Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Đánh giá tác dụng của điện trường châm kết hợp bài thuốc “thân thống trục ứ thang” trong điều trị hội chứng thắt lưng hông do thoát vị đĩa đệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (848.09 KB, 95 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng thắt lưng hông (HCTLH) là hiện tượng đau cấp tính hoặc mạn tính
ở vùng từ ngang đốt sống L1 đến ngang đĩa đệm L5 – S1 (bao gồm cột sống thắt lưng
-CSTL và các tổ chức xung quanh) ở phía dưới có thể lan xuống chân, do nhiều
nguyên nhân (Bệnh lí đĩa đệm, viêm khớp cột sống, viêm rễ thắt lưng cùng, đau thần
kinh hông to, nội tạng, thoái hóa cột sống, thoát vị đĩa đệm CSTL...). Bệnh là một hội
chứng thường gặp nhiều ở Việt Nam cũng như trên thế giới, chủ yếu xảy ra ở lứa tuổi
20 – 50 (thời kì con người có năng suất lao động cao nhất) nên đã gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức lao động, sản xuất và kinh tế xã hội [1].
Nguyên nhân chính của HCTLH là do thoát vị đĩa đệm CSTL (Herniated
disc). Thoát vị đĩa đệm (TVĐĐ) chiếm tỷ lệ khoảng 63-73% tổng số đau cột sống
thắt lưng [2] Theo Malcolm I.V.Jayson đã tổng kết: cuối thể kỷ XX, tỷ lệ bệnh tăng
lên ở hầu hết các khu vực trên thế giới, đặc biệt ở những nước có điều kiện kinh tế
xã hội thấp; theo Deyo R.A và cộng sự trong nghiên cứu mới đây đã khẳng định:
75% tổng số người trên 16 tuổi bị đau thắt lưng ít nhất một lần trong đời. Các tác
giả đồng thời cũng đưa ra nhận xét: tỷ lệ đau thắt lưng tương đương ở hai giới, cao
nhất ở nhóm tuổi 30-50 [3],[4]. Tại Mỹ, Theo Greenberg MS (1997) ở Mỹ hàng
năm có khoảng 1% dân số bị TVĐĐ thắt lưng. Bệnh được điều trị chủ yếu bằng
phương pháp nội khoa, chỉ có 10-20% trường hợp phải can thiệp phẫu thuật. Theo
Tổ chức y tế thế giới 80% dân số có ít nhất một lần đau thắt lưng trong đời. Đây là
nguyên nhân hàng đầu gây hạn chế vận động của phụ nữ dưới 45 tuổi, là nguyên
nhân đứng thứ hai khiến bệnh nhân đi khám bệnh [5], năm 1984 ước tính tổn thất
do TVĐĐ là 21tỷ USD [6].
Tại Việt Nam, theo thống kê điều tra của Trần Ngọc Ân và cộng sự HCTLH
là một hội chứng thường gặp ở nước ta, bệnh chiếm 2% dân số và chiếm 17% số
người trên 60 tuổi, bệnh chiếm tỷ lệ 41,45% trong nhóm bệnh thần kinh cột sống và
là một trong 15 bệnh cơ xương khớp hay gặp nhất [1].



2

Chính vì vậy, vấn đề chẩn đoán và điều trị TVĐĐ CSTL có hiệu quả đang là
một vấn đề thời sự của nhiều quốc gia trên thế giới.
Y học hiện đại có nhiều phương pháp điều trị TVĐĐ. Điều trị nội khoa bảo
tồn đã được đề cập đến từ lâu và đã mang lại hiệu quả nhất định, nhưng phương
pháp này cũng có nhược điểm là các thuốc giảm đau chống viêm có khá nhiều tác
dụng phụ ảnh hưởng đến người bệnh, đặc biệt khi phải sử dụng dài ngày.
Theo YHCT, TVĐĐ thuộc phạm vi chứng tý, chứng huyết ứ, khí trệ huyết ứ
với các bệnh danh cụ thể: yêu thống, yêu cước thống. YHCT có rất nhiều phương
pháp để điều trị như châm cứu, điện châm, xoa bóp, bấm huyệt, tác động cột sống,
thuốc thang sắc uống…
Bài thuốc: Thân thống trục ứ thang (Lâm Y Cải Thác), thường được dùng
trong YHCT với tác dụng hoạt huyết hóa ứ, tư bổ can thận đem lại hiệu quả cao trên
lâm sàng khi điều trị chứng đau lưng do TVĐĐ.
Trường châm là phương pháp dùng kim dài để châm xuyên huyệt, dựa trên
cơ sở học thuyết kinh lạc, đã đem lại hiệu quả điều trị cao trong điều trị các bệnh cơ
xương khớp trong đó có đau lưng do TVĐĐ nhưng chưa có nhiều nghiên cứu một
cách có hệ thống.
Nhằm nâng cao hiệu quả điều trị và góp phần đánh giá một cách có hệ thống,
chúng tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá tác dụng của điện trường châm kết hợp bài
thuốc “Thân thống trục ứ thang” trong điều trị hội chứng thắt lưng hông do thoát
vị đĩa đệm” nhằm hai mục tiêu chính:
1.

Đánh giá tác dụng của điện trường châm kết hợp bài thuốc “Thân thống trục
ứ thang” trong điều trị hội chứng thắt lưng hông do thoát vị đĩa đệm cột sống
thắt lưng.

2.


Tìm hiểu một số tác dụng phụ không mong muốn của phương pháp điện
trường châm.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
I.1. Giải phẫu của đĩa đệm cột sống thắt lưng:
Cột sống thắt lưng gồm 5 đốt sống, 4 đĩa đệm (L1-L2, L2-L3,L3-L4,L4-L5)
và 2 đĩa đệm chuyển đoạn (T12-L1, L5-S1).
Cột sống của người thuộc bộ xương trục bao gồm nhiều đốt sống tiếp khớp
với nhau. Cột sống có tác dụng nâng đỡ và giúp cho cơ thể vận động được dễ dàng,
uyển chuyển. Cột sống bao bọc và bảo vệ cho tuỷ sống là một phần của thần kinh
trung ương nối liền giữa não bộ và các cơ quan trong toàn bộ cơ thể. Tuỳ theo chức
năng, mà mỗi đoạn cột sống được gọi là một đoạn vận động. Theo Junghanns và
Schmorl đoạn vận động là một cấu trúc chức năng của cột sống.
Đĩa đệm gian đốt sống là đĩa sụn sợi có cấu trúc không xương nằm trong
khoang gian đốt gồm có hai phần: phần chu vi là vòng sợi và phần trung tâm là
nhân nhày. Thành phần cơ bản của nhân nhày là gelatines, chứa nhiều phân tử nước
nằm ở trung tâm và có tính đàn hồi cao. Vòng sợi có tính đàn hồi cao nên đĩa đệm
không bị ảnh hưởng khi cúi, khi ưỡn hoặc khi nghiêng sang hai bên. Vùng thắt lưng có
bốn đĩa đệm và hai đĩa đệm chuyển tiếp là ngực-thắt lưng và thắt lưng-cùng. So với các
đoạn khác, đĩa đệm thắt lưng có chiều cao lớn nhất.
Tuy nhiên vòng sợi phân bố không đồng đều: phía trước các bó sợi to, chắc,
khoẻ; còn ở phía sau tạo thành dải sợi mảnh hơn và yếu hơn nên đĩa đệm hay bị
thoát vị ra sau.
I.1.1. Hình thể chung của các đốt sống thắt lưng
Mỗi đốt sống gồm các phần chính là thân đốt sống, cung đốt sống, mỏm đốt

sống và một lỗ:
• Thân đốt sống:
- Hình trụ, dẹt, có hai mặt gian đốt sống và một vành chung quanh.
- Thân đốt sống có kích thước tăng dần từ đốt trên đến đốt dưới, phù hợp với
sự tăng dần của trọng lượng từng phần cơ thể và lực tác dụng lên các đốt phía dưới.


