Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

giúp học sinh hứng thú khi học chương 1 hình học 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.52 KB, 20 trang )

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Với đà phát triển khoa học và công nghệ như vũ bão hiện nay, công nghệ thông tin,
phương tiện kỹ thuật hiện đại ngày càng xâm nhập vào mọi lĩnh vực của cuộc sống,
vào nhà trường, việc đổi mới dạy học nói chung và dạy – học Toán nói riêng bắt buộc
phải thay đổi, dạy cho học sinh tư duy chứ không chỉ nhồi nhét kiến thức, học sinh
phải tự mình khám phá kiến thức mới thông qua các hoạt động, thông qua hợp tác
nhóm, qua sử dụng công nghệ thông tin.Theo định hướng dạy học này , giáo viên là
người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, điều khiển quá trình học tập còn học sinh là chủ
thể nhận thức , biết cách tự học, tự rèn luyện, từ đó hình thành, phát triển nhân cách
của người lao động theo những mục tiêu mới đã đề ra .
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy và tìm hiểu thực tiễn tại trường THCS PHÚ TÂN
tôi thấy có nhiều học sinh lớp 8 chưa hứng thú khi học tập môn toán nói chung đặc
biệt là hình học 8 nói riêng , đa số các em chưa nắm vững được kiến thức cơ bản của
phân môn Hình học trong đó có chương I hình học 8, chất lượng bộ môn vẫn còn thấp,
các bài kiểm tra, bài thi còn chưa đạt yêu cầu. Bằng thực tiễn trong giảng dạy và tìm
hiểu đã có những ý kiến như: Chương I hình học 8 khó tiếp thu, lượng kiến thức trong
giờ học còn nhiều mà lại khô khan, không hấp dẫn. Điều đó nảy sinh trong tôi những
trăn trở: Làm thế nào để học sinh hứng thú, say mê trong khi học? Làm thế nào để
nâng cao chất lượng bộ môn? Có biện pháp gì để tạo hứng thú say mê tìm tòi sáng
tạo, vận dụng những gì đã học vào thực tiễn? Với mong muốn tìm ra những đáp án đó,
đã thúc đẩy tôi dành nhiều thời gian nghiên cứu sâu hơn cách dạy chương I hình học 8
và cho ra sản phẩm sáng kiến kinh nghiệm “Giúp học sinh hứng thú khi học chương I
hình học 8”
II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
1. Thuận lợi:
- Về giáo viên: Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu nhà trường, cộng
với sự nhận xét góp ý của đồng nghiệp cùng chuyên môn, bản thân luôn nỗ lực học
tập, rèn luyện nhằm vững vàng hơn trong chuyên môn.
- Về học sinh : Một số các em có được sự quan tâm từ phía gia đình, đa số ngoan
hiền, biết vâng lời thầy cô giáo, có ý thức học tập về môn toán.



2. Khó khăn:
Qua công tác giảng dạy toán nói chung và chương 1 hình học 8 nói riêng tôi
thấy rằng :
-

Việc giải toán trong chương 1hình học 8 không chỉ đòi hỏi học sinh vận dụng
kiến thức mới mà cần nhớ rất nhiều kiến thức cũ của những năm học trước.

-

Các khái niệm mới trừu tượng - khó tiếp thu .

-

Khi giải toán hình học các em không biết bắt đầu từ đâu, trình bày chứng minh
như thế nào cho chặt chẽ.

-

Mức độ nắm kiến thức của học sinh không đều nhau .

-

Học sinh không ham mê học hình học .

-

Điểm kiểm tra phân môn hình học luôn thấp hơn đại số làm kết quả chung của
môn toán chưa cao .


