Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Pháp luật về an toàn lao động và thực tiễn thi hành tại các doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.49 MB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HỒ THỊ THÙY LINH

PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Định hƣớng ứng dụng

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HỒ THỊ THÙY LINH

PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật kinh tế


Mã số:

8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Định hƣớng ứng dụng

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Minh Tiến

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hồ Thị Thùy Linh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Nội dung đầy đủ

AT, VSLĐ


An toàn, vệ sinh lao động

ATLĐ

An toàn lao động

BHLĐ

Bảo hộ lao động

BNN

Bệnh nghề nghiệp

ILO

Tổ chức Lao động quốc tế

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

TNLĐ, BNN

Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp


TNLĐ

Tai nạn lao động

VSLĐ

Vệ sinh lao động

WHO

Tổ chức Y tế thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG
STT

Ký hiệu

Tên bảng biểu

Trang

1

Bảng 1.1

Tình hình TNLĐ giai đoạn 05 năm từ năm 2013 đến
năm 2017

16


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT

Ký hiệu

Tên bảng biểu

Trang

1

Hình 1.1

Tình hình TNLĐ giai đoạn 05 năm từ năm 2013 đến
năm 2017

17

2

Hình 2.1a

Số lượng doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn Thành
phố Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2016

41

3


Hình 2.1b

Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của
các doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn Thành phố
Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2016

41

4

Hình 2.2

Quy trình làm việc an toàn tại công trường xây dựng

48

5

Hình 2.3

Cơ cấu số vụ TNLĐ năm 2017 theo chủ thể

61


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT HIỆN HÀNH VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG ............................................... 10
1.1. Một số vấn đề lý luận về an toàn lao động và pháp luật an toàn lao động . 10

1.1.1. Một số vấn đề lý luận về an toàn lao động ..................................................... 10
1.1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật an toàn lao động ..................................... 23
1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về an toàn lao động ............................... 30
1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc đảm bảo an toàn lao động .... 30
1.2.2. Phòng, chống các yếu tố nguy hiểm, có hại cho người lao động ................... 32
1.2.3. Khắc phục hậu quả do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ........................... 35
1.2.4. Thanh tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn lao động ......................... 36
Chƣơng 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN LAO
ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI........................................................................................................... 39
2.1. Các yếu tố ảnh hƣởng tới việc thực hiện pháp luật về an toàn lao động tại
các doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn Thành phố Hà Nội ............................. 39
2.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội........................................... 39
2.1.2. Luật pháp và cơ chế chính sách về an toàn lao động ..................................... 40
2.1.3. Quy mô, trình độ phát triển của các doanh nghiệp xây dựng ......................... 41
2.1.4. Đặc thù ngành xây dựng ................................................................................. 42
2.2. Những kết quả đạt đƣợc từ thực tiễn thực hiện pháp luật hiện hành về an
toàn lao động tại các doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội . 43
2.2.1. Về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc đảm bảo an toàn lao động 43
2.2.2. Về phòng, chống các yếu tố nguy hiểm, có hại cho người lao động............... 45
2.2.3. Về khắc phục hậu quả do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ...................... 52
2.2.4. Về thanh tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn lao động ..................... 52
2.3. Một số tồn tại từ thực tiễn thực hiện pháp luật về an toàn lao động tại các
doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội và nguyên nhân ......... 54
2.3.1. Tồn tại ............................................................................................................. 54
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại ...................................................................... 59


Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN

LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................................................... 66
3.1. Hoàn thiện pháp luật về an toàn lao động ..................................................... 66
3.1.1. Một số yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về an toàn lao động ... 66
3.1.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về an toàn lao động ...... 69
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về an toàn lao động tại các
doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn Thành phố Hà Nội .................................... 73
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát biểu tại Hội nghị cán bộ Công đoàn toàn quốc ngày 14/3/1959 tại Hà
Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “…Chúng ta phải chú trọng con người, nhất là
công nhân, vì công nhân là vốn quý nhất của xã hội. Chúng ta cần phải hết sức bảo
vệ, không để xảy ra tai nạn lao động”1. Thực hiện theo lời Bác dạy, ATLĐ luôn là
một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm bảo vệ tính mạng, sức
khỏe của NLĐ, tài sản của doanh nghiệp và của Nhà nước. Đặc biệt, trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, công tác
ATLĐ càng được các cấp, các ngành, doanh nghiệp và NLĐ quan tâm, coi đây là
nhiệm vụ thường xuyên trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Năm 2016, cả nước đã xảy ra 7.981 vụ TNLĐ2, năm 2017, con số này tăng
thêm 12,2% lên tới 8.956 vụ. Số vụ TNLĐ chết người cũng tăng lên, từ 799 vụ năm
2016 lên 898 vụ năm 2017 (tăng 12,4%), đồng nghĩa với đó, số người chết vì TNLĐ
tăng 7,7% từ 862 người năm 2016 lên 928 người năm 20173. Đặc biệt, trong các
lĩnh vực, ngành nghề xảy ra nhiều TNLĐ chết người hiện nay thì xây dựng là ngành
nghề luôn đứng đầu trong nhóm, chiếm 20,8% tổng số vụ tai nạn và 19,7% tổng số

người chết, tiếp đến là sản xuất vật liệu xây dựng với 9,2% tổng số vụ và 8,8% tổng
số người chết và thứ ba là cơ khí, luyện kim chiếm 6,9% tổng số vụ và 8,02% tổng
số người chết4. Nguyên nhân chính để xảy ra TNLĐ một mặt do NSDLĐ thiếu quan
tâm đến việc cải thiện điều kiện làm việc an toàn, một mặt do ý thức tự giác chấp
hành nội quy, quy chế làm việc đảm bảo ATLĐ của NLĐ chưa cao, đồng thời thiếu
sự kiểm tra, giám sát thường xuyên của cơ quan thanh tra Nhà nước về ATLĐ.
Những con số trên cho thấy hậu quả nghiêm trọng không những về tính mạng, sức
khỏe của NLĐ, mà còn gây thiệt hại về tài sản, của cải của doanh nghiệp và Nhà
nước, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1

Vũ Đức Duy (2016), “Ngẫm về lời dạy của Bác - Bảo hộ lao động trong sản xuất than”,

ngày 07/4/2016, ngày truy cập 18/5/2018
2

Thông báo số 1152/TB-LĐTBXH ngày 28/3/2017 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về

tình hình TNLĐ năm 2016
3
Thông báo số 908/TB-LĐTBXH ngày 08/3/2018 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về tình
hình TNLĐ năm 2017
4
Thông báo số 908/TB-LĐTBXH ngày 08/3/2018 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về tình
hình TNLĐ năm 2017


2

Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam, là trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục,

khoa học kỹ thuật, kinh tế và giao dịch quốc tế. Với chủ trương mở rộng địa giới
hành chính trong những năm gần đây, nhằm xóa bỏ khoảng cách, sự chênh lệch
giữa các khu vực trong thành phố, cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước, Hà Nội
đang ngày càng tập trung nhiều hơn các công trình xây dựng, đặc biệt là các khu đô
thị vệ tinh, các tuyến đường vành đai và những cây cầu lớn,… Nguy cơ xảy ra
TNLĐ, BNN ở các công trình xây dựng không hề nhỏ nếu công tác ATLĐ không
được đặt lên hàng đầu.
Mặc dù các quy định của pháp luật về ATLĐ đã tương đối đầy đủ với sự ra
đời của Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 (được Quốc hội thông qua ngày
25/6/2015) - một đạo luật riêng biệt về vấn đề AT, VSLĐ, là sự bổ sung kịp thời
cho hệ thống pháp luật về ATLĐ trong bối cảnh hiện nay, tuy nhiên việc áp dụng
trong thực tiễn vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong đợi. Để xây dựng một
hệ thống pháp luật về ATLĐ phù hợp, có tính khả thi cao trong điều kiện kinh tế thị
trường, hội nhập kinh tế quốc tế, việc nghiên cứu pháp luật về ATLĐ dưới góc độ
lý luận và thực tiễn trên cơ sở khả năng tài chính và tiềm lực kinh tế của đất nước,
từ kinh nghiệm của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là dựa trên
hoạt động sản xuất kinh doanh thực tế là vô cùng cần thiết. Với những lý do trên, tôi
đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về an toàn lao động và thực tiễn thi hành tại các
doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội” để làm luận văn, với
mong muốn đóng góp một phần công sức vào công tác nghiên cứu, xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về ATLĐ ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
ATLĐ là một vấn đề thiết yếu, không chỉ gắn liền với tính mạng, sức khỏe con
người mà còn gắn liền với tài sản, của cải trong xã hội. Khi kinh tế ngày càng phát
triển, đời sống xã hội ngày một nâng cao thì sức khỏe của con người càng được
quan tâm. Chính vì vậy, vấn đề ATLĐ nói chung và ATLĐ trong xây dựng nói
riêng trong những năm gần đây đã thu hút được sự quan tâm của nhiều độc giả,
nhiều nhà nghiên cứu. Có thể kể đến một số nội dung tiêu biểu trong các công trình
nghiên cứu của các tác giả như sau:
Thứ nhất, về các vấn đề lý luận của an toàn lao động

