Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Thực trạng pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực điện ảnh tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.96 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN MAI ANH

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ
HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC
ĐIỆN ẢNH TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hướng ứng dụng

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN MAI ANH

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ
HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC
ĐIỆN ẢNH TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Kinh tế


: 8380107
Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hướng ứng dụng

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Vân Anh

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Mai Anh


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn của mình, trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc
tới PGS.TS Nguyễn Thị Vân Anh là người đã hướng dẫn tôi hết sức tận tình trong
thời gian qua.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám hiệu,
toàn thể quý thầy cô, cán bộ Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa Pháp luật
Kinh tế đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên

cứu và hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình - những người đã luôn ở bên cổ vũ,
tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho tôi; cảm ơn cơ quan đã tạo điều kiện thuận lợi
trong công việc để tôi có thể dành thời gian cũng như tâm huyết cho công trình
nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn thầy cô trong Hội đồng chấm luận văn
đã cho tôi những góp ý quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Mai Anh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LCT

: Luật Cạnh tranh

HCCT
TTKT
Megastar
CGV
Lotte
Bộ VHTT&DL
Sở VHTT

: Hạn chế cạnh tranh
: Tập trung kinh tế
: Công ty TNHH Truyền thông Megastar
: Công ty TNHH CJ CGV Việt Nam
: Công ty TNHH Lotte Cinema Việt Nam

: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
: Sở Văn hóa và Thể thao

Cục QLCT

: Cục Quản lý cạnh tranh (Hiện nay là Cục Cạnh tranh
và Bảo vệ người tiêu dùng)
: Hiệp hội Phát hành và Phổ biến phim Việt Nam

Hiệp hội PH&PBP VN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................. 2
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn................................. 3
4. Mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn............................................................. 4
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ..................................................... 5
7. Bố cục của luận văn......................................................................................... 5
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HẠN CHẾ CẠNH TRANH VÀ
PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH ÁP DỤNG TRONG
LĨNH VỰC ĐIỆN ẢNH TẠI VIỆT NAM ............................................................ 6
1.1. Khái quát về lĩnh vực điện ảnh ..................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của điện ảnh ............................................................. 6
1.1.2. Các hoạt động điện ảnh............................................................................ 10
1.2. Khái quát về hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực điện ảnh ................ 12
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực điện ảnh ......... 12
1.2.2. Các hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực điện ảnh ................................. 14

1.3. Khái quát pháp luật về hành vi hạn chế cạnh tranh áp dụng trong lĩnh vực
điện ảnh tại Việt Nam........................................................................................ 19
1.3.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về hành vi hạn chế cạnh tranh áp
dụng trong lĩnh vực điện ảnh tại Việt Nam...…………………………………...19
1.3.2. Nội dung pháp luật về hành vi hạn chế cạnh tranh áp dụng trong lĩnh vực
điện ảnh tại Việt Nam…………………………………………………………...21
Chương 2: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG ĐIỆN ẢNH VÀ THỰC TRẠNG
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANHÁP DỤNG
TRONG LĨNH VỰC ĐIỆN ẢNH TẠI VIỆT NAM ........................................... 23
2.1. Tổng quan về thị trường điện ảnh Việt Nam ............................................... 23
2.1.1. Thị trường sản xuất phim ......................................................................... 23
2.1.2. Thị trường phát hành phim ...................................................................... 23
2.1.3. Thị trường phổ biến phim ........................................................................ 24
2.2. Thực trạng pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh áp dụng trong
lĩnh vực điện ảnh tại Việt Nam .......................................................................... 26


2.2.1. Thực trạng pháp luật về xác định sức mạnh thị trường của doanh nghiệp
trong lĩnh vực điện ảnh ...................................................................................... 26
2.2.2. Thực trạng pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh
vực điện ảnh……………………………………………………………………..31
2.2.3. Thực trạng pháp luật về kiểm soát lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc
quyền trong lĩnh vực điện ảnh…………………………………………………..…45
Chương 3:GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ HẠN CHẾ CẠNH TRANH ÁP DỤNG
TRONG LĨNH VỰC ĐIỆN ẢNH TẠI VIỆT NAM........................................... 66
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hạn chế cạnh tranh áp dụng trong lĩnh vực
điện ảnh…………………………………………………………………………...66
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực điện ảnh. 67
3.2.1.Ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh năm 2018 ….…67

3.2.2. Hoàn thiện các quy định về kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
trong lĩnh vực điện ảnh…………………………………………………………….68
3.2.3. Hoàn thiện các quy định về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị
trí độc quyền trong lĩnh vực điện ảnh……………………………………….......69
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hạn chế cạnh tranh áp
dụng trong lĩnh vực điện ảnh…………...……..………………………………...71
3.3.1. Nâng cao nhận thức và tư duy về hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong lĩnh vực điện ảnh ............................................................................. ….…72
3.3.2. Xây dựng chuẩn mực về văn hóa kinh doanh, khuyến khích cạnh tranh và
hợp tác giữa các doanh nghiệp trong lĩnh vực điện ảnh…………………...…....72
3.3.3. Nâng cao việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về cạnh tranh nói
chung và các hành vi hạn chế cạnh tranh nói riêng trong lĩnh vực điện
ảnh….....................................................................................................................73
3.3.4.Xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan
quản lý ngành………………………..………………………………………..…74
KẾT LUẬN .......... ……………………..…………………………………………..75


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điện ảnh là một ngành nghệ thuật tổng hợp, chiếm vị trí quan trọng trong đời
sống văn hóa xã hội, có tác dụng to lớn trong việc định hướng giáo dục chính trị, tư
tưởng và thẩm mỹ cho mọi người. Trong thời kì đất nước đang đẩy mạnh công cuộc
đổi mới và hội nhập quốc tế, nhu cầu thưởng thức các tác phẩm điện ảnh ngày càng
cao hơn, cả về số lượng và chất lượng. Những năm gần đây, nhu cầu đến rạp xem
phim của khán giả ngày một tăng, nhiều kỷ lục doanh thu phòng vé liên tiếp được xác
lập đã cho thấy thị trường điện ảnh Việt Nam đang có tiềm năng to lớn mà nhiều nhà
đầu tư trong và ngoài nước không thể bỏ qua.

