não bị kích thích phát sinh tác
dụng phóng ra các xung động dẫn truyền tới cơ thể hoặc cơ quan nội tạng do


17

vỏ não chi phối. Từ đó các bộ phận bị ức chế hoặc tổn hại khôi phục được
công năng sinh lý bình thường[37]
1.4.1.2. Cơ sở sinh lý - giải phẫu để phân khu
Theo Atlat giải phẫu người vỏ não được chia thành các trung khu có khả
năng điều khiển chi phối hoạt động của các vùng khác [36].Trên sơ đồ ta thấy
phần vỏ não chi phối vận động tay và chân chủ yếu ở vùng đỉnh.
Từ góc độ điện sinh lý, đầu là một thể dẫn điện dung tích lớn châm vùng
đầu có thể tạo ra các dòng điện sinh học lan truyền đến não, từ đó cải biến
tính hưng phấn của các tế bào vỏ não làm cho các tế bào thần kinh bị ức chế
trong quá trình NMN, phù não được giải phóng, phục hồi tính hưng phấn và
khả năng trao đổi chất của tế bào thần kinh.


Vùng
trước trán

Hình 1.3. Sơ đồ phân khu của vỏ não [34]

Hình 1.4. Các vùng của vỏ não [34]


18

Trong phương pháp Đầu châm có 2 đường quan trọng nhất trên cơ sở của 2
đường này mà người thầy thuốc xác định được những vùng châm ở đầu [41]
- Đường 1: chính giữa trước sau (đường dọc giữa đầu nối từ điểm giữa 2
cung lông mày đến đáy hộp sọ).
- Đường 2: tuyến mi chẩm (đường nối từ giữa cung lông mày đến đáy
hộp sọ, đi qua mí tóc trán và loa tai).

Hình 1.5. Vùng vận động

Hình 1.6. Cách xác định Đường 1 và Đường 2

1.4.1.3. Sự phân chia các vùng kích thích trên da đầu và tác dụng điều trị
* Vùng vận động: là đường chạy theo mặt bên của đầu, đường này được
xác định bởi:


19

+ Điểm cách điểm giữa tuyến 0,5 cm về phía sau.
+ Điểm dưới là giao điểm của chân tóc trán với đường 2.

Vùng vận động chia làm 5 phần:
1/5 trên: vùng chi dưới
2/5 giữa: vùng chi trên
2/5 dưới: vùng mặt
Tác dụng: điều trị liệt những vùng tương ứng ở bên đối diện. Đoạn 2/5
dưới điều trị được thất ngôn kiểu vận động, phát âm khó, chảy nước dãi.
* Vùng cảm giác: đường chạy song song với vùng vận động và cách phía
sau 1,5 cm. Đường này cũng chia 3 đoạn:
1/5 trên: vùng chi dưới
2/5 giữa: vùng chi trên
2/5 dưới: vùng mặt
Tác dụng điều trị những trường hợp đau tê nhức, dị cảm ở những vùng
tương ứng bên đối diện.
* Vùng thất điều và run: đường song song với đường vận động cách 1,5
cm về phía trước. Điều trị thất điều ở trẻ em, Parkinson.
* Vùng vận mạch: đường song song với đường vận động và cách 3 cm
về phía trước.
Điều trị các trường hợp phù chi trong liệt trung ương.
* Vùng tiền đình ốc tai: một đoạn nằm ngang dài 4 cm từ đỉnh loa tai lên
1,5 cm là điểm giữa, từ đây kéo ra trước 2 cm, ra sau 2 cm.
Tác dụng: điều trị chóng mặt, giảm thính lực.
* Vùng ngôn ngữ 2: Vị trí là đường song song với đường dọc giữa đầu và dài
3 cm. Điểm bắt đầu của đường này nằm dưới khớp xương đỉnh thái dương 2cm.
Tác dụng: điều trị thất ngôn kiểu vận động.
* Vùng ngôn ngữ 3: Từ điểm giữa của vùng tiền đình ốc tai, kéo ra sau 4


20

cm, có thể xem đây là đoạn kéo dài của vùng tiền đình ốc tai.

