Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.39 KB, 69 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU OANH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
Ở TỈNH PHÚ YÊN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU OANH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
Ở TỈNH PHÚ YÊN HIỆN NAY

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số

: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. CHU VĂN TUẤN

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú
Yên hiện nay” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong đề tài
này được thu thập và sử dụng một cách trung thực. Kết quả nghiên cứu được
trình bày trong luận văn này không sao chép của bất cứ luận văn nào và cũng
chưa được trình bày hay công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu nào khác
trước đây.
Đà Nẵng, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Oanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO Ở
PHÚ YÊN HIỆN NAY .............................................................................................. 8
1.1. Một số vấn đề lý luận chung ................................................................................ 8
1.2. Khái quát về tôn giáo và công tác tôn giáo ở Phú Yên ..................................... 13
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở
TỈNH PHÚ YÊN HIỆN NAY ................................................................................. 31
2.1. Vị trí địa lý, tình hình kinh tế, văn hóa – xã hội ảnh hưởng đến thực hiện chính
sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên .................................................................................... 31
2.3. Thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên hiện nay .................. 32
2.4. Đánh giá về công tác thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo . 42
CHƯƠNG 3 . NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở TỈNH PHÚ YÊN ............... 51
3.1. Vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên ... 51

3.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chính sách tôn
giáo trên địa bàn tỉnh Phú Yên ................................................................................. 54
3.3. Một số kiến nghị ................................................................................................ 57
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BCT

Bộ chính trị

BTGCP

Ban tôn giáo Chính Phủ

CT

Chỉ thị

GHPGVN

Giáo hội Phật giáoViệt Nam

HU

Huyện ủy

KL


Kết luận

QLNN

Quản lý nhà nước

TU

Tỉnh ủy

TTHC

Thủ tục hành chính

TW

Trung ương

UBND

Ủy ban nhân dân

UBĐKCG

Ủy ban đoàn kết Công Giáo


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là hiện tượng xã hội tác động hết sức phức tạp và sâu sắc đến mọi

mặt của đời sống nhân loại. trong cuộc sống xã hội hiện nay tôn giáo gắn liền với
đời sống xã hội của người dân đặc biệt là đời sống tâm linh. Chính vì vậy mà một
quốc gia quan tâm đề ra những chính sách đường lối, chủ trương đúng đắn sẽ góp
phần làm cho xã hội đặc biệt là lĩnh vực tôn giáo sẽ ổn định và phát triển một cách
bền vững.
Các tôn giáo ở Việt Nam, ngoài những tôn giáo đã được công nhận về tổ
chức, sinh hoạt tôn giáo ổn định, vẫn còn có những tôn giáo chưa được công nhận
hoạt động và tổ chức.
Đến nay, nhà nước ta đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ chức
thuộc 16 tôn giáo với 26.109.033 tín đồ, chiếm 27% dân số cả nước, 55.710 chức
sắc, 145.721 chức việc, 29.396 cơ sở thờ tự.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, số lượng người theo tôn giáo khá
đông (chỉ tính riêng 6 tôn giáo lớn, số tín đồ đã chiếm khoảng 1/4 dân số). Tín đồ
các tôn giáo tuyệt đại đa số là nhân dân lao động nên có tinh thần yêu nước, có ý
thức gắn bó cùng dân tộc, dễ gần và đi theo cách mạng, nhiều chức sắc đã tích cực
cùng khối đại đoàn kết dân tộc, góp phần đấu tranh giành độc lập tự do của dân tộc,
cũng như trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong từng thời kỳ lịch sử, có lúc, có nơi do nhiều nguyên nhân và
sự tác động nhiều mặt của tình hình thế giới, cũng như chiến lược “diễn biến hoà
bình” của các thế lực thù địch... càng làm cho các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng trở
nên đa dạng và phức tạp hơn, có một số ít tôn giáo đã bị kẻ xấu lôi kéo, kích động
đi ngược lại lợi ích của dân tộc và tổ quốc, cũng như lợi ích của đại đa số tín đồ.
Công tác phổ biến, tuyên truyền nội dung các chính sách về tôn giáo đến đời
sống tâm linh giúp cho nhân dân ổn định về tư tưởng chăm lo làm ăn hướng tới xã
hội ổn định, kinh tế mới phát triển. Từ đó nhân dân và chức sắc tôn giáo cũng an

1


tâm thực hiện đúng trách nhiệm nghĩa vụ và quyền lợi của một công dân Việt Nam.

Tự do tín ngưỡng tôn giáo luôn được Đảng và nhà nước quan tâm tạo điều
kiện hết sức. Vì vậy mà tôn giáo phát triển được đó cũng là chứng minh những
đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước đúng với nguyện vọng của nhân dân.
Chính vì vậy, những giáo lý, giáo điều trong tôn giáo ở Phú Yên luôn gắn liền với
đường lối chủ trương của Đảng. Đó là đường lối đúng đắn mà chúng ta cần phải
phát huy.
Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn đưa ra và thực hiện
được chính sách đúng đắn về tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Như Nghị
quyết 24 (ngày 16/10/1990) của Bộ Chính trị và Nghị định 69 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) về hoạt động tôn giáo... Ngày 18/6/2004 Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi
hành từ ngày 15/11/2004; tiếp theo, ngày 01/3/2005 Chính phủ ban hành Nghị định
số 22 nhằm cụ thể hóa tư tưởng - tinh thần Pháp lệnh, hướng dẫn các ngành, các cấp
thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo trong tình hình hiện nay Đồng
bào và chức sắc tôn giáo phấn khởi tín tưởng vào sự nghiệp đổi mới, vào chế độ
XHCN thực hiện nếp sống “tốt đời đẹp đạo” góp phần củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, công tác tôn giáo giúp các Giáo hội hoạt
động và tiến hành các sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng luật pháp Nhà
nước, ngăn ngừa được kẻ xấu lợi dụng hoạt động tôn giáo để gây rối, gây chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân.
Phú Yên những năm gần đây tôn giáo có sự tiến triển mạnh. Tỉnh ủy, Ủy ban
nhân dân, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội quan tâm chỉ đạo nên
công tác tôn giáo đã đạt được những thành tựu nhất định.
Bên cạnh những thuận lợi và kết quả đạt được, trong quá trình thực hiện còn
có khó khăn như: Hệ thống tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác QLNN về tôn giáo
các cấp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực
hiện các chủ trương, chính sách, quy định của pháp luật chưa kịp thời hoặc thực
hiện chưa nghiêm; nhận thức của một số chức sắc, chức việc về các chủ trương của

