VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN TRUNG
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ THAM
NHŨNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, NĂM 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN TRUNG
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ THAM
NHŨNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. CAO THỊ OANH
HÀ NỘI, NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi,
không trùng lặp, không sao chép bất kỳ công trình nghiên cứu nào; những tài liệu,
số liệu, dẫn chứng sử dụng trong Luận văn là trung thực và chính xác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung cam đoan trên./.
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Trung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG ...................................................... 7
1.1. Khái niệm, mục tiêu, ý nghĩa, nguyên tắc của phòng ngừa tình hình tội
phạm về tham nhũng ......................................................................................... 7
1.2. Chủ thể, nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về tham
nhũng ............................................................................................................... 13
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
VỀ THAM NHŨNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ................................. 26
2.1. Sự ảnh hưởng của yếu tố vị trí địa lý, dân cư, kinh tế - xã hội đến phòng
ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng ......................................................... 26
2.2. Thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng tại
thành phố Đà Nẵng.......................................................................................... 28
2.3. Nhận xét, đánh giá.................................................................................... 44
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG ............................................................................................................. 49
3.1. Dự báo về phòng ngừa tội phạm tham nhũng tại thành phố Đà Nẵng .... 49
3.2. Các giải pháp nâng cao phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng tại
thành phố Đà Nẵng.......................................................................................... 53
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CB, CC
: Cán bộ, công chức
CCHC
: Cải cách hành chính
HĐND
: Hội đồng nhân dân
PCTN
: Phòng, chống tham nhũng
UBND
: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật về tham nhũng chức vụ trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 - 2018
Bảng 2.2. Thống kê các vụ án về tham nhũng xảy ra trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018
Bảng 2.3. Thống kê lĩnh vực xảy ra các vụ việc về tham nhũng trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018
Bảng 2.4. Thống kê tài sản bị thệt hại hoặc kê biên trong các vụ việc về tham
nhũng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018
Bảng 2.5. Thống kê hình phạt được tuyên án trong các vụ án tham nhũng trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018
Bảng 2.6. Thống kê xếp hạng cải cách hành chính cơ quan, đơn vị trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng năm 2017
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ những ngày đầu mới giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, và của Chính
phủ, là “giặc ở trong lòng”, là “giặc nội xâm”. Người đã chăm lo giáo dục cán bộ,
đảng viên nâng cao đạo đức cách mạng, thực hành “cần, kiệm, liêm, chính”. Tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã thẳng thắng chỉ ra tham nhũng là một
trong bốn nguy cơ “làm cho bộ máy đảng và nhà nước suy yếu, lòng tin của nhân
dân đối với Đảng, đối với chế độ bị xói mòn, các chủ trương và chính sách của
Đảng và Nhà nước bị thi hành sai lệch dẫn tới chệch hướng”. Hội nghị lần thứ năm,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) xác định “tham nhũng, lãng phí vẫn
còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xẩy ra trên nhiều lĩnh vực,
nhiều cấp, nhiều ngành… gây bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước”. Trước tình hình đó, Đảng ta đã ban
hành các Nghị quyết về lãnh đạo công tác PCTN như Nghị quyết trung ương 3 khóa
X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, chống lãng phí”,
Nghị quyết Trung ướng 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng”…,
Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp để tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh
PCTN, được đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ.
Đà Nẵng là một thành phố trực thuộc trung ương, trung tâm chính trị - kinh tế
- văn hóa - xã hội của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và sở hữu nhiều điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế. Đối với công tác PCTN, Thành ủy và UBND thành
phố luôn quan tâm sâu sát, chỉ đạo kịp thời, thường xuyên kiểm tra giám sát việc
thực hiện chức trách, nhiệm vụ của các đơn vị, cán bộ công chức nhằm phát hiện và
xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm. Từ năm 2014 đến năm 2018, các cơ
quan chức năng của thành phố đã phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử nhiều vụ án về
tham nhũng, tổng thiệt hại cho ngân sách nhà nước ước tính hơn 4.000 tỷ đồng.