Tác dụng điều trị thất ngôn kiểu cảm giác.
* Vùng tâm thể vận động: vị trí từ rãnh đỉnh thái dương, kẻ một đường
thẳng đứng và 2 đường nghiêng, tạo thành góc 400, có 2 đường mới mỗi
đường dài 3 cm.
Tác dụng: điều trị chứng ý thức và vận động không phù hợp.
* Vùng vận cảm ở chân: là đường song song với đường giữa và cách
đường giữa 1 cm. Điểm bắt đầu của vùng này tương ứng với điểm trên của
khu cảm giác kéo ra sau 1 cm.
Tác dụng: đau, liệt nặng chi dưới bên đối diện, đau vùng thắt lưng, sa tử
cung, tiểu nhiều do nguồn gốc trung ương.
* Vùng thị giác: xuất phát từ 2 điểm nằm trên đường ngang qua ụ chẩm
1cm và cách đường giữa 1 cm kéo dài lên trên 4 cm.
Tác dụng: điều trị rối loạn thị giác có nguyên nhân vỏ não.
* Vùng thăng bằng: lấy 2 điểm nằm trên đường ngang qua ụ chẩm, cách
đường giữa 3,5 cm, kéo xuống dưới 4 cm thành 1 đường thẳng.
Tác dụng: điều trị rối loạn thăng bằng.
1.4.2. Phương pháp Đầu châm theo Y học cổ truyền
Đầu châm được phát triển dựa trên học thuyết kinh lạc của YHCT, có rất
nhiều kinh lạc và mạch lạc đi qua vùng đầu. Đường đi của các kinh mạch sau
có quan hệ mật thiết với vùng đầu: [33],[37].
- Kinh Túc Dương minh Vị
- Kinh Túc Thái dương Bàng quang
- Kinh Thủ Thái dương Tam tiêu
- Kinh Túc Thiếu dương Đởm
- Kinh Túc Quyết âm Can


21

- Các mạch: mạch Đốc, mạch Dương kiểu, mạch Dương duy.

Kinh khí trong cơ thể thông qua kinh lạc liên hệ với đầu. YHCT cho rằng
“đầu là phủ của thần minh”. Kinh khí của ngũ tạng lục phủ đều tụ ở đầu.
Có thuyết nói “đầu người ta là nơi tụ họp của các kinh dương; mạch đốc
thống quản các kinh dương và mạch nhâm chịu trách nhiệm về các kinh âm. Cả
hai đều đi qua bộ phận đầu và mặt. Từ góc độ tuần hoàn kinh lạc 6 kinh dương và
kinh túc quyết âm đều lên đầu, 5 kinh âm khác đều thông qua lạc mạch liên hệ với
đầu. Mạch Đốc trong kỳ kinh bát mạch đốc thúc dương khí toàn thân cũng chạy
vòng quanh đầu. Do đó, đầu và toàn thân có quan hệ hữu cơ chặt chẽ”.
Thiên “Mạch yếu tinh vi luận” sách Tố Vấn viết: “đầu giả tinh minh chi
phủ” có nghĩa “tinh khí ngũ tạng của lục phủ đều đi lên đầu” nói rõ mối quan
hệ mật thiết giữa đầu và toàn thân.
Còn có thuyết nói “người ta có trí nhớ nhờ vào não” giúp ta thấy cụ thể
phần quan trọng của não đối với hoạt động tinh thần, đối với thất tình (hỷ, nộ,
ưu, tư, bi, khủng, kinh) là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra bệnh
nội thương. Mừng rỡ quá làm thương tổn tâm, giận dữ quá làm thương tổn
can, kinh hãi quá làm thương tổn thận…[34].
Kinh nghiệm thực tế trên lâm sàng đã chứng minh rằng phương pháp
châm đầu điều trị một số bệnh thuộc hệ thần kinh và một số bệnh về nội tạng
thu được kết quả tương đối cao.
1.4.3. Tình hình nghiên cứu về phương pháp Đầu châm trong nước và
trên thế giới
* Quá trình phát triển của Đầu châm
Đầu châm điều trị trúng phong tại vùng kích thích và có tác dụng đặc
biệt, từ lâu đã được nhiều học giả chú ý. Giáo sư Giao ở viện nghiên cứu
Trung y Trung quốc đề xuất kích thích vùng vận động và cảm giác bị tổn
thương có thể điều trị bán thân bất toại và rối loạn cảm giác nửa người. Năm
1979 Viện nghiên cứu Trung y Trung Quốc phát hiện châm các huyệt Bách


