Tải bản đầy đủ (.docx) (117 trang)

Phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức bảo vệ cảnh quan đô thị cho học sinh trung học phổ thông quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.43 KB, 117 trang )

PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC Ý THỨC
BẢO VỆ CẢNH QUAN ĐÔ THỊ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Lực lượng xã hội
Giáo viên
Học sinh
Nhà trường
Đoàn Thanh niên
Cộng đồng dân cư
Gia đình
Cảnh quan đô thị
Trung học phổ thông

LLXH
GV
HS
NT
ĐTN
CĐDC

CQĐT
THPT

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển bền vững hiện đang là mối quan tâm trên phạm vi toàn cầu. Trong


tiến trình phát triển của thế giới, mỗi khu vực và quốc gia lại xuất hiện những
vấn đề bức xúc mang tính phổ biến riêng. Quá trình đô thị hoá tăng lên nhanh
chóng ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Quá trình này mang lại
nhiều hiệu quả tích cực song cũng làm nảy sinh những vấn đề bất cập trong quy
hoạch và quản lí đô thị. Cụ thể là những vấn đề liên quan đến kinh tế – xã hội và
môi trường. Các đô thị phải đối diện với những khó khăn và chịu ảnh hưởng sâu
sắc của sự bùng nổ đô thị trên mọi phương diện, đặc biệt là trong công tác quản
lí và phát triển đô thị. Tại hầu hết các đô thị Việt Nam, đặc biệt là ở những đô thị
lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, bộ phận quản lí đang phải đối mặt
với những thách thức của quá trình đô thị hoá. (PGS.TS. Phạm Thị Thanh Bình,
2016)
Cụ thể, Hà Nội đang tồn tại vô số khó khăn, ảnh hưởng từ sự bùng nổ dân cư
đô thị, hệ thống cơ sở hạ tầng và dịch vụ công quá tải, môi trường sinh sống
xuống cấp, và những tác động từ nền kinh tế tăng trưởng liên tục, quá trình hội
nhập. Những thách thức này ẩn chứa nguy cơ đe doạ sự phát triển bền vững trên
những khía cạnh khác nhau. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lí vẫn có nhiều
hạn chế về kiến thức, kĩ năng và năng lực quản lí đô thị của các cơ quan địa
phương, đặc biệt là ở cấp quận và phường. Sự điều phối giữa các cơ quan trong
bộ máy vẫn còn rất nhiều vấn đề cần giải quyết.
Tại các đơn vị trên địa bàn quận Thanh Xuân, Hà Nội đang diễn ra sự phát
triển ngày càng phong phú, nhiều loại hình hoạt động, tổ chức khác nhau của các
LLXH đã làm nảy sinh vấn đề hết sức cấp thiết là làm thế nào để xây dựng được
cơ chế hoặc hình thức phối hợp các LLXH để đóng góp vào việc nâng cao chất
lượng cuộc sống nói chung và nâng cao ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh
THPT tại bàn quận Thanh Xuân nói riêng.
2


Xuất phát từ những lí do kể trên, việc tìm ra giải pháp để phối hợp các
LLXH nhằm giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT là một vấn đề

cấp thiết và mang tính thực tiễn cao. Chính vì vậy, tôi lựa chọn đề tài: “Phối
hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức bảo vệ cảnh quan đô thị cho
học sinh trung học phổ thông quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” làm đề
tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn cũng như phân tích, đánh giá các
yếu tố ảnh hưởng tới thực trạng giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh
THPT quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; đề tài sẽ đề xuất những biện pháp
phối hợp LLXH nhằm nâng cao ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT tại địa
phương, hình thành nếp sống văn minh, giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực tới môi
trường, nâng cao chất lượng cuộc sống.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phối hợp các LLXH trong giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học
sinh THPT quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, công tác giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT của
các LLXH tại địa phận quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội mới chỉ mang tính
hình thức, chưa đi sâu tác động vào ý thức của các em. Điều này thể hiện cụ thể
trong sự phối hợp của các lực lượng còn rời rạc, chưa thống nhất; các hình thức,
phương pháp tiếp cận giáo dục chưa thực sự phù hợp; ngoài ra vẫn còn tồn tại
một số ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường xung quanh; một bộ phận học sinh
chưa ý thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ CQĐT tại nơi sinh sống...
3


Nếu các LLXH tại địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội phối hợp

với nhau đồng nhất, chặt chẽ phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của địa
phương sẽ giúp học sinh THPT nhận thức rõ ràng, thay đổi hành vi của bản thân;
chung tay xây dựng và bảo vệ môi trường sống bền vững, xanh – sạch – đẹp.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lí luận phối hợp các LLXH trong giáo dục ý thức bảo vệ
cảnh quan đô thị cho học sinh trung học phổ thông.
5.2. Khảo sát đánh giá thực trạng phối hợp các LLXH trong
giáo dục ý thức bảo vệ cảnh quan đô thị cho học sinh trung học phổ thông quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
5.3. Đề xuất biện pháp phối hợp các LLXH trong giáo dục ý thức bảo vệ
cảnh quan đô thị cho học sinh trung học phổ thông quận Thanh Xuân, thành phố
Hà Nội.
6. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu thực trạng và đề xuất các biện pháp phối hợp các LLXH
trong giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội.
Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các lực lượng sau:
Nhà trường (bao gồm Trường THPT Nhân Chính, Phan Bội Châu và Lương Văn
Can), ĐTN Cộng sản Hồ Chí Minh, CĐDC tại địa bàn nghiên cứu và GĐ.
7. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài sẽ kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp này được sử dụng nhằm phân tích, tổng hợp lí thuyết để xây
dựng cơ sở lí luận cho lí do chọn đề tài; hệ thống hóa các khái niệm cơ bản của
đề tài.