Qua đó có thể thấy, hoạt động phòng ngừa tham nhũng vẫn chưa phát huy hiệu
quả cao nhất, các vụ án tham nhũng vẫn xảy ra, tài sản bị thất thoát lớn nhưng việc
1
thu hồi còn gặp nhiều khó khăn, chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng số thiệt hại, làm suy
giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào Đảng và chính quyền thành phố. Vậy
nguyên nhân nào làm hạn chế hiệu quả công tác phòng ngừa tình hình tội phạm về
tham nhũng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng? Cần tiến hành những giải pháp gì để
nâng cao hơn nữa hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng? Đây là
những yêu cầu cấp thiết mà thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
tham nhũng ở địa bàn thành phố Đà Nẵng đặt ra. Nhưng hiện nay chưa có một công
trình, đề tài khoa học nào nghiên cứu vấn đề này.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Phòng ngừa tình hình tội phạm về tham
nhũng tại thành phố Đà Nẵng” làm luận văn nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Là vấn đề thu hút nhiều sự quan tâm của xã hội, vì thế, tham nhũng và phòng
ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng đã được nhiều nhà khoa học xã hội lựa chọn
làm đối tượng nghiên cứu trong các đề án, dự án, công trình, nhiệm vụ khoa học ở
các cấp độ khác nhau, như:
- Một số văn bản quy phạm pháp luật:
+ Công ước của Liên hợp quốc về PCTN năm 2003;
+ Luật PCTN năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012).
- Một số sách chuyên khảo như:
+ Lê Hồng Liêm (2011), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với PCTN ở
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
+ Ngân hàng Thế giới (2005), Đương đầu với tham nhũng ở châu Á: Những
bài học thực tế và khuôn khổ hành động, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
+ Nguyễn Xuân Trường (2016), PCTN trong các tập đoàn kinh tế nhà nước ở
Việt Nam hiện nay, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
+ Phan Xuân Sơn, Phạm Thế Lực (2010), Nhận diện tham nhũng và các giải
pháp PCTN ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Một số đề tài nghiên cứu khoa học như:
+ Ngô Kiều Dâng (2014), Tổ chức và hoạt động của cơ quan PCTN ở Việt
2
Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội;
+ Bùi Quang Huy (2012), Tham nhũng và vấn đề PCTN trong điều kiện kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc
gia Hà Nội;
+ Trần Ngọc Liêm (2010), Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
chống tham nhũng của các cơ quan thanh tra nhà nước theo luật PCTN, Đề tài
khoa học cấp Bộ;
+ Nguyễn Duy Linh (2013), Nguyên nhân và các giải pháp phòng ngừa tham
nhũng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Đại học kinh tế quốc dân;
+ Nguyễn Duy Nam (2007), Tham nhũng và PCTN trong xây dựng cơ bản, Đề
tài khoa học cấp Bộ.
- Một số bài báo, tạp chí có liên quan:
+ Nguyễn Văn Giang (2018), “Nhận diện tham nhũng trong công tác cán bộ”,
Tạp chí Cộng sản, số 911, tr. 23-26;
+ Nguyễn Thanh Hải (2018), “Một số vấn đề cơ bản về kiểm soát tài sản thu
nhập trong PCTN”, Tạp chí Nội chính, số chuyên đề tháng 9-2018, tr. 4-9;
+ Vũ Ngọc Lân (2018), “Một số bài học kinh nghiệm trong PCTN ở nước ta
hiện nay”, Tạp chí Nội chính, số 57, tr. 17-21;
+ Phan Đình Trạc (2017), “Đấu tranh PCTN theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 892, tr. 17-22.
Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu về tham nhũng và PCTN có liên
quan. Những công trình trên đã nghiên cứu, làm rõ lý luận và các giải pháp PCTN
dưới nhiều góc độ khác nhau trên cơ sở tiếp cận khác nhau. Các tác giả đã sử dụng
nhiều luận cứ, luận điểm khoa học, mang tính thuyết phục để phân tích, tổng hợp và
đánh giá về khái niệm, bản chất, hình thái cũng như rút ra các nguyên nhân, điều
kiện làm nảy sinh tham nhũng, từ đó đưa ra nhiều biện pháp hợp lý, có tính khả thi
để áp dụng nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng.
Kế thừa những kết quả nghiên cứu mang tính tổng quát từ các công trình trên,
luận văn nghiên cứu cụ thể vào tình hình tội phạm về tham nhũng và công tác
3
phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng ở thành phố Đà Nẵng, đây là nội
dung chưa có đề tài khoa học nào nghiên cứu từ trước đến nay
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn của tình hình tội phạm về tham
nhũng và công tác đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm tham nhũng ở thành
phố Đà Nẵng, luận văn đề xuất các giải pháp tăng cường công tác phòng ngừa tình
hình tội phạm về tham nhũng ở thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để cụ thể hóa mục tiêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận có liên quan về tham nhũng, tình hình tội phạm
về tham nhũng và phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng;
- Thu thập, phân tích, đánh giá số liệu thống kê, hồ sơ vụ án, các báo cáo tổng
kết… có liên quan đến công tác PCTN ở thành phố Đà Nẵng;
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác phòng ngừa tình
hình tội phạm về tham nhũng ở thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tình hình tội phạm về tham nhũng và công tác phòng ngừa tình hình tội phạm
về tham nhũng tại thành phố Đà Nẵng trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức sử
dụng ngân sách Nhà nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: từ năm 2014 đến năm 2018.