22


hội, Chính doanh, Huyền so điều trị bán thân bất toại thu được kết quả tốt.
Năm 1980, Giáo sư Trang nghiên cứu “vùng ưu tiên” đề xuất vùng đặc biệt
“vùng vận động” không chỉ hạn chế ở hồi trước trung tâm đại não. Giáo sư
Lâm đề xuất điều trị bán thân bất toại không chỉ chọn vùng vận động mà nên
đồng thời chọn cả vùng cảm giác. Ông đề xuất không nên xem đại não như một
tập hợp các vùng chức năng riêng biệt mà nên coi là một chỉnh thể các vùng
chức năng có liên hệ chặt chẽ với nhau. Có nghiên cứu cho thấy vùng kích thích
vận động có hình thoi trước là huyệt Thần đình, sau là Bách hội, hai bên là huyệt
Khúc sai. Tháng 6 năm 1984 tại Tôkyo Nhật Bản, nhóm công tác của WHO khu
vực Tây Thái Bình Dương đã thông qua “Tiêu chuẩn hóa huyệt vị Đầu châm” và
từ năm 1989 đã được WHO công bố rộng rãi. Đây là cơ sở để phương pháp Đầu
châm phát triển rộng rãi trên toàn thế giới [37],[38].
* Một số công trình nghiên cứu về Đầu châm trên thế giới
- Bao F, Wang DH, Zhang YX, Wang FQ SunH (2008) tại bệnh viện Đại học
Y Bắc Kinh nghiên cứu so sánh hiệu quả Đầu châm và Đầu châm kết hợp thể
châm trên bệnh nhân nhồi máu não do xơ vữa mạch giai đoạn cấp cho kết quả:
Hiệu quả điều trị bằng Đầu châm kết hợp thể châm tốt hơn thể châm đơn thuần [39]
- Zhou L, Zhang HX và cộng sự (2008) tại Bệnh viện Y học cổ truyền
kết hợp Y học hiện đại ở Vũ Hán Trung Quốc nghiên cứu hiệu quả Đầu châm
trên hàm lượng TNF alpha và IL-Beta não và huyết tương ở chuột gây thiếu
máu cấp chi kết quả giảm hàm lượng TNF alpha, IL-Beta ở não và huyết
tương chuột, làm giảm đáng kể hiện tượng thâm nhiễm tế bào viêm [40].
Trong nước có nghiên cứu của Quan Đông Hoa ( 1992 ) Điều trị phục
hồi di chứng liệt nửa người do tai biến mạch máu não bằng phương pháp
châm đầu và kích thích điện cho kết quả tốt [41].[42].
1.5. TỔNG QUAN BÀI THUỐC “HUYẾT PHỦ TRỤC Ứ THANG”