4

• Cung đốt sống:
- Cung đốt sống gồm hai phần: phần trước dính với thân đốt sống gọi là
cuống, phần sau gọi là mảnh.
- Cuống cung đốt sống là hai cột xương, ở bên phải và bên trái. Bờ trên và bờ
dưới của cuống lõm vào gọi là khuyết đốt sống. Khuyết dưới của một đốt sống hợp
với khuyết trên của đốt sống ngay dưới thành một lỗ gọi là lỗ gian đốt, nơi đi qua
của các dây thần kinh sống và các mạch máu.
- Mảnh cung đốt sống là hai mảnh xương nối từ hai cuống đến mỏm gai tạo
nên thành sau của lỗ đốt sống. Mảnh hình dẹt bốn cạnh, có hai mặt trước và sau, hai
bờ trên và dưới. Ở mặt trước mảnh có một chỗ gồ ghề là nơi bám của dây chằng
vàng. Mặt sau liên quan với khối cơ chung.
• Các mỏm đốt sống: Đi từ cung đốt sống ra, mỗi cung đốt sống có:
- Hai mỏm ngang chạy sang hai bên.
- Bốn mỏm có diện khớp gọi là mỏm khớp: hai mỏm khớp trên mang các
mặt khớp trên và hai mỏm khớp dưới mang các mặt khớp dưới.
- Một mỏm ở phía sau gọi là mỏm gai.
• Lỗ đốt sống:
- Lỗ đốt sống là nơi để các dây thần kinh tủy sống đi qua, được tạo bởi phía
trước là thân đốt sống và đĩa đệm, trên và dưới là cuống đốt sống, phía sau bên là
khớp liên cuống. Khi các thành phần cấu thành lỗ đốt sống bị bệnh (thoái hóa, phì
đại…) có thể gây hẹp lỗ liên đốt, dẫn đến hội chứng kích thích hoặc chèn ép vào các

rễ thần kinh tủy sống chui qua.
I.1.2. Các dây chằng vùng cột sống thắt lưng
Bao gồm dây chằng dọc trước, dây chằng dọc sau, dây chằng vàng, các dây
chằng liên gai…
- Dây chằng dọc trước và dọc sau là các dây chằng chạy suốt từ xương chẩm
đến tận cùng xương cùng, che phủ mặt trước và mặt sau thân đốt sống, đĩa đệm.


5

Dây chằng dọc sau không phủ kín hết phần sau bên của vòng sợi tự do của đĩa đệm
nên TVĐĐ hay xảy ra ở vị trí này, đặc biệt vùng CSTL.
- Dây chằng vàng phủ phần sau của ống sống và bám vào lỗ liên đốt, có độ
chun giãn, đàn hồi rất lớn nhưng khi bị thoái hóa có thể tạo thành những nếp gấp
lớn lồi vào trong ống sống gây hẹp ống sống.
- Các dây chằng liên gai phối hợp với dây chằng vàng gia cố sau của đoạn
vận động.
- Dây chằng dọc sau và bao khớp liên cuống rất giàu đầu mút thần kinh cảm
giác nên những tác nhân tại chỗ như kéo căng quá mức, tăng áp lực hoặc thay đổi
sinh hóa học … đều có thể gây đau thắt lưng.
I.1.3. Thần kinh chi phối: đều tách ra từ đám rối thần kinh thắt lưng và đám rối
thần kinh cùng. Đám rối thần kinh thắt lưng chủ yếu chi phối cảm giác và vận động
vùng đùi, bẹn, bộ phận sinh dục. Các nhánh tận của đám rối thần kinh cùng chi phối
cho các cơ vùng, hậu môn, đùi bẹn.
I.1.4. Đặc điểm giải phẫu sinh lý đĩa đệm cột sống thắt lưng
Đĩa đệm nằm trong khoang gian đốt bao gồm: mâm sụn, vòng sợi và nhân nhầy.

Hình 1.1: Cấu trúc đốt sống thắt lưng (Nguồn:vatlytrilieu.wordpress.com)



6

Bình thường, cột sống có 23 đĩa đệm trong đó đoạn cột sống thắt lưng có 4
đĩa đệm và 2 đĩa đệm chuyển tiếp (lưng- thắt lưng, thắt lưng cùng). Chiều cao của
đĩa đệm tăng dần từ đoạn cổ đến đoạn cùng, trung bình đoạn thắt lưng là 9mm và
chiều cao của đĩa đệm L4-L5 là lớn nhất [7].
Mâm sụn: Là cấu trúc thuộc về thân đốt sống, nhưng nó có liên quan chức
năng dinh dưỡng trực tiếp với đĩa đệm. Nó đảm bảo dinh dưỡng cho khoang gian
đốt sống.
Vòng sợi: Gồm nhiều vòng xơ sụn đồng tâm, được cấu tạo bằng những sợi
sụn rất chắc và đàn hồi, đan ngoặc với nhau kiểu xoắn ốc. Các bó của vòng sợi tạo
thành nhiều lớp, giữa các lớp có những vách ngăn được gọi là yếu tố đàn hồi [7].
Tuy vòng sợi có cấu trúc bền chắc, nhưng phía sau và sau bên, vòng sợi mỏng và chỉ
gồm một số ít những bó sợi tương đối mảnh, nên đấy là điểm yếu nhất của vòng sợi. Đó
là yếu tố làm cho nhân nhầy lồi về phía sau nhiều hơn.
Nhân nhầy: Có hình cầu hoặc bầu dục, nằm ở khoảng nối 1/3 giữa với 1/3
sau của đĩa đệm, cách mép ngoài của vòng sợi 3-4 mm, chiếm khoảng 40% bề mặt
của đĩa đệm cắt ngang. Nhân nhầy bằng chất gelatin có tác dụng chống đỡ có hiệu
quả các stress cơ giới. Khi vận động (nghiêng, cúi, ưỡn) thì nhân nhầy sẽ di chuyển
dồn lệch về phía đối diện và đồng thời vòng sụn cũng chun giãn. Đây cũng là một
trong các nguyên nhân làm cho nhân nhầy ở đoạn cột sống dễ lồi ra sau.
Phân bố thần kinh, mạch máu đĩa đệm: Rất nghèo nàn. Các sợi thần kinh
cảm giác phân bố cho đĩa đệm ít, mạch máu nuôi dưỡng đĩa đệm chủ yếu ở xung
quanh vòng sợi, nhân nhầy không có mạch máu. Do đó đĩa đệm chỉ được đảm bảo
cung cấp máu và nuôi dưỡng bằng hình thức khuyếch tán.
Áp lực trọng tải của các đĩa đệm thắt lưng: Do dáng đi thẳng, cột sống thắt
lưng phải chịu áp lực của tất cả phần trên cơ thể dồn xuống một diện tích bề mặt
nhỏ. Sự thay đổi tư thế ở phần trên cơ thể ra khỏi trục sinh lý của cơ thể còn làm áp
lực trọng tải đó tăng lên gấp nhiều lần. Nếu áp lực trọng tải cao, tác động thường
xuyên và kéo dài lên đĩa đệm (một tổ chức được nuôi dưỡng tương đối kém), sẽ gây