Trong khoảng 4 đến 5 năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng doanh thu của thị
trường điện ảnh Việt Nam đạt 35-40%. Theo đó, tổng doanh thu từ các phòng vé năm
2014 khoảng 83 triệu USD và đến năm 2015 đã là 120 triệu USD1. Theo ước tính
tổng doanh thu phòng vé năm 2017 của Việt Nam là 3.250 tỷ, tăng 16% so với năm
2016 (2.800 tỷ)2. Năm 2018, ước tính tổng doanh thu đạt 3.500 tỷ đồng.
Sự gia tăng doanh thu phòng vé tỷ lệ thuận với sự phát triển số rạp trong nước.
Đến cuối năm 2017 ở Việt Nam có 760 phòng chiếu, tăng 32% so với năm 2016trong đó 43% số rạp là của CGV3.
Ngày 15/11/2017, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XIV thảo luận tại hội
trường về dự thảo LCT sửa đổi, đại biểu Quốc hội Nguyễn Đức Kiên - Đoàn Sóc
Trăng và đại biểu Quốc hội Nguyễn Sỹ Cương - Đoàn Ninh Thuận trên nghị trường
đã nhắc tới thị trường phim Việt Nam như một ví dụ điển hình của việc cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp nội và doanh nghiệp ngoại, trong đó doanh nghiệp nội bị chèn
ép, thất thế ngay trên sân nhà. Nhiều đại biểu đã bức xúc về câu chuyện doanh nghiệp
CGV vi phạm luật cạnh tranh, ép các doanh nghiệp Việt về tỷ lệ ăn chia khi chiếu
phim Việt tại hệ thống rạp của mình.
Về mặt lý thuyết, sự cạnh tranh giữa các cơ sở sản xuất, phát hành, phổ biến
phim trong nước và các cơ sở liên doanh nước ngoài có thể góp phần nâng cao tính
1

Hoài Thu (2016), “Điện ảnh Việt và cuộc chiến dành miếng bánh trăm triệu USD”, Báo Điện tử Vnexpress,
tại địa chỉ: ngày truy cập 15/4/2018.
2
Ân Nguyễn (2017), “Phòng vé Việt bội thu năm 2017”, Báo Điện tử Vnexpress, tại địa chỉ:
ngày truy cập 15/4/2018.
3
Ân Nguyễn, tlđd chú thích 2.


2


chuyên nghiệp, hấp dẫn của sản phẩm điện ảnh cũng như chất lượng dịch vụ. Tuy
nhiêntrên thực tế, “cuộc chiến” này vẫn đang diễn ra phức tạp, tiềm ẩn nhiều tác động
tiêu cực đối với lĩnh vực điện ảnh tại Việt Nam.
Ngày 12/6/2018, Luật Cạnh tranh số 23/2018/QH14 được Quốc hội khóa XIV
thông qua tại kỳ họp thứ 5 với 95,28% đại biểu biểu quyết tán thành. So với LCT
năm 2004, LCT mới được xây dựng dựa trên sự kết hợp chặt chẽ giữa tư duy kinh tế
và tư duy pháp lý, trong đó nhấn mạnh yêu cầu tăng cường hiệu quả thực thi.
Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề này, học viên đã chọn đề tài: “Thực trạng
pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực điện ảnh tại Việt Nam” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về cạnh tranh nói chung và HCCT nói riêng luôn nhận được sự quan
tâm đặc biệt của giới luật học nước ta. Thời gian qua có rất nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về lĩnh vực này được công bố mà tiêu biểu làcác công trình nghiên cứu sau:
- “Kiểm soát thoả thuận hạn chế cạnh tranh - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn”- Luận văn thạc sĩ Luật học của Đồng Ngọc Dám (2006), Trường Đại học Luật
Hà Nội. Luận văn đã phân tích một số vấn đề lý luận về kiểm soát thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh; đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định về kiểm soát thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh và đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh về
kiểm soátthoả thuận hạn chế cạnh tranh.
-“Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật cạnh
tranh Việt Nam” - Luận văn thạc sĩ Luật học của Đỗ Thanh Thủy (2014), Trường Đại
học Luật Hà Nội. Luận văn đã phân tích một số vấn đề lý luận về kiểm soát hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường; phân tích và đưa ra đánh giá về các quy định
của pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện hành về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường và đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh
tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
- “Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam” - Luận án tiến sĩ Luật học
của Hà Ngọc Anh (2018), Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Luận án đã
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về TTKT, kiểm soát TTKT và pháp luật về kiểm

soát TTKT; phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật về kiểm soát TTKT và
thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát TTKT ở Việt Nam hiện hành và đề xuất các
phương hướng, hoàn thiện pháp luật về kiểm soát TTKT ở Việt Nam.


3

Tuy nhiên, các công trình này chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
trạng thi hành pháp luật về từng hành vi HCCT nói riêng mà chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về hành vi HCCT và đặc biệt là HCCT trong
lĩnh vực điện ảnh.
Thực trạng pháp luật về HCCT trong lĩnh vực điện ảnh là một vấn đề mới tại
Việt Nam. Chưa có nhiều bài báo cũng như những công trình nghiên cứu về vấn đề
này cũng như chưa có một công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về thực trạng
pháp luật về HCCT trong lĩnh vực điện ảnh tại Việt Nam. Chưa có các giáo trình,
sách chuyên khảo về thực trạng pháp luật về HCCT trong lĩnh vực điện ảnh mà chỉ có
những giáo trình, sách chuyên khảo về thực trạng pháp áp dụng pháp luật về cạnh
tranh nói chung hoặc về các lĩnh vực khác như nhượng quyền thương mại, đấu thầu,..
Cho đến nay, đây là đề tài luận văn thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu “Thực trạng
pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực điện ảnh tại Việt Nam”. Để hoàn
thành đề tài này, tôi đã tham khảo nhiều luận văn, luận án của các lĩnh vực khác cũng
như sưu tầm nhiều sách, báo cáo của các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội,
các thông tin trên mạng Internet,…
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Dựa trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các công trình khoa học
đã công bố, Luận văn với đề tài “Thực trạng pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong
lĩnh vực điện ảnh tại Việt Nam” có đối tượng và phạm vi nghiên cứu cụ thể như sau:
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là:
+ Hệ thống các quan điểm, các quy định của LCT năm 2018 về hành vi HCCT

(bao gồm hành vi thỏa thuận HCCT, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và lạm
dụng vị trí độc quyền); trên cơ sở đó so sánh với LCT năm 2004.
+ Các hoạt động nổi bật trong lĩnh vực điện ảnh ở Việt Nam hiện nay, các
hành vi HCCT đã xảy ra trong lĩnh vực điện ảnh và thực trạng thực thi các quy định
của pháp luật để giải quyết.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng quy định của pháp LCT đặc biệt là
LCT năm 2018 về hành vi HCCT trong lĩnh vực điện ảnh và hậu quả pháp lý của các
hành vi này mà không đề cập đến nội dung về cơ quan quản lý cạnh tranh và thủ tục
điều tra, xử lý vụ việc HCCT.