3. Số liệu thống kê:
Qua điều tra về mức độ hứng thú học chương 1 Hình học 8 khi chưa thực hiện đề tài
như sau:

LỚP

TSHS

8A1
8A3

29
31

Số HS có hứng thú
SL
TL
12
41,4%
5
16,1%

Số HS không có hứng thú
SL
TL
17
58,6%
26
83,9%


Bảng thống kê điểm khảo sát khi chưa áp dụng nội dung của đề tài:
Lớp

HS

0-2

>2-<5

5-<6,5

6,5-<8

8-<10

10

Trên Tb

HD
8a1
8a3

29
31

SL
%
1

3,4
4
12,9

SL
%
11 37,9
14 45,2

III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận

SL
%
8
27,6
7
22,5

SL % SL %
5
17,2 3
10,3
5
16,1 1
3,2

SL %
1
3,5

0
0

SL
17
13

%
58,6
41,9


Có thể khẳng định rằng việc dạy học là một công việc vừa mang tính
khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Vậy nên với việc dạy học đòi
hỏi người giáo viên cần có năng lực sư phạm vững vàng, phương
pháp giảng dạy phù hợp theo hướng tích cực giúp học sinh chủ động
trong việc chiếm lĩnh kiến thức . Chính vì lẽ đó việc tạo cho học sinh
niềm hứng thú trong học tập phân môn Hình học hoàn toàn phụ
thuộc vào năng lực sư phạm của giáo viên . Ngoài việc lên lớp người
giáo viên phải không ngừng học hỏi,tìm tòi tài liệu có liên quan để
làm sao có thể truyền thụ cho học sinh một cách nhẹ nhàng, dể
hiểu, phù hợp với khả năng tiếp thu của từng đối tượng học sinh
Bám sát định hướng chung của ngành trong việc đổi mới
phương pháp dạy học Toán ở trường THCS là tích cực hóa hoạt động
học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển năng lực tự học, nhằm
hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập sáng tạo, nâng cao
năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm say
mê, hứng thú học tập cho các em. Đặc biệt những năm học gần đây
toàn ngành đang thực hiện phong trào “ Xây dựng trường học thân

thiện, học sinh tích cực” thì việc tạo hứng thú học tập cho học sinh
cũng chính là tạo cho các em có niềm tin trong học tập, khơi dậy
trong các em ý thức “ mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Đó
chính là cơ sở để khẳng định tạo hứng thú cho học sinh học tập nói
chung, phân môn Hình học nói riêng trở thành một đòi hỏi đối với
người làm công tác giảng dạy.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
Trên cơ sở đó, tôi nghĩ giáo viên cần phải xây dựng được cho học sinh một sự hứng
thú, kích thích tính tò mò, tự giác tìm hiểu về môn học. Bằng kinh nghiệm hiểu biết và
tìm hiểu qua nhiều thông tin tôi có một số giải pháp như sau:
Biện pháp 1: Tạo sự hấp dẫn cho học sinh khi tìm hiểu về kiến thức mới.
Giới thiệu bài là khâu quan trọng trong tiến trình dạy học. Việc giới thiệu bài
một cách hấp dẫn sẽ thu hút sự chú ý của học sinh, tạo hứng thú học tập và kích thích


sự nổ lực của các em trong việc suy nghĩ, tìm tòi khái niệm. Giáo viên lựa chọn biện
pháp và hình thức dẫn dắt học sinh vào bài mới sao cho nhẹ nhàng, hấp dẫn nhưng
không cầu kì, kéo dài thời gian. Có thể gợi mở bằng tranh ảnh, bằng vật thật, hoặc cho
học sinh thực hiện một ví dụ; diễn giải bằng lời hoặc bằng cách nêu tình huống có vấn
đề sẽ lôi cuốn các em vào bài giảng một cách thoải mái.
Như vậy, phải làm thế nào để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học? Rõ
ràng để làm được điều này, giáo viên phải đầu tư thật kỹ cho tiết dạy của mình. Riêng
tôi, khi dạy tiết hình, thường chọn cho mình một phương pháp tạo tình huống từ
những vấn đề thực tiễn như: Đưa ra một hình huống trong thực tế hoặc kể một câu
chuyện… có liên quan mật thiết đến toán học. Từ đó, học sinh tham gia tiết học tích
cực, hào hứng hơn, các em không còn cảm giác bị gò ép, căng thẳng và chán nản nữa,
đồng thời các em sẽ nhận thức được tính thực tiễn của bộ môn.
Ví dụ 1:
Khi dạy bài “Đường trung bình của tam giác” tôi đưa ra vấn để làm thế nào để
gián tiếp đo khoảng cách giữa hai điểm B, C ở hai bên bờ ao.

B



• C

Ví dụ 2:
Khi dạy bài “Đối xứng trục” vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để cắt được
một chữ H nhanh như tờ giấy hình chữ nhật.