7

thoái hóa ở đĩa đệm sớm. Đây chính là lý do cho thấy liên quan của nghề nghiệp và
cường độ lao động với bệnh lý của đĩa đệm [6].
I.1.5. Sinh bệnh học thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng
Chức năng của đĩa đệm CSTL là phải thích nghi với hoạt động cơ học lớn,
chịu áp lực cao thường xuyên, trong khi đĩa đệm lại là mô được nuôi dưỡng kém do
được cấp máu chủ yếu bằng thẩm thấu. Chính vì vậy các đĩa đệm sớm bị loạn
dưỡng và thoái hóa tổ chức.
Thoái hóa đĩa đệm thường hay gặp ở người trưởng thành, nhưng cũng có thể
xuất hiện ở trẻ em. Ở vùng cột sống thắt lưng, đĩa đệm thứ tư và thứ năm hay bị ảnh
hưởng nhất. Ban đầu các vòng xơ bị xé rách, thường gặp hơn cả là ở vị trí sau bên.
Các chấn thương nhẹ tái đi tái lại gây rách các vòng xơ sẽ dần dẫn đến phì đại và
tạo thành các rách xuyên tâm (rách lan ra ngoài).
Đĩa đệm thoái hóa đã hình thành một tình trạng sẵn sàng bị bệnh. Sau một
tác động đột ngột của các động tác sai tư thế, một chấn thương bất kì đã có thể gây
đứt rách vòng sợi đĩa đệm, nhân nhày chuyển dịch ra khỏi ranh giới giải phẫu của
nó, hình thành thoát vị đĩa đệm. Nhân nhầy có thể thoát vị vào trong thân đốt sống
phía trên và phía dưới hoặc vào bên trong ống sống. Các chấn thương hơn nữa sẽ
dẫn tới những rối loạn bên trong đĩa đệm, làm mất chiều cao đĩa đệm, và đôi khi
mất hầu như hoàn toàn đĩa đệm.

Hình 1.2: Hình ảnh thoát vị đĩa đệm (nguồn: phauthuatthankinh.edu.vn &
benhviendaihocyhanoi.com)


8


I.2. Hội chứng thắt lưng hông do thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng theo Y
học hiện đại
Định nghĩa: HCTLH là một khái niệm lâm sàng, bệnh cảnh gồm có các triệu
chứng biểu hiện bệnh lý của cột sống thắt lưng và bệnh lý của rễ tạo thành dây thần
kinh hông to, mà nguyên nhân gây bệnh hàng đầu là do thoát vị đĩa đệm cột sống thắt
lưng, và cơ chế bệnh sinh phổ biến nhất là xung đột đĩa - rễ (đĩa đệm - rễ thần kinh).
Nguyên nhân
Căn cứ vào tổn thương và biểu hiện trên lâm sàng, HCTLH được chia thành
2 nhóm nguyên nhân gây bệnh chính.
Nguyên nhân tại cột sống
Gồm nhiều nguyên nhân, trong đó có nhóm nguyên nhân có nguồn gốc từ đĩa
đệm như: thoát vị đĩa đệm, thoái hoá cột sống gây chèn ép vào tuỷ hay rễ sống;bệnh
lý rối loạn thăng bằng của hệ thống cơ cột sống, bệnh lý thoái hoá hệ thống dây chằng
cạnh sống, loãng xương, bệnh lý do bất thường bẩm sinh của cột sống, viêm nhiễm,
khối u... và các tổn thương cột sống thắt lưng do chấn thương hoặc phẫu thuật.
Nguyên nhân ngoài cột sống
Khi nghiên cứu các nguyên nhân ngoài cột sống, các tác giả thấy rằng tổn
thương các tạng trong, ngoài ổ bụng và tiểu khung có thể dẫn tới HCTLH như các
bệnh thận tiết niệu, bệnh đường sinh dục, đường tiêu hóa...[8].
Lâm sàng: Thoát vị đĩa đệm CSTL được biểu hiện bằng hai hội chứng: hội
chứng cột sống và hội chứng chèn ép rễ [9],[10].
I.2.1. Hội chứng cột sống
Đau cột sống thắt lưng: Khởi phát sau một chấn thương hoặc vận động cột
sống quá mức. Đau cấp tính tiến triển giảm dần sau đó đau tái phát trở thành mạn
tính. Đau có tính chất cơ học (tăng lên khi ho, hắt hơi, thay đổi tư thế, lúc nửa đêm
về sáng, giảm khi nghỉ ngơi).


9


Các biến dạng cột sống:
- Mất ưỡn thắt lưng (mất đường cong sinh lý).
- Vẹo cột sống thắt lưng.
- Dấu hiệu “gập góc”.
Có điểm đau cột sống và cạnh cột sống thắt lưng: Rất phổ biến, tương ứng với
các đoạn vận động bệnh lý và là điểm xuất chiếu đau của các rễ thần kinh tương ứng.
Hạn chế tầm hoạt động của CSTL: chủ yếu là hạn chế khả năng nghiêng về bên
ngược với tư thế chống đau và khả năng cúi (nghiệm pháp Schober).
1.2.2. Hội chứng rễ thần kinh
Các triệu chứng tương ứng với vùng phân bố của rễ thần kinh bị tổn thương,
có đặc điểm:
- Đau lan theo dọc đường đi của rễ thần kinh chi phối.
- Rối loạn cảm giác lan theo dọc các dải cảm giác
- Teo cơ do rễ thần kinh chi phối bị chèn ép.
- Giảm hoặc mất phản xạ gân xương.
Đặc điểm đau của rễ: Đau dọc theo vị trí tương ứng rễ thần kinh bị chèn ép
chi phối, đau có tính chất cơ học và xuất hiện sau đau thắt lưng cục bộ, cường độ
đau ở thắt lưng và ở chân (đùi, cẳng chân) thường không đều nhau. Có thể gặp đau
cả hai chi dưới kiểu rễ, cần nghĩ đến khối thoát vị to ở trung tâm, nhất là khi kèm
theo ống sống hẹp dù ít. Còn khi đau chuyển từ chân nọ sang chân kia một cách đột
ngột, hoặc gây hội chứng đuôi ngựa cần nghĩ đến sự di chuyển của mảnh thoát vị
lớn bị đứt rời gây nên [11],[12].
Các dấu hiệu kích thích rễ: Có giá trị chẩn đoán cao.
- Dấu hiệu Lasègue: Khi nâng từng chân lên cao dần, gối để duỗi thẳng, bệnh
nhân sẽ thấy đau và không thể nâng cao tiếp. Mức độ dương tính được đánh giá
bằng góc tạo giữa trục chi và mặt giường khi xuất hiện đau.