- Phạm vi về không gian: địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Giới hạn về đối tượng: Tập trung nghiên cứu trong các cơ quan nhà nước,
các tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước tại thành phố Đà Nẵng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
4
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ bản của
Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó tập trung
sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thu thập, nghiên cứu, phân tích và tổng
hợp các tài liệu có liên quan gồm các văn bản pháp lý, các công trình nghiên cứu lý
luận và các tài liệu khác có liên quan đến tham nhũng và công tác phòng ngừa tham
nhũng.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn: Thông qua các báo cáo chuyên
đề, báo cáo tổng kết về hoạt động đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm về
tham nhũng ở thành phố Đà Nẵng để rút ra bài học kinh nghiệm.
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh: Thu thập, hệ thống, phân tích, so
sánh, đánh giá, tổng hợp các tài liệu, số liệu phản ánh tình hình tội phạm về tham
nhũng ở thành phố Đà Nẵng.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Tập trung nghiên cứu một số vụ án tham
nhũng điển hình và một số hồ sơ về hoạt động phòng ngừa do các cơ quan chức
năng ở thành phố Đà Nẵng tiến hành.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu khoa học góp phần làm phong phú
thêm lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng, là tài liệu tham khảo
hữu ích cho các độc giả trong các cơ sở đào tạo.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cũng như các cán bộ đang trực tiếp làm công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm về tham nhũng xây dựng các kế hoạch, giải pháp đấu tranh có hiệu
quả đối với tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói
5
riêng và cả nước nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm về tham
nhũng
Chương 2: Một số vấn đề có liên quan và thực trạng phòng ngừa tình hình tội
phạm về tham nhũng tại thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Giải pháp tăng cường hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm về
tham nhũng tại thành phố Đà Nẵng
6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
PHẠM VỀ THAM NHŨNG
1.1. Khái niệm, mục tiêu, ý nghĩa, nguyên tắc của phòng ngừa tình hình
tội phạm về tham nhũng
1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng
Hiện nay, khi nghiên cứu về vấn đề tham nhũng vẫn chưa có một định nghĩa
chung nhất và cụ thể về tham nhũng được công nhận chính thức trên toàn thế giới.
Những hình thức, hành vi tham nhũng phụ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội của mỗi quốc gia cũng như sự phát triển của nó ở từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử
khác nhau.
Tại Đức, tham nhũng được hiểu là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót,
thường xảy ra đối với công chức có quyền hành [50, tr.142]. Theo từ điển bách
khoa của Thụy Sỹ, tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng
lớp có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước, là hành vi vi phạm để phục vụ lợi ích cá
nhân [41, tr.3].
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) định nghĩa tham nhũng như là
“lạm dụng chức vụ, quyền lực cho lợi ích cá nhân, thông qua hối lộ, tống tiền, thao
túng thị trường, thiên vị người thân, gian lận, chuyển tiền (hình thức hối lộ) hoặc
tham ô” [27, tr.1]. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khác nhau,
UNDP cho rằng, tham nhũng bao hàm trong các hành vi sau:
- Hành vi ăn cắp, tham ô và chiếm đoạt tài sản của nhà nước mà chủ thể của
hành vi đó là những người có chức có quyền;
- Lạm dụng chức quyền để trục lợi bất hợp pháp thông qua việc sử dụng các
qui chế chính thức một cách không chính thức;
- Mâu thuẫn không cân đối giữa lợi ích chính đáng do thực hiện nghĩa vụ xã
hội với những món lợi tư riêng.
Ở nước ta, khái niệm tham nhũng cũng được nghiên cứu dưới nhiều góc độ
7
khác nhau. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “tham nhũng là hành vi của những
người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sách nhiễu, tham ô,
nhận hối lộ, hoặc cố ý làm trái chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế - tài chính vì
động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của các cơ quan nhà nước và tổ chức chính
trị, xã hội”. [52, tr.312]
Dưới góc độ khoa học pháp lý, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn, đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái
pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản nhà nước, tập thể và cá nhân,
xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức [60, tr. 1].
Theo qui định tại khoản 2, điều 1 Luật PCTN năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm
2007, 2012, 2018) (sau đây gọi tắt là Luật PCTN năm 2005), khái niệm tham nhũng
được hiểu “là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ , quyền
hạn đó vì vụ lợi”. Trong đó, những hành vi sau đây thuộc nhóm hành vi tham
nhũng: Tham ô tài sản; Nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền
hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; Giả mạo trong công tác vì vụ lợi;
Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải
quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; Lợi dụng
chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; Nhũng nhiễu
vì vụ lợi; Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp
trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án vì vụ lợi.