4


Phân tích những tài liệu liên quan đến đề tài, những văn bản pháp quy,

những quy định của ngành Giáo dục liên quan đến nội dung liên quan tới vấn đề
nghiên cứu cũng như những tài liệu chuyên khảo.
7.2. Nhóm phương quan sát
Quan sát các hoạt động phối hợp của các lực lượng trong cộng đồng về giáo
dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT quận Thanh Xuân, thành phố Hà
Nội từ đó thu thập thông tin, bổ sung cho phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
7.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Mục đích là nhằm khảo sát thực trạng phối hợp các LLXH giáo dục ý thức
bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Bên
cạnh đó, đề tài tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng này.
7.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp này được sử dụng với mục đích thu thập, bổ sung và làm rõ
hơn những thông tin về thực trạng phối hợp các LLXH giáo dục ý thức bảo vệ
CQĐT cho học sinh THPT quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Thực hiện phỏng vấn, trao đổi với một số GV, phụ huynh, học sinh, các cán
bộ quản lí, các thành viên đại diện cho các LLXH tham gia giáo dục ý thức bảo
vệ CQĐT nhằm làm rõ hơn những kết quả thu được qua phiếu hỏi và bổ sung
thêm thông tin cần thiết để phục vụ cho nội dung đề tài đang nghiên cứu.
7.5. Phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS modul hoá để tính toán kết quả thu được khi làm
trắc nghiệm và dùng bảng hỏi đưa ra kết quả định lượng.
7.6. Phương pháp chuyên gia
Thu thập các thông tin khoa học, các nhận định, đánh giá của những người
am hiểu sâu sắc về chuyên môn để có ý kiến đa số, khách quan về vấn đề cần
xin ý kiến.
8. Cấu trúc của nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị luận văn bao gồm ba chương:
5



Chương 1. Lý luận về phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức
bảo vệ cảnh quan đô thị cho học sinh trung học phổ thông
Chương 2. Thực trạng phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức
bảo vệ cảnh quan đô thị cho học sinh trung học phổ thông quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội
Chương 3. Biện pháp nâng cao hiệu quả phối hợp các lực lượng xã hội trong
giáo dục ý thức bảo vệ cảnh quan đô thị cho học sinh trung học phổ thông quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

6


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI
TRONG GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ CẢNH QUAN
ĐÔ THỊ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về phối hợp các lực lượng giáo dục
Từ lâu, các nhà nghiên cứu khoa học giáo dục coi trọng trách nhiệm của nhà
trường trong việc tổ chức, phối hợp với GĐ và cộng đồng xã hội để giáo dục học
sinh. Trong nền giáo dục cận đại, người đầu tiên nêu ra một hệ thống lí luận chặt
chẽ về tầm quan trọng của mối quan hệ thống nhất giữa GĐ, nhà trường và xã
hội đối với kết quả giáo dục trẻ là J.A. Komenxki (1592 – 1670).
Tầm quan trọng của sự phối hợp giáo dục giữa GĐ, nhà trường và cộng
đồng cũng được nhiều nhà giáo dục lỗi lạc của Liên Xô đã nhấn mạnh. Đặc biệt,
trong việc thực hiện mục đích giáo dục những người công dân chân chính trong
tương lai đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa. V.A. Xukhomlinxki (1918 – 1970)
đã khẳng định GĐ, nhà trường và cộng đồng xã hội phải có sự hợp tác để thống
nhất mục đích, nội dung giáo dục cho con trẻ. [11]
Tại Trung Quốc vào năm 1991 đã có Hội nghị quốc gia về sự phối hợp các

ban ngành trong việc phối hợp giáo dục học sinh ngoài nhà trường. Các lực
lượng tham gia có: Bộ Giáo dục, ngành Văn hoá, Thể dục thể thao, Công đoàn,
Đoàn thanh niên, Uỷ ban Phụ nữ và nhiều ngành liên quan khác. (Liên hiệp
quốc, 1992)
Những năm gần đây, ở Singapore việc nghiên cứu đưa ra sự phối hợp các lực
lượng các tham gia ngày càng thêm đa dạng do các hoạt động hợp tác ngoại
khoá (Co-currcular activity) của học sinh trung học vào thực tiễn ngày càng
phong phú. Các tổ chức nhóm Chữ thập đỏ (Red Cross), nhóm Quân sự
(Military Band), Hiệp hội hướng đạo Singapore... Các hoạt động này đều có sự
phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và các LLXH để giúp đỡ cho các hoạt động
7


của học sinh đạt kết quả tốt, hiệu quả giáo dục được nâng cao. (Bộ Giáo dục và
Đào tạo, 2002)
Ở Nhật Bản, các hoạt động ngoại khoá cũng được tổ chức phối hợp giữa nhà
trường và các LLXH rất phong phú, hình thành nên các câu lạc bộ khoa học,
nghệ thuật cho học sinh. (Eric Digest, 2000)
Ở Việt Nam, việc phối hợp giáo dục giữa nhà trường, GĐ và xã hội; coi đó
là nguyên tắc cơ bản để đảm bảo kết quả giáo dục trong các loại hình trường đã
được Đảng và Nhà nước ngày càng quan tâm. Từng bước giải quyết vấn đề này
ở nhiều góc độ khác nhau đã được các nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu.
Các tác giả Phạm Tất Dong, Lê Thi, Đinh Thị Kim Thoa... đã có nhiều công
trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề con người và vấn đề xã hội hoá, vấn đề GĐ
và vai trò của GĐ trong sự hình thành nhân cách trẻ em, sự phát triển của GĐ
Việt Nam và chức năng giáo dục GĐ; nghiên cứu công tác bảo vệ chăm sóc và
giáo dục truyền thống cho trẻ em trong GĐ.
Như vậy, việc nghiên cứu sự phối hợp các LLXH trong giáo dục không phải
là một việc làm mới. Như đã nêu trên, trên thế giới và cả Việt Nam cũng có
nhiều đề tài, công trình nghiên cứu về vấn đề này với những nội dung khác nhau

từ cơ sở lí luận cho tới ứng dụng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về phối hợp các
LLXH trong giáo dục ý thức bảo vệ cảnh quan cho học sinh trường THPT thì
chưa từng có, điều này cho thấy tính mới của đề tài này.
1.1.2. Sơ lược căn cứ pháp lý về vấn đề bảo vệ cảnh quan đô thị
Cảnh quan đô thị là một phần của môi trường và bảo vệ CQĐT cũng chính là
hành động bảo vệ môi trường. Trong những năm gần đây, để bảo vệ môi trường,
hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tích
cực xây dựng và thực hiện các chương trình hành động, nghiên cứu, thực thi các
giải pháp nhằm cải thiện tình trạng môi trường, bảo vệ môi trường.
Từ những năm 90 của thế kỉ XX, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm chú
trọng nhiều đến việc tổ chức, quản lí, đưa công tác bảo vệ môi trường vào cuộc
sống, xây dựng hệ thống luật pháp, nâng cao nhận thức của nhân dân, tăng
8


cường đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường; vừa tích cực tham gia các chương
trình quốc tế về môi trường, vừa hoạch định và thực hiện các chương trình hành
động quốc gia về môi trường.
Bộ Chính trị cũng đưa ra quan điểm về bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước xác định, giải pháp quan trọng để
bảo vệ môi trường đó là: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao
nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường”, điều này thể hiện rõ trong Nghị
quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị.
Trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, tại (Điều 154), Khoản 1 và 2 Điều
155 của Luật quy định cụ thể công tác giáo dục về môi trường, đào tạo nguồn
nhân lực: “Chương trình chính khoá của các cấp học phổ thông phải có nội
dung giáo dục về môi trường”, “Nhà nước ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực bảo
vệ môi trường; khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân tham gia giáo dục về môi
trường và đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường”. [20]
Hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường

đã được các cấp, ngành, địa phương quan tâm nhiều trong thời gian qua. Chúng
ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức của
người dân và cộng đồng về bảo vệ môi trường. Ở hầu hết các địa phương đều có
các hoạt động lớn về môi trường như Giờ Trái Đất, Ngày Trái Đất (22/4), Ngày
Môi trường thế giới (5/6); Ngày quốc tế Đa dạng sinh học (22/5), Chiến dịch
Làm cho thế giới sạch hơn. Bên cạnh đó, Giải thưởng Môi trường Việt Nam
được tổ chức thường niên nhằm khuyến khích các tập thể, cá nhân trong và
ngoài nước có nhiều thành tích trong sự nghiệp bảo vệ môi trường. Đặc biệt,
năm 2015, tại Lễ trao tặng Giải thưởng Môi trường Việt Nam đã có 50 tổ chức,
cá nhân và cộng đồng có thành tích xuất sắc trong công tác bảo vệ môi trường
được lựa chọn và vinh dự đón nhận phần thưởng hay có tới 70 điển hình tiên
tiến về bảo vệ môi trường giai đoạn 2011 – 2015 đã được tôn vinh tại Hội nghị
Môi trường toàn quốc lần thứ IV.

9


Bên cạnh những chủ trương, chính sách và chương trình của Đảng và Nhà
nước về vấn đề bảo vệ môi trường cũng có những công trình nghiên cứu về vấn
đề giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh như các công trình nghiên
cứu của tác giả Nguyễn Dược [5]; nhóm tác giả Nguyễn Phi Hạnh, Nguyễn Thị
Thu Hằng [9]; tác giả Võ Trung Minh [18]... Các công trình nghiên cứu này đều
chỉ ra tính cấp thiết của vấn đề bảo vệ môi trường và sự cần thiết trong việc giáo
dục nội dung bảo vệ môi trường cho học sinh. Tuy nhiên, ở các công trình
nghiên cứu trước đó đang tập trung vào nội dung bảo vệ môi trường nói chung
mà chưa đi sâu vào vấn đề giáo dục cho học sinh THPT ý thức bảo vệ CQĐT.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về phối hợp các lực lượng xã hội trong
giáo dục ý thức bảo vệ cảnh quan đô thị cho học sinh trung học phổ thông
Như các nội dung nêu trên, việc phối hợp các LLXH trong giáo dục và việc
giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ CQĐT đã được nêu trong các văn bản

pháp luật chỉ đạo khá rõ ràng. Tuy nhiên, nghiên cứu vấn đề về việc phối hợp
các LLXH trong việc giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT còn khá mới mẻ, nhất là
việc nghiên cứu phối hợp các LLXH trong giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho
học sinh các khối trường nói chung và cho học sinh THPT nói riêng. Công trình
của chúng tôi mong muốn tạo được điểm nhấn về việc phối hợp các lực lượng
cùng nhà trường tham gia giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT,
đặc biệt là những nơi có mật độ dân số đông, diện tích trải dài, phát triển nhanh,
mạnh về các khu đô thị, khu vui chơi, giải trí như quận Thanh Xuân, thành phố
Hà Nội.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Giáo dục ý thức bảo vệ cảnh quan đô thị
1.2.1.1. Khái niệm giáo dục
Chúng ta có thể nhận thấy dù xét ở nhiều phạm vi khác nhau, góc nhìn khác
nhau thì: Giáo dục là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ
chức một cách có mục đích và kế hoạch, thông qua các hoạt động và quan hệ
10


giữa người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và kinh nghiệm
xã hội từ đời trước sang đời sau.
Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi kế thừa và khái quát
lại khái niệm giáo dục như sau: Giáo dục luôn là một quá trình có mục đích, có
kế hoạch, là quá trình tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo
dục. Thông qua quá trình tương tác giữa nhà giáo dục và người được giáo dục để
hình thành nhân cách toàn diện cho người được giáo dục.
1.2.1.2. Khái niệm ý thức
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác – Lênin là một phạm trù song song
với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan
vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu
cơ với vật chất.

Ý thức là phản ánh tâm lí cao nhất ở con người, phản ánh bằng ngôn ngữ, là
khả năng con người hiểu biết được các tri thức mà con người đã tiếp thu.
Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi kế thừa và khái quát
lại khái niệm ý thức như sau: Ý thức là hình thức phản ánh tâm lí cao nhất chỉ
có ở người, là quá trình phản ánh bằng ngôn ngữ những gì con người đã tiếp
thu được trong quá trình quan hệ qua lại với thế giới khách quan.
1.2.1.3. Khái niệm cảnh quan đô thị
Năm 1948, N.A. Xolsev đưa ra định nghĩa: “Cảnh quan là một lãnh thổ
đồng nhất về mặt phát sinh, các thành phần địa chất, địa hình, khí hậu, đất và
động thực vật có sự lặp lại một cách điển hình và có quy luật” trên cơ sở phát
triển quan niệm của L.S. Berge. Với định nghĩa này, N.A. Xolsev đã xác định
được cấu trúc thẳng đứng và cấu trúc ngang của cảnh quan [20, 33].
Năm 1965, định nghĩa trên đã được A.G. Ixatsenko bổ sung, ông cho rằng:
“Cảnh quan là một bộ phận được tách ra từ một miền, một đới địa lí và nói
chung là của một đơn vị lãnh thổ bất kì nào đó lớn hơn, nó có đặc điểm là đồng
nhất về cả tương quan địa đới và phi địa đới, có một cấu trúc riêng và một cấu
tạo hình thái riêng”. [34]
11