10


- Dấu hiệu “bấm chuông”: Khi ấn điểm đau cạnh cột sống thắt lưng (cách
cột sống khoảng 2 cm) xuất hiện đau lan dọc chân theo khu vực phân bố của rể thần
kinh tương ứng.
- Điểm đau Walleix: Dùng ngón tay cái ấn sâu vào các điểm trên đường đi
của dây thần kinh, bệnh nhân thấy đau nhói tại chỗ ấn. Gồm các điểm: giữa ụ ngồimấu chuyển lớn, giữa nếp lằn mông, giữa mặt sau đùi, giữa nếp lằn khoeo, giữa
cung cơ dép ở cẳng chân.
Có thể gặp các dấu hiệu tổn thương rễ:
- Rối loạn cảm giác: Giảm hoặc mất cảm giác kiểu rễ hoặc dị cảm (kiến bò,tê
bì, nóng rát….) ở da theo khu vực rễ thần kinh chi phối.
- Rối loạn vận động: Khi chèn ép rễ L5 lâu ngày các cơ khu trước ngoài cẳng
chân sẽ bị liệt làm cho bệnh nhân không thể đi lại bằng gót chân được (gấp bàn
chân), còn với rễ S1 thì các cơ khu sau cẳng chân sẽ bị liệt làm bệnh nhân không thể
kiễng chân được (duỗi bàn chân).
- Giảm phản xạ gân xương: Giảm phản xạ gân cơ tứ đầu đùi của rễ L4 và
gân gót của rễ S1.
- Có thể gặp teo cơ và rối loạn cơ tròn (bí đại tiểu tiện, đại tiểu tiện không tự
chủ hoặc rối loạn chức năng sinh dục) khi tổn thương nặng, có chèn ép đuôi ngựa.
1.2.3. Cận lâm sàng thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng
1.2.3.1. Chụp X-quang quy ước
Thường sử dụng ba tư thế: thẳng, nghiêng, chếch 3/4, cho phép đánh giá
được trục cột sống (đường cong sinh lý), so sánh được kích thước và vị trí của các
đốt sống, khoang gian đốt và đĩa đệm, kích thước lỗ tiếp hợp, đánh giá được mật độ
và cấu trúc xương, các dị tật bẩm sinh.
1.2.3.2. Chụp bao rễ thần kinh
Là phương pháp chụp Xquang sau khi đưa chất cản quang vào khoang dưới
nhện của tủy sống đoạn thắt lưng bằng con đường chọc dò tủy sống. Nó trở thành


11


phương pháp chẩn đoán xác định thoát vị đĩa đệm thoát vị đĩa đệm cột sống thắt
lưng và xét chỉ định phẫu thuật đĩa đệm. Tuy vậy, chỉ định chụp bao rễ cần cân nhắc
do những tai biến mà độc tính của chất cản quang gây ra.
1.2.3.3. Chụp cắt lớp vi tính cột sống thắt lưng
Phương pháp này có giá trị chẩn đoán chính cao với nhiều thể TVĐĐ và
chẩn đoán phân biệt đối với một số bệnh lý khác như: hẹp ống sống, u tủy…với độ
chính xác cao [11],[12].
1.2.3.4. Chụp cộng hưởng từ hạt nhân
Đây là phương pháp rất tốt để chẩn đoán TVĐĐ vì cho hình ảnh trực tiếp của
đĩa đệm cũng như rễ thần kinh trong ống sống và ngoại vi [15]. Phương pháp này
cho phép chẩn đoán chính xác TVĐĐ/CSTL từ 95-100%. Tuy nhiên đây vẫn là
phương pháp chẩn đoán đắt tiền.
Trên phim: Hình ảnh đĩa đệm là tổ chức đồng nhất tín hiệu ở các thân đốt
sống với mật độ khá đồng đều, xu hướng tăng cân đối từ trên xuống dưới và hơi lồi
ở phía sau. Đĩa đệm là tổ chức giảm tín hiệu trên T1 và tăng tín hiệu trên T2 [16].
Thoát vị đĩa đệm trên phim MRI được chia thành:
Phình lồi đĩa đệm: bờ phẳng, phình nhẹ ra sau, không lồi khu trú,không tổn
thương bao xơ.
Thoát vị đĩa đệm: lồi khu trú của thành phần đĩa đệm, tổn thương bao xơ. Có
thể thoát vị ra trước hoặc sau, đặc biệt thoát vị ra sau hay gặp nhất.
Thoát vị đĩa đệm tự do: mảnh rời thoát ra và không liên tục với khoang đĩa
đệm, có khả năng di chuyển lên xuống, tổn thương dây chằng dọc sau thường ở vị
trí sau bên [17]. Ngoài ra còn quan sát được tất cả các hình ảnh của các tổ chức lân
cận như: thân đốt sống, các sừng trước và sừng sau, và một số cấu trúc như: khối
da, cơ và tổ chức dưới da …[18].


12

1.2.4. Chẩn đoán xác định hội chứng thắt lưng hông do thoát vị đĩa đệm

1.2.4.1. Lâm sàng: có ít nhất một triệu chứng của hội chứng cột sống và một triệu
chứng của hội chứng rễ thần kinh.
Để chẩn đoán TVĐĐ theo tiêu chuẩn Saporta(1970), về lâm sàng bệnh nhân
có từ 4/6 triệu chứng sau đây có thể chẩn đoán là TVĐĐ [18].
- Có yếu tố chấn thương, vi chấn thương.
- Đau rễ thần kinh hông có tính chất cơ học.
- Có tư thế chống đau.
- Có dấu hiệu bấm chuông.
- Dấu hiệu Lasègue (+).
- Có dấu hiệu gãy góc cột sống.
Thường chụp cắt lớp vi tính hoặc cộng hưởng từ CSTL để xác định chẩn đoán.
1.2.4.2. Chẩn đoán thể thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng:
Thoát vị đĩa đệm ra sau vào ống sống gồm:
- TVĐĐ sau- bên: gặp phổ biến nhất
- TVĐĐ sau- giữa (TVĐĐ trung tâm).
- TVĐĐ sau- cạnh giữa (TVĐĐ cận trung tâm).
- TVĐĐ ra sau đã đứt dây chằng dọc sau
Lâm sàng:
- Thường khởi phát đột ngột sau chấn thương hoặc gắng sức.
- Có hội chứng rễ thần kinh.
- Đau thắt lưng hông có tính chất cơ học.
- Chẩn đoán xác định bằng chụp CT Scanner cột sống thắt lưng hay chụp
MRI cột sống thắt lưng.