Người có chức vụ, quyền hạn trong khái niệm của pháp luật về PCTN chỉ giới
hạn ở những người trong khu vực nhà nước (cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống
chính trị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước).
Từ những phân tích như trên, có thể hiểu tội phạm tham nhũng là một loại tội
phạm do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện bằng cách lợi dụng chức vụ, quyền
8
hạn được giao, cố ý làm trái các quy định của pháp luật nhằm mục đích vụ lợi.
Theo GS. TS. Võ Khánh Vinh, phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống
nhiều mức độ các biện pháp mang tính Nhà nước, xã hội và Nhà nước - xã hội
nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa
(làm yếu, hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội
phạm [65, tr.154].
Bên cạnh đó, một số nhà khoa học phân chia nội dung của phòng ngừa tội
phạm theo hai cấp bậc rộng và hẹp khác nhau, như:
Theo nghĩa rộng, phòng ngừa tội phạm bao hàm, một mặt không để cho tội
phạm xảy ra, thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Mặt khác, bằng mọi cách
để ngăn chặn tội phạm, kịp thời phát hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường
hợp phạm tội và cuối cùng là cải tạo, giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành
những công dân có ích cho xã hội.
Theo nghĩa hẹp, phòng ngừa tội phạm là không để cho tội phạm xảy ra, không
để cho tội phạm gây hậu quả cho xã hội, không để cho thành viên của xã hội phải
chịu hình phạt của pháp luật, tiết kiệm được những chi phí cần thiết cho Nhà nước
trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và cải tạo giáo dục người phạm tội” [29,
tr.160].
Tóm lại, qua các nghiên cứu trên, dưới góc độ tội phạm học, có thể diễn đạt
như sau: Phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng là hoạt động của tất cả các
cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và của mọi công dân áp dụng tổng hợp và
đồng bộ các biện pháp khác nhau hướng đến từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới
loại bỏ tình hình tội phạm về tham nhũng ra khỏi đời sống xã hội.
1.1.2. Mục tiêu, ý nghĩa, nguyên tắc của phòng ngừa tình hình tội phạm về
tham nhũng
1.1.2.1. Mục tiêu
Mục tiêu của công tác PCTN, lãng phí được nêu trong Nghị quyết Trung ương
3 khóa X là: “Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển
biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; củng cố lòng tin
9
của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ CB,CC kỷ
cương, liêm chính”.
Chiến lược PCTN đến năm 2020 cũng xác định mục tiêu chung và năm nhóm
mục tiêu cụ thể:
- Mục tiêu chung:
Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, loại bỏ dần các cơ hội, điều kiện
phát sinh tham nhũng, góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh,
hoạt động hiệu quả; đội ngũ CB,CC liêm chính; lành mạnh hóa các quan hệ xã hội
thông qua việc thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý
tham nhũng; củng cố lòng tin của nhân dân và cộng đồng quốc tế, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Ngăn chặn, làm triệt tiêu các điều kiện và cơ hội phát sinh tham nhũng trong
việc hoạch định chính sách, xây dựng và thực hiện pháp luật, nhất là trong quá trình
ban hành và tổ chức thi hành các văn bản áp dụng pháp luật.
+ Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước, ngăn ngừa
việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi trên cơ sở xây dựng nền công vụ hiệu
quả, minh bạch, phục vụ nhân dân và xã hội, với đội ngũ CB,CC trung trực, công
tâm, liêm khiết, tận tụy, chuyên nghiệp và được trả lương hợp lý; các chuẩn mực
đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp được củng cố và phát triển.
+ Hoàn thiện thể chế, tạo lập môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng,
công bằng, minh bạch nhằm thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp;
từng bước xóa bỏ tệ hối lộ trong quan hệ giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước
và trong giao dịch thương mại.
+ Tính trách nhiệm, tính chuyên nghiệp, sức chiến đấu và hiệu quả hoạt động
của các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan, đơn vị chuyên trách chống tham
nhũng được nâng cao, giữ vai trò nòng cốt trong phát hiện và xử lý tham nhũng.
Chính sách xử lý đối với tham nhũng, đặc biệt là chính sách hình sự, chính
10
sách tố tụng hình sự tiếp tục được hoàn thiện; hệ thống đo lường, giám sát tham
nhũng được thiết lập.
+ Nâng cao nhận thức, vai trò của xã hội về tham nhũng, về chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong PCTN; thúc đẩy sự tham gia chủ
động của các tổ chức, đoàn thể xã hội, các phương tiện truyền thông và mọi công
dân trong nỗ lực PCTN; xây dựng văn hóa và tạo ra thói quen PCTN trong đời sống
của CB,CC và trong các tầng lớp nhân dân.