Trong Giáo trình Luật Lao động Việt Nam (2014) của Trường Đại học Luật
Hà Nội - Chương XIII về Bảo hộ lao động; Giáo trình Luật Lao động (2016) của
Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh do TS. Đoàn Thị Phương Diệp chủ biên -


3

Chương 8 đã trình bày những vấn đề chung về ATLĐ, VSLĐ bao gồm: Khái niệm,
đặc điểm của ATLĐ, VSLĐ; Ý nghĩa của việc quy định về ATLĐ và VSLĐ; Các
nguyên tắc của ATLĐ, VSLĐ; Quyền và nghĩa vụ về AT, VSLĐ của các chủ thể.
Theo tác giả Diệp Thành Nguyên trong cuốn “Luật Lao động cơ bản” - cuốn
sách được biên soạn với mục đích phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy trong các
trường Đại học, Viện nghiên cứu về lao động, tổ chức lao động, cơ sở lý luận về
ATLĐ bao gồm khái niệm dưới góc độ thực tiễn và pháp lý, ba nguyên tắc mà
doanh nghiệp phải tuân thủ trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và bốn ý
nghĩa quan trọng trong thực tiễn của quy định về ATLĐ. Tác giả đã trình bày một
cách ngắn gọn, súc tích nhưng đem đến cho độc giả những thông tin cơ bản, tiêu
biểu nhất về ATLĐ.
Không giống với tác giả Diệp Thành Nguyên, tại Luận án Tiến sĩ Luật học
“Pháp luật về an toàn lao động ở Việt Nam” (2013), tác giả Trần Trọng Đào đã
không đưa ra khái niệm tổng quát cho vấn đề ATLĐ mà đề cập tới các khía cạnh
của ATLĐ như BHLĐ, ATLĐ, VSLĐ, điều kiện lao động và kỹ thuật an toàn với
những biểu hiện tiêu biểu. Bên cạnh đó, tác giả còn đưa ra mục đích, ý nghĩa, tính
chất của việc bảo đảm ATLĐ và bốn lý do cần thiết phải đảm bảo ATLĐ, cụ thể:
Lao động là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của xã hội; ATLĐ có liên quan mật
thiết với sản xuất và trực tiếp phục vụ cho sản xuất; Bảo đảm ATLĐ là yêu cầu tất
yếu trong sản xuất kinh doanh và ATLĐ là yếu tố phản ánh giá trị nhân văn là bảo
vệ quyền cơ bản của con người. Có thể nói, cơ sở lý luận về ATLĐ của tác giả Trần
Trọng Đào đã đem lại nhiều thông tin hữu ích cho các nhà nghiên cứu về sau.
Khác với hai tác giả trên, tác giả Nguyễn Văn Mỹ và Nguyễn Hoàng Vĩnh