Ở Việt Nam, Vũ Tự Lập đã đưa ra định nghĩa: “Cảnh quan địa lí là một địa
tổng thể, được phân hoá trong phạm vi một đới ngang ở đồng bằng và một đai
cao ở miền núi, có một cấu trúc thẳng đứng đồng nhất về nền địa chất, kiểu địa
hình, kiểu khí hậu, kiểu thuỷ văn, về đại tổ hợp thổ nhưỡng và đại tổ hợp thực
vật, bao gồm một tập hợp có quy luật của các dạng địa lí và những đơn vị cấu
tạo khác theo một cấu trúc ngang đồng nhất” khi nghiên cứu cảnh quan địa lí
miền Bắc Việt Nam [41].
Theo Luật Quy hoạch đô thị 2009 (số 302009/QH12): “Cảnh quan đô thị là
không gian cụ thể có nhiều hướng quan sát ở trong đô thị như không gian trước
tổ hợp kiến trúc, quảng trường, đường phố, hè, đường đi bộ, công viên, thảm

thực vật, vườn cây, vườn hoa, đồi, núi, gò đất, đảo, cù lao, triền đất tự nhiên,
dải đất ven bờ biển, mặt hồ, mặt sông, kênh, rạch trong đô thị và không gian sử
dụng chung thuộc đô thị”. [27]
Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi kế thừa và khái quát
lại khái niệm CQĐT như sau: Cảnh quan đô thị là một tổng thể vừa tự nhiên
vừa là đơn vị mang tính kiểu loại, là một đơn vị nằm trong hệ thống phân loại
chung của cảnh quan Việt Nam. Cảnh quan đô thị là một thể tổng hợp tự nhiên
phức tạp, vừa có tính đồng nhất vừa bất đồng nhất bao gồm một hệ thống các
yếu tố thành phần cấu tạo nên (địa chất, địa hình, khí hậu, đất, nước, sinh vật);
giữa chúng có mối liên hệ phụ thuộc tác động lẫn nhau, đồng thời có sự phân
hoá phức tạp từ cấp cao đến thấp theo hệ thống phân loại nhất định tạo nên tính
đa dạng trong cấu trúc, chức năng”. Vì vậy, cần lựa chọn phương pháp và quan
điểm nghiên cứu phù hợp.
Ý thức bảo vệ cảnh quan đô thị là suy nghĩ, việc làm để bảo vệ tổng thể tự
nhiên gồm một hệ thống các yếu tố cấu tạo nên (địa chất, địa hình, khí hậu, đất,
nước, sinh vật).
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận của những đề tài trước đó, trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài chúng tôi sử dụng khái niệm: “Giáo dục ý thức bảo vệ
cảnh quan đô thị là quá trình tổ chức có mục đích, có kế hoạch của lực lượng
12


giáo dục thực hiện thông qua các hình thức nhất định nhằm nâng cao hiểu biết
về bảo vệ cảnh quan đô thị, ý thức bảo vệ vệ cảnh quan đô thị cho cá nhân, tổ
chức, góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ cảnh quan đô thị, bảo vệ môi
trường”.
1.2.2. Phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức bảo vệ
cảnh quan đô thị cho học sinh trung học phổ thông
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng của NXB Giáo dục năm 2002, Phối hợp
là cùng chung góp, cùng hành động để hỗ trợ nhau.

Khái niệm phối hợp cũng phản ánh một cách rõ nét nhất về bản chất của tính
thống nhất, chặt chẽ, liên tục, toàn vẹn của quá trình giáo dục. Như vậy, nếu coi
các LLXH tham gia xây dựng giáo dục trong cộng đồng là các thành tố của hệ
thống tạo thành môi trường giáo dục thì chất lượng của hệ thống phụ thuộc vào
quan hệ tương tác giữa các lực lượng giáo dục trong cộng đồng mà biểu hiện của
nó là cơ chế và thể chế phối hợp.
Sự phối hợp các LLXH trong giáo dục là sự cùng bàn bạc, hỗ trợ nhau của
các LLXH nhằm tạo ra sự thống nhất về nhận thức, hành động trong công tác
giáo dục của tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Trong đó nhà trường chủ
động lên kế hoạch hoạt động phối hợp các LLXH để thực hiện mục tiêu, nội
dung giáo dục đã được xác định.
Theo đó, sự phối hợp giữa nhà trường, cha mẹ học sinh và các LLXH được
hiểu là các giáo viên trong nhà trường, phụ huynh học sinh và các tổ chức đoàn
thể, cộng đồng xã hội cùng thống nhất hành động và hỗ trợ nhau để thực hiện
nhiệm vụ giáo dục cho học sinh.
Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi kế thừa và khái quát
lại khái niệm phối hợp LLXH trong giáo dục như sau: Phối hợp các LLXH trong
giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh là quá trình tạo dựng mối quan hệ
nhằm tương tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa các LLXH để cùng thực hiện công việc
chung là giáo dục và nâng cao ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh.

13


1.3. Phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức bảo vệ cảnh
quan đô thị cho học sinh trung học phổ thông
Học sinh THPT đã có sự hình thành “cái tôi” biểu tượng mang tính hệ thống,
có nảy sinh cảm nhận về “tính chất người lớn” của bản thân và hình thành thế
giới quan. Tuy nhiên, sự phát triển ý thức đạo đức ở giai đoạn đầu thanh niên
chưa thực sự hoàn thiện mà từ lâu các nhà tâm lí học đã nhận thấy mâu thuẫn

bên trong ý thức đạo đức ở lứa tuổi thanh niên. Trong các đánh giá của mình,
học sinh THPT có thể rất cứng nhắc tuân theo các chuẩn mực đạo đức mà các
em đã tiếp nhận, đồng thời cũng nghi ngờ về tính đúng đắn của chúng. Điều này
có thể lí giải rằng lứa tuổi thanh niên vẫn là lứa tuổi mà ý thức đạo đức đang ở
giai đoạn đầu của quá trình hình thành. Về phương diện trí tuệ, học sinh THPT
đã hiểu được tính tương đối của các chuẩn mực. Sự nghi ngờ lật lại các chuẩn
mực đạo đức xã hội có thể hiện như một thao tác tìm kiếm, nghiên cứu, học hỏi
để tiếp thu.
Do đó, cần sự phối hợp của các lực lượng xã hội để giáo dục học sinh THPT
nói chung và giáo dục ý thức bảo vệ cảnh quan đô thị nói riêng.
1.3.1. Vai trò của lực lượng Nhà trường
Ban giám hiệu là những người đứng đầu trong nhà trường chịu trách nhiệm
quản lí các hoạt động của nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ
nhiệm, phân công. Ban giám hiệu nhà trường có trách nhiệm sau trong việc phối
hợp với các lực lượng tham gia vào giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh
THPT:
– Triển khai chương trình giảng dạy về bảo vệ CQĐT, bảo vệ môi trường
trong nhà trường, xây dựng kế hoạch đưa giáo dục bảo vệ môi trường cụ thể là
bảo vệ CQĐT vào dạy học chính khoá trong từng năm học.
– Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức Đoàn, Hội, Đội trong việc
giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ CQĐT; đẩy mạnh các cuộc thi, cuộc vận
động như “Chung tay vì môi trường xanh – sạch – đẹp” hay các cuộc thi tái chế
dành cho lứa tuổi học sinh, sinh viên.
14