1.1.2.2. Ý nghĩa
PCTN góp phần bảo vệ chế độ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước. Trong năm gần đây,
hoạt động PCTN tại Việt Nam đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên tham
nhũng vẫn là “quốc nạn” của đất nước, nguy đe doạ tồn vong chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Nghị quyết số 14 ngày 15/5/1996 của Bộ chính trị về đấu tranh
chống tham nhũng nhận định: Tình trạng tham nhũng gây hậu nghiêm trọng, làm
xói mòn chất Đảng, Nhà nước, làm tha hoá đội ngũ cán bộ, đảng viên, tiếp tay cho
lực thù địch lợi dụng chống phá ta, uy hiếp tồn vong chế độ. Trong chiến lược quốc
gia PCTN đến năm 2020, Chính phủ nhận định: “Tham nhũng trở thành vật cản lớn
cho thành công công đổi mới, cho sức chiến đấu Đảng, đe dọa tồn vong chế độ” [5,
tr.80].
Theo ước tính của WB, tham nhũng năm gây thiệt hại cho kinh tế giới lên tới
hàng tỷ đô la Mỹ. Ở Việt Nam, thời gian qua, nhiều vụ tham nhũng nghiêm trọng bị
phát hiện, xử lý như vụ PMU 18, vụ công ty cho thuê tài chính II, vụ Trịnh Xuân
Thanh tại Tổng Công ty Dầu khí... Thiệt hại kinh tế do tội phạm về tham nhũng gây
ra rất lớn. Tham nhũng khiến nguồn lực của đất nước bị suy giảm, tăng cao nguy cơ
tụt hậu so với khu vực và thế giới. Ngoài ra, tham nhũng làm cho chênh lệch tài sản,
phân hoá giàu nghèo xã hội ngày tăng, tiềm ẩn nguy cơ gây mâu thuẫn, bất ổn xã
hội. Vì vậy, để phát triển kinh tế vững chắc và nâng cao đời sống, vật chất, tinh thần
cho nhân dân thì thực hiện các biện pháp cần thiết để phòng ngừa đấu tranh mạnh
mẽ với tham nhũng là việc làm hết sức cần thiết.
11
1.1.2.3. Các nguyên tắc
- Nguyên tắc pháp chế
Hoạt động phòng ngừa tội phạm về tham nhũng phải tuân thủ các quy định
của pháp luật, tức là các quy định của Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm
pháp luật khác có liên quan đến hoạt động phòng ngừa tham nhũng. Tuân thủ
nguyên tắc pháp chế là yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất khi phòng ngừa tội
phạm nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những người có liên quan. Để
nguyên tắc pháp chế được tuân thủ thì yêu cầu đầu tiên là các quy định của pháp
luật về phòng ngừa tội phạm phải được hoàn thiện, ý thức tuân thủ quy định pháp
luật từ các chủ thể phòng ngừa tội phạm phải được nâng cao. Các chủ thể không
được tiến hành một cách tuỳ tiện, theo ý chí chủ quan của mình mà phải trên cơ sở
quy định của pháp luật.
- Nguyên tắc dân chủ
Hoạt động phòng ngừa tội phạm tham nhũng phải có sự tham gia của quần
chúng nhân dân. Để nguyên tắc này được áp dụng trong thực tế cần nhận thức rằng
quần chúng nhân dân là chủ thể phòng ngừa tội phạm đông đảo nhất nhưng không
có công cụ, phương tiện nhằm đấu tranh trực tiếp với tội phạm, do đó, quần chúng
nhân dân cần được giáo dục, hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi từ các chủ thể
chuyên trách là cơ quan nhà nước trực tiếp áp dụng các biện pháp phòng ngừa thông
qua tổ chức các đợt tuyên truyền, giáo dục, tố cáo hành vi tham nhũng như: hối lộ,
tham ô, cố ý làm trái…
- Nguyên tắc nhân đạo
Thực hiện nguyên tắc nhân đạo trong hoạt động phòng ngừa tội phạm về tham
nhũng vừa có ý nghĩa bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của những người có liên
quan, vừa bảo đảm tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta trong hoạt động
phòng ngừa tội phạm về tham nhũng, hướng đến mục đích chung nhất là nâng cao
hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm về tham nhũng, bảo vệ tối đa quyền, lợi
ích hợp pháp của con người. Trên cơ sở đó, biện pháp phòng ngừa tội phạm tham
nhũng không chỉ phù hợp với pháp luật mà còn phải đảm bảo nguyên tắc nhân đạo,
12
không được xúc phạm hoặc hạ thấp phẩm giá con người.