trong “An toàn lao động trong công trình xây dựng” (2013) đã đưa ra những vấn đề
về ATLĐ dưới góc độ kỹ thuật, bao gồm các nội dung: khái niệm và những quan
điểm trong công tác BHLĐ; hệ thống pháp luật về BHLĐ; quản lý nhà nước về
BHLĐ; khai báo, kiểm tra, đánh giá tình hình TNLĐ. Với những nội dung này, các
tác giả đã cung cấp những thông tin chủ yếu cho các độc giả chuyên về tư vấn thiết
kế, giám sát và thầu xây dựng. Dưới góc độ pháp lý, tài liệu là sự cụ thể hóa của
pháp luật được sử dụng trong ngành xây dựng, có thể dùng tham khảo khi xem xét
cơ sở thực tiễn và đánh giá thực trạng pháp luật ATLĐ trong ngành xây dựng.
Thứ hai, về thực trạng pháp luật an toàn lao động
Để đánh giá thực trạng pháp luật ATLĐ tại thời điểm nghiên cứu, trong Luận
án “Pháp luật về an toàn lao động ở Việt Nam”, tác giả Trần Trọng Đào đã đánh giá


4

trên các quy định pháp luật về: quản lý nhà nước, việc xác lập tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật an toàn, quy phạm an toàn; các biện pháp đảm bảo ATLĐ và biện
pháp phòng ngừa; TNLĐ; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong ATLĐ;
hành vi vi phạm pháp luật về ATLĐ, các hình thức xử lý và giải quyết tranh chấp
ATLĐ. Nhìn chung, pháp luật về ATLĐ tại thời điểm nghiên cứu của tác giả đã
điều chỉnh kịp thời các quan hệ về ATLĐ, nhờ vậy TNLĐ đã phần nào được hạn
chế. Tuy nhiên, các quy định này lại nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau, có
những quy định nằm trong luật, có quy định lại nằm trong văn bản hướng dẫn nên
có sự mâu thuẫn, xung đột, chồng chéo, gây khó khăn trong quá trình áp dụng.
Trong Luận văn “Pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài và pháp luật Việt
Nam về an toàn vệ sinh lao động” (2013) của tác giả Bùi Thị Chuyên, chính sách về
ATLĐ, VSLĐ thông qua Bộ luật Lao động năm 2012 và một số luật chuyên ngành
liên quan được đánh giá tương đối đầy đủ, phần nào đáp ứng được yêu cầu của công
tác quản lý, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật này chưa
phải là hoàn hảo, vẫn còn những tồn tại, bất cập trong việc ban hành văn bản quy

phạm pháp luật, trong các quy định cụ thể của pháp luật về AT, VSLĐ cần được
khắc phục trong thời gian tới.
Không nghiên cứu pháp luật ATLĐ nói chung, tác giả Đoàn Thùy Dung đã
nghiên cứu pháp luật về ATLĐ ở một ngành nghề cụ thể - ngành Giao thông vận tải
cho Luận văn Thạc sĩ năm 2015 của mình. Tại đây, tác giả đã nêu lên những quy
định pháp luật về ATLĐ, VSLĐ ở các nội dung: Những nguyên tắc pháp lý cơ bản
của pháp luật; Quản lý Nhà nước đối với AT, VSLĐ; Trang bị phương tiện BHLĐ;
Các biện pháp bảo vệ sức khỏe NLĐ; Các quy định về khắc phục hậu quả TNLĐ,
BNN; Quy định pháp luật về AT, VSLĐ đối với một số loại lao động đặc thù. Tổng
quan có thể thấy, hệ thống pháp luật về AT, VSLĐ mà tác giả đưa ra là tương đối
đầy đủ, tiêu biểu và cơ bản nhất của pháp luật AT, VSLĐ.
Thứ ba, về thực tiễn thực hiện pháp luật an toàn lao động
Cũng trong Luận án “Pháp luật về an toàn lao động ở Việt Nam”, tác giả
Trần Trọng Đào đã đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về ATLĐ của hai nhóm
đối tượng là cơ quan quản lý và đối tượng chịu sự quản lý, qua đó thấy được cơ chế
quản lý và cơ chế thực hiện không đồng bộ, hiệu lực quản lý kém hiệu quả.
Đối với tác giả Bùi Thị Chuyên, khi nghiên cứu tình hình thực hiện pháp luật
về AT, VSLĐ, tác giả đã đánh giá công tác AT, VSLĐ trên các khía cạnh: môi
trường lao động; tình hình xảy ra TNLĐ, BNN; công tác thanh tra, kiểm tra; hệ