– Phối hợp với Ban đại diện phụ huynh học sinh thường xuyên nhắc nhở,
giáo dục con em mình tự giác chấp hành quy định về việc bảo vệ CQĐT, bỏ rác
đúng nơi quy định, phân loại rác; không vứt rác bừa bãi; không tô, vẽ lên tường
rào và những nơi công cộng.

– Tạo điều kiện để tổ chức ĐTN Cộng sản Hồ Chí Minh triển khai các
phong trào, cuộc vận động học sinh, sinh viên tham gia các hoạt động bảo vệ
CQĐT.
– Tổ chức cho cán bộ quản lí, GV, nhân viên nghiên cứu, nắm vững yêu cầu,
nội dung, phương pháp của hoạt động giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho HS.
– Trực tiếp chỉ đạo hoạt động giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT, chỉ đạo các cán
bộ và GV chủ nhiệm lớp làm công tác giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học
sinh lồng ghép vào các hoạt động ngoại khoá, thống nhất các hoạt động giáo dục
của nhà trường.
– Vận động học sinh thực hiện các hành vi văn hoá bảo vệ CQĐT, khi tham
gia các sự kiện tập thể, xã hội bao gồm: các lễ hội đường phố, sự kiện thể thao,
văn hoá hay trong sinh hoạt hằng ngày, tự giác phân loại và để rác đúng nơi quy
định, phân loại rác, không vẽ bậy lên các công trình công cộng và những nơi
không được phép...
– Đưa ra nội dung giáo dục bảo vệ CQĐT là một trong những tiêu chí đánh
giá thi đua hằng năm đối với GV và học sinh.
– Phối hợp với GĐ, ĐTN Cộng sản Hồ Chí Minh, CĐDC tại địa phương để
đưa ra các giải pháp giáo dục bảo vệ CQĐT, đồng thời xử lí các trường hợp vi
phạm nếu có, biểu dương, khen thưởng các trường hợp học sinh tích cực tuyên
truyền, phổ biến, thực hiện và có những biện pháp sáng tạo về bảo vệ CQĐT.
1.3.2. Vai trò của lực lượng Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Trong Điều lệ ĐTN Cộng sản Hồ Chí Minh khoá X, nhiệm kì 2012 – 2017,
nêu rõ: “ĐTN Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị – xã hội của thanh
niên Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập,
lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì
15


mục tiêu, lí tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. (Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí

Minh khoá X, nhiệm kì 2012 - 2017, 2012) .
Nhiệm vụ trọng tâm của Đoàn thanh niên được xác định là đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong cán bộ, đoàn viên, thanh niên, học
sinh và nhân dân bảo vệ môi trường, bảo vệ CQĐT. Từ đó từng bước tạo chuyển
biến trong nhận thức và hành động của cán bộ, đoàn viên thanh niên. Để đạt
được mục tiêu đó các cơ sở Đoàn trường cần triển khai nhiều phong trào, hoạt
động tuyên truyền, phổ biến giáo dục, vận động Đoàn viên nghiêm chỉnh chấp
hành và gìn giữ môi trường, bảo vệ CQĐT trên địa bàn mình sinh sống.
Cụ thể, ĐTN Cộng sản Hồ Chí Minh có vai trò và trách nhiệm như sau:
– Xây dựng chương trình, hoạt động cụ thể tuyên truyền về bảo vệ môi
trường, bảo vệ CQĐT cho Đoàn viên Thanh niên.
– Tổ chức cho học sinh kí cam kết không phá huỷ CQĐT.
– Thiết kế các sản phẩm trực quan tuyên truyền về bảo vệ môi trường, bảo
vệ CQĐT trong nhà trường gắn với tuyên truyền văn minh học đường; phát huy
các sản phẩm tuyên truyền sẵn có về bảo vệ môi trường, bảo vệ CQĐT.
– Tuyên truyền, khuyến khích đoàn viên, thanh niên sử dụng túi giấy, vải
thay cho túi nilon.
– Tổ chức các hình thức tuyên truyền gắn liền với thực tế như: thu gom rác
trong trường học, trên địa bàn phường; cải tạo các bãi rác tự phát thành công
viên cây xanh, khu vui chơi; làm mới lại các bức tường cũ, bẩn, bóc các quảng
cáo không đúng nơi quy định... để tuyên truyền về bảo vệ CQĐT.
– Phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường xây dựng quy chế bảo vệ.
– Kịp thời phát hiện, tuyên dương, có giải pháp nhân rộng các điển hình là
những đoàn viên, chi đoàn có thành tích tiêu biểu trong quá trình tham gia xây
dựng nhà trường xanh – sạch – đẹp.