4

4. Mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn với đề tài “Thực trạng pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong lĩnh
vực điện ảnh tại Việt Nam” có mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
Mục tiêu của Luận văn là xây dựng một số vấn đề lý luận về hành vi HCCT
trong lĩnh vực điện ảnh; nhận diện những đặc trưng, những khác biệt cơ bản của từng
hành vi HCCT cụ thể đặt trong mối quan hệ so sánh với các hành vi HCCT khác
trong lĩnh vực điện ảnh, từ đó góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi các
quy định của pháp luật áp dụng để điều chỉnh hành vi HCCT trong lĩnh vực điện ảnh
tại Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu trên, Luận văn giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, phân tích những vấn đề lý luận liên quan đến hành vi HCCT trong
lĩnh vực điện ảnh thông qua việc giải mã khái nhiệm và đặc điểm của điện ảnh, các
hoạt động điện ảnh; khái quát về khái niệm và đặc điểm của hành vi HCCT trong lĩnh
vực điện ảnh cũng như sự hành thành và phát triển, nội dung của pháp luật về hành vi
HCCT trong lĩnh vực điện ảnh tại Việt Nam.
- Thứ hai, đánh giá thực trạng thị trường điện ảnh tại Việt Nam và thực trạng

các quy định của pháp luật về hành vi làm HCCTáp dụng trong lĩnh vực điện ảnh. Với
nhiệm vụ này, Luận văn phân tích các quy định của LCT, Luật Điện ảnh; trên cơ sở đó
chỉ ra một số trường hợp có dấu hiệu vi phạm trên thực tế, những tồn tại, hạn chế.
- Thứ ba, đưa ra định hướng và các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hành vi HCCT áp dụng trong lĩnh vực điện
ảnh tại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề làm rõ các nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, Luận văn sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau, như: phương pháp mô tả, tổng hợp,
phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, kết hợp nghiên cứu lý luận
với thực tiễn. Các phương pháp nghiên cứu trong Luận văn được thực hiện trên nền
tảng của phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lênin; trên cơ sở các quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Cụ thể:
- Phương pháp mô tả, tổng hợp, bình luận, phương pháp lịch sử được sử dụng
trong chương 1 để nghiên cứu những vấn đề chung về HCCT và pháp luật về hành vi
HCCTáp dụng trong lĩnh vực điện ảnh tại Việt Nam.


5

- Phương pháp so sánh, đối chiếu, thống kê và phân tích được sử dụng trong
chương 2 để nghiên cứu thực trạng pháp luật về hành vi HCCT đặt trong mối liên hệ
thực tiễn áp dụng trong thị trường điện ảnh Việt Nam những năm gần đây.
- Phương pháp tổng hợp, quy nạp, diễn giải được sử dụng trong chương 3 để
nghiên cứu xác lập định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hành vi HCCTáp dụng trong hoạt
động điện ảnh tại Việt Nam.
Trong số các phương pháp trên, phương pháp phân tích và so sánh được sử
dụng chủ yếu và xuyên suốt hầu hết nội dung của luận văn, thông qua đó làm rõ các
nội dung cần nghiên cứu một cách thuyết phục, có cơ sở lý luận và thực tiễn.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn “Thực trạng pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực điện
ảnh tại Việt Nam” được hoàn thành sẽ có những đóng góp về mặt khoa học chủ yếu
sau đây:
- Góp phần hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận về hành vi HCCT trong lĩnh
vực điện ảnh;
- Cung cấp các thông tin có giá trị tham khảo bổ ích về một số hoạt động
trong lĩnh vực điện ảnh tại Việt Nam hiện nay;
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật điều chỉnh hành vi HCCT áp dụng trong
lĩnh vực điện ảnh.
Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất
một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
HCCT áp dụng trong lĩnh vực điện ảnh.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận và phụ lục, bố
cục của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về hạn chế cạnh tranh và pháp luật về hành vi
hạn chế cạnh tranh áp dụng trong lĩnh vực điện ảnh tại Việt Nam.
Chương 2: Tổng quan về thị trường điện ảnh và thực trạng pháp luật điều
chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh áp dụng trong lĩnh vực điện ảnh tại Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về hạn chế cạnh tranh áp dụng trong lĩnh vực điện ảnh tại Việt Nam.


6

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HẠN CHẾ CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT
VỀ HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANHÁP DỤNG TRONG LĨNH VỰC
ĐIỆN ẢNH TẠI VIỆT NAM

1.1. Khái quát về lĩnh vực điện ảnh tại Việt Nam
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của điện ảnh
1.1.1.1. Khái niệm
Điện ảnh là một ngành công nghiệp giải trí nằm trong công nghiệp văn hóa.
Tác phẩm điện ảnh, vừa chứa đựng những nội dung về tư tưởng, nghệ thuật, vừa chứa
đựng những nội dung về tuyên truyền, giáo dục; vừa chứa đựng giá trị kinh tế, vừa
chứa đựng giá trị văn hóa, xã hội; mang lại những tác động mạnh mẽ đến tư tưởng,
tình cảm của người xem nói riêng và đời sống xã hội nói chung.
Điện ảnh là một khái niệm lớn bao gồm các bộ phim tạo bởi những khung hình
chuyển động (phim); kỹ thuật ghi lại hình ảnh, âm thanh và ánh sáng để tạo thành một
bộ phim (kỹ thuật điện ảnh); hình thức nghệ thuật liên quan đến việc tạo ra các bộ
phim và cuối cùng ngành công nghiệp và thương mại liên quan đến các công đoạn
làm, quảng bá và phân phối phim ảnh (công nghiệp điện ảnh).
Trong tiếngViệt, điện ảnh đôi khi còn được gọi là Xi-nê, xuất phát
từ "cinéma" (điện ảnh trong tiếng Pháp) vốn là từ rút gọn của "cinématographe".
"Cinématographe" (xuất phát từ tiếng Hy Lạp κίνημα - kínēma có nghĩa là chuyển
động, còn γράφειν - gráphein có nghĩa là ghi lại) là cái tên được Léon Bouly đặt cho
chiếc máy ghi lại hình ảnh của ông trong đăng ký bằng sáng chế số 219 350
năm 1892, một trong những mốc sự kiện khai sinh ra ngành điện ảnh.
Khi mới được phát minh, điện ảnh chỉ được coi là các bộ phim ghi lại cảnh
sinh hoạt đời thường, nhưng chỉ ít lâu sau, các bộ phim đã được tạo ra với những ý đồ
văn hóa nhất định và nhanh chóng trở thành một loại hình nghệ thuật quan trọng.
Điện ảnh cũng trở thành một hình thức giải trí không thể thiếu trong đời sống thường
nhật, đôi khi còn phát triển thành những hiện tượng văn hóa hoặc được sử dụng như
các phương tiện tuyên truyền.4