H

Biện pháp 2: Sử dụng sơ đồ tư duy để củng cố kiến thức .
Điều kiện bắt buộc để giải được bài tập hình học là học sinh phải nhớ các tính chất
hay định lí vì vậy trong mỗi tiết luyện tập hay mỗi tiết ôn tập chương tôi luôn yêu cầu
các em hệ thống lại kiến thức của bài , của chương đã học bằng cách trình chiếu sơ đồ
tư duy củng cố hoặc dùng để kiểm tra bài cũ của các em. Nhờ đó các em khắc sâu
được kiến thức bài học. Đôi khi có những bản đồ tư duy hay tôi yêu cầu lớp vẽ trên
khổ giấy lớn hơn như A1 hay A0 rồi trang trí trong lớp học để hằng ngày các em quan
sát và nhớ lâu hơn kiến thức .


Đầu tiên tôi chỉ đưa ra các nhánh chính, sau đó yêu cầu HS thảo luận, tự lên
bảng vẽ và điền nội dung vào các nhánh phụ, cuối cùng là nhận xét thành quả của các
em. Sau đó tôi chốt lại các vấn đề bằng các bản đồ tư duy đã chuẩn bị sẵn, cho HS
nắm, nhấn mạnh cho các em thể hiện được tính sáng tạo, không cần vẽ theo một
khuôn mẫu nào cả. Vấn đề cốt yếu ở đây là các em phải thể hiện hết nội dung của định
nghĩa, tính chất, các dấu hiệu nhận biết (bằng lời hoặc bằng hệ thức nhưng tốt nhất là
nên thể hiện bằng hệ thức) sao cho đầy đủ, dễ nhớ theo cách riêng của mình. Khi HS
đã thiết kế BĐTD và tự “ghi chép” phần kiến thức như trên là các em đã hiểu sâu kiến

thức và biết chuyển kiến thức từ SGK theo cách trình bày thông thường thành cách
hiểu, cách ghi nhớ riêng của mình.
Điều làm tôi rất vui là với cách truyền đạt, lập bản đồ tư duy như thế đã đạt
được kết quả tương đối, các em đã tự tin thể hiện được tính sáng tạo của mình thông
qua cách lập bản đồ tư duy. Một điều quan trọng là các em ghi nhớ tương đối tốt hơn
kiến thức, từ đó có thể vận dụng kiến thức để giải quyết các bài tập liên quan, từ đó
các em sẽ không còn cảm thấy tiết luyện tập quá khô khan, hay tiết ôn tập chương quá
nặng nề. Dưới đây là một số ví dụ về bản đồ tư duy tôi đã dùng để hệ thống kiến thức
của bài học trong các tiết luyện tập hoặc của tiết ôn tập chương I hình học 8:
Ví dụ 1: Bản đồ tư duy dùng củng cố kiến thức trong tiết luyện tập “ Hình bình hành”


Ví dụ 2: Khi dạy bài luyện tập hình chữ nhật tôi cho HS nắm lại các kiến thức của bài
“Hình chữ nhật” thông qua bản đồ tư duy sau:


Qua các ví dụ trên tôi vừa dùng lời để thể hiện, vừa dùng hình ảnh, hệ thức để
thể hiện lên bản đồ tư duy thông qua công nghệ thông tin, trong đó việc sử dụng màu
sắc là không thể thiếu. học sinh cảm thấy sinh động, hấp dẫn hơn, nhanh tiếp thu hơn,
nhớ bài lâu hơn. Thực tế cho thấy việc dùng bản đồ tư duy rất thích hợp cho việc ôn
tập lí thuyết của chương


Sơ đồ tư duy về mối quan hệ giữa các tứ giác
Biện pháp 3: Tổ chức một số trò chơi toán học
Hạn chế lớn nhất của học sinh hiện nay là rất nhanh quên. Có khi ngay tại lớp các
em đã nhớ hết các dấu hiệu nhận biết hình bình hành; hình chữ nhật; hình thoi; ….
Nhưng vài ngày sau các em đã quên gần hết.
Để củng cố kiến thức cho học sinh mà không gây nhàm chán ta có thể thông qua
các trò chơi.