13

Thoát vị đĩa đệm ra trước.
- Khởi phát đột ngột sau chấn thương cột sống hoặc vận động quá nhanh đột
ngột lúc CSTL đang ở tư thế ưỡn quá mức. Tuy nhiên TVĐĐ ra trước có thể xảy ra

từ từ do cột sống luôn ở tư thế ưỡn bất lợi kéo dài do tính chất nghề nghiệp trên cơ
sở thoái hóa đĩa đệm.
- Giai đoạn đầu đau thắt lưng cấp, sau đó chuyển sang đau mạn tính tái phát.
- Đau tăng khi vận động cột sống.
- Có hội chứng cột sống.
- Không có hội chứng chèn ép rễ.
- Chẩn đoán xác định TVĐĐ ra trước bằng chụp CT Scanner hay chụp MRI
cột sống thắt lưng.
1.2.4.3. Thoát vị đĩa đệm vào phần xốp thân đốt (TVĐĐ kiểu Schmorl)
Nguyên nhân: Là biểu hiện điển hình của thoái hóa đĩa đệm. Ở người cao
tuổi có thể gặp TVĐĐ kiểu Schmorl ở các đĩa đệm liên tiếp nhau, nhất là các đĩa
đệm thắt lưng và lưng, tạo nên sự thay đổi đường cong sinh lý của cột sống. Ở
người trẻ, TVĐĐ thể này xảy ra sau chấn thương hoặc trọng tải quá mức hoặc dồn
ép đĩa đệm tái đi tái lại.
Lâm sàng: Khởi phát từ từ do vi chấn thương, đau thắt lưng ít dữ dội hơn,thường
thoái lui nhanh sau vài ngày nhưng dễ tái phát với biểu hiện đau thắt lưng mạn.
- Có hội chứng cột sống.
- Không có hội chứng chèn ép rễ.
- Chẩn đoán xác định bằng CT Scanner hoặc MRI cột sống thắt lưng.

1.2.4.3 Tiêu chuẩn phân loại mức độ TVĐĐ/ CSTL của Nguyễn Xuân Thản,
Nguyễn Văn Thông [19]: lấy tiêu chí chính là nghiệm pháp lasègue, độ giãn CSTL,
tầm vận động cột sống.
Mức độ nhẹ:
- Đau thắt lưng lan xuống mông.
- Co cứng khối cơ chung một bên, chưa lệch vẹo cột sống.


14


- Khoảng cách ngón tay mặt đất từ 10 -20cm, Schober trên 13/10cm - 14/10cm,
Lasègue 600- 800, Valleix (+) ở mông.
- Phản xạ gót không thay đổi hoặc giảm nhẹ.
- Teo cơ chi dưới: bằng hoặc dưới 1cm.
- Đi bộ trên 500m - 1000m mới xuất hiện đau.
Mức độ vừa:
- Đau thắt lưng lan theo rễ thần kinh hông.
- Co cứng khối cơ chung một bên hoặc hai bên, lệch vẹo hai bên, lệch vẹo
cột sống khi cúi hoặc lệch vẹo khi đứng.
- Khoảng cách ngón tay - mặt đất 21 -30cm, Schober trên 12/10cm 13/10cm, Lasègue 310 - 590, Valleix (+) ở mông - đùi - cẳng chân.
- Phản xạ gót giảm rõ rệt so với bên chân không đau
- Teo cơ chi dưới: trên 1 -2cm
- Đi bộ trên 200 -500m đã xuất hiện đau.
Mức độ nặng:
- Đau thắt lưng lan theo rễ thần kinh hông thường xuyên.
- Co cứng khối cơ chung cả hai bên, vẹo cột sống nhiều khi đứng.
- Khoảng cách tay - đất trên 30cm, Schober bằng hoặc dưới 12/10cm,
Lasègue dưới 300, Valleix (+) ở mông đùi - cẳng chân - gót chân.
- Phản xạ của gân gót giảm nặng hoặc mất.
- Teo cơ chi dưới trên 2cm.
- Đi bộ dưới 200m đã xuất hiện đau.
1.2.5. Điều trị hội chứng thắt lưng hông do thoát vị đĩa đệm bằng các phương
pháp Y học hiện đại
1.2.5.1. Nội khoa
Bất động trong thời kì cấp tính
Đây là nguyên tắc quan trong đầu tiên trong điều trị nội. Bất động trên
giường cứng phải hoàn toàn liên tục, chính xác và kéo dài đủ thời gian [20].


15


Dùng thuốc
Thường dùng các thuốc chống viêm giảm đau không steroid đường uống
được chỉ định trong thời kỳ cấp và trong đợt tái phát. Có thể kết hợp dùng các thuốc
an thần giãn cơ nhẹ, các vitamin nhóm B liều cao và một số thuốc giảm đau thần
kinh khác.
Trong các trường hợp đau nặng, thuốc giảm đau chống viêm thông
thường không có hiệu quả thì xem xét chỉ định điều trị bằng corticoid và các
phương pháp phong bế thần kinh.
1.2.5.2. Phục hồi chức năng bằng vật lý trị liệu
Các phương pháp: điện trị liệu, nhiệt trị liệu, ánh sáng trị liệu, xoa bóp trị
liệu, kéo giãn cột sống thắt lưng và sử dụng áo nẹp cột sống. Mục đích của các
phương pháp này là làm tăng lưu lượng máu, giảm phù nề, giảm bớt sự kết dính,
tăng độ linh hoạt của cột sống thắt lưng [5].
Trong đó kéo giãn cột sống được nhắc đến nhiều, là phương pháp điều trị
giải quyết được một phần bệnh sinh cuả TVĐĐ.
a. Phương pháp kéo giãn cột sống:
- Tác dụng cơ học:
o Làm giảm áp lực nội đĩa đệm.
o Điều chỉnh sai lệch của khớp đốt sống và cột sống.
o Giảm chèn ép rễ thần kinh.
o Làm giãn cơ thụ động.
- Tác dụng lâm sàng:
o Giảm hội chứng đau cột sống.
o Giảm hội chứng chèn ép rễ.
o Giảm cong vẹo cột sống.
o Giảm co cứng cơ.
o Tăng khả năng vận động và tính linh hoạt của cột sống.