23


1.5.1. Xuất xứ, cấu tạo bài thuốc
“Huyết phủ trục ứ thang” là bài thuốc cổ phương có nguồn gốc từ
sách “Y lâm cải thác” của Vương Thanh Nhậm – một danh y Trung Quốc
đời nhà Thanh chuyên điều trị chứng huyết ứ [43]. Bài thuốc bao gồm 11 vị:
Đào nhân 10g, Hồng hoa 06g, Xuyên khung 08g, Đương quy 12g, Ngưu tất
10g, Sinh địa 12g, Xích thược 12g, Sài hồ 10g, Chỉ xác 06g, Cát cánh 06g,
Cam thảo 06g. Thuốc được sắc uống ngày một thâng chia 2 lần sáng, chiều.
Toàn bộ phương thuốc có tác dụng hoạt huyết khứ ứ, lý khí chỉ thống,
giải trừ uất kết ở khí phận. Bài thuốc lấy hóa ứ làm chủ đạo, lý khí là bổ
trợ, tức là dùng thuốc hành khí trong nhóm hoạt huyết. Đương quy, Đào
nhân, Hồng hoa hoạt huyết hóa ứ làm chủ dược; Xuyên khung, Xích thược
hoạt huyết, hóa ứ; Sinh địa phối hợp với Đương quy dưỡng huyết hòa âm;
Ngưu tất hoạt huyết thông mạch; Sài hồ, Chỉ xác, Cát cánh sơ thông khí
trệ, giúp thông mạch hoạt lạc; Cam thảo điều hòa các vị thuốc [44].
1.5.2. Thành phần bài thuốc
+ Đào nhân (Semen Persicae)
Bộ phận dùng là nhân hạt sấy khô của cây Đào Prunus persica, họ hoa
hồng (Rosaceae). Vị đắng ngọt, tính bình quy vào hai kinh tâm và can. Thành
phần hóa học chứa hơn 50% là dầu, ngoài ra còn có 3,5% amygdalin ít tinh
dầu, men Emusin. Tác dụng dược lý ức chế ngưng tập tiểu cầu, tăng lưu
lượng máu, làm hạ mỡ máu, bảo vệ tế bào gan, tác dụng chống viêm kháng
khuẩn, giảm đau. Công dụng phá huyết hành ứ, nhuận táo, hoạt trường. Chữa
huyết ứ, huyết bế, chữa ho, thông kinh nguyệt sát trùng. Liều lượng 6 - 12
g/ngày [45].
+ Hồng hoa (Flos Carthami)


24


Bộ phận dùng hoa phơi hay sấy khô của cây Hồng hoa Carthamustinctorius,
họ cóc (Asteraceae). Vị cay ấm, vào hai kinh tâm và can Thành phần hóa học
chứa 0,3 - 0,6% chất Carthamin khi thủy phân sẽ cho glucoza và carthamidin. Tác
dụng dược lý ức chế ngưng tập tiểu cầu, làm tăng hưng phấn nhẹ cơ tim, tăng lưu
lượng mạch vành, làm hạ mỡ máu, tăng miễn dịch, tăng hàm lượng kháng
thể, tăng hoạt động thực bào. Công dụng hoạt huyết thông kinh, hóa ứ chỉ
huyết. Chữa kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh đặc biệt điều trị chứng huyết
ứ. Liều dùng 6 - 12g/ngày [45].
+ Đương quy (Radix Angenicae sinensis)
Bộ phận dùng rễ phơi hay sấy khô của cây Đương quy Angelicae
sinensis họ Hoa tán (Apraceae). Vị ngọt cay, tính ôn, vào ba kinh tâm, can, tỳ
Thành phần hóa học, tinh dầu chiếm 0,2% chủ yếu là N-butylidenphtalit và Nvalerophenon cacboxy acid. Tác dụng dược lý ức chế co tử cung, giãn mạch,
tăng lưu lượng máu cơ tim, nước chiết đương quy có tác dụng ức chế ngưng tập
tiểu cầu, ức chế tổng hợp Thromboxan A2 và tăng tổng hợp PGI2, giảm mỡ
máu. Công dụng bổ huyết, hoạt huyết, nhuận huyết, thông kinh. Trị sưng đau, trừ
phong thấp, kinh bế, nhuận táo, thông tiện. Liều lượng 6 - 16g/ngày [45].
+ Xuyên khung (Rhizoma Ligustici wallichii)
Bộ phận dùng thân rễ phơi hay sấy khô của cây Xuyên khung
Ligusticum wallichii thuộc họ Hoa tán (Apiaceae). Vị cay tính ôn, vào ba kinh
can, đởm, tâm bào Thành phần hóa học, tinh dầu 1 - 2% và nhiều thành phần
hóa học có tác dụng hoạt huyết. Tác dụng dược lý ức chế ngưng tập tiểu cầu,
giãn mạch, giãn cơ trơn, chống loạn nhịp tim, giảm Cholesterol trong huyết
tương chuột, giảm 38% lipid máu. Công dụng hoạt huyết, chỉ thống, hành khí,
khu phong, bổ huyết. Trị sưng đau, trừ phong thấp, kinh bế, trị đau đầu, chóng
mặt, bán thân bất toại, huyết áp cao. Liều dùng 4 -12g/ngày [45].
+ Ngưu tất (Radix Archiranthis bindantae)