2



Đảng, chính sách của Nhà nước liên quan đến tôn giáo chưa đầy đủ, thực hiện chưa
đúng theo quy định.
Xuất phát từ thực tiễn trên tôi lựa chọn đề tài: “Thực hiện chính sách tôn
giáo ở tỉnh Phú Yên hiện nay” làm luận văn cao học, do trình độ lý luận chính trị
còn hạn chế cũng như đứng trước một vấn đề lớn và nhạy cảm của xã hội bản thân
tôi không tránh được những sai sót. Rất mong thầy, cô góp ý, bổ sung để luận văn
của em được hoàn thiện hơn và phù hợp với đất nước ta hội nhập quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều học giả, nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu
ở nhiều khía cạnh khác nhau. Nhiều công trình nghiên cứu về tôn giáo trong đó chỉ
ra được nhiều vấn đề bất cập cũng như những ưu khuyết điểm nhưng mục đích
chính cũng là chỉ ra giá trị to lớn của tôn giáo trong phát triển kinh tế, xã hội nói
riêng và chế độ chính trị nói chung. Ở đây xin nêu ra một số công trình tiêu biểu
theo các hướng nghiên cứu như sau: Tác phẩm “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam 35
Năm Hình Thành Và Phát Triển” (2016), Nhiều tác giả, Nhà xuất bản Hồng Đức.
Mai Thanh Hải (1998), Các tôn giáo trên thế giới và Việt Nam, Nxb.CAND và TS
Nguyễn Thanh Xuân (2005). Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb; GS. Đặng Nghiêm
Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Chính trị;
PGS.TS Hoàng Minh Đô (2007), Dòng tu công giáo ở nước ta hiện nay và những
vấn đề đặt ra cho công tác quản lý nhà nước; Nguyễn Đức Lữ (2005), Những đặc
điểm cơ bản của một số tôn giáo lớn ở Việt Nam; PGS.TS Văn Tất Thu (2016),
Năng lực thực hiện chính sách công những vấn đề lý luận và thực tiễn; Phạm Ngọc
Quang, Nguyễn Đức Lữ, Hoàng Minh Đô, Ngô Hữu Thảo, Phạm Văn Dần (đồng
chủ biên), Lý luận về Tôn giáo và Chính sách Tôn giáo ở Việt Nam, tái bản năm
2011; Một số tôn giáo ở Việt Nam (Nhà xuất bản Tôn giáo – Ban tôn giáo Chính
phủ); Nguyễn Hồng Dương (chủ biên, 2014), Tiếp tục đổi mới chính sách về tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay-Những vấn đề lý luận cơ bản, Nxb Văn hoá-Thông tin và
Viện Văn hoá, Hà Nội; Đỗ Quang Hưng (2014), Nhà nước, tôn giáo, pháp luật, Nxb

Lý luận chính trị; Học viện Chính trị Quốc gia HCM, Chính sách, pháp luật về tôn

3


giáo, tín ngưỡng của Việt Nam: 25 năm nhìn lại, Nxb Lý luận chính trị; Nguyễn
Thanh Xuân (chủ biên, 2015), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb
Tôn giáo, v.v...
Những giai đoạn khác nhau của đất nước sẽ có ý nghĩa khác nhau về tôn giáo
vì vậy mà những công trình nghiên cứu góp phần tích cực giúp Đảng và nhà nước ta
có những chính sách và đường lối chủ trương đúng với thực tiễn. Trong công trình
Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam của Nguyễn Thanh Xuân, các tác giả
đã đề cập đến những vấn đề như đời sống tôn giáo Việt Nam, nhất là trong thời kỳ
đổi mới, đường hướng hoạt động của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; luật pháp
quốc tế về tôn giáo; quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với
tôn giáo... Công trình giúp cho luận văn tham khảo bức tranh tổng quát về đời sống
tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam.
Công trình Chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam: 25
năm nhìn lại của Học viện Chính trị Quốc gia HCM là cuốn kỷ yếu hội thảo với gần
40 bài viết của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý đề cập đến quan điểm, đường
lối, chính sách, pháp luật tôn giáo của Đảng, Nhà nước, nhất là chính sách, pháp
luật được đề cập trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Công trình này
không chỉ cho tác giả luận văn có được cái nhìn về quá trình xây dựng chính sách,
pháp luật về tôn giáo trong 25 năm qua, đồng thời còn giúp tác giả luận văn nhìn
nhận những chính sách tôn giáo cụ thể như chính sách đối với xây dựng công trình
tôn giáo, chính sách công nhận tổ chức tôn giáo, chính sách tôn giáo trong lĩnh vực
từ thiện, an sinh xã hội, v.v..
Công trình nghiên cứu “Địa Chí Phú Yên” (2003) và “Lịch Sử Phú Yên thế kỉ
17 đến 19” (2009). Các tác phẩm trên đã làm rõ lịch sử hình thành và phát triển
vùng đất xứ Nẫu, từ vị trí địa lý thiên nhiên, khoáng sản…và văn hóa đời sống con

người qua các thời đại quá khứ, hiện tại… các di tích lịch sử văn hóa, anh hùng dân
tộc, cách mạng, tôn giáo của tỉnh Phú Yên .
Công trình Nhà nước, tôn giáo, pháp luật của Đỗ Quang Hưng là một tài liệu
tham khảo quý giá. Công trình gồm có các phần: 1. Quan hệ Nhà nước và giáo hội;
2. Tôn giáo; 3. Luật pháp và tôn giáo. Nội dung có ý nghĩa mà luận văn có thể tham