GV có thể tổ chức trò chơi vào phần củng cố bài học, khi thời gian tiết học còn
khoảng 5 đến


10 phút. Như vậy là sau khi học sinh đã nổ lực tự giải quyết các nhiệm vụ của bài
học, ta chuyển sang một hình thức học tập mới ( trò chơi ) giúp các em chuyển từ




trạng thái căng thẳng sang trạng thái hưng phấn rất phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lí các em học sinh .
 Cách tiến hành tổ chức trò chơi:
Bước 1: Chuẩn bị
GV: Chia nhóm, đặt tên nhóm, ấn định số lượng thành viên tham gia trò chơi
mỗi nhóm (Tôi thường chia theo dãy )
HS: Cử thành viên tham gia trò chơi ( xếp hàng hoặc đứng tại chỗ theo yêu cầu
trò chơi )
Bước 2: Nêu tên trò chơi
GV: Nêu tên và ý nghĩa của trò chơi
HS: Nhắc lại tên trò chơi
Bước 3: Phổ biến luật chơi
GV

HS

- Nêu rõ cách chơi: hiệu lệnh, phần việc và cách thức làm
việc ( điền, viết, nối…. của mỗi thành viên tham gia trò
chơi )


-

Hiểu luật chơi.

-

Lưu ý để không
phạm luật

- Nêu rõ cách cho điểm, đánh giá đúng, nhanh, rõ ràng.

- Các HS còn lại

- Công bố trọng tài: GV
Bước 4: Tiến hành trò chơi
-

Hô hiệu lệnh dứt khoát

- Các nhóm đồng loạt

-

Quan sát, điều khiển, giúp đỡ các thành viên về cách

tiến hành dạng tiếp sức .

chơi
Bước 5: Tổng kết trò chơi
-


Kiểm tra kết quả để đánh giá, cho điểm từng yêu cầu.

-

Nêu chỗ sai, sửa sai.

-

Từ hệ thống các bài tập trong trò chơi đã thực hiện

-

Tính tổng điểm của

-

cần nêu câu hỏi phụ để rút ra kết luận

từng nhóm và công bố

Tuyên dương học sinh ( hạn chế chê HS )

kết quả.
-

Rút kinh nghiệm.


Bên cạnh những kiến thức mang tính chất thuật toán giáo viên cũng cần luyện tập cho

học sinh kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, trình bày ý kiến của bản thân mình trước các bạn
học sinh nhằm rèn luyện tính khoa học, chính xác … Trò chơi ô chữ sẽ giúp các em
học sinh rèn luyện được kỹ năng này.
Ví dụ 1: Để giúp học sinh nhớ lại định nghĩa, tính chất, các dấu hiệu nhận biết hình
vuông giáo viên có thể thiết kế một trò chơi ô chữ đơn giản:
Câu hỏi
1. …............ có hai đường chéo vuông góc với nhau là hình vuông
2. Diện tích của hình vuông bằng ….......... độ dài mỗi cạnh.
3. Hình vuông là tứ giác có các góc bằng nhau và các …........... bằng nhau.
4. Hình chữ nhật có hai cạnh kề …........... là hình vuông.
5. Hình thoi có một ….............. là hình vuông.
6. Bốn lần độ dài cạnh hình vuông là …................. của hình vuông đó.
7. Hình vuông có …......... trục đối xứng.
8. Hình chữ nhật có đường chéo đồng thời là đường …......... thì nó là hình vuông.
9. Hình thoi có hai …................. bằng nhau là hình vuông.
Đáp án.
1
2
3
4
5
TRÒ CHƠI Ô CHỮ

6
7
8
9

H I


N H C H Ư N H Â T
B I N H P H Ư Ơ N G
C A N H
B Ă N G N H A U
G O
U Ô N G
C H
B
P H Â
Đ Ư Ơ N

V
U
Ô
N
G

V I
N
G I A C
C H E O

Giải được ô chữ là học sinh đã nắm tương đối đầy đủ các kiến thức của hình vuông
Ví dụ 2: để củng cố kiến thức khi học xong bài đối xứng trục tôi đã thiết kế trò chơi
“CÂU CÁ” trên VIOLET, với giao diện đẹp mắt, hấp dẫn sẽ tạo cho học sinh sự hứng
thú muốn tìm hiểu, khám phá và yêu thích môn học hơn.