5

thống tổ chức kiểm định kỹ thuật ATLĐ; hệ thống giám sát môi trường lao động và
sức khỏe;… Qua phân tích, có thể thấy, thực tiễn thực hiện pháp luật AT, VSLĐ
bên cạnh những kết quả có thể phát huy thì vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất
định cần khắc phục trong thời gian tới. Đặc biệt, tác giả còn phân tích các nguyên
nhân dẫn đến những bất cập đó, mà tập trung là công tác tổ chức thực hiện của cơ
quan Nhà nước và tổ chức liên quan để từ đó đề ra giải pháp phù hợp, thiết thực.
Trong Luận văn “Pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động qua thực tiễn thực

hiện tại ngành Giao thông vận tải” của tác giả Đoàn Thùy Dung, tương ứng với các
quy định pháp luật đã phân tích, tác giả đã đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về
AT, VSLĐ tại ngành Giao thông vận tải một cách khách quan, đi sâu vào từng vấn
đề, từng khía cạnh đặc thù của ngành. Tác giả cho rằng, các cơ quan, đơn vị và
doanh nghiệp trong ngành Giao thông vận tải đã rất quan tâm, chăm lo đến đời sống
của công nhân lao động và nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật về
AT, VSLĐ. Tuy nhiên, tồn tại lớn nhất trong quá trình áp dụng pháp luật AT,
VSLĐ của ngành đó là vẫn còn những sơ suất từ phía NSDLĐ và NLĐ trong công
tác ATLĐ khiến cho tỷ lệ TNLĐ ở mức khá cao.
Thứ tư, về giải pháp hoàn thiện pháp luật an toàn lao động
Qua phân tích thực trạng và tình hình thực hiện pháp luật về ATLĐ, dựa trên
nền tảng lý luận về ATLĐ và nội dung quy định của pháp luật, tác giả Trần Trọng
Đào đã đưa ra ba nhóm giải pháp lớn để hoàn thiện pháp luật về ATLĐ, theo đó,
thực sự cần thiết phải xây dựng Luật chuyên ngành về ATLĐ; phải sửa đổi, bổ sung
các quy định của pháp luật về ATLĐ khi chưa có Luật chuyên ngành để phù hợp
với thực tế và giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật để đem lại hiệu quả cao hơn. Ở
mỗi nhóm giải pháp, tác giả đã phân tích khá chi tiết những tác động tích cực mà
giải pháp đem lại, góp phần hoàn thiện pháp luật khi được triển khai thực hiện.
Theo tác giả Bùi Thị Chuyên trong Luận văn “Pháp luật quốc tế, pháp luật
nước ngoài và pháp luật Việt Nam về an toàn vệ sinh lao động” (2013), giải pháp để
hoàn thiện pháp luật về AT, VSLĐ nói chung và ATLĐ nói riêng gồm hai nhóm
giải pháp: một là, hoàn thiện chính sách, pháp luật và hai là, nâng cao hiệu quả tổ
chức thực hiện. Sau khi đưa ra các giải pháp mang tính định hướng phù hợp với
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và điều kiện kinh tế - xã
hội của đất nước, tác giả đã đề ra bốn giải pháp cụ thể, tác động trực tiếp tới việc
hoàn thiện pháp luật, đó là: Xây dựng các chế tài đủ mạnh để răn đe, phòng ngừa
TNLĐ, BNN tại các cơ sở lao động; Đảm bảo ngân sách nhà nước cho hoạt động