16

- Các hình thức kéo giãn:
o Kéo giãn bằng lực tự trọng
o Kéo giãn bằng lực đối trọng
o Kéo giãn trên hệ thống bàn- máy kéo
b. Phương pháp điều trị phẫu thuật
- Mục đích: Lấy bỏ nhân nhầy thoát vị chèn ép vào tủy hoặc rễ thần kinh.
- Chỉ định tuyệt đối: TVĐĐ có hội chứng đuôi ngựa hoặc hội chứng chèn
ép rễ thần kinh một hoặc hai bên gây liệt và đau nhiều.
- Chỉ định tương đối: Sau điều trị nội 3 tháng không hiệu quả với các
biểu hiện đau rễ hoặc TVĐĐ mạn tính tái phát kèm đau rễ.
1.3. Hội chứng thắt lưng hông do thoát vị đĩa đệm theo Y học cổ truyền
1.3.1. Bệnh danh
HCTLH do TVĐĐ được mô tả trong chứng tý của YHCT [20]. Trong các y
văn cổ như Hoàng đế nội kinh tố vấn đã mô tả với nhiều bệnh danh khác nhau tùy
thuộc vào vị trí hoặc nguyên nhân gây bệnh:
- Yêu thống (đau lưng)
- Tọa cốt phong.
- Yêu cước thống (đau lưng –chân).
Bệnh thuộc phạm vi “chứng tý”. Tý có nghĩa là tắc, chứng tý theo YHCT là
một chứng bệnh với biểu hiện đau do khí huyết lưu chuyển trong kinh mạch bị tắc
trở gây nên.
1.3.2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh
1.3.2.1. Do nội nhân: chính khí hư làm cho khí huyết lưu thông ở hệ kinh lạc bị ứ trệ.
Theo lý luận của YHCT “thông tắc bất thống, thống tắc bất thông” nghĩa là
khí huyết vận hành trong kinh lạc được lưu thông thì không đau đớn, còn khí huyết
vận hành trong kinh lạc bế tắc sẽ gây đau, bế tắc chỗ nào sẽ gây đau chỗ đó.



17

1.3.2.2. Do ngoại nhân: do tà khí từ bên ngoài xâm nhập vào kinh lạc gây bệnh.
Phong tà: phong là gió, chủ khí mùa xuân, có tính di chuyển, đột ngột xuất
hiện và đột ngột mất đi. Bệnh thường khởi phát đột ngột, diễn biến nhanh.
Hàn tà: chủ khí mùa đông, có tính chất ngưng trệ làm cho khí huyết, kinh
lạc bị bế tắc. Do bản thân người bệnh sẵn có tình trạng ngưng trệ khí huyết ở kinh
lạc, gặp thêm hàn tà xâm nhập nên bệnh dễ có điều kiện phát sinh, huyết trệ nặng
hơn thành huyết ứ. Tính co rút của hàn rất cao làm cho co rút cân, cơ. Ngoài ra hàn
tà còn gây cảm giác đau buốt và sợ lạnh.
Thấp tà: là chủ về cuối mùa hạ, thường có xu hướng phát triển từ dưới lên
(thấp tà là âm tà ). Trong TVĐĐ ít có biểu hiện của thấp, song cũng có một số triệu
chứng như cảm giác tê bì, nặng nề, rêu lưỡi nhờn dính, chất lưỡi bệu.
1.3.2.3. Do bất nội ngoại nhân
Do chấn thương làm khí trệ huyết ứ gây đau, hạn chế vận động.
1.3.3. Các thể bệnh lâm sàng theo Y học cổ truyền
Theo YHCT, yêu thống được phân thành 4 thể: thể hàn thấp, thể phong thấp
nhiệt, thể can thận âm hư và thể huyết ứ [20]. Khi đối chiếu các triệu chứng lâm
sàng của đau lưng do TVĐĐ thì chúng tôi thấy yêu thống thể can thận hư và yêu
thống thể huyết ứ và huyết ứ trên can thận âm hư là phù hợp.
1.3.3.1. Thể huyết ứ
Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh: Do lao động quá sức hoặc vận động sai
tư thế, hoặc do bị ngã, va đập, bị đánh…gây huyết ứ làm bế tắc kinh lạc. Sự l ưu
thông kinh khí trong mạch lạc bị nghẽn trở, khí huyết không điều hòa gây đau và
hạn chế vận động.
Triệu chứng lâm sàng: Đau dữ dội ở vùng thắt lưng, có thể lan xuống mông và
chân, không đi lại được hoặc đi lại khó khăn. Nằm trên giường cứng, co chân dễ chịu
hơn. Đau tăng khi ho, hắt hơi, đại tiện hoặc đi lại vận động. Ăn ngủ kém, mạch nhu sáp.



18

Chẩn đoán bát cương: biểu thực
Phép điều trị: Hoạt huyết hóa ứ, thông kinh lạc.
Điều trị cụ thể:
- Phương dược:
o Dùng bài cổ phương Tứ vật đào hồng (Y tông kim giám)
Xuyên khung 8-12g

Đương quy 12g

Thục địa 16-20 g

Xích thược 12g

Đào nhân 8-12g

Hồng hoa 8-12g

Làm thang sắc uống, ngày 1 thang chia 2 lần.
o Hoặc bài thuốc Thân thống Trục ứ thang (Lâm Y Cải Thác). Quyển hạ
của tác giả Vương Thanh Nhậm (1768 - 1831) - danh y đời nhà Thanh - Trung Quốc
[22].
Tần giao

12g

Xuyên Khung

8g


Đào nhân

12g

Hồng hoa

12g

Cam thảo

4g

Khương hoạt

12g

Một dược

8g

Đương quy

12g

Ngũ linh chi 12g

Hương phụ

12g


Ngưu tất

Địa long

6g.

12g

Làm thang sắc nước uống, ngày 1 thang chia 2 lần.
o Công dụng: Hoại huyết hóa ứ thông kinh lạc, chỉ tý thống.
o Chủ trị: Bệnh lý lâu ngày không khỏi, ấn vào thì đau dữ dội, đã xuất hiện
môi lưỡi có gân xanh, tía hoặc tử ban (nốt xuất huyết).
o Giải bài thuốc: Phương này dùng Đào hồng Đương quy hoạt huyết hóa ứ.
Ngũ linh chi, Địa long, khứ ứ thông lạc; Xuyên khung, Một dược hoạt huyết giảm đau;
Khương hoạt, Tần giao trừ phong thấp của toàn thân; Hương phụ lý khí chỉ thống;
Ngưu tất cường tráng gân xương; Cam thảo điều hòa chư dược, phối ngũ thành
phương, có công năng tuyên thống khí huyết các chứng đau lâu, tà vào lạc mạch.