Biện pháp 4: Giúp học sinh vượt qua khó khăn khi chứng minh hình học

Nhiều học sinh lớp 8 khi đứng trước một bài toán chứng minh hình học thường có tâm
trạng hoang mang, không xác định được phương hướng, không biết phải làm những gì
để tìm ra lời giải cho bài toán.
Làm cách nào để giúp học sinh hình thành và rèn luyện được kỹ năng tìm tòi lời giải
cho bài toán chứng minh hình học, đặc biệt là chương 1 hình học 8. Qua nhiều năm
dạy hình học 8 tôi rút ra được một số kinh nghiệm sau:
• Phải coi trọng bước vẽ hình
Khả năng vẽ hình không phải học sinh nào cũng có, trong khi học phân môn
Hình học một yếu tố quan trọng là phải biết vẽ hình. Khi vẽ cần xác định cho
học sinh vừa đọc vừa vẽ, cần bổ sung các yếu tố phụ và biết biểu diễn các ngôn
ngữ sang kí hiệu hình học. Để thực hiện những điều đó giáo viên phải lựa chọn
cách vẽ để hướng dẫn học sinh vẽ hình. Cụ thể:
- Rèn cho học sinh có thói quen kí hiệu trên hình vẽ các trường hợp : các đoạn
thẳng bằng nhau, các góc bằng nhau, các trường hợp vuông góc, bổ sung các
yếu tố phụ trên hình....
- Hướng dẫn học sinh cách sử dụng các dụng cụ:
+ Êke: vẽ góc vuông, hai đường thẳng song song....
+ Compa: vẽ đường tròn, cung tròn, hai đoạn thẳng bằng nhau..
+ Thước thẳng: vẽ đường thẳng...
- Khi trình bày hình vẽ trên bảng giáo viên nên sử dụng phấn màu hợp lí ở các
điểm đặc biệt, đường đặc biệt giúp học sinh dễ phát hiện kiến thức từ vẽ hình.
Ở một số tiết giáo viên nên sử dụng phần mềm trình chiếu các bước vẽ hình
cho học sinh quan sát.
Tóm lại, các bài tập đều yêu cầu học sinh vẽ hình, nên khi vẽ các em phải đọc
kỹ bài, đọc đến đâu vẽ đến đó, vẽ rõ ràng và dùng đúng dụng cụ vẽ, từ đó học


sinh trả lời yêu cầu đề bài. Đặc biệt phải hình thành cho học sinh thói quen
phân tích kỹ đề bài, định hướng vẽ và dự đoán các trường hợp xảy ra, không
nên vẽ hình đặc biệt, điểm đặc biệt. Chẳng hạn:

-Cho tam giác ABC thì không nên vẽ cân, vuông hay đều.
-Cho M là điểm nằm giữa AB thì không nên lấy tại trung điểm của AB
• Khai thác triệt để giả thiết để phát hiện những quan hệ mới
Giả thiết của bài toán là các vật liệu cần thiết để chúng ta chứng minh thành
công bài toán đó.
Giả thiết đề cập đến hình nào thì chúng ta cần khai thác các tính chất của hình
đó, đặc biệt là những tính chất có liên quan đến các dữ kiện trong bài.
Càng phát hiện được nhiều quan hệ mới từ giả thiết chúng ta càng có nhiều vật
liệu để giải bài toán.
Muốn vậy người giải toán ngoài việc cần trang bị cho mình một hệ thống kiến
thức cơ bản, cần phải luôn đặt ra cho mình một câu hỏi thường trực khi đứng
trước giả thiết của mỗi bài toán, đó là: Bài toán cho điều này ta có thể suy ra
điều gì? nó có liên quan gì với kết luận không? Từ đó tìm cách để nối với kết
luận.
• Phân tích kết luận để định hướng chứng minh
Với mỗi bài toán chứng minh hình học cụ thể có nhiều phương án để đi đến kết
luận, song không phải phương án nào cũng khả thi.
Phân tích kết luận để định hướng chứng minh giúp ta chọn được những phương
án có nhiều khả năng đi đến đích nhất.
Muốn vậy người giải toán phải luôn đặt ra cho mình câu hỏi thường trực trước
mỗi kết luận của bài toán đó là: Để chứng minh điều này ta phải chứng minh
điều gì? câu hỏi này đặt ra liên tục cho đến khi ta nối được với giả thiết đã
được khai thác ở trên.