4

truy cập 22/6/2018



7

Sản phẩm điện ảnh hay là sản phẩm nghệ thuật được biểu hiện bằng hình ảnh
động kết hợp với âm thanh và các phương tiện khác theo nguyên tắc của ngôn ngữ
điện ảnh, bao gồm phim truyện, phim tài liệu, phim khoa học và phim hoạt hình5.
Hầu hết các sản phẩm điện ảnh là phim truyện đều được sản xuất ra là để chiếu
trên màn ảnh rộng trong rạp chiếu phim. Sau khi phim được chiếu tại các rạp trong
một khoảng thời gian nhất định sẽ được chiếu trên các kênh truyền hình trả tiền hoặc
được bán, cho thuê dưới dạng đĩa DVD hoặc băng video cassette để khán giả có thể
xem tại nhà. Sau đó, phim sẽ được chiếu trên các đài truyền hình, trên internet và các
phương tiện truyền thông khác.
Dưới giác độ pháp lý, Luật Điện ảnh năm 2006 đã định nghĩa:“Điện ảnh là
một loại hình nghệ thuật tổng hợp được thể hiện bằng hình ảnh động, kết hợp với âm
thanh, được ghi trên vật liệu phim nhựa, băng từ, đĩa từ và các vật liệu ghi hình khác
để phổ biến đến công chúng thông qua các phương tiện kỹ thuật”6.
1.1.1.2. Đặc điểm của điện ảnh
Thứ nhất, điện ảnhlà loại hình nghệ thuật gắn liền với sản phẩm điện ảnh và
mang tính đặc thù của sản phẩm điện ảnh.
Sản phẩm điện ảnh (phim) có ngôn ngữ thể hiện riêng còn được gọi là ngôn
ngữ điện ảnh. Ngôn ngữ điện ảnh là những thủ pháp nghệ thuật chứa đựng sự tinh tế,
sự sáng tạo thông minh của mỗi đạo diễn trong bố cục, sắp xếp những chất liệu hình
ảnh, âm thanh, ánh sáng để mang đến cho khán giả sự rung động nội tâm sâu sắc
bằng thông điệp của mình. Đó là những sáng tạo không ngừng nghỉ trong từng chi tiết
kịch bản cho đến những những kỹ thuật xây dựng hình ảnh từ góc máy, động tác máy
tại trường quay, phòng dựng. Sản phẩm điện ảnh có những tính chất đặc thù sau:
Sản phẩm điện ảnh mang đậm bản sắc dân tộc và tính đa dạng văn hoá.Mỗi
sản phẩm điện ảnh được sản xuất ra là một tác phẩm nghệ thuật, nó vừa phải phản
ánh sâu sắc hình ảnh vầ đất nước, con người, truyền thống lịch sử và bản sắc hoá của
quốc gia, dân tộc mình, đồng thời vừa phải phản ảnh hơi thở của thời đại, chọn lọc,

tiếp thu tinh hoa văn hoá của các dân tộc khác. Có như vậy, sản phẩm điện ảnh mới
truyền tải được được tính nhân văn, tính giải trí, mới được khán giả trong nước và
quốc tế đón nhận.

5
6

Khoản 2, khoản 3 Luật Điện ảnh năm 2006.
Khoản 1 Điều 4 Luật Điện ảnh năm 2006.


8

Sản phẩm điện ảnh là sản phẩm sáng tạo, duy nhất, không trùng lặp. Mỗi sản
phẩm điện ảnh là một sản phẩm sáng tạo duy nhất và không lặp lại, được tạo ra bởi
nhiều chủ thể sáng tạo (biên kịch, đạo diễn, thiết kế mỹ thuật, hóa trang, quay phim,
dựng phim, thiết kế âm thanh, thiết kế ánh sáng, diễn viên). Do đặc thù của quá trình
sản xuất, từ khâu sáng tác kịch bản đến khâu sản xuất, nên mỗi tác phẩm điện ảnh đều
là một sản phẩm của một tập thể, là sản phẩm duy nhất và không trùng lặp.
Sản phẩm điện ảnh có tuổi thọ kinh doanh ngắn. Thông thường các sản phẩm
điện ảnh (phim) sau khi sản xuất sẽ được chiếu trên màn ảnh rộng tại các rạp chiếu
phim trong một khoảng thời gian nhất định. Ở Việt Nam, thời gian chiếu phim tại rạp
ở các thành phố lớn (vòng 1) thường là 30 ngày đến 45 ngày, sau đó phim được
chuyển đến chiếu tại các địa phương khác để tận thu (vòng 2) cũng trong khoảng 30
đến 45 ngày. Sau khi kết thúc các vòng chiếu tại rạp, phim có thể được bán cho các
kênh truyền hình trả tiền (truyền hình cáp), hoặc chuyển sang đĩa DVD để bán. Và
cuối cùng sau khoảng 02 năm, phim có thể được bán cho các đài truyền hình để chiếu
trên các kênh truyền hình miễn phí.Như vậy, có thể thấy, tuổi thọ kinh doanh của một
bộ phim chỉ khoảng 02 năm7.
Thứ hai, điện ảnh là loại hình nghệ thuật gắn liền với hoạt động bảo hộ quyền

tác giả.
Trong thời đại phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin, một thách thức lớn
đối với hoạt động điện ảnh là việc bảo hộ quyền tác giả của các tác phẩm điện ảnh
được đưa ra phổ biến rộng rãi. Với tư cách là một sản phẩm của một ngành công
nghiệp sáng tạo, bản quyền đóng vai trò sống còn đối với một tác phẩm điện ảnh. Mất
bản quyền đồng nghĩa với việc nhà sản xuất mất khả năng thu hồi vốn đối với một
sản phẩm điện ảnh. Vì thế, điều đặc biệt quan trọng trong quản lý nhà nước về điện
ảnh là có các biện pháp ngăn chặn tình trạng ăn cắp bản quyền, phải tôn trọng và bảo
vệ bản quyền bao gồm bản quyền tác phẩm, bản quyền phát hành, bản quyền công
nghệ.
Thứ ba, sự phát triển của điện ảnh gắn liền với sự phát triển của nền công
nghiệp điện ảnh và sự phát triển của khoa học, công nghệ.
Công nghiệp điện ảnh là một ngành công nghiệp nằm trong công nghiệp giải
trí, bao gồm các khâu sản xuất, phát hành và phổ biến các sản phẩm điện ảnh đến
7
Hồ Thị Vân Anh (2015), Quản lý nhà nước về điện ảnh (qua nghiên cứu trường hợp tại Cục Điện ảnh), Luận
văn Thạc sĩ, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội,tr 13, Hà Nội.