- Nguyên tắc khoa học
Việc xây dựng và áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm về tham nhũng
phải dựa trên cơ sở khoa học, tức có đầy đủ tính lý luận lẫn thực tiễn. Những biện
pháp áp dụng phải tiến bộ, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống
tội phạm, phải có tính đồng bộ, hệ thống, phù hợp với tiến trình phát triển của xã
hội và xu hướng hoạt động phòng ngừa trên thế giới. Việc đưa ra biện pháp phòng
ngừa tội phạm tham nhũng không thể bột phát, thiếu luận cứ khoa học, mà phải dựa
vào kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá về tình hình tội phạm, nguyên nhân của
tội phạm trong thời gian ổn định, đồng thời kết hợp sử dụng thành tựu của khoa
học, kỹ thuật trong phòng ngừa tội phạm.
- Nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể phòng ngừa
Phòng ngừa tội phạm nói chung và các tội phạm về tham nhũng nói riêng là
hoạt động cần được tiến hành một cách có hệ thống, đồng bộ từ trung ương đến địa
phương. Để đạt được điều này,nguyên tắc đặt ra đòi hỏi phải có sự phối, kết hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức và công dân, không để xảy ra tình
trạng đùn đẩy, chồng chéo trách nhiệm. Bên cạnh đó, cơ quan có thẩm quyền cần
nêu cao tinh thần giáo dục quần chúng nhân dân ý thức nâng cao cảnh giác trong
phòng ngừa tội phạm cũng như trong phát hiện, tố giác tội phạm.
1.2. Chủ thể, nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về tham
nhũng
1.2.1. Chủ thể tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng
1.2.1.1. Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời
là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc [Điều lệ
Đảng]. Với vai trò to lớn ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn rất coi trọng công tác
PCTN. Với diễn biến tình hình hiện nay, Đảng ta thường xuyên tăng cường công
tác lãnh đạo, xây dựng và đề ra các chủ trương, đường lối được phổ biến sâu rộng
13
và quán triệt thực hiện trong từng tổ chức cơ sở đảng nhằm PCTN có hiệu quả như:
Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác PCTN, lãng phí”, Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI về “Tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Trung ương 3 khóa X”, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội
bộ”… Vai trò lãnh đạo của Đảng trong phòng ngừa tham nhũng còn thể hiện thông
qua hoạt động của các cơ quan có chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động của cán
bộ, đảng viên là Ủy ban kiểm tra đảng, Ban chỉ đạo về PCTN và Ban Nội chính các
cấp.
1.2.1.2. Quốc hội và HĐND các cấp
Là cơ quan quyền lực Nhà nước, vai trò của Quốc hội và HĐND các cấp thể
hiện thông qua việc nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật nhằm hạn chế
cơ hội tham nhũng ở Việt Nam; vai trò PCTN trong việc phê chuẩn và kiểm soát
ngân sách, quyết định các chương trình, dự án quan trọng của quốc gia; hoạt động
PCTN thông qua việc bảo đảm sự minh bạch tài sản và thông tin trong hoạt động
của bộ máy nhà nước; thực hiện quyền giám sát trong công tác PCTN ở Việt Nam.
Đồng thời, vai trò phát hiện tham nhũng của đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các
cấp thông qua việc giữ mối quan hệ với cử tri và các tổ chức chính trị - xã hội; phát
huy vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng trong việc hỗ trợ thực hiện công tác
PCTN.
1.2.1.3. Chính phủ và UBND các cấp
Chính phủ và UBND các cấp có vai trò ban hành các văn bản hướng dẫn trên
cơ sở chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, triển khai thực hiện pháp luật về
phòng ngừa tội phạm tham nhũng do Quốc hội ban hành; triển khai các biện pháp
mang tính xã hội như xây dựng và thực hiện các chiến lược, chương trình kế hoạch
nhằm xây dựng kỷ cương, nề nếp công tác, quản lý giáo dục CB,CC... Bên cạnh đó,
thông qua cơ quan chuyên trách là Thanh tra các cấp, Chính phủ và UBND các cấp
thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót
14
trong công tác quản lý, những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí để đưa ra
biện pháp ngăn chặn và khắc phục kịp thời.
1.2.1.4. Các cơ quan tư pháp
Điều 4 Luật Công an nhân dân năm 2014 nêu rõ cơ quan Công an là lực lượng
nòng cốt, xung kích trong việc bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự xã hội. Trong đó,
hoạt động điều tra xử lý tội phạm về tham nhũng và hoạt động phòng ngừa tội phạm
về tham nhũng là hai bộ phận luôn luôn gắn liền, có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Trên cơ sở quy định tại Điều 2, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014,
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm soát các hoạt
động tư pháp, có vai trò trực tiếp trong việc kiểm soát hoạt động điều tra, thực hiện
quyền công tố trong các phiên tòa xét xử về các tội về tham nhũng. Ngoài ra, vai trò
trong việc phối hợp với các chủ thể khác xây dựng, triển khai các chương trình
phòng ngừa tội phạm, thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, phát hiện
nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, thống kê và đưa ra kiến nghị về các biện pháp
phòng ngừa tội phạm về tham nhũng.