16


1.3.3. Vai trò của lực lượng Gia đình

GĐ là một thành phần không thể thiếu để tạo nên xã hội. Trải qua nhiều giai
đoạn lịch sử khác nhau, thì khái niệm cũng như quy mô và đặc điểm GĐ có
nhiều biến đổi. Tuy nhiên, trong luận văn này, chúng tôi sử dụng khái niệm:
“GĐ là một nhóm xã hội được hình thành trên cơ sở hôn nhân và quan hệ huyết
thống, những thành viên trong GĐ có sự gắn bó và ràng buộc với nhau về trách
nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ có tính hợp pháp được nhà nước thừa nhận và bảo vệ”.
Hồ Chủ tịch đã nói: “Rất quan tâm đến GĐ là đúng, vì nhiều GĐ cộng lại
mới thành xã hội, xã hội tốt thì GĐ càng tốt, GĐ tốt thì xã hội mới tốt”. Bởi vậy,
trong xã hội ở thời kì nào đi nữa thì GĐ vẫn luôn là hạt nhân của xã hội.
GĐ chính là trường học đầu tiên và lâu dài nhất của mỗi người, mỗi cá nhân
đều chịu ảnh hưởng từ giáo dục GĐ. Do đó, giáo dục GĐ với tính đa dạng và
nhiều chiều không chỉ ảnh hưởng của cá nhân đối với cá nhân (giữa cha mẹ với
con cái; giữa ông bà với cháu) mà còn ảnh hưởng của cả tập thể GĐ liên kết với
nhau tác động đến từng cá nhân qua lối sống, nếp sống ở mỗi GĐ. Tính đa dạng
còn thể hiện qua phương pháp giáo dục bằng lời nói thông qua thái độ, tình cảm,
nêu gương, không chỉ là nói lí thuyết hay nói suông mà phải bằng thực tiễn từ
những việc làm cụ thể. Tính đa chiều trong giáo dục GĐ thể hiện qua việc tiếp
xúc rộng rãi với môi trường xã hội mà các thành viên trong GĐ là người trực
tiếp tham gia vào các mối quan hệ đó.
Đối với lứa tuổi thanh niên, như đã trình bày ở trên, lứa tuổi này đã có sự
phát triển về “cái tôi” và ý thức đạo đức nhưng vẫn chịu những ảnh hưởng lớn từ
cách giáo dục của GĐ. Do đó, GĐ có những nhiệm vụ sau:
– Đẩy mạnh việc tạo thói quen lành mạnh cho con cái trong sinh hoạt hằng
ngày như: để rác đúng nơi quy định, giữ gìn vệ sinh nơi công cộng, có ý thức
trong việc sử dụng các công trình công cộng như công viên, khu vui chơi, hành
lang chung cư... Đây được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của lực lượng GĐ.
– Ngoài ra, GĐ có trách nhiệm trong việc phối hợp với nhà trường
và các lực lượng khác để giáo dục học sinh bảo vệ môi trường, bảo vệ CQĐT.
17



1.3.4. Vai trò của lực lượng Cộng đồng dân cư
Theo quan điểm Mác-xít, cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa các cá
nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng hoá lợi ích giống nhau của các thành
viên về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những người hợp thành cộng đồng
đó; bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác của họ, sự
gần gũi các cá nhân về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị chuẩn mực cũng như các
quan niệm chủ quan của họ về các mục tiêu và phương tiện hoạt động.
Quan niệm về cộng đồng theo quan điểm Mác-xít là quan niệm rất rộng, có
tính khái quát cáo, mang đặc thù của kinh tế – chính trị. Dấu hiệu đặc trưng
chung của nhóm người trong cồng đồng này chính là “điều kiện tồn tại và hoạt
động”, là “lợi ích” chung, là “tư tưởng”, “tín ngưỡng”, “giá trị” chung... Thực
chất đó là cộng đồng mang tính giai cấp, ý thức hệ.
Nói tóm lại, trong đời sống xã hội, cộng đồng là danh từ chung chỉ một tập
hợp người nhất định nào đó với hai dấu hiệu quan trọng: họ cùng tương tác (tác
động qua lại) với nhau hoặc họ cùng chia sẻ/có chung với nhau một hoặc một
vài đặc điểm vật chất hay tinh thần nào đó. [6]
Theo quy định tại Khoản 24 Điều 2 Luật Lâm nghiệp năm 2017: Cộng đồng
dân cư bao gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn,
làng, ấp, bản, buôn, bon, phum, sóc, tổ dân phố, điểm dân cư tương tự và có
cùng phong tục, tập quán. [28]
Theo đó, đề tài của chúng tôi sử dụng khái niệm: “Cộng đồng dân cư là
toàn thể những người cùng sinh sống trong một khu vực lãnh thổ hoặc đơn vị
hành chính họ gắn bó, liên kết cùng nhau thực hiện lợi ích và nghĩa vụ”.
1.3.5. Vai trò của lực lượng cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường
Trong công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục ý thức bảo vệ cảnh quan đô
thị cho học sinh, lực lượng cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường cũng
giữ một vai trò then chốt. Theo đó, lực lượng cảnh sát phòng chống tội phạm tại
địa phương được xem là lực lượng quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản
lý của hoạt động giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT trong cộng đồng nói chung và

18


trường học nói riêng. Cùng với nhà trường, phụ huynh học sinh, cộng đồng dân
cư thực hiện sâu, rộng và thường xuyên trong công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục về CQĐT và bảo vệ CQĐT với học sinh các cấp học khác nhau.
Lực lượng cảnh sát phòng chống tội phạm tại địa phương không chỉ góp
phần nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh mà
còn là lực lượng nòng cốt trong quá trình hình thành và xây dựng thói quen tốt
trong việc tham gia bảo vệ CQĐT, đặc biệt là học sinh THPT.
Thực hiện tốt công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục luật bảo vệ môi
trường và cảnh quan đô thị, tạo ra sự thay đổi về ý thức và hành vi bảo vệ
CQĐT của các em. Để các em tự giác tuân theo, chấp hành đúng các nội dung
đã được hướng dẫn.
Phổ biến luật bảo vệ môi trường và cảnh quan đô thị cho giáo viên, cán bộ
Đoàn, các buổi sinh hoạt định kỳ.
Biểu dương người tốt việc tốt, phê phán các cá nhân vi phạm, nêu cao hơn
nữa vai trò của các cơ quan tổ chức trong việc giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT
cho học sinh THPT trên địa bàn quận.
1.3.6. Vai trò của lực lượng Phòng Văn hoá và Thông tin
Phòng Văn hoá và Thông tin là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân
quận; thực hiện chức năng tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân quận thực hiện
quản lý nhà nước về văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo;
báo chí; xuất bản; bưu chính; viễn thông; công nghệ thông tin; phát thanh truyền
hình; thông tin cơ sở; thông tin đối ngoại và hạ tầng thông tin trên địa bàn, thực
hiện một số quyền hạn, nhiệm vụ theo sự Uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân quận
và theo quy định của pháp luật.
Phòng văn hoá thông tin có chức năng: tổ chức thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, đề án, chương trình, hướng dẫn, thông tin
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý, hoạt động phát triển sự

nghiệp văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo; chủ trương xã
hội hoá hoạt động văn hoá...
19