9

công chúng. Trong quá trình phát triển của mình, bất cứ một nền công nghiệp điện
ảnh nào cũng phải chú trọng việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật: trang thiết bị kỹ thuật
tiền kỳ (máy quay phim, âm thanh, ánh sáng, trường quay), trang thiết bị kỹ thuật hậu
kỳ (dựng phim, hòa âm, dựng âm thanh), trang thiết bị chiếu phim (rạp chiếu phim,
máy chiếu phim).
Sản xuất, phát hành và phổ biến phim luôn gắn liền với những tiến bộ của
khoa học và công nghệ.Ngày nay, công nghệ sản xuất, phát hành và phổ biến phim
đang phát triển rất mạnh mẽ, đặc biệt là công nghệ kỹ thuật số (digital). Việc áp dụng
những thành tựu mới của khoa học và công nghệ đã xóa đi mọi giới hạn sáng tạo, đáp

ứng được bất kỳ ý tưởng thể hiện sáng tạo nào của các nghệ sỹ và những nhà làm
phim, tạo ra những bước phát triển mới, năng động, gắn kết hơn của công nghiệp điện
ảnh. Những tác phẩm điện ảnh được sản xuất bằng công nghệ lạc hậu, có chất lượng
kỹ thuật kém hoặc không tương xứng với tiêu chuẩn quốc tế sẽ không được khán giả
trong và ngoài nước chấp nhận.
Thứ tư, điện ảnh là loại hình nghệ thuật mang tính quốc tế cao.
Về sản xuất phim: Hợp tác sản xuất phim giữa các nước, giữa các hãng, hoặc
nước này cung cấp dịch vụ sản xuất phim cho nước khác, hãng này cung cấp dịch vụ
sản xuất phim cho hãng khác, ngày nay đã trở thành phổ biến. Vì thế đa số sản phẩm
điện ảnh hiện nay đều có sự tham gia của rất nhiều quốc gia khác nhau. Đặc điểm này
của điện ảnh cũng dẫn đến sự cạnh tranh giữa các sản phẩm điện ảnh trong nước với
các sản phẩm điện ảnh nước ngoài; giữa các sản phẩm điện ảnh nước ngoài với nhau
hoặc giữa các sản phản điện ảnh trong nước với nhaunhằm thu hút khán giả. Sự cạnh
tranh giữa các sản phẩm điện ảnh này chính là động lực thúc đẩy sản xuất ra các bộ
phim hay, có chất lượng.
Về phát hành, phổ biến phim: Ngày nay, không một nhà sản xuất nào sản xuất
phim chỉ để phục vụ cho khán giả của nước mình. Bất kỳ một sản phẩm điện ảnh nào
cũng có xu hướng giới thiệu, phát hành ra các nước khác thông qua các hệ thống phát
hành, các liên hoan phim/chợ phim quốc tế. Một sản phẩm điện ảnh thực sự xuất sắc
và mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội cần phải nhận được sự chấp nhận của khán giả
trên khắp thế giới, chứ không phải chỉ ở một quốc gia riêng biệt. Trên thị trường,
ngoài các công ty phát hành, phổ biến phim của Việt Nam đã xuất hiện các công ty
phát hành, phổ biến phim có vốn nước ngoài.Các công ty nước ngoài hoạt động ngày
càng mạnh mẽ, chiếm thị phần chiếu phim lớn tại Việt Nam.


10

Ngoài ra, mỗi sản phẩm điện ảnh đều phải sử dụng ngôn ngữ riêng của quốc
gia, dân tộc để truyền tải nội dung. Tuy nhiên, với đặc tính quốc tế vốn có, trong quá

trình phổ biến và phát hành ra quốc tế, sản phẩm điện ảnh còn phải sử dụng những
ngôn ngữ của quốc gia, dân tộc khác thông qua phụ đề hoặc lồng tiếng nước ngoài.
1.1.2. Các hoạt động điện ảnh
Hoạt động điện ảnh là tổng thể của nhiều lĩnh vực có quan hệ hữu cơ, tác động
qua lại lẫn nhau để tạo nên một nền công nghiệp điện ảnh hoàn chỉnh. Theo quy định
của Luật Điện ảnh năm 2006: “Hoạt động điện ảnh là hoạt động bao gồm sản xuất
phim, phát hành phim và phổ biến phim”8.
1.1.2.1. Sản xuất phim
Theo quy định của Luật Điện ảnh năm 2006: “Sản xuất phim là quá trình tạo
ra tác phẩm điện ảnh từ kịch bản văn học đến khi hoàn thành bộ phim”9.
Việc sáng tác kịch bản điện ảnh có thể được hình thành từ cốt truyện nguyên
gốc hoặc được chuyển thể từ một tác phẩm văn học. Thông thường, trong quá trình
sản xuất phim, đạo diễn sử dụng hai loại kịch bản: Kịch bản văn học và kịch bản phân
cảnh. Thực tế cho thấy, sáng tác và phát triển kịch bản là khâu đầu tiên, là một trong
những yếu tố quan trọng nhất trong quá trình sản xuất ra một tác phẩm điện ảnh,
quyết định chất lượng nội dung và nghệ thuật của một bộ phim.
Quá trình này diễn ra liên tục từ giai đoạn chuẩn bị (pre-production) đến giai
đoạn tiền kỳ (production) và giai đoạn hậu kỳ (post-production)10.
+ Chuẩn bị: Là giai đoạn nhà sản xuất lựa chọn và thành lập đoàn làm phim,
trong đó chú trọng việc lựa chọn các thành phần chính của đoàn làm phim như đạo
diễn, quay phim, thiết kế mỹ thuật, kỹ thuật viên…Trong công đoạn này, đạo diễn
chịu trách nhiệm xây dựng kịch bản phân cảnh (trên cơ sở kịch bản văn học), lựa
chọn bối cảnh, lựa chọn diễn viên, lựa chọn công nghệ sản xuất. Trong khi đó, nhà
sản xuất phải xây dựng phương án sản xuất bao gồm dự trù kinh phí, lịch trình quay
phim, chuẩn bị thiết bị kỹ thuật, phương tiện vận chuyển phục vụ cho quay phim.
+ Tiền kỳ: Là giai đoạn quay phim chính, thực hiện tất cả các công đoạn quan
trọng nhất, căn bản nhất của quá trình xây dựng một bộ phim bao gồm việc dàn dựng

8


Khoản 6 Điều 4 Luật Điện ảnh năm 2006.
Khoản 7 Điều 4 Luật Điện ảnh số năm 2006.
10
Vũ Xuân Quang - Trần Thanh Tùng (2009), Thuật ngữ Điện ảnh - Truyền hình,Hội Điện ảnh xuất bản, Hà
Nội, tr.273.
9


11

cảnh quay, hướng dẫn diễn viên, hướng dẫn kỹ thuật viên và quay phim, ghi âm, thu
thanh đồng bộ, in tráng phim (nếu có).
+ Hậu kỳ: Là giai đoạn được thực hiện sau khi hoàn thành công đoạn quay
phim (tiền kỳ) bao gồm: ráp dựng; điều chỉnh độ sáng, lồng tiếng; hòa âm; ghép nhạc;
bổ sung hiệu ứng, kỹ xảo âm thanh; thực hiện các kỹ xảo hình ảnh; trình bày phụ đề;
chiếu thử. Trước đây, hầu hết phim Việt Nam thường không sử dụng các kỹ xảo hình
ảnh và kỹ xảo âm thanh, không sử dụng kỹ thuật thu âm đồng bộ. Ngày nay, với công
nghệ kỹ thuật số hiện nay, hầu hết các công việc của công đoạn này đều được thực
hiện trên các bàn dựng kỹ thuật số hiện đại.
1.1.2.2. Phát hành phim
Là công đoạn các nhà sản xuất, sau khi hoàn thành phim, ký kết hợp đồng (bao
gồm cả bản quyền, phân chia khu vực phát hành) với các nhà phát hành để bán bản
quyền chiếu phim những bộ phim do mình sản xuất11.
Để được phép phát hành phim, các nhà phát hành phải tiến hành các thủ tục
đăng ký phân loại phim theo độ tuổi, xin cấp giấy phép phổ biến phim ở từng quốc
gia. Để việc phát hành phim có hiệu quả, các nhà phát hành sẽ tiến hành các công
việc nghiên cứu thị trường, quảng cáo, ký kết hợp đồng với các chủ rạp để chiếu
phim. Các nhà phát hành có thể phát hành phim trên hệ thống các rạp chiếu phim, hệ
thống video gia đình (DVD), trên truyền hình, trên internet và các phương tiện thông
tin khác. Trong thời đại công nghiệp số và sự bùng phát của các phương tiện thông