• Sử dụng hết các dữ kiện của bài toán và kết quả của các câu phía trước
Trong quá trình tìm cách giải bài toán cần chú ý sử dụng hết mọi dữ kiện của
bài toán. Nếu còn một dữ kiện nào đó chưa sử dụng đến, hãy tìm cách sử nó.
Nếu bài toán gồm nhiều bài toán nhỏ (nhiều câu) thì phải chú ý đến kết quả của
câu trên khi tìm cách chứng minh câu dưới, vì thông thường thì kết quả câu

trên là gợi ý là đường dẫn cho những câu sau.
• Đổi hướng chứng minh khi đi vào ngõ cụt
Khi đi theo một hướng chứng minh nào đó mà gặp bế tắc, chúng ta hãy nghĩ
đến một hướng chứng minh khác và tạm thời quên đi một số bước tư duy của
hướng chứng minh ban đầu mà phải tìm một con đường khác.
Muốn vậy chúng ta cần trở lại chỗ xuất phát ban đầu và bình tĩnh tìm lối ra
theo hướng mới.
• Đưa lạ về quen
Thao tác đưa lạ về quen là một thao tác tư duy cơ bản trong giải toán, riêng với
bài toán chứng minh hình học thao tác này có vai trò vô cùng quan trọng.
Nên khi gặp một bài toán lạ ta hãy cố gắng chia nhỏ bài toán ra thành những
bài toán nhỏ quen thuộc (bài toán quen thuộc là những tính chất, những định lý,
hệ quả đã được chứng minh hoặc công nhận, hay những bài toán mà chúng ta
đã giải hoặc biết cách giải chúng.
Khi giải toán chúng ta sẽ gặp những dấu hiệu quen thuộc, từ những dấu hiệu đó
hãy cố gắng liên hệ với những bài toán đã giải, những định lý, tính chất đã
được chứng minh hoặc ta đã biết cách giải, và hãy sử dụng những kết quả quen
thuộc đã biết đó để giải bài toán mới này.
Muốn vậy ngoài việc trang bị cho mình những kiến thức nền tảng vững chắc
người giải toán cần phải được va chạm nhiều với các dạng toán chứng minh và
tập cho mình một khả năng phân tích, tổng hợp, để có thể “đưa lạ về quen”.


A

Ví dụ 1:(Trong tiết ôn tập chương I – Hình học 8).
K

//


Cho tam giác ABC cân tại A,đường trung tuyến AM.

\

I

Gọi I là trung điểm của AC, K là điểm đối xứng của

\

//

M qua I. Tứ giác AMCK là hình gì? Vì sao?
B
Phân tích tìm lời giải
Tứ giác AMCK là hình chữ nhật


AMCK là hình bình hành


IA IC(gt)
IM ⊥ IK (gt)


Lời giải
Xét tứ giác AMCK có :
IA=IC (gt)

AMˆ C = 900



AM ⊥ BC


Vì Δ ABC cân tại A , AM
trung tuyến xuất phát từ
đỉnh nên đồng thời là
đường cao.

IM=IK( vì K đối xứng với M qua
I) Suy ra hai đường chéo AC và
MK cắt nhau tại trung điểm mỗi
đường.
T/g AMCK là hình bình hành . (1)
Mà Δ ABC cân tại A,có AM là
đường trung tuyến xuất phát từ
đỉnh, nên AM cũng là đường cao.
Suy ra góc AMC = 900 (2)

Từ (1)
và (2) suy ra AMCK là hình
GV: Hướng dẫn học sinh tìm lời giải theo sơ đồ phân tích
đi lên
X
X
C
M
HS: (có thể gọi HS trung bình – yếu) lên bảng trình bày lời giải theo sơ đồ. Sau đó giáo
viên cho cả lớp nhận xét và sửa chỗ sai.

Dựa theo sơ đồ, các HS trung bình – yếu có thể lên bảng trình bày lời giải bài toán hình
bằng ngôn ngữ của bản thân. Và nếu người giáo viên thường xuyên tạo điều kiện cho học
sinh lên bảng tự mình trình bày lời giải thì kĩ năng giải toán hình của các HS trung bình –
yếu sẽ được nâng lên, có như thế các em mới tự tin hứng thú học tập.