19

- Phương pháp không dùng thuốc:
Châm cứu: Châm các huyệt thận du, đại trường du, A thị, giáp tích L1-L5S1,
ủy trung, huyết hải.
Xoa bóp, bấm huyệt: Dùng các thủ thuật lăn, day, vờn, bóp, bấm huyệt, vận
động hai bên cột sống từ D12 đến mông.
1.3.3.2. Thể can thận âm hư
Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh: Chức năng can thận bị suy kém,thường
hay gặp ở người cao tuổi có thoái hóa CSTL, do sự lưu thông khí huyết không điều

hòa, gây đau và hạn chế vận động, lâu ngày càng làm chức năng can thận bị suy
kém dẫn đến cơ xương khớp suy yếu (teo cơ, nhẽo gân, cốt hư).
Triệu chứng lâm sàng: Bệnh nhân nhiều vùng thắt lưng, có thể lan xuống
mông và chân. Đau tăng khi vận động, khi lạnh và ẩm thấp. Chườm ấm dễ chịu.
Bệnh nhân thích xoa bóp, thích ăn thức ăn nóng, uống ấm, đại tiện bình thường
hoặc phân nát, tiểu trong, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch phù, hoạt. Bệnh lâu ngày thấp
hóa hỏa sẽ ảnh hưởng đến can thận và tỳ gây các triệu chứng mệt mỏi, hoa mắt
chóng mặt, teo cơ. Đại tiện táo, tiêu vàng, rêu lưỡi vàng, mạch nhu sác hoặc trầm tế
đới sác.
Chẩn đoán bát cương: Biểu lý tương kiêm, hư trung hiệp thực.
Phép điều trị: Bổ can thận, kiện tỳ trừ thấp, thông kinh lạc.
Điều trị cụ thể:
- Phương thuốc: Dùng bài Độc hoạt kí sinh thang (Thiên kim phương)
Độc hoạt

12g

Tần giao

12g

Xuyên khung 8g

Bạch thược 12g

Đương quy

12g

Cam thảo


6g

Tang kí sinh 16g

Đảng sâm

12g

Quế tâm

6g

Phòng phong 12g

Ngưu tất

12g

Đỗ trọng

12g

Thục địa

Tế tân

8g

Phục linh


12g

12g

Làm thang sắc uống, ngày 1 thang chia 2 lần.


20

- Phương pháp không dùng thuốc:
o Châm cứu: Thận du, đại trường du, ủy trung, giáp tích L1-L5, a thị.
o Xoa bóp, bấm huyệt: Giống thể huyết ứ.
1.3.3.3. Thể Huyết ứ trên bệnh nhân Can thận Âm hư
Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh: Do các nguyên nhân trong thể Huyết ứ
(vận động sai tư thế, chấn thương...) gây nên bệnh trên bệnh nhân Can thận Âm hư
(đã có thoái hóa cột sống).
Triệu chứng lâm sàng: Thường ở những người cao tuổi với biểu hiện: Đau
nhiều ở vùng thắt lưng, có khi đau dữ dội, có thể lan xuống mông và chân, không đi
lại được hoặc đi lại khó khăn. Nằm trên giường cứng, co chân dễ chịu hơn. Đau
tăng khi ho, hắt hơi, đại tiện hoặc đi lại vận động, người nóng, khát nước, họng khô,
đại tiệu táo, rêu lưỡi khô, chất lưỡi đỏ, ăn ngủ kém, mạch nhu sáp.
Chẩn đoán bát cương: biểu lý tương kiêm, hư trung hiệp thực, thiên nhiệt
Phép điều trị: Hoạt huyết hóa ứ, bổ can thận, thông kinh lạc.
Điều trị cụ thể:
- Phương dược: Kết hợp bài thuốc trong thể Huyết ứ và Lục vị địa hoàng hoàn.
Làm thang sắc nước uống, ngày 1 thang chia 2 lần.
- Phương pháp không dùng thuốc:
Châm cứu: Châm các huyệt thận du, đại trường du, A thị, giáp tích L1-L5, ủy
trung, huyết hải.

Xoa bóp, bấm huyệt: Dùng các thủ thuật lăn, day, vờn, bóp, bấm huyệt, vận
động hai bên cột sống từ D12 đến mông.
I.4. Khái quát về châm cứu
Châm cứu là một trong những phương pháp chữa bệnh độc đáo của nền y
học cổ truyền phương Đông.


21

Châm cứu được ra đời từ thời kì đồ đá, con người đã biết dùng đá nhọn
(biếm thạch), cốt châm (xương thú mài nhọn) để châm vào huyệt, chữa các chứng
đau, mụn nhọn.
Tác dụng của châm cứu là điều khí để điều hoà lại hiện tượng âm dương bị
rối loạn góp phần tiêu trừ bệnh tật.
Tổ chức y tế thế giới từ năm 1979 đã cho rằng châm cứu có thể coi là một
phương pháp chữa bệnh hữu hiệu và đã xây dựng danh pháp quốc tế về kinh huyệt
châm cứu.
I.2.2. Điện châm
Điện châm là dùng dòng điện để tác động lên huyệt (qua kim châm cứu).
Đây là phương pháp kết hợp YHCT và YHHĐ, để phát huy mạnh mẽ tác dụng đắc
khí và dẫn khí của kinh huyệt khi châm cứu.
Người xưa thường dùng tay để vê kim nhằm bổ hoặc tả, qua thực tế thấy vê
kim bằng tay thì sự điều khí không mạnh, không nhanh, không đều, không sớm đưa
được sự vận hành của khí về trạng thái cân bằng. Vê tay thường làm cho bệnh nhân
đau đớn.
Cũng do đó mà phương pháp điện châm đã ra đời và được áp dụng ở nước ta
từ năm 1971 và đã đáp ứng được mục đích điều khí của châm cứu nhanh hơn, mạnh
hơn và giảm đau đớn cho bệnh nhân.
Có nhiều loại dòng điện điều trị được dùng trong châm cứu: Dòng Galovanic
(dòng điện một chiều), dòng xung điện điện thế thấp, dòng điện cao tần, tĩnh điện

và ion khí, dòng xoay chiều. Các dòng xung điện với tần số và cường độ thích hợp
có tác dụng tốt để kích thích hoặc ức chế thần kinh để gây co cơ hoặc giảm co thắt
cơ tăng cường điều chỉnh tuần hoàn máu và có tác dụng giảm đau rõ rệt.
I.2.3.Giả thuyết về cơ chế tác dụng của châm cứu theo học
thuyết thần kinh - nội tiết - thể dịch: Châm cứu là một kích thích gây
ra một cung phản xạ mới.


22

Châm là kích thích cơ giới, cứu là một kích thích nhiệt gây nên kích thích tại
da, cơ. Kích thích của châm cứu sẽ gây một cung phản xạ mới.
Tại nơi châm có những biến đổi: Tổ chức tại nơi châm bị tổn thương sẽ tiết
ra các chất trung gian hoá học như histamin, acetylcholin, catecholamin...bạch cầu
tập trung gây phù nề tại chỗ sẽ chèn ép vào các sợi thần kinh cảm giác, gây ra các
phản xạ đột trục làm co giãn mạch máu làm nhiệt độ dưới da thay đổi (nóng, lạnh).
Tất cả những kích thích trên tạo thành một kích thích được truyền vào tuỷ, lên não,
từ não xung động được đến các cơ quan đáp ứng hình thành một cung phản xạ mới.
Sự phân chia tiết đoạn thần kinh và có sự liên quan giữa các tạng phủ đối với
các vùng cơ thể do tiết đoạn chi phối.
Thần kinh tuỷ sống có 31 đôi dây, mỗi đôi dây chia ra ngành trước và ngành
sau chi phối vận động và cảm giác một vùng gọi là tiết đoạn. Sự cấu tạo thần kinh
này gọi là sự cấu tạo tiết đoạn.
Mỗi tiết đoạn thần kinh chi phối cảm giác ở một vùng da nhất định của cơ
thể có liên quan đến hoạt động của nội tạng nằm tương ứng với nó.
Khi nội tạng có bệnh, người ta thấy có sự tăng cường cảm giác vùng da cùng
tiết đoạn với nó như cảm giác đau, thay đổi điện sinh vật.
Hiện tượng này xảy ra do những sợi thần kinh giao cảm bị kích thích, xung
động dẫn truyền vào tuỷ lan toả vào các tế bào cảm giác sừng sau tuỷ sống gây ra
những thay đổi về cảm giác vùng da. Mặt khác những kích thích giao cảm làm co

mạch, sự cung cấp máu ở vùng da ít đi và làm điện trở ở da giảm xuống gây những
thay đổi về điện sinh vật.
Trên cơ sở những hiện tượng này, Zakharin và Head đã thiết lập được một
giản đồ liên quan giữa vùng da và nội tạng. Đây cũng là nguyên lý chế tạo của các
máy đo điện trở vùng da và máy dò kinh lạc.