4


khảo từ công trình này không hẳn là nội dung về đời sống tôn giáo, về mối quan hệ
giữa nhà nước với tôn giáo ở Việt Nam hiện nay mà chính là ở chỗ tác giả công
trình đã đưa ra cách tiếp cận hướng đến một chính sách công về tôn giáo.
Có thể nói, những công trình lý luận chung về tôn giáo, đời sống tôn giáo ở
Việt Nam, chính sách, pháp luật tôn giáo ở Việt Nam có rất nhiều. Tuy nhiên vấn đề
tôn giáo ở tỉnh Phú Yên chưa nghiên cứu một cách toàn diện về quá trình tổ chức
thực hiện các chính sách tôn giáo trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay. Đề tài
đóng góp những thành quả của các công trình trên vào thực trạng thực hiện chính
sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu việc thực hiện chính sách tôn giáo ở Phú Yên hiện
nay, chỉ rõ những thành tựu cũng như những hạn chế của công tác này, luận văn đề
xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả việc thực
hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách tôn giáo.
- Nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn tỉnh Phú
Yên thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp chính nhằm hoàn thiện nâng cao, tăng
cường hiệu quả công tác thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu quá trình thực hiện chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện
chính sách tôn giáo ở Phú Yên, nhất là những thành tựu, hạn chế của công tác này.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2013 cho đến nay
- Phạm vi không gian: Địa bàn tỉnh Phú Yên.

5


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương tiếp cận:
Luận văn tiếp cận nghiên cứu từ góc độ chuyên ngành chính sách công, tiếp
cận quy trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính
sách có sự tham gia của chủ thể chính sách.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được các yêu cầu đặt ra đối với luận văn, việc nghiên cứu đề tài
được tiến hành dựa trên một số phương pháp cơ bản như: phương pháp phân tích,
tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp, v.v…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Kết quả nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về công tác tôn giáo từ
góc độ chính sách công trên địa bàn tỉnh Phú Yên. Những kết quả của luận văn góp
phần nâng cao nhận thức, hiểu biết về công tác quản lý nhà nước về tôn giáo từ góc
độ chính sách công, qua đó, qua đó góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý
luận về thực hiện chính sách công nói chung, thực hiện chính sách tôn giáo ở nước
ta nói riêng từ thực tiễn của một tỉnh.
Ngoài ra, luận văn cũng góp phần bổ sung những nghiên cứu về các tôn giáo

ở Phú Yên hiện nay, đây là một mảng vẫn còn rất ít các công trình đề cập.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Trên cơ sở kết luận, kết quả rút ra từ nghiên cứu của đề tài luận văn góp phần
hoàn thiện công tác tôn giáo nói chung, công tác quản lý nhà nước về tôn giáo nói
riêng trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập, giảng dạy
về tôn giáo ở Phú Yên, công tác quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn tỉnh Phú
Yên.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:

6


Chương 1: Khái quát về tôn giáo và công tác tôn giáo ở Phú Yên hiện nay
Chương 2: Thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên hiện nay: Thực
trạng và những vấn đề đặt ra
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
tôn giáo ở tỉnh Phú Yên.

7


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO
Ở PHÚ YÊN HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận chung
1.1.1. Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo (religion trong tiếng anh),có nghĩa là sự tồn tại của một quyền lực

bên ngoài mà con người phải tuân theo; cảm giác mộ đạo và tuân theo quyền lực đó.
Theo tiếng Hy Lạp thì tôn giáo là regere – ràng buộc hay mối liên hệ giữa con
người và thần linh. Thuật ngữ religion lần đầu tiên được Thiên chúa giáo sử dụng
ngoài ý nghĩa như trên còn có nghĩa là ý thức về một cộng đồng được tổ chức. Các
tôn giáo cụ thể có khoảng trên dưới năm nghìn tôn giáo đã và đang tồn tại trong lịch
sử, hiện nay có khoảng 250 định nghĩa về tôn giáo. Theo thời gian thuật ngữ này
càng được mở rộng về nội hàm và mức độ phổ biến, tùy từng tôn giáo, cách tiếp cận
và ở từng nước mà nó được hiểu theo những nghĩa khác nhau.
Trong từ điển tiếng việt: “Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội hình thành
nhờ vào lòng tin và sùng bái thượng đế, thần linh” [35, tr.239], “Tín ngưỡng là niềm
tin của con người vào những điều thiêng liêng, huyền bí vượt khỏi giới tự nhiên.
Còn tôn giáo được hiểu là tín ngưỡng của những người cùng chung một tổ chức có
hệ thống giáo lý, giáo luật và lễ nghi” [35, tr.8]. Trong tác phẩm góp phần phê phán
triết học pháp quyền của Hêghen phần Lời nói đầu C.Mác viết: “Sự nghèo nàn của
tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống
lại sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”[5, tr 570].
Trong Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo có định nghĩa: “Cộng đồng người cùng
chung một tín ngưỡng, có hệ thống giáo lý, giáo luật, giáo lễ và tổ chức ổn định”
[23, tr1].
Như vậy khi nói đến tôn giáo nước ra vẫn hiểu theo định nghĩa: Tôn giáo là
một cộng đồng người có chung niềm tin vào các thế lực siêu nhiên huyền bí, có hệ
thống giáo lý, giáo luật, giáo lễ và có tổ chức.