Tòa án nhân dân các cấp, với chức năng xét xử được quy định tại Điều 2 Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, có vai trò phòng ngừa các tội về tham nhũng thông
qua hoạt động xét xử, làm sáng tỏ vụ án, tính chất, mức độ sai phạm của người
phạm tội, mức độ tham gia của những người khác mà quyết định hình phạt đúng
người, đúng tội, đảm bảo công bằng, nghiêm minh, góp phần phòng ngừa riêng và
phòng ngừa chung cho toàn xã hội. Ngoài ra, Tòa án nhân dân các cấp còn có vai
trò tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiến nghị áp dụng biện pháp ngăn chặn, phối
hợp với các chủ thể khác xây dựng và triển khai các kế hoạch phòng chống tội
phạm, trong đó có các tội về tham nhũng.
1.2.1.5. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội
Điều 8 của Luật PCTN năm 2005 quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên có trách nhiệm vận động nhân dân tham gia tích cực vào việc
PCTN; phát hiện, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người có
hành vi tham nhũng; giám sát việc thực hiện pháp luật về PCTN. Điều 85 Luật
15
PCTN 2005 và Điều 23 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 quy định rõ vai
trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên Mặt trận
trong việc tham gia PCTN với các nội dung cơ bản: Tuyên truyền, vận động nhân
dân và các thành viên tổ chức mình thực hiện pháp luật về PCTN, kiến nghị các
biện pháp nhằm phát hiện và phòng ngừa tham nhũng; Cung cấp thông tin và phối
hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc phát hiện, xác
minh, vụ việc tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng; Yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp phòng ngừa tham nhũng, xác minh
vụ giám sát việc thực hiện pháp luật về PCTN; Kiến nghị cơ quan Nhà nước bảo vệ,
khen thưởng đối với người có công phát hiện, tố cáo tham nhũng.
1.2.2. Nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng
Nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng là tất cả các vấn đề, các
khía cạnh cần tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm, sẽ tập trung vào hai hoạt
động chính sau:
1.2.2.1. Tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng
Tiến hành các hoạt động ngừa tội phạm về tham nhũng là khắc phục các nguyên
nhân và điều kiện phạm tội. Có rất nhiều nguyên nhân và điều kiện làm nảy sinh tội
phạm về tham nhũng như: tác động của nền kinh tế thị trường, tư tưởng lạc hậu, nhận
thức hạn chế, pháp luật còn nhiều lỗ hổng hoặc chưa có tính răn đe,… Khi nhìn một
cách tổng quan, có thể thấy được việc khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội
về trật tự an toàn xã hội có thể thực hiện hai phương diện sau:
Thứ nhất, cải thiện quan hệ xã hội gồm các quan hệ giáo dục, việc làm, quản
lý… Trong đó, hoạt động nâng cao nhận thức, trình độ văn hóa của con người là vô
cùng quan trọng.
Thứ hai, cần cải thiện hệ thống pháp luật, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Phòng ngừa tội phạm ở khía cạnh này mang tính tích cực, chủ động
và đem lại hiệu quả cao, có khả năng xóa bỏ tận gốc tội phạm, do đó cần được ưu tiên
nghiên cứu và áp dụng trong thực tiễn.
16
1.2.2.2. Phát hiện, xử lý tội phạm
Trọng tâm của hoạt động này là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử người phạm
tội về tham nhũng. Tác dụng phòng ngừa tội phạm phát huy khi áp dụng các biện
pháp ngăn chặn, tiến hành đúng các thủ tục tố tụng và đặc biệt là hiệu quả răn đe
phòng ngừa riêng, phòng ngừa chung từ việc áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình
sự. Sự tổn thất mà người phạm tội phải chịu đựng từ một hình phạt nghiêm khắc hơn
so với những gì có được từ việc phạm tội có thể đạt được sự kiểm soát tội phạm.
Hình phạt ở mức hợp lý có vai trò quan trọng nhất đối với phòng ngừa tội phạm.
Hình phạt không phải là biện pháp xử lý duy nhất đối với tội phạm, hơn nữa hiệu quả
của nó còn phụ thuộc vào quá trình cải tạo người phạm tội.
1.2.3. Biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng
1.2.3.1. Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị
Luật PCTN năm 2005 quy định công khai minh, bạch trở thành một nguyên
tắc chung cho hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị. Điều 11, Luật này quy
định: Công khai, minh bạch, bảo đảm công bằng, dân chủ là yêu cầu bắt buộc khi
thực hiện các chính sách, pháp luật. Trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những
nội dung khác của Chính phủ, các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt
động của mình.