tin, phương thức, phạm vi phát hành phim đã thay đổi về cơ bản.
Theo quy định của Luật Điện ảnh năm 2006: “Phát hành phim là quá trình lưu
thông phim thông qua hình thức bán, cho thuê, xuất khẩu, nhập khầu”12.
1.1.2.3. Phổ biến phim
Là công đoạn các nhà sản xuất sau khi hoàn thành phim tiến hành ký kết hợp
đồng (bao gồm cả bản quyền, phân chia khu vực phát hành) với các nhà phát hành để
bán bản quyền chiếu phim những bộ phim do mình sản xuất, đưa phim đến khán giả
thông qua các hình thức khác nhau13.
Phổ biến phim (chiếu phim) là công đoạn cuối cùng, là nơi để đánh giá nội
dung, nghệ thuật, hiệu quả kinh tế, xã hội thực tế của một bộ phim. Trong công đoạn
này, các chủ sở hữu rạp chiếu phim tổ chức chiếu phim cho khán giả xem và thu tiền
11

ngày truy cập 22/6/2018
Khoản 8 Điều 4 Luật Điện ảnh năm 2006.
13
tlđl chú thích 11.
12


12

bán vé, phân chia tỷ lệ doanh thu với các nhà phát hành phim. Ngoài việc chiếu phim,
các chủ rạp và nhà phát hành phim còn tiến hành đồng thời nhiều hoạt động kinh
doanh khác gắn liền với khai thác phim như quảng cáo, bán đồ lưu niệm, bán đồ ăn
nhanh, bỏng ngô, nước giải khát…
Cũng như các công đoạn sản xuất và phát hành phim, công đoạn chiếu phim
cũng gắn liền với sự phát triển công nghệ, đặc biệt là công nghệ số. Ngoài ra, các chủ
rạp chiếu phim còn có trách nhiệm giữ gìn bản quyền của phim, quản lý chặt chẽ đối
tượng xem phim cho phù hợp với quy định về phân loại phim theo độ tuổi, tiến hành

các điều tra xã hội học về nhu cầu, thị hiếu và đối tượng khán giả đến xem phim để
phục vụ cho việc định hướng sáng tác, sản xuất phim.
Theo quy định của Luật Điện ảnh năm 2006: “Phổ biến phim là việc đưa phim
đến công chúng thông qua chiếu phim, phát sóng trên truyền hình, đưa lên mạng
Internet và phương tiện nghe nhìn khác”14.
1.2.Khái quát về hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực điện ảnh
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực điện ảnh
1.2.1.1. Khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh
Hành vi HCCT là những hành vi gây tác động tiêu cực đến môi trường cạnh
tranh, loại trừ, làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Do đó, hành vi
HCCT có hại tới sự phát triển của nền kinh tế và làm giảm phúc lợi xã hội.
LCT năm 2004 quy định:“Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh
nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thoả
thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc
quyền và tập trung kinh tế”15.
Như vậy, theo khái niệm trên, hành vi HCCT bao gồm bốn hình thức sau:
Thỏa thuận HCCT; lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và
TTKT.
Tuy nhiên, việc coi hành vi TTKT là một hành vi HCCT là chưa phù hợp do
không phản ánh đúng bản chất và ảnh hưởng của hành vi này đến môi trường cạnh
tranh.TTKT là những hoạt động như mua bán doanh nghiệp, chuyển nhượng, tái cơ
cấu, tái cấu trúc và quyền sở hữu của doanh nghiệp… TTKT thực chất là hoạt động
giành quyền kiểm soát, chi phối doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp, hoặc
14
15

Khoản 8 Điều 4 Luật Điện ảnh năm 2006.
Khoản 3 Điều 3 Luật cạnh tranh số 27/2004/QH11 ngày 03/12/2004.



13

nhiều doanh nghiệp cùng liên kết lại nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả
hoạt động chứ không chỉ đơn thuần là sở hữu một phần vốn góp hoặc cổ phần doanh
nghiệp như các nhà đầu tư nhỏ lẻ. TTKT là một hiện tượng bình thường trong hoạt
động kinh doanh, thuộc phạm vi quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp đã được
pháp luật cạnh tranh, pháp luât doanh nghiệp, pháp luật đầu tư, pháp luật chứng
khoán v.v… ghi nhận. Các giao dịch TTKT không đương nhiên mang tác động làm
suy giảm cạnh tranh, mà có cả mặt tiêu cực và tích cực. Cơ quan quản lý chỉ cần xem
xét nguy cơ liệu giao dịch TTKT đó có đủ khả năng gây HCCT trong tương lai hay
không. Chính vì lẽ đó, pháp luật cạnh tranh trên thế giới đều xem xét TTKT theo cơ
chế tiền kiểm mà không phải hậu kiểm. LCT năm 2004 của Việt Nam cũng không
cấm TTKT trong mọi trường hợp như các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền hay thỏa
thuận thông đồng đấu thầu v.v… Như vậy, bản thân TTKT chưa phải là hành vi
HCCT16.
Theo quy định tại LCT số 23/2018/QH14 ngày 12/6/2018 có hiệu lực từ ngày
01 tháng 7 năm 2019: “Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi gây tác động hoặc có
khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh
tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền”17. Như vây,
LCT năm 2018 không coi hành vi TTKT là hành vi HCCT. Theo quy định của LCT
năm 2018, “Tác động hạn chế cạnh tranh là tác động loại trừ, làm giảm, sai lệch
hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường”18. Đây chính là định nghĩa để xác định hành
vi HCCT nói chung và hành vi HCCT trong lĩnh vực điện ảnh nói riêng.
1.2.1.2. Đặc điểm của hành vihạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực điện ảnh
Hành vi HCCT trong lĩnh vực điện ảnh có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi có thể là một doanh nghiệp hoặc một
nhóm doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực điện ảnh. Đó có thể là các nhà sản
xuất, các nhà phát hành hoặc các nhà phổ biến phim. Các doanh nghiệp này hoặc là
đã có sức mạnh thị trường, hoặc hướng đến việc hình thành nên sức mạnh thị trường
bằng cách thỏa thuận cạnh tranh. Trong lĩnh vực điện ảnh, so với các doanh nghiệp

trong nước, các doanh nghiệp nước ngoài có sức mạnh thị trường và chiếm thị phần
đáng kể (Ví dụ CGV, Lotte,...). Thực tế, các doanh nghiệp thực hiện hành vi HCCT