8


Những quan điểm về tín ngưỡng, tôn giáo của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư
tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã vận dụng sáng tạo trong điều
kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam. Bên cạnh đó đã phát huy được vai trò của đồng bào
có tín ngưỡng, tôn giáo góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc

xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay việc nghiên cứu về bản chất tôn giáo mang
tính đa chiều: Chẳng hạn cách tiếp cận thế tục hay cách tiếp cận bên trong, đã tìm ra
những kiến giải mới về tôn giáo “Sẽ là một sai lầm nếu phủ định hoặc xem nhẹ mặt
tích cực của tôn giáo trong việc xây dựng một đạo đức xã hội tương xứng với một
xã hội văn minh và phát triển” [4, tr.45].
1.1.2. Khái niệm chính sách tôn giáo, thực hiện chính sách tôn giáo
Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan nhằm lựa chọn
mục tiêu và giải pháp và công cụ chính sách để giải quyết vấn đề chính sách theo
mục tiêu tổng thể đã xác định của đảng chính trị cầm quyền [16, tr.12].
Chính sách tôn giáo là một chính sách xã hội. Chính sách tôn giáo là quá
trình dùng quyền lực nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp) của các cơ quan
nhà nước theo quy định của pháp luật để tác động điều chỉnh, hướng dẫn các quá
trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra
phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý. Mặt khác,
chính sách tôn giáo còn là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và Ủy ban nhân dân các
cấp) để điều chỉnh tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân
tôn giáo diễn ra theo quy định của pháp luật.
Thực hiện chính sách “là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể
chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định
và hiện thực hóa các chính sách để đưa chính sách vào cuộc sống” [34, tr. 1-12].
1.1.3. Vai trò và tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách tôn giáo
Thực hiện chính sách là một khâu quan trọng cấu thành quá trình thực hiện
chính sách, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện
thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định. Thực hiện chính sách

9


nói chung, chính sách tôn giáo nói riêng là khâu, là bước đặc biệt quan trọng trong

chu trình chính sách, có nhiệm vụ hiện thực hóa chính sách, đưa chính sách vào
cuộc sống. Tổ chức thực thi chính sách là trung tâm kết nối các khâu, các bước
trong quá trình thực hiện chính sách thành một hệ thống. Việc hoạch định chính
sách đúng, có chất lượng hay không rất quan trọng, nhưng việc thực hiện đúng
chính sách còn quan trọng hơn. Có chính sách đúng nhưng nếu không được thực
hiện thì nó cũng sẽ trở thành vô nghĩa, không những không mang lại giá trị mà còn
ảnh hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách đó chính là
nhà nước. Nếu chính sách không được thực hiện đúng, đặc biệt là những chính sách
nhạy cảm như chính sách tôn giáo, sẽ dẫn đến sự thiếu tin tưởng, thậm ch là chống
đối của người dân đối với nhà nước. Nguy hiểm hơn khi các thế lực thù địch sẽ lợi
dụng điều này mà xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà nước ta. Thậm chí chúng còn kích
động đồng bào có đạo chống phá nhà nước ta. Điều này rất bất lợi về mặt chính trị
và xã hội, gây những khó khăn, bất ổn cho nhà nước trong công tác quản lý. Hơn
nữa nó cũng sẽ, gây bất lợi, mất uy tín ảnh hưởng xấu đến hình ảnh đất nước trong
con mắt bạn bè quốc tế.
Chỉ có đi sâu, đi sát vào trong quá trình thực hiện chính sách từ đó mới xây
dựng được chính sách phù hợp, đúng với thực tế, phù hợp với nguyện vọng, mong
ước của tín đồ cũng như sự hòa hợp giữa tôn giáo và chính sách đúng với đường lối
cảu Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Trong quá trình xây dựng và thực
hiện chính sách sẽ phát sinh những chính sách chưa mà các nhà hoạch định chưa
nghĩ tới, đến giai đoạn tổ chức thực hiện mới phát hiện ra. Chính vì vậy, mà khi
thực hiện chính sách, đặc biệt là chính sách tôn giáo với những hoạt động thực tiễn
sẽ góp phần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách sao cho phù hợp với thực
tiễn, đáp ứng yêu cầu quản lý cũng như khuyến khích phát huy những mặt tích cực
của hoạt động Tôn giáo tín ngưỡng. Từ lý thuyết đến thực tiễn, kết quả thực hiện
chính sách là thước đo, là cơ sở đánh giá một cách chính xác và khách quann chất
lượng và hiệu quả của chính sách. Việc đưa chính sách nói chung, chính sách tôn
giáo nói riêng vào thực tiễn cuộc sống là một quá trình phức tạp đầy biến động, luôn

10



chịu tác động của các yếu tố thúc đẩy hoặc cản trở, chính những yếu tố này giúp
cho chủ thể hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách rút ra những kinh nghiệm
để đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách.
1.2. Khái quát chung về chính sách tôn giáo ở Việt Nam
Ngay từ buổi đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 234/SL
ngày 14/06/1955 xác định rõ “Chính phủ đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do
thờ cúng của nhân dân” [28, tr.1]. Điều đó thể hiện thực tế, quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo được xác lập ngay từ khi nhà nước ta được thành lập. Tuy nhiên, do trình độ
nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của tôn giáo mỗi thời kỳ mỗi khác, nên trong
giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, chính quyền các địa phương đã phá bỏ nhiều
cơsở thờ tự, điểm sinh hoạt tôn giáo, ngăn cấm hoạt động tự do tín ngưỡng, hoạt
động tôn giáo chính đáng của nhân dân làm cho vấn đề tôn giáo trở nên phức tạp.
Đến năm 1986 trước yêu cầu phải đổi mới toàn diện mọi mặt của đời sống
xã hội, đổi mới quan điểm, chủ trương, tư duy, nhận thức, đối với chính sách tôn
giáo cũng là một nội dung quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước
ta. Năm 1990, Đảng, Nhà nước ta mới có những đổi mới trong chính sách đối với
tôn giáo, khởi đầu là Nghị quyết số 24/NQ-TW, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị
Ban chấp hành Trung ương Đảng “Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình
mới” và sau đó là Nghị định số 69/HĐB ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng
(nay là chính phủ), đây là dấu mốc quan trọng thể hiện sự đổi mới của Đảng, Nhà
nước ta đối với công tác tôn giáo.
Sau 13 năm thực hiện chính sách đổi mới đối với tôn giáo, xem xét những
vấn đề mới nảy sinh, đặt trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều biến động,
thay đổi, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số
25/NQ-TW ngày 12/3/2003 “Về công tác tôn giáo”. Nghị quyết số 25 là sự phát
triển và hoàn chỉnh Nghị quyết số 24/NQ-TW của Bộ Chính trị và trở thành quan
điểm chính thức về đổi mới đối với công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Cùng với việc khẳng định trong Hiến pháp, Chính phủ đã ban hành Nghị