Biện pháp 5: Vận dụng phương pháp dạy học tích hợp liên môn
Trước thực trạng học của học sinh là học không đi đôi với hành, việc đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích hợp liên môn sẽ giúp học sinh nhận ra rằng học
tốt toán có thể giúp các em học tốt các bộ môn khác. Phân môn hình học là phân môn
gắn liền với thực tế cuộc sống, vì vậy trong quá trình dạy học tôi thường cho học sinh
liên hệ kiến thức đã học vào thực tế, sử dụng các kiến thức hình học vào các công việc
hằng ngày . Điều này thật sự gây được nhiều hứng thú cho học sinh, qua đó các em
nắm được các kiến thức trừu tượng dễ hơn , nhớ lâu hơn và đặc biệt là yêu thích học
hình học hơn.
Chương I – Bài 6 – Đối xứng trục: giáo viên đặt vấn đề vào bài “Cô có một
mảnh giấy hình chữ nhật, một bạn giúp côcắt một chữ H mà chỉ cắt 2 đường kéo”. Có
thể học sinh sẽ phát hiện ra cách gấp mảnh giấy làm tư và cắt bằng 2 đường kéo
vuông góc với nhau. Cách gấp giấy đó cũng dựa trên một phần lí thuyết của bộ môn
Hình học 8, cụ thể là vận dụng tính chất hình có trục đối xứng để giải quyết. Kết thúc
bài học giáo viên cho học sinh vận dụng lí thuyết giải quyết tình huống thực tiễn, tích
hợp kiến thức liên môn giữa Hình học 8 với môn Mĩ thuật cắt chữ H, chữ T, chữ M,
chữ O ... Trang trí hình vuông dựa trên cơ sở xác định trục đối xứng của các hình để
giải quyết vấn đề.
Qua các bài học có liên hệ thực tế và liên hệ nhiều môn giúp các em cảm thấy toán
học không khô khan và ít mang tính thực tế như một số người vẫn thường nghĩ. Mà sự
thật Toán học rất phong phú và sinh động, nó có vai trò rất quan trọng đối với đời
sống con người và sự phát triển của nền văn minh nhân loại. Vì lí do đó, các em cần
yêu thích môn Toán, Toán học là một hành trang hữu ích để đi đến những ước mơ và
hứa hẹn nhiều điều thú vị nếu sau này chúng ta tiếp tục nghiên cứu về môn Toán.


Trang 16


IV. KẾT QUẢ
Trong quá trình giảng dạy học kỳ I vừa qua khi áp dụng kinh nghiệm của mình
để soạn giảng và vận dụng vào thực tế thì tôi thấy có sự thay đổi:
- Học sinh đã có những thái độ học tập tích cực, thích thú hơn trong tiết học,
chủ động nêu lên những thắc mắc, khó khăn về bộ môn với giáo viên, các em hưởng
ứng rất nhiệt tình. Bên cạnh đó những bài tập giao về nhà đã được các em làm một
cách nghiêm túc, tự giác học bài và nắm được các kiến thức cơ bản sau khi học xong
mỗi bài.
- Phần lớn chất lượng các bài kiểm tra đã được nâng lên, các em đều vẽ hình
đúng, xác định hướng đi bài toán, số học sinh minh chứng lôgic và chặt chẽ được
tăng.
- Từ những bài học đa số các em đều vận dụng vào thực tiễn từ những kiến
thức đã học: Đo đạc, cắt hình, xác định tính đối xứng của vật thể, …
Sau khi áp dụng đề tài này thì kết quả khảo sát số lượng học sinh hứng thú đối với nội
dung chương 1 hình học 8 như sau:

LỚP

TSHS

8A1
8A3

29
31


Số HS có hứng thú
SL
%
27
93,1
22
71

Số HS không có hứng thú
SL
%
2
6,9
9
29

Kết quả điểm thống kê sau khi áp dụng đề tài:
Lớp

HS

0-2

>2-<5

5-<6,5

6,5-<8

8-<10


10

Trên Tb

SL %
7
24,1
10 32,3

SL %
11 37,9
9
29,0

SL %
6
20,7
1
3,2

SL %
28 96,6
26 83,9

HD
8a1
8a3

29

31

SL % SL %
0
0
1
3,4
0
0
5
16,1

SL
4
6

%
13,8
19,4

Từ kết quả áp dụng trong thực tế giảng dạy Toán học của bản thân, tôi nhận thấy đề
tài “Giúp HS hứng thú khi học chương 1 hình học 8” có thể áp dụng với tất cả các đối
tượng học sinh khối 8 trong các nhà trường trung học cơ sở, với tất cả những người
làm công tác giảng dạy Toán.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