6


quản lý AT, VSLĐ; Xây dựng cơ chế quỹ bồi thường TNLĐ, BNN và cơ chế đầu tư
cho các hoạt động phòng ngừa TNLĐ, BNN; Có chế độ thu hút cán bộ vào làm việc
trong lĩnh vực AT, VSLĐ và quy định cụ thể về chương trình đào tạo chuyên ngành
AT, VSLĐ. Có thể thấy, những giải pháp mang tính định hướng cũng như cụ thể mà
tác giả đưa ra đều xuất phát từ việc học hỏi kinh nghiệm của pháp luật quốc tế và
pháp luật các nước trên thế giới để áp dụng dựa trên tình hình thực tế của quốc gia.
Để hoàn thiện pháp luật về AT, VSLĐ trong những năm tới, tác giả Đoàn
Thùy Dung trong Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động qua
thực tiễn thực hiện tại ngành Giao thông vận tải” (2013) đã đưa ra năm giải pháp
lớn, đó là: Ban hành Luật chuyên ngành về AT, VSLĐ; Sửa đổi, bổ sung thêm các
quy định về AT, VSLĐ; Xây dựng cơ chế phối hợp cụ thể giữa các Bộ, ngành có
liên quan; Đẩy mạnh các quy định về cải thiện điều kiện làm việc cho NLĐ và cuối
cùng là, đẩy mạnh quy định về tuyên truyền, giáo dục, huấn luyện AT, VSLĐ cho
NLĐ, nâng cao nhận thức của NLĐ về tầm quan trọng của công tác AT, VSLĐ. Các
giải pháp này vừa là tiền đề để hoàn thiện pháp luật AT, VSLĐ nói chung, vừa là cơ
sở cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật AT, VSLĐ ở các ngành nghề,
lĩnh vực khác.
Một số bài đăng trên báo, tạp chí khác như: “Một số giải pháp để hoàn thiện
pháp luật về an toàn lao động tại Việt Nam” của tác giả Trần Trọng Đào trên Tạp
chí Nghề Luật (số 1/2013) phân tích thực trạng pháp luật và đưa ra một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành về ATLĐ, hay “Công đoàn đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động” của tác giả Nguyễn Hiền trên
Tạp chí Lao động và Xã hội (số 550/2017) nêu lên vị trí, vai trò của Công đoàn
trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, kiến thức về ATLĐ, trong việc tổ
chức huấn luyện ATLĐ hiện nay;…
Những công trình trên đã tập trung nghiên cứu pháp luật về ATLĐ một cách
tổng quan, khái quát với thực tiễn thi hành trong phạm vi cả nước. Chỉ một số ít
công trình đề cập tới pháp luật về ATLĐ ở phạm vi ngành và ở một số địa phương
cụ thể. Có thể nói, cho đến hiện tại, chưa có một công trình nào đi sâu vào nghiên

cứu một cách toàn diện về tình hình thực hiện pháp luật ATLĐ trong các doanh
nghiệp xây dựng - nơi làm việc thường xuyên, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe,
tính mạng của NLĐ - nơi có nhiều nguy cơ xảy ra TNLĐ, BNN, nhất là trên một địa
bàn quy tụ nhiều công trình xây dựng như Thành phố Hà Nội. Trên cơ sở những
thành tựu của các công trình khoa học nêu trên, đây sẽ là nền tảng lý luận quan


7

trọng, đi trước mở đường cho những nghiên cứu tiếp theo về vấn đề ATLĐ một
cách chi tiết, tỉ mỉ hơn. Vì vậy, việc tiếp tục hướng nghiên cứu xoay quanh pháp
luật về ATLĐ với tư cách gần gũi hơn với quá trình lao động, sản xuất kinh doanh
là cần thiết, và đề tài “Pháp luật về an toàn lao động và thực tiễn thi hành tại các
doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn Thành phố Hà Nội” là mới, có ý nghĩa thiết
thực cả về lý luận lẫn thực tiễn, làm cơ sở để soi chiếu lại, củng cố và hoàn thiện
hơn hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả thi hành trên thực tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận về ATLĐ, pháp
luật ATLĐ và qua phân tích thực tiễn thi hành tại các doanh nghiệp xây dựng trên
địa bàn Thành phố Hà Nội, để đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
ATLĐ và nâng cao hiệu quả áp dụng, đáp ứng yêu cầu bối cảnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Để đạt được mục đích này, Luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tập hợp và làm sáng rõ một số vấn đề lý luận về ATLĐ và pháp
luật về ATLĐ như khái niệm, đặc điểm của ATLĐ, sự cần thiết phải đảm bảo
ATLĐ, các nguyên tắc đảm bảo ATLĐ và các quy định của pháp luật quốc gia hiện
hành về ATLĐ.
Thứ hai, bổ sung đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật hiện
hành về ATLĐ tại các doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn Thành phố Hà Nội; rút
ra nhận xét về những kết quả đạt được cũng như hạn chế còn tồn tại, nguyên nhân

của các tồn tại này trong quá trình áp dụng.
Thứ