định số 69/NĐ-CP, ngày 21/3/1991 Về các hoạt động tôn giáo, sau đó là Nghị định

11


số 26/NĐ-CP, ngày 19/4/1999 Về các hoạt động tôn giáo để cụ thể hóa các hoạt
động tôn giáo theo pháp luật. Đặc biệt, sau khi Ban chấp hành Trung ương Đảng ra
nghị quyết số 25/NQ-TW, Quốc hội khóa 11 đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng,
tôn giáo (số 21/2004/PL-UBTVQH 11) quy định về các hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo. Chính phủ lần lượt ban hành các nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày
01/03/2005 Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo và
Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 quy định chi tiết và biện pháp thi
hành pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
Bên cạnh chính sách tôn giáo, nhà nước còn ban hành nhiều chính sách
tương ứng khác nhằm phát huy các giá trị tốt đẹp và khả năng đóng góp của các tôn
giáo đối với xã hội như: Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 1940/CT-Ttg
ngày 31/12/2008 về nhà đất liên quan đến tôn giáo, nhằm kịp thời giải quyết những
vấn đề nhà, đất liên quan đến tôn giáo; Chính sách về phát triển đảng viên trong
vùng đồng bào có đạo, khuyến khích các chức sắc tôn giáo tham gia vào các cơ
quan dân cử ở Trung ương và địa phương (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp);
Chính sách xã hội hóa về Y tế: Các tôn giáo mở phòng khám, nhà thuốc, theo quy
định của pháp luật; Chính sách từ thiện nhân đạo: Hiện nay các tôn giáo được nhà
nước khuyến khích tham gia các hoạt động từ thiện nhân đạo như: nuôi dưỡng trẻ
em mồ côi, quyên góp ủng hộ đồng bào bị thiên tai…
Sau 25 năm ( từ năm 1990 đến 2015) Đảng, Nhà nước ban hành và thực thi
các chính sách tôn giáo đã từng bước củng cố niềm tin của chức sắc và tín đồ các
tôn giáo với Đảng, Nhà nước; các tôn giáo yên tâm thực hiện tốt “Việc đạo, việc 30
đời” chọn cho mình phương châm hành đạo gắn bó đồng hành cùng dân tộc là
hướng đi phù hợp với tiến trình của đất nước.
Tuy nhiên, hoạt động tôn giáo có nhiều diễn biến phức tạp, là lực lượng mà

các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước,
nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, chia rẽ khối
đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Bên cạnh đó, một số chức sắc tôn giáo chưa
hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm trước tín đồ và xã hội, bị các đối tượng xấu lôi kéo,

12


lợi dụng, kích động, xúi giục khiếu kiện, cho rằng chính sách pháp luật về tôn giáo
thiếu nhất quán, tạo so bì giữa các tôn giáo ở Việt Nam, gây ra những hệ lụy và
phức tạp khó giải quyết. Điều này đang đặt ra những vấn đề cấp thiết cho các cơ
quan nghiên cứu đánh giá lại những thành tựu và bất cập của chính sách để có điều
chinh phù hợp.
1.3. Khái quát về tôn giáo và công tác tôn giáo ở Phú Yên
Phú Yên là tỉnh thuộc khu vực duyên hải Nam Trung bộ, có diện tích tự
nhiên 5.060km2 với dân số vào khaonrg 930.000 người. Toàn tỉnh có 7 huyện, 1thị
xã và 1 thành phố. Hiện nay, Phú Yên có 5 tôn giáo chính gồm: Phật giáo, Công
giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hòa Hảo và một số tôn giáo khác như: Phật
đường Nam tông Minh sư đạo… Tổng số tín đồ các tôn giáo là 264.500 người (xem
bảng dưới).
Bảng 1.1. Các tôn giáo của tỉnh Phú Yên hiện nay
STT

Tín đồ (người )

Tôn giáo

1

Phật giáo


238.000

2

Công giáo

18.000

3

Tin lành

4.346

4

Cao đài

2.859

5

Phật Hòa Hảo

6

Các tôn giáo khác

150

98

Tổng cộng

264.500

13


Hình 1.1: Biểu đồ các tôn giáo của Phú Yên

Qua bảng 1.1 và biểu đồ 1.1 có thể thấy hiện nay trên địa bàn tỉnh Phú Yên
có 05 tôn giáo chính gồm: Công giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hòa Hảo, với
tổng số tín đồ các tôn giáo khoảng 264.500 người, chiếm trên 28% dân số toàn tỉnh,
trong đó: Phật giáo khoảng 238.000 người (có trên 40.000 tín đồ có chứng nhận quy
y tam bảo) 261 chức sắc, 176 chức việc và 258 cơ sở thờ tự; Công giáo khoảng
18.000 người, 24 chức sắc, 112 chức việc và 25 cơ sở thờ tự; Tin lành khoảng 4.346
người, 26 chức sắc, 55 chức việc và 09 cơ sở thờ tự; Cao đài có 04 hệ phái (Cao đài
Tây Ninh, Cao đài Chơn Lý, Cao đài Cầu Kho-Tam Quan, Truyền giáo Cao đài) với
2.859 tín đồ, 46 chức sắc, 19 cơ sở thờ tự (trong đó 03 cơ sở chưa quy nguyên về
Hội thánh); Phật giáo Hòa Hảo có 150 tín đồ, 07 chức việc, 01 cơ sở thờ tự. Ngoài
ra, còn có Phật đường Nam tông Minh Sư đạo, chủ yếu sinh hoạt tại nhà riêng. Cụ
thể là Phật đường Nam tông Minh sư đạo: Điểm nhóm ở thôn Phú Thọ, xã Hòa
Hiệp Trung, huyện Đông Hòa do bà Nguyễn Thị Mỳ, sinh năm 1959 làm trưởng
điểm nhóm có khoảng 98 tín đồ, đã được UBND xã Hòa Hiệp Trung cấp giấy
chứng nhận đăng ký sinh hoạt tôn giáo; hàng năm có đăng ký chương trình sinh
hoạt điểm nhóm với UBND xã.
1.3.1. Phật giáo