Hướng dẫn các tổ chức, đơn vị và nhân dân trên địa bàn quận thực hiện phong
trào văn hoá, văn nghệ; phong trào luyện tập thể dục, thể thao; xây dựng nếp
sống văn minh trong lễ hội; xây dựng phong trào bảo vệ các di tích lịch sử – văn
hoá và danh lam thắng cảnh; bảo vệ, tôn tạo, khai thác, sử dụng hợp lý tài
nguyên du lịch, môi trường du lịch, khu du lịch, điểm du lịch trên địa bàn. Nhằm
bảo vệ CQĐT trên địa bàn quân.
Hướng dẫn và kiểm tra hoạt động các hội và tổ chức phi chính phủ hoạt động
trên địa bàn thuộc các lĩnh vực văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và
quảng cáo theo quy định của pháp luật.
Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra, thanh tra việc chấp hành
pháp luật về hoạt động văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo
trên địa bàn quận; giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo của công dân về lĩnh vực
văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo theo quy định.
Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các tổ chức, đơn vị và cá nhân trên địa
bàn quận, thực hiện pháp luật về các lĩnh vực có liên quan đến vấn đề bảo vệ
CQĐT.
Tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch sau khi được
phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, theo dõi thi
hành pháp luật về lĩnh vực thông tin và truyền thông.
Như vậy, hiện nay trong xã hội tồn tại nhiều lực lượng xã hội có thể tham
gia vào quá trình giáo dục ý thức bảo vệ cảnh quan đô thị cho học sinh THPT,
các lượng lượng chính quy như Nnhà trường, Đoàn TNCS HCM, gia đình, cộng
đồng dân cư, các quỹ và các tổ chức phi chính phủ... Ngoài các lực lượng chính
nên trên còn có các lực lượng khác như Hội Phụ nữ, Hội Người cao tuổi....
Nhưng trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung

nghiên cứu các nhóm lực lượng: Nhà trường, gia đình, Đoàn TNCS HCM và
CĐDC.
20


1.3.3. Mối quan hệ của sự phối hợp các lực lượng xã hội tham gia giáo
dục ý thức bảo vệ cảnh quan đô thị cho học sinh trung học phổ thông
Việc phối hợp thống nhất giáo dục của nhà trường với giáo dục của cộng
đồng, xã hội, các tổ chức Đoàn thể đã trở thành một nguyên tắc cơ bản của nền
giáo dục xã hội chủ nghĩa. Bản chất của việc phối hợp đó là đạt được sự thống
nhất về những yêu cầu của giáo dục, định hướng sự phát triển của học sinh một
cách đúng đắn, đầy đủ và vững chắc, tạo được môi trường giáo dục thuận lợi
trong nhà trường và ngoài xã hội.
Môi trường giáo dục bao gồm: những yêu cầu thống nhất của nhà trường và
cộng đồng xã hội đối với hành vi của học sinh; những phương pháp và biện
pháp giáo dục được thực hiện khéo léo, không mâu thuẫn với nhau; những tình
huống được tạo ra trong cuộc sống để các hành vi tích cực có điều kiện thực
hiện; nhờ có môi trường giáo dục này, học sinh sẽ khi tham gia các mối quan hệ
sẽ hành động đúng theo yêu cầu và chuẩn mực ứng xử.
Việc giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT cần phải có sự hợp
tác, phối hợp nhuần nhuyễn giữa các lực lượng: Nhà trường, ĐTN Cộng sản
Hồ Chí Minh, GĐ và CĐDC. Trong đó, nhà trường giữ vai trò chủ đạo.
Chất lượng và hiệu quả của giáo dục nói chung và giáo dục ý thức bảo vệ
CQĐT nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quản lí và đặc biệt
phối hợp quản lí giữa Nhà trường, ĐTN Cộng sản Hồ Chí Minh, GĐ và CĐDC
có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Sự phối hợp này, tạo nên tác động tổng
hợp và phát huy được những tiềm năng phong phú của toàn xã hội tham gia vào
quá trình giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT. Mối quan hệ này
còn tạo ra môi trường sư phạm lành mạnh, hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu
cực, tạo ra những tác động tích cực cho quá trình giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT.

Tóm lại, sự phối hợp giữa các lực lượng giáo dục Nhà trường, ĐTN Cộng
sản Hồ Chí Minh, GĐ và CĐDC làm tăng thêm hiệu quả của quá trình giáo dục
ý thức bảo vệ CQĐT, hình thành văn hoá bảo vệ môi trường của học sinh

21


THPT; góp phần giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường, phá huỷ CQĐT và
môi trường sống là một trong những vấn nạn của toàn cầu hiện nay.
1.3.5. Nguyên tắc phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức bảo
vệ cảnh quan đô thị
Các nguyên tắc phối hợp các LLXH trong giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT là
những quan điểm chỉ đạo cho công tác phối hợp, giúp cho công tác này được
thực hiện đúng đắn và mang lại hiệu quả cao.
Phối hợp các LLXH trong giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh trung
học phổ thân cần dựa trên các nguyên tắc như:
– Đảm bảo tính pháp lí;
– Đảm bảo tính dân chủ;
– Đảm bảo hài hoà giữa các lợi ích của các bên liên quan;
– Đảm bảo tính kinh tế;
– Đảm bảo tính thực tiễn;
– Đảm bảo tính khả thi;
– Đảm bảo tính hiệu quả.
1.4. Nội dung phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức bảo vệ
cảnh quan đô thị cho học sinh trung học phổ thông
1.4.1. Mục tiêu phối hợp
Phối hợp các LLXH trong giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT
nhằm huy động sức mạnh tổng thể của toàn xã hội để tổ chức, tiến hành các hoạt
động giáo dục được thuận lợi từng bước giải quyết hiệu quả ý thức bảo vệ
CQĐT cho học sinh THPT, góp phần nâng cao chất lượng bảo vệ CQĐT cho

học sinh THPT.
1.4.2. Nội dung phối hợp
– Thống nhất các mục tiêu giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh
THPT: GĐ, Nhà trường và các tổ chức xã hội cùng thống nhất mục tiêu giáo dục
cho học sinh.
22