16

Bộ Công thương (2017), Báo cáo Tổng kết 12 năm thi hành Luật Cạnh tranh, Hà Nội, tr 12.
Khoản 2 Điều 3 Luật Cạnh tranh số 23/2018/QH14.
18
Khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2018.
17


14

trong lĩnh vực điện ảnh tại Việt Nam thường là nhà phát hành phim có vốn nước
ngoài, có vị trí thống lĩnh thị trường với số lượng rạp lớn.
Thứ hai, các hành vi được thực hiện nhằm mục tiêu làm biến dạng cạnh tranh,
sự biến dạng của cạnh tranh có thể là làm thay đổi cấu trúc thị trường, thay đổi tương
quan cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, loại trừ đối thủ, ngăn cản đối thủ tiềm năng
để làm giảm đi sức ép cạnh tranh, cản trở cạnh tranh và có thể dẫn tới triệt tiêu cạnh
tranh hiện có hoặc sẽ có, bóc lột khách hàng... Các hành vi HCCT được thực hiện
trong lĩnh vực điện ảnh sẽ làm cạnh tranh trong lĩnh vực này bị cản trở, bị giảm đi sức
ép cạnh tranh. Điện ảnh đang ngày càng phát triển, số lượng khán giả ra rạp ngày
càng cao. Vấn đề khuyến khích cạnh tranh lành mạnh là rất quan trọng, điều đó góp
phần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đang tham gia trên thị trường hoặc thúc đẩy
các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường điện ảnh, tạo môi trường kinh doanh
lành mạnh, bình đẳng hơn. Điều này sẽ có lợi cho cả doanh nghiệp tham gia, khán giả
và cho cả nền kinh tế.
Thứ ba, hành vi HCCT trong lĩnh vực điện ảnh có thể tồn tại dưới các hình
thức: thỏa thuận HCCT, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc

quyền. Tại Việt Nam, hiện nay chưa phát hiện ra hành vi thỏa thuận HCCT trong lĩnh
vực điện ảnh. Đối với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí
độc quyền đã xảy ra một vụ vàonăm 2010. Cụ thể, 6 doanh nghiệp kinh doanh rạp
chiếu phim trong nước gồm: Công ty cổ phần Sài Gòn Điện ảnh (Cinebox Hòa Bình),
Công ty cổ phần Điện ảnh 212 (Cinebox Lý Chính Thắng), Công ty cổ phần truyền
thông Điện ảnh Sài Gòn (cụm rạp Đống Đa, Thăng Long, Toàn Thắng, Vinh Quang),
Công ty cổ phần phim Thiên Ngân (cụm rạp Galaxy), Công ty TNHH một thành viên
điện ảnh Hà Nội (cụm rạp Tháng Tám), Trung tâm Phát hành phim và chiếu bóng
Đồng Nai (rạp Thanh Bình và Sông Phố) đã đưa đơn kiện Megastar vì lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường để chèn ép, thâu tóm thị trường, gây ảnh hưởng lớn đến kinh
doanh của các đơn vị khác.Ngày 14/4/2015, Hội đồng Cạnh tranh đã ban hành Quyết
định giải quyết vụ việc cạnh tranh liên quan đến các hành vi HCCT của Megastar vi
phạm pháp luật cạnh tranh về lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường cho thuê phim
nhựa chiếu rạp.
1.2.2. Các hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực điện ảnh
1.2.2.1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
a) Khái niệm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh


15

LCT năm 2004 không đưa ra một khái niệm chính thức về thỏa thuận HCCT
mà sử dụng phương pháp liệt kê các thỏa thuận HCCT, quy định “cứng” 08 dạng
hành vi thỏa thuận HCCT. Theo đó, chỉ những thỏa thuận được liệt kê tại Điều 8 LCT
năm 2004 mới bị coi là thỏa thuận HCCT, bao gồm:
“1. Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp;
2. Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung
ứng dịch vụ;
3. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán

hàng hoá, dịch vụ;
4. Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
5. Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua,
bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không
liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
6. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh;
7. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các
bên của thoả thuận;
8. Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung
cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ”.
Cách tiếp cận quy định hành vi thỏa thuận HCCT theo cách liệt kê, mô tả biểu
hiện bên ngoài của hành vi một cách cứng nhắc là không phù hợp, không phản ánh
đúng bản chất của hành vi, đồng thời, có thể dẫn đến bỏ sót các hành vi phản cạnh
tranh diễn ra trên thực tế nhưng chưa được mô tả, liệt kê trong Luật, chẳng hạn, thỏa
thuận ấn định giá sàn, giá trần; thỏa thuận tăng giá hoặc giảm giá (không chỉ ở mức
cụ thể) hoặc thỏa thuận duy trì giá bán lại cho bên thứ ba…19
Khoản 4 Điều 3 LCTnăm 2018 quy định: “Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là
thoả thuận giữa các bên dưới mọi hình thức gây tác động hoặc có khả năng gây tác
động hạn chế cạnh tranh”.
So với LCT năm 2004, ngoài 08 thỏa thuận HCCT đã được liệt kê, LCT năm
2018 bổ sung thêm một số thỏa thuận HCCT20:
19
20

Bộ Công thương (2017), Báo cáo đánh giá tác động của dự án Luật Cạnh tranh (sửa đổi), tr 3.
Điều 11 Luật Cạnh tranh năm 2018.