14



Sự hình thành và phát triển của Phật giáo ở Phú Yên
Với lịch sử hàng nghìn năm, Phật giáo đã trải qua rất nhiều thăng trầm cùng
với sự thăng trầm của lịch sử nước nhà nhưng Phật giáo luôn khẳng định tôn chỉ và
lập trường là đồng hành cùng dân tộc. Phật giáo ra đời vào khoảng thế kỉ VI trước
công nguyên do Đức Thích Ca Mâu Ni sáng lập ở vùng Đông Bắc Ấn Độ và nhanh
chóng sau đó trở thành một trong những tôn giáo lớn của Ấn Độ. Trong những năm
đầu công nguyên, đạo Phật đã bắt đầu du nhập vào Việt Nam bằng nhiều con đường
khác nhau.
Vào thời Hán, vùng đất Phú Yên thuộc về quận Nhật Nam. Đến năm 192,
Khu Liên lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành được độc lập và thành lập nước Lâm Ấp.
Từ thế kỉ II đến cuối thế kỉ VIII, Phú Yên là vùng đất phía Nam của Lâm Ấp, cuối
thế kỉ VIII Lâm Ấp đổi quốc hiệu là Hoàn Vương, thế kỉ IX đổi là Chiêm Thành và
đến năm 875 có tên là Chămpa. Theo Nguyễn Đình Tư trong sách Non nước Phú
Yên thì Bình Định và Phú Yên thuộc châu Vijaya, trong đó Phú Yên là phần đất cực
Nam của châu Vijaya.
Vào khoảng nửa thế kỉ I sau công nguyên Phật giáo du nhập vào Chămpa và
vùng đất Phú Yên. Đến thời kì vua Indravarman II (cuối thế kỉ IX – đầu thế kỉ X),
Chămpa dời đô ra Indrapura (thành Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam
ngày nay). Đây được xem là thời kì phát triển hưng thịnh của Chămpa và cực thịnh
của Phật giáo Đại thừa. Tại Phú Yên, nhiều dấu tích Phật giáo cũng được phát hiện
như di tích Hồ Sơn (thành phố Tuy Hòa), di tích Núi Bà (thuộc thôn Mỹ Thạnh
Đông, xã Hòa Phong, huyện Tây Hòa), di tích ở địa bàn thôn Hòa Sơn, xã Hòa Kiến
(TP Tuy Hòa),... Hầu hết các hiện vật Phật giáo được tìm thấy ở Phú Yên đều có
niên đại trước thế kỉ X – XI. Với những phát hiện trên, tuy ít ỏi nhưng TS.Lê Đình
Phụng, viện khảo cổ học cho rằng Phú Yên “có khả năng là một trung tâm Phật giáo
lớn của cư dân Chăm trong lịch sử”. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, lịch sử Chămpa có
nhiều biến động lớn, Phật giáo ở Phú Yên suy yếu, bắt đầu chuyền dần sang thời kì
thống trị của Bà-la-môn.

Cùng với quá trình mở cõi về phía Nam, các chúa Nguyễn đã sự ủng hộ đạo

15


Phật để tạo dựng công đức và uy thế cho dòng họ, thu hút nhân dân về phía mình.
Người Việt đi đến đâu, chùa Phật mọc lên đến đó. Với chủ trương đó, các chúa
Nguyễn đã rất trọng dụng và tôn sùng các nhà sư ở Đàng Ngoài, thiền sư Trung
Quốc, mời họ đến Đàng Trong để hoằng pháp. “Tại Phú Yên, người truyền Phật
giáo vào trước tiên là Hòa thượng Tế Viên thuộc thiền phái Lâm Tế. Ngôi chùa đầu
tiên ở Phú Yên được xây dựng vào giữa thế kỉ XVII là chùa Hội Tôn do Hòa thượng
Tế Viên khai sáng và trụ trì.” [21, tr 230]. Địa điểm chùa Hội Tôn ngày nay thuộc
thôn Hội Tín, xã An Thạch, huyện Tuy An.
Như vậy, suốt thế kỉ XVII – XVIII và kéo dài đến hết thế kỉ XIX, Phật giáo ở
Phú Yên có sự đan xen nhiều tông phái. Tuy vậy, hầu hết các chùa ở Phú Yên đều
theo thiền phái Lâm Tế và phân thành 2 dòng kệ: Lâm Tế Liễu Quán và Lâm Tế
Chúc Thánh.
Từ năm 1802, nhà Nguyễn được thành lập. Nhà Nguyễn chủ trương tổ chức
bộ máy cai trị dựa vào Nho giáo. Chính vì thế, các vua nhà Nguyễn đã thi hành
nhiều chính sách hạn chế Phật giáo. Tuy vậy, nhiều chùa ở Phú Yên vẫn ðýợc thành
lập nhý chùa Minh Sõn (thôn Minh Ðức, Hòa Kiến, thành phố Tuy Hòa), chùa Bảo
Sơn (thông Phong Thăng, An Định, Tuy An), Long Quang (thôn Long Phước, thị xã
Sông Cầu)...; nhiều danh tăng được triều Nguyễn mời ra Huế để tham dự các buổi
trai đàn ở chùa Thiên Mụ như Hòa thượng Trí Giác chùa Kim Cang, Hòa thượng
Sơn Nhân Tánh Thông Giác Ngộ trụ trì chùa Long Sơn Bát nhã, ... và cũng có nhiều
chùa được ban Sắc tứ như chùa Phước Sơn (thôn Đông Hòa, thị trấn Củng Sơn),
chùa Vĩnh Long (thôn Mỹ Phú, xã An Hiệp, Tuy An), chùa Kim Long (phường 1,
thành phố Tuy Hòa), ...
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chính quyền thực dân
đều tìm mọi cách hạn chế Phật giáo, kì thị tôn giáo, cấm mở trai đàn, .... Đặc biệt

thời Ngô Đình Diệm, ở Phú Yên, nhiều vụ bắt bớ tín đồ Phật giáo diễn ra. “Có
trường hợp, tín đồ Phật giáo bị thủ tiêu chôn sống như trường hợp các ông Nguyễn
Chuyển, Đỗ Thìn ở thôn Mậu Lâm, xã Hòa Quang, quận Tuy Hòa.”[20, tr 47].
Với lịch sử hàng nghìn năm, Phật giáo đã trải qua rất nhiều thăng trầm cùng