23

Hình 1.3: Giản đồ về sự liên quan giữa vùng da và nội tạng (Zakharin và Head)
Nếu nội tạng bị tổn thương, dùng châm cứu hay các phương pháp vật lý trị
liệu khác vào các vùng da có phản ứng hay các vùng da trên cùng một tiết đoạn với
nội tạng sẽ chữa các các bệnh ở nội tạng.
I.2.4. Cơ chế châm cứu theo y học cổ truyền
Sự mất cân bằng về âm dương dẫn đến sự phát sinh ra bệnh tật và cơ chế tác
dụng của châm cứu cơ bản là điều hoà âm dương.


24

Theo y học cổ truyền, âm dương là thuộc tính của hết thảy sự vật trong vũ
trụ. Hai mặt âm dương luôn luôn có quan hệ đối lập nhưng luôn thống nhất với
nhau, quân bình một cách tương đối (bình hành) và nương tựa vào nhau (hỗ căn) để
hoạt động, giúp cho cơ thể luôn thích ứng với hoàn cảnh của thiên nhiên và xã hội.
Bệnh tật phát sinh ra là do có sự mất cân bằng âm dương gây ra bởi các tác
nhân gây bệnh bên ngoài (tà khí của lục dâm), hoặc do thể trạng suy nhược, sức đề
kháng giảm yếu (chính khí hư), hoặc do sự biến đổi về mặt tình cảm, tâm thần (nội
nhân), cũng có khi do những nguyên nhân khác như thể chất của bệnh nhân quá
kém, sự ăn uống, nghỉ ngơi, sinh hoạt không điều độ....
Trên lâm sàng bệnh lý hoặc hàn hoặc nhiệt, hoặc hư hoặc thực (hư hàn thuộc

về âm, nhiệt thực thuộc dương). Nhiều khi bệnh rất phức tạp, các dấu hiệu về hàn
nhiệt rất khó phân biệt (kiêm chứng: chân hàn giả nhiệt, chân nhiệt giả hàn).
Nguyên tắc điều trị chung là điều hoà (lập lại) mối cân bằng âm dương. Cụ
thể trong châm cứu, muốn đánh đuổi tà khí (tác nhân gây bệnh), nâng cao chính khí
(sức đề kháng cơ thể) thì phải tuỳ thuộc vào vị trí nông sâu của bệnh, trạng thái hàn
nhiệt, hư thực của người bệnh để vận dụng dùng châm hay cứu, dùng phép châm bổ
hay châm tả.
Bệnh tật phát sinh ra làm rối loạn hoạt động bình thường của hệ kinh lạc và cơ
chế tác dụng châm cứu cơ bản là điều chỉnh cơ năng hoạt của hệ kinh lạc.
Hệ kinh lạc gồm những đường kinh (thẳng) nối từ tạng phủ ra ngoài da và
những đường lạc (ngang) nối liền các đường kinh với nhau tạo thành một hệ thống
chằng chịt trong cơ thể .
Trong đường kinh có kinh khí vận hành để điều hoà dinh dưỡng làm con
người luôn khoẻ và thích ứng với hoàn cảnh bên ngoài. Mỗi đường kinh mang lại tính
chất và hoạt động tuỳ theo công năng của tạng phủ mà nó xuất phát và mang tên.
Bệnh tật phát sinh ra do nguyên nhân bên ngoài (ngoại nhân, tà khí) hoặc do
nguyên nhân bên trong (nội nhân). Nếu đó là khí thực thì phải loại bỏ tà khí ra ngoài
(dùng phương pháp tả). Nếu do chính khí hư thì phải bồi bổ kinh khí đầy đủ (dùng
phương pháp bổ).


25

Nếu tạng phủ nào có bệnh sẽ có những thay đổi bệnh lý ở đường kinh mang
tên, biểu hiện bên ngoài bằng các triệu chứng lâm sàng riêng biệt. Người ta sẽ dùng
các huyệt trên kinh đó để điều chỉnh công năng của tạng phủ đó.
I.3. Phương pháp điện trường châm
Chữa bệnh bằng trường châm là một di sản lâu đời của châm cứu trong y
học phương Đông. Trường châm phát triển từ cơ sở lý luận của Cửu châm mà người
xưa đã ghi trong sách Linh khu (770-221 trước Công nguyên) [23].

Châm tức là điều khí, hòa huyết khí. Khi châm kim qua các huyệt vị sẽ khai
thông sự tuần hành của khí huyết vì “Thông tắc bất thống, thống tắc bất thông”, có nghĩa
là: khi khí huyết lưu thông thì không đau, khi đau tức là khí huyết không lưu thông.
Những loại kim người xưa dùng để châm chữa bệnh gồm có 9 loại (cửu
châm), trong đó hay dùng nhất là loại kim số 7, dài từ 2-8cm, đường kính 0,2-0,3
mm gọi là Hào châm.Tuy nhiên Hào châm có phần bị hạn chế trong điều khí nhanh
và mạnh.
Trường châm: loại kim số 8, ứng với Bát phong. Phong trong thiên nhiên từ 8
phương tới tác động lên 8 khớp lớn trong cơ thể gây chứng tý. Muốn chữa phải châm
sâu, châm xuyên huyệt. Dùng trường châm dài 10-30 cm, đường kính 0,1- 0,3- 0,5
mm, có tác dụng điều khí tốt.
Kích thích xung điện là kĩ thuật sau khi châm kim lên huyệt vị, thay kích
thích vê tay bằng kích thích xung điện.
Các nghiên cứu về các dòng điện trên cơ thể đã đưa ra kết luận là:
Khi dòng xung điện có tần số thích hợp, cường độ, điện thế thấp thì tác dụng
tốt để kích thích hoặc ức chế hệ thần kinh, gây co cơ hoặc giảm co thắt cơ, tăng
cường điều chỉnh tuần hoàn đặc biệt có tác dụng giảm đau.
Điện trường châm là một phát triển mới của nghành châm cứu, kết hợp
YHCT và YHHĐ, phát huy được cả tác dụng của kích thích lên huyệt vị, huyệt đạo
và tác dụng của xung điện trên cơ thể [24].


×