Trang 17


-


Thực tiễn dạy học trong thời gian qua và việc áp dụng các giải pháp trên vào
quá trình dạy học môn Toán nói chung và môn Hình học nói riêng tôi đã rút ra
một số bài học cơ bản.

-

Mỗi giáo viên cần phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng, rèn luyện để không
ngừng trau dồi về kiến thức kỹ năng dạy học môn Hình học.

-

Thường xuyên đổi mới về cách soạn, cách giảng, đưa các ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học, đa dạng hoá các phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học để lôi cuốn được học sinh vào quá trình học tập.

-

Cần quan tâm sâu sát đến từng đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh yếu kém,
giúp đỡ ân cần, nhẹ nhàng tạo niềm tin, hứng thú cho các em vào môn học.

-

Trong quá trình dạy giáo viên phải hướng dẫn học sinh vào việc phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo, tạo ra những tình huống có vấn đề để học sinh
thảo luận. Trong mỗi tiết phải tạo ra được quan hệ giao lưu đa chiều giữa giáo
viên – học sinh, giữa cá nhân, tổ chức nhóm.

-


Giáo viên cần mạnh dạn đưa các ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học
như các phần mềm vẽ hình, các loại máy chiếu đa năng, các hiệu ứng hình ảnh
để tiết học thêm sinh động.

- Sau nghiên cứu và triển khai vấn đề này bản thân tôi nhận thấy: Để nâng cao
hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8 thì giáo viên phải tạo hứng thú cho
học sinh thông qua tìm hiểu kiến thức mới, thông qua các buổi thực hành,
thông qua việc phân loại bài tập, hướng dẫn học sinh giải bài tập, qua việc vẽ
hình… Đồng thời phải luôn gần gũi, tìm hiểu những khó khăn, sở thích của học
sinh để từ đó có những biện pháp phù hợp hơn. Bên cạnh đó cần có những thời
lượng phù hợp áp dụng kiến thức hình học vào thực tiễn đời sống và để học
sinh thấy được tính khoa học và giá trị thực tiễn của bộ môn.

VI. KẾT LUẬN
Trang 18


Do điều kiện và năng lực của bản thân tôi còn hạn chế, các tài liệu tham khảo
chưa thật đầy đủ nên chắc chắn khi thực hiện đề tài còn những điều chưa hoàn thiện.
Nhưng tôi mong rằng đề tài này ít nhiều cũng giúp học sinh có thêm động lực ,sự say
mê và nhất là thay đổi được thói quen học thụ động trong học phân môn hình học nói
riêng và môn Toán nói chung.
Bằng những kinh nghiệm rút ra sau nhiều năm giảng dạy ở trường THCS, nhất
là những bài học rút ra sau nhiều năm dự giờ thăm lớp của các đồng nghiệp. Cùng với
sự giúp đỡ tận tình của ban giám hiệu nhà trường, của tổ chuyên môn trường THCS
Phú Tân, Tôi đã hoàn thành đề tài " Giúp học sinh hứng thú khi học chương 1 hình
học 8" ở trường THCS Phú Tân.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng với kiến thức còn hạn chế chắc chắn tôi chưa thể
đưa ra vấn đề một cách trọn vẹn được, mong các thầy cô giáo đóng góp ý kiến xây
dựng để đề tài này được hoàn thiện hơn.

.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Toán 8.
Trang 19


2. Sách bài tập Toán 8.
3. Sách giáo viên Toán 8.
4. Chuẩn kiến thức kỹ năng Toán THCS.
5. Nâng cao và phát triển Toán 8.
6. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Toán THCS.
7. Trang web: violet.vn, tailieu.vn, google.com

Phú tân, Ngày 12 tháng 11 năm 2015
Người viết

Lâm Thị Lý

Trang 20



×