16


với sự thăng trầm của lịch sử nước nhà nhưng Phật giáo luôn khẳng định tôn chỉ và
lập trường là đồng hành cùng dân tộc, trở thành một bộ phận không thể thiếu trong
đời sống tinh thần của người dân Việt Nam nói chung và tỉnh Phú Yên nói riêng.
Phật giáo tiếp tục cùng với nhân dân toàn tỉnh đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lương – giáo đoàn kết để khắc
phục khó khăn, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong thời kì mới.
Về hoạt động của Phật giáo
Trong những năm vừa qua, Phật giáo Phú Yên đã tổ chức kiện toàn Ban Trị
sự GHPGVN tỉnh theo Hiến chương và quy chế hoạt động của Trung ương
GHPGVN; họp định kỳ hàng tháng tại văn phòng Ban Trị sự nhằm cập nhật tình
hình sinh hoạt Phật sự của Tăng Ni tại các tự viện trong tỉnh đồng thời triển khai
các văn kiện Phật giáo do Trung ương chỉ đạo cũng như phổ biến các thông tin
hướng dẫn của chính quyền; thực hiện việc bổ nhiệm 27 vị trụ trì cho 27 cơ sở tự
viện trong toàn tỉnh để ổn định sinh hoạt tu học theo nhu cầu của đồng bào phật tử
tại địa phương; Tổ chức thống kê cơ sở tự viện, số lượng tăng ni và cho xuất bản
quyển "Danh mục Tự viện, Tịnh thất, Tịnh xá, Niệm phật đường và danh bạ tăng ni
Phú Yên" "Tập kỷ yếu kỷ niệm 20 năm thành lập Trường Trung cấp Phật học Liễu
Quán Phú Yên"; thống kê về lịch sử các tự viện được hình thành trên 100 năm để
xin xét cấp bằng di tích lịch sử cấp tỉnh và cấp quốc gia, thuận tiện trong hoạt động
phật sự. Hiện có chùa Từ Quang (Đá Trắng) thuộc huyện Tuy An được cấp bằng di
tích lịch sử cấp quốc gia; chùa Cổ lâm Hội tôn, xã An Thạch, huyện Tuy An nơi
xuất gia tu học của Tổ sư Liễu Quán; chùa Khánh Sơn, thành phố Tuy Hòa và chùa

Long Tường, huyện Tây Hòa được cấp bằng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Ban Tăng sự đã truyền giới cho 1570 tín đồ thọ tam quy ngũ giới; tổ chức
Đại giới đàn Liễu Quán V-PL 2558, DL-2015 cho 130 giới tử xuất gia và 469 giới
tử tại gia; trình tấn phong giáo phẩm lên bậc Hòa thượng: 06 vị, Thượng tọa: 02 vị,
ni Trưởng: 04 vị, ni Sư: 04 vị; Trường Trung cấp Phật học Liễu Quán tổ chức lễ bế
giảng tốt nghiệp khóa IV cho 21 tăng ni sinh và khai giảng khóa V cho 32 tăng ni
sinh theo học; hiện có khoảng 20 tăng ni sinh đang theo học chương trình cử nhân

17


Phật học tại các Học viện Phật giáo ở TP HCM và TP Huế và có khoảng 30 tăng ni
sinh đang theo học các lớp Cao đẳng Phật học, Trung cấp Phật học ngoài tỉnh.
Hàng năm vào mùa An cư Kiết hạ Ban Trị sự tổ chức cho tăng ni kiết giới bố
tát vào ngày 15 và 30 ÂL hàng tháng tại Tổ đình Bảo Tịnh, mỗi khóa có hơn 250
tăng ni trong tỉnh về dự; đồng thời tổ chức khóa tu học Liễu Quán và ngày 19, 20,
21 tháng 11 ÂL để tăng ni và phật tử toàn tỉnh về tu học phật pháp, học về các hiến
chương, điều lệ của Giáo hội, các văn bản quy định của nhà nước, giúp tăng ni hiểu
rõ và áp dụng trong sinh hoạt tu học đúng với chủ trương của Giáo hội và quy định
pháp luật nhà nước.
Công tác từ thiện xã hội là một trong những hoạt động nổi bật có những đóng
góp tích cực cụ thể góp phần an sinh xã hội với tinh thần từ bi của đạo Phật, cũng
như tinh thần "uống nước nhớ nguồn", "lá lành đùm lá rách" của đạo lý dân tộc Việt
Nam, nhằm chia sẻ những nổi khổ trong cuộc sống; nhân dịp các ngày lễ như: Tết
Nguyên đán, lễ Phật đản, lễ Vu lan...Ban Trị sự tỉnh, huyện vận động các nhà hảo
tâm trong và ngoài tỉnh giúp các đồng bào nghèo, người già neo đơn, trẻ em khuyết
tật... những phần quà có giá trị về vật chất lẫn tinh thần với tổng kinh phí gần 15 tỷ
đồng.
1.3.2. Công Giáo
Sự hình thành và phát triển Công giáo Phú Yên

Công giáo truyền vào Việt Nam từ năm 1533, trải qua gần 500 năm tồn tại và
phát triển, đến nay đã trở thành một trong số các tôn giáo lớn ở Việt Nam, với 26 giáo
phận thuộc 3 giáo tỉnh là: giáo tỉnh Hà Nội, giáo tỉnh Huế và giáo tỉnh TP Hồ Chí
Minh. Công giáo Việt Nam hiện có hơn 3.000 giáo xứ, 46 giám mục, hơn 5.000 linh
mục, 200 dòng tu, hội tu, tu đoàn với hơn 31.000 nam nữ tu sĩ và trên 7 triệu tín đồ.
Công giáo được truyền bá đến địa bàn Phú Yên từ giữa thế kỷ 17, khởi đầu
cho phong trào truyền giáo đến Phú Yên là những giáo sỹ người Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha. Trải qua các biến cố lịch sử của đất nước, qua quá trình phát triển đến nay
ở Phú Yên hiện có 01 Giáo hạt Công giáo trực thuộc giáo phận Quy Nhơn, với 13
giáo xứ, 01 đền “Á Thánh Anrê Phú Yên”, 20 Linh mục (02 linh mục trên 60 tuổi;