– Thống nhất nội dung giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT.
– Thống nhất phương pháp và hình thức giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho
học sinh THPT.
– Xác định điều kiện, phương tiện giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho HS
THPT.
– Phân công nhiệm vụ, trách nhiệm trong giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho
học sinh THPT, phân công rõ ràng nhiệm vụ và trách nhiệm của từng cá nhân, tổ
chức phụ trách công việc được giao theo từng kế hoạch đã đề ra. Mỗi cá nhân, tổ
chức thực hiện đúng theo yêu cầu nhiệm vụ đã được phân công và chịu trách
nhiệm trước mỗi công việc mà mình đảm nhận.
1.4.3. Phương pháp phối hợp
Phương pháp phối hợp các LLXH trong giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho
học sinh THPT đề cập đến cách thức thực hiện hoạt động phối hợp giữa các
LLXH tạo nên sự thống nhất và sức mạnh tổng hợp nhằm tổ chức các hoạt động
giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT mang tính đa dạng. Phối hợp
các LLXH trong giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT có thể thực
hiện bằng các phương pháp sau:
– Huy động các LLXH tham gia xây dựng và hoàn thiện kế hoạch giáo dục ý
thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT trong đó xác định đầy đủ nội dung, biện
pháp, hình thức tổ chức đồng thời phân công rõ về nhiệm vụ của từng lực lượng.
– Huy động các LLXH tham gia thực hiện kế hoạch giáo dục ý thức bảo vệ
CQĐT cho học sinh THPT đã được xây dựng.

– Huy động các LLXH giám sát việc thực hiện hoạch giáo dục ý thức bảo vệ
CQĐT cho học sinh THPT.
– Huy động sự tham gia của các LLXH trong việc thu hút đồng góp đầu tư
về cơ sở vật chất và kinh phí, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, nâng cao
chất lượng dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT.
– Huy động các LLXH tham gia đánh giá kết quả giáo dục ý thức bảo vệ
CQĐT cho học sinh THPT, kết quả phối hợp giữa các LLXH trong công tác này.
23


1.4.4. Hình thức phối hợp
Hình thức phối hợp các LLXH trong giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học
sinh THPT được đề cập đến những cách tiến hành tổ chức phối hợp các LLXH
theo địa điểm, đối tượng, số lượng nhằm thực hiện có hiệu quả mục đích, nhiệm
vụ, nội dung phối hợp đã được xác định. Phối hợp các LLXH trong giáo dục ý thức
bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT có thể được thực hiện theo các hình thức sau:
– Thông qua các hoạt động tuyên truyền và phổ biến kiến thức về giáo dục ý
thức bảo vệ CQĐT cho học sinh THPT.
– Thông qua các hoạt động dạy và học kiến thức về bảo vệ môi trường và
CQĐT.
– Thông qua các hoạt động trải nghiệm và sáng tạo.
– Thông qua các hội thi tìm hiểu về tác dụng của việc bảo vệ môi trường và
CQĐT.
1.4.4.1. Thông qua các hoạt động tuyên truyền và phổ biến kiến thức về
giáo dục ý thức bảo vệ cảnh quan đô thị cho học sinh trung học phổ thông
Hoạt động tuyên truyền và phổ biến kiến thức về CQĐT là truyền đạt trực
tiếp cho đối tượng về các nội dung về bảo vệ CQĐT nhằm nâng cao nhận thức,
niềm tin, ý thức cho học sinh giúp học sinh hành động đúng. Các hoạt động
tuyên truyền và phổ biến kiến thức về giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học
sinh THPT có thể tồn tại ở nhiều hình thức nhỏ như:

– Tổ chức cho GV, cán bộ trò chuyện về CQĐT, tình hình về ý thức bảo vệ
CQĐT trong giờ chào cờ, sinh hoạt lớp, sinh hoạt chuyên đề...
– Phổ biến các quy định pháp luật về bảo vệ CQĐT qua hệ thống phát thanh
của trường và cuối mỗi buổi học hoặc các ngày cố định trong tuần.
– Biên soạn và cấp phát rộng rãi các tài liệu về ý thức bảo vệ CQĐT thông
qua áp phích, khẩu hiệu, tờ rơi... các thông điệp về bảo vệ CQĐT.
– Khuyến khích học sinh tham gia vào tổ chức đoàn thể thực hiện các buổi
tuyên truyền cho học sinh hiểu về lợi ích của việc bảo vệ CQĐT qua các buổi
sinh hoạt tập thể, sân khấu hoá.
24


– Khen thưởng, biểu dương các tấm gương tích cực tham gia hoạt động
tuyên truyền, phổ biến kiến thức về bảo vệ CQĐT.
1.4.4.2. Thông qua các hoạt động dạy và học kiến thức về bảo vệ môi trường
và cảnh quan đô thị
Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các bộ môn. Theo đó, các tiết học như
bộ môn Giáo dục công dân, hướng nghiệp, hoạt động ngoài giờ lên lớp... đều có
thể lồng ghép các chương trình giáo dục ý thức bảo vệ CQĐT cho học sinh.
– GV xây dựng kế hoạch và nội dung cụ thể để triển khai lồng ghép các nội
dung vào những bài học và tiết học cụ thể.
– Định hướng, hướng dẫn cho học sinh hiểu, nắm rõ các nội dung bảo vệ
CQĐT qua các tiết dạy.
– Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học dưới nhiều hình thức phong phú
và đa dạng như: trắc nghiệm, đóng kịch, xử lí tình huống...
– Phối hợp với các lực lượng để tổ chức tập huấn và phổ biến kiến thức rộng rãi.
1.4.4.3. Thông qua các hoạt động trải nghiệm và sáng tạo
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự
hướng dẫn của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp và
các hoạt động khác nhau ở trong nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách

là chủ thể hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách
và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân.
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo chú trọng vào vai trò định hướng, chỉ đạo,
hướng dẫn của giáo viên, cha mẹ học sinh, người phụ trách Đoàn... Nhà giáo dục
không tổ chức, không phân công học sinh một cách trực tiếp mà là người hướng
dẫn, hỗ trợ, giám sát cho tập thể hoặc cá nhân học sinh tham gia trực tiếp hoặc ở
vai trò tổ chức hoạt động, giúp học sinh chủ động, tích cực trong các hoạt động;
phạm vi các chủ đề hay nội dung hoạt động. Có thể kể ra một số hình thức hoạt
động trải nghiệm sáng tạo: Hình thức có tính khám phá (thực địa, thực tế, tham
quan, cắm trại); hình thức có tính trình diễn (diễn đàn, giao lưu, sân khấu hoá);
hình thức có tính triển khai (dự án, nghiên cứu khoa học, hội thảo, câu lạc bộ);
25


×