16


- Thoả thuận không giao dịch với các bên không tham gia thoả thuận.
- Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hoá,
cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thoả thuận.
- Các hành vi thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động HCCT.
b) Đặc trưng của các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Thứ nhất, về chủ thể, thỏa thuận HCCT có thể diễn ra giữa các doanh nghiệp
là đối thủ của nhau (thỏa thuận ngang) hoặc không phải là đối thủ của nhau (thỏa
thuận dọc). Đó có thể là thỏa thuận HCCT giữa các doanh nghiệp cùng tham gia phát
hành phim, cùng tham gia sản xuất phim hoặc thỏa thuận của nhóm doanh nghiệp
tham gia chuỗi từ sản xuất đến phát hành và phổ biến phim.
Thứ hai, bản chất của thỏa thuận là sự thống nhất cùng hành động giữa các
doanh nghiệp điện ảnhvà có thể biểu hiện công khai hoặc không công khai. Để xác
định các hành động của một nhóm doanh nghiệp độc lập là thỏa thuận, cơ quan có
thẩm quyền phải có đủ bằng chứng kết luận rằng giữa họ đã tồn tại một hợp đồng,
bản ghi nhớ, các cuộc gặp mặt cho thấy đã có một thoả thuận công khai hoặc ngầm
đồng ý về giá, về hạn chế sản lượng, phân chia thị trường. Một khi chưa có sự thống
nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp tham gia thì chưa thể kết luận có sự tồn
tại của thỏa thuận HCCT.
Thứ ba, nội dung của các thỏa thuận HCCT thường tập trung vào các yếu tố cơ bản
của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang cạnh tranh nhau như giá, thị trường,
trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều kiện ký kết hợp đồng và nội dung của hợp đồng.
Thứ tư, hậu quả của thỏa thuận HCCT là làm loại trừ, làm giảm, sai lệch hoặc
cản trở cạnh tranh trên thị trường điện ảnh. Sự thống nhất ý chí đã liên kết các doanh
nghiệp độc lập với nhau nhằm tạo nên sức mạnh chung trong quan hệ với khách hàng
hoặc trong quan hệ cạnh tranh với những doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận.
Thế nên hậu quả của thỏa thuận gây ra cho thị trường là xoá bỏ cạnh tranh giữa
những doanh nghiệp tham gia.
1.2.2.2. Lạm dụng vị trí độc quyền, vị trí thống lĩnh thị trường
a) Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền

Kiểm soát và xử lý các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc
quyền là một trong những nhiệm vụ quan trọng của pháp luật cạnh tranh nhằm bảo
vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh, không phân biệt đối xử giữa các chủ thể tham
gia. Đối tượng của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền là


17

những doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp đang có vị trí thống lĩnh thị trường, doanh
nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường.
LCT năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa đưa ra khái niệm
hoặc các tiêu chí xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc
quyền mà liệt kê cụ thể các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để
HCCT. Điều này khiến doanh nghiệp lúng túng đồng thời có thể dẫn đến nhiều cách
hiểu khác nhau, từ đó dẫn tới thiếu định hướng, thậm chí nhầm lẫn trong quá trình
thực thi. Việc thiếu một định nghĩa chung hoặc các tiêu chí đó đồng thời dẫn tới việc
phân nhóm, liệt kê các hành vi chưa rõ ràng và chưa hợp lý. Ngoài ra, quy định về
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền chưa thể hiện được bản chất, mục tiêu
phản cạnh tranh của hành vi. Bản chất của cạnh tranh thường được xem xét dưới góc
độ kinh tế. Quy định theo cách liệt kê, mô tả sẽ hành vi dẫn đến không phản ánh đúng
bản chất, đồng thời có thể không bao quát hết hoặc bỏ sót các hành vi có bản chất
HCCT.Theo đó, chỉ khi doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường, doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện những hành vi được quy định tại
Điều 13 và Điều 14 LCT năm 2004 mới bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền để HCCT.
Theo Bộ quy tắc về cạnh tranh của Liên Hợp Quốc được thông qua ngày
22/4/1980 và Luật mẫu về cạnh tranh của UNCTAD, “Hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh và vị trí độc quyền để HCCT là hành vi HCCT mà doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh hoặc độc quyền sử dụng để duy trì hay tăng cường vị trí của nó trên thị trường
bằng cách hạn chế khả năng gia nhập thị trường hoặc hạn chế quá mức cạnh

tranh”. Bên cạnh khái niệm, văn bản này cũng liệt kê cụ thể các hành vi bị coi là
lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để HCCT.
Như vậy, giống như các chế định khác trong pháp luật cạnh tranh, các quy
định trong pháp luật của các nước và các tổ chức quốc tế về hành vi lạm dụng đều
liệt kê và mô tả dấu hiệu pháp lý của các hành vi cụ thể; đặt ra các điều kiện để xử lý
doanh nghiệp có hành vi vi phạm. Việc đưa ra khái niệm chỉ có ý nghĩa lý luận, phục
vụ cho công tác nghiên cứu và cho việc nhận thức về bản chất của nhóm hành vi
này. Các quy định liệt kê các hành vi lạm dụng nhằm đảm bảo cho công tác áp dụng
pháp luật được thực hiện một cách công bằng và hiệu quả.
LCT năm 2018 đã sửa đổi quy định này và thể hiện được bản chất, mục tiêu
của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, tránh bỏ sót hành


18

vi vi phạm hoặc ngược lại, cấm cả những hành vi không có bản chất HCCT. Khoản
5 Điều 3 LCT năm 2018 quy định: “Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng
vị trí độc quyền là hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc
quyền gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh”.
b)Đặc trưng của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền
Nhóm hành vi này có ba đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh thị trường hoặc doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường
liên quan. Vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền có trong lĩnh vực điện ảnh là
do sự phát triển nhanh chóng của các doanh nghiệp phát hành, phổ biến phim liên
doanh nước ngoài. Do đặc điểm của điện ảnh và hoạt động điện ảnh mang tính quốc
tế, tại Việt Nam ngày càng xuất hiện nhiều doanh nghiệp phát hành phim có vốn
nước ngoài. Hơn nữa, các doanh nghiệp này chiếm thị phần chiếu phim cao, chỉ tính
riêng CGV và Lotte đã chiếm hơn 60% thị phần chiếu phim tại Việt Nam. Đối với
khán giả, vị trí thống lĩnh thị trường của các doanh nghiệp này đã khẳng định địa vị

quan trọng của doanh nghiệp trong cung ứng sản phẩm trên thị trường liên quan bởi
họ là nguồn cung hoặc nguồn cầu chủ yếu của thị trường, khi số lượng rạp của CGV
ngày càng lớn và có mặt tại nhiều tỉnh thành, chất lượng phòng chiếu hơn hẳn so với
các doanh nghiệp trong nước, hơn nữa thường nằm ở vị trí đắc địa. Vì thế, quyền lựa
chọn của khán giả đã bị hạn chế, nhu cầu của khách hàng bị lệ thuộc vào khả năng
đáp ứng của doanh nghiệp.Các doanh nghiệp có vốn nước ngoài này có cơ hội để
bóc lột khán giả bằng cách đặt ra những điều kiện giao dịch không công bằng hoặc
chèn ép các doanh nghiệp sản xuất, phát hành phim khác phải chấp nhận điều kiện
của mình thì phim mới đến được với khán giả.
Thứ hai, doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường,
doanh nghiệp độc quyền đã hoặc đang thực hiện hành vi HCCT được quy định trong
LCT. Căn cứ vào các quy định hiện hành, doanh nghiệp thống lĩnh thị trường hoặc
độc quyền trong lĩnh vực điện ảnh không thể bị quy kết là đã có hành vi lạm dụng
nếu thực hiện những hành vi không thuộc những trường hợp được liệt kê tại Điều 27
LCTnăm 2018.
Thứ ba, hậu quả của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường,vị trí độc
quyền là loại trừ, làm giảm, sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. Đặc
trưng này cho thấy tác hại của hành vi lạm dụng đối với thị trường. Doanh nghiệp


×