18


14 linh mục từ 40 đến 60 tuổi; 04 linh mục dưới 40 tuổi), 10 chủng sinh, 30 nữ tu
thuộc dòng PhaoLô và Mến Thánh giá Quy Nhơn và trên 200 chức việc, với khoảng
18.000 giáo dân.
Về hoạt động của Công giáo
Trong thời gian qua, phong trào thi đua yêu nước trong đồng bào Công giáo
và hoạt động của UBĐKCG Việt Nam tỉnh Phú Yên tiếp tục duy trì và phát triển cả
bề rộng và chiều sâu. Xuất hiện ngày càng nhiều tấm gương điển hình, tiên tiến,
xuất sắc trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xóa đó giảm nghèo, đẩy mạnh
các hoạt động từ thiện, bác ái, nhân đạo, chấp hành tốt các chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước, đời sống tinh thần và vật chất của đồng bào Công
giáo được cải thiện, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội, giữ vững ổn định chính trị,
xã hội, bộ mặt của xứ, họ đạo ngày càng khang trang, xanh, sạch đẹp.
Thời gian qua, UBĐKCG Việt Nam tỉnh Phú Yên đã có nhiều cố gắng, năng
động và sáng tạo trong tổ chức, các hoạt động thi đua yêu nước, nhất là việc triển
khai phong trào thi đua “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh” sống “Tốt đời đẹp đạo” cụ thể thành 10 nội dung thi đua, đem lại nhiều kết

quả đáng kể trên các lĩnh vực của đời sống.
Công tác bác ái, xã hội là điểm sáng trong phong trào thi đua yêu nước của
người Công giáo tỉnh, các linh mục, tu sĩ, giáo dân còn tự động quyên góp giúp đỡ
những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, những người kém may mắn nhất là tham gia
xây dựng nhà “Đại đoàn kết”, xây dựng quỹ khuyến học, khuyến tài. Trong phong
trào xây dựng nông thôn mới được đồng bào Công giáo tỉnh hưởng ứng và tham gia
tích cực, tiêu biểu các giáo xứ: Chợ Mới, Sông Cầu, giáo họ Đồng Cháy…Ngoài ra,
các hoạt động của Công giáo diễn ra bình thường theo chương trình đăng ký hàng
năm, sinh hoạt ngoài chương trình đăng ký đều xin phép và được sự chấp thuận của
cấp có thẩm quyền. Các hoạt động phong phẩm, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc,
xây dựng công trình tôn giáo thực hiện đúng Hiến chương của Giáo hội và quy
định pháp luật của Nhà nước.
Hoạt động từ thiện nhân đạo của Công giáo ở Phú Yên nổi bật nhất là dòng

19


tu Phao lô với hoạt động như: “nồi cháo tình thương” tại Khoa Nhi, Bệnh viện Đa
khoa tỉnh, suất ăn sáng cho khoảng 150 người/ngày. Ngoài ra các giáo xứ như Sông
Cầu, Sơn Nguyên cũng tích cực tham gia công tác từ thiện với các hoạt động như
giúp xoá nhà tạm, giúp đỡ người bị tai nạn, người già, neo đơn, học sinh nghèo...
1.3.3. Đạo Tin Lành
Sự hình thành và phát triển của Tin Lành ở Phú Yên
Du nhập và phát triển ở tỉnh Phú Yên nửa cuối thế kỷ XX, một bộ phận tín
đồ Tin Lành có niềm tin tôn giáo khá sâu sắc, trở thành một thực thể tôn giáo có vai
trò và vị trí nhất định đối với các mặt của đời sống xã hội trên địa bàn.
Quá trình du nhập và phát triển của Tin Lành ở tỉnh Phú Yên gắn với hoạt
động của từng hệ phái. Thời điểm truyền giáo ban đầu có bốn hệ phái tham gia, bao
gồm: Truyền Giáo Cơ Đốc, Tin Lành Việt Nam, Liên Hữu Cơ Đốc và Báp Tít Liên
Hiệp. Quá trình truyền giáo của các hệ phái này ở Phú Yên thường song trùng với

các hoạt động an sinh xã hội như thành lập trường tư thục nuôi dạy tín đồ, thành lập
cô nhi viện, mở các lớp dạy cắt may, các hoạt động giúp đỡ người nghèo và người
tàn tật, v.v... Cùng với sự phát triển tín đồ, việc xây dựng cơ sở thờ tự của các hệ
phái Tin Lành trên địa bàn tỉnh Phú Yên cũng được chú trọng.
Trên địa bàn tỉnh hiện nay có “07 hệ phái đăng ký hoạt động với 289 tín
đồ”[3,tr.1,2] gồm các hệ phái:
Hệ phái Liên Hữu Cơ Đốc Việt Nam: được truyền vào Việt Nam trước năm
1975, tập trung chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh miền Nam, với
khoảng 45.000 tín đồ. Tỉnh Phú Yên hiện có 02 điểm nhóm gồm: 25 tín đồ trong đó
có 13 người dân tộc Mường.
Hệ phái Phúc âm Toàn vẹn Việt Nam được tách ra từ Hội thánh Tin Lành
miền Nam (1989), theo tín lý Ngũ tuần, toàn tỉnh hiện có 7 điểm nhóm với 136 tín
đồ, trong đó: có 20 người là dân tộc Mường.
Hội thánh Tin Lành Truyền giáo Việt Nam: được truyền vào nước ta từ năm
1996, hiện ở Phú Yên, hiện có 1 điểm nhóm với 19 tín đồ.
Hội thánh Tin lành Báp Tít Việt Nam (Nam Phương) có 30 tín đồ. Các hệ

20


×