25


Bộ phận dùng rễ phơi hay sấy khô của cây Ngưu tất Achyranthes
bidentata thuộc họ Dền (Amaranthaceae). Vị chua đắng, tính bình, vào kinh
can, thận Thành phần hóa học, có Saponin, muối kali. Tác dụng dược lý giảm
cholesterol máu, hạ huyết áp ở mèo và chuột, tác dụng lợi tiểu. Công dụng
phá ứ hành huyết, bổ can thận mạnh ngân cốt, tả hỏa giải độc, lợi niệu. Chữa
viêm khớp, kinh bế, băng huyết, khó đẻ, sót rau. Liều dùng 6 -16 g/ngày [45].
+ Sinh địa (Radix Rehmaniae)
Bộ phận dùng thân rễ phơi hay sấy khô của cây Địa hoàng Rehmannia
glutinosa Libosch, thuộc họ hoa mõm chó (Scrophulariaceae). Vị ngọt đắng,
tính hàn, vào bốn kinh tâm, can, thận, và tiểu trường. Thành phần hóa học có
Mannit, Rheumanin là một glucozit và một ít croten, 15% acid amin. Tác
dụng dược lý hạ đường huyết, Trợ tim, lợi tiểu, chống thiếu máu. Công dụng
thanh nhiệt lương huyết, bổ huyết, sinh tân chỉ khát. Chữa ứ huyết, đái ra
máu, tiêu khát, thông huyết mạch, sốt cao. Liều dùng 6 -16 g/ngày [45].
+ Xích thược (Radix Paeoniae rubra)
Bộ phận dùng rễ phơi hay sấy khô của của cây Thược dược (Paeonia
lactiflora Pall). họ hoàng liên (Ranunculaceae). Vị đắng chua, hàn vào ba kinh
can tỳ và phế. Thành phần hóa học, tinh bột, tanin, nhựa, chất nhầy, chất
đường, sắc tố và acid benzoic. Tác dụng dược lý trừ đờm, chữa ho. Công dụng
hành huyết tán huyết, thanh nhiệt lương huyết. Chữa chảy máu cam, băng
huyết, bạch đới. Liều dùng 6 -12g/ngày [45].
+ Sài hồ (Radix Bupleuri)
Còn gọi là Bắc sài hồ, Sà diệp sài hồ, Trúc diệp sài hồ.
Bộ phận dùng: Rễ phơi khô của cây Sài hồ Buleuri sinense DC thuộc họ
Hoa tán (Apiecerae). Vị đắng, tính hàn, vào kinh can đởm Thành phần hóa
học, các Triterpen saponin: saikosaponin A, B1-4, D, E, F; Saikogenin;
Polyasaccarrid: Bupleuran 2IIb, 2Iic và tinh dầu. Tác dụng dược lý là hạ nhiệt,
an thần, chống viêm, giảm đau, điều hòa miễn dịch, chống loét, ức chế vi



×