Các hình thức công khai bao gồm: thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; niêm yết công khai tại trụ sở làm việc của cơ
quan, tổ chức, đơn vị; công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; phát hành
ấn phẩm; cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân; thông báo
trên các phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên trang thông tin điện tử.
Để bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch được thực hiện, Luật PCTN
2005 quy định về quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức như sau:
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan báo chí có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn
vị có trách nhiệm cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, pháp luật cũng đưa ra những hạn chế nhất định: Các cơ quan, tổ
17
chức hoặc báo chí được quyền yêu cầu cung cấp thông tin trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình chứ không phải bất kỳ thông tin nào mà mình muốn. Cơ quan
tổ chức đơn vị chỉ có trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động của
mình theo quy định của pháp luật.
Bảo đảm quyền yêu cầu cung cấp thông tin là một nội dung rất quan trọng và
có tác dụng thiết thực vào việc phòng ngừa tham nhũng. Chính vì vậy, để có cơ sở
thực hiện thật tốt điều này, Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật PCTN đã dành nhiều quy
định vừa cụ thể hoá, vừa hướng dẫn để các các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa
vụ cung cấp thông tin cũng như có yêu cầu về thông tin có thể thực hiện một cách
thuận lợi.
Nghị định số 107/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định xử lý trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách quy định về trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ
quan, tổ chức, cá nhân
1.2.3.2. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn
Chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong các lĩnh vực quản lý luôn liên quan đến
việc sử dụng tài sản, vốn và ngân sách nhà nước. Nếu các tiêu chuẩn, chế độ, định
mức được sử dụng một các tùy tiện, lãng phí sẽ khiến việc tài sản của Nhà nước bị
thiệt hại làm suy giảm nguồn lực đầu tư thúc đẩy phát triển.
Nhằm bảo đảm cho việc ban hành, chấp hành đúng pháp luật, Luật PCTN năm
2005 đã đưa ra các quy định từ việc xây dựng, thực hiện cũng như chế độ, trách
nhiệm trong trường hợp để xảy ra vi phạm.
Việc xây dựng, ban hành và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn dựa
trên những nguyên tắc được quy định tại Điều 34, Luật PCTN 2005, trong đó xác
định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, đơn vị sự nghiệp và các cơ quan, tổ chức khác có sử dụng ngân sách nhà nước
trong việc xây dựng và ban hành các chế độ, định mức, tiêu chuẩn áp dụng trong cơ
18
quan, tổ chức, đơn vị mình.
Trách nhiệm kiểm tra và việc xử lý vi phạm quy định về chế độ, định mức,
tiêu chuẩn, nhất là việc xác định trách nhiệm của những người có liên quan đến việc
để xảy ra các sai phạm về chế độ, định mức, tiêu chuẩn:
- Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thường xuyên kiểm tra việc chấp hành và xử lý
kịp thời hành vi vi phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn.
- Người có hành vi vi phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn phải bị
xử lý theo quy định của pháp luật.
- Người cho phép sử dụng vượt chế độ, định mức, tiêu chuẩn phải bồi thường
phần giá trị mà mình cho phép sử dụng vượt quá; người sử dụng vượt chế độ, định
mức, tiêu chuẩn có trách nhiệm liên đới bồi thường phần giá trị được sử dụng vượt
quá.
- Người cho phép thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn chuyên môn - kỹ
thuật thấp hơn mức quy định phải bồi thường phần giá trị mà mình cho phép sử
dụng thấp hơn; người hưởng lợi từ việc thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn
chuyên môn - kỹ thuật thấp hơn có trách nhiệm liên đới bồi thường phần giá trị
được hưởng lợi. (Điều 35, Luật PCTN 2005)
Về nội dung xây dựng và thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn, Chiến lược
quốc gia PCTN đến năm 2020 yêu cầu:
Công bố công khai các chế độ, định mức, tiêu chuẩn và công khai việc thực
hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn sử dụng tài sản công của CB,CC, trước hết là của
người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Sửa đổi các quy định về quản lý, sử
dụng nhà công vụ; xử lý nghiêm minh các vi phạm trong việc quản lý, sử dụng nhà
công vụ.
1.2.3.3. Quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, việc chuyển đổi vị trí
công tác của cán bộ, công chức
Các nước trên thế giới mặc dù có chế độ chính trị khác nhau nhưng về cơ bản,
việc thực hiện quyền lực công đều phải thông qua hoạt động công vụ của đội ngũ
công chức. Vì vậy, để chống tham nhũng, lãng đạo các quốc gia đều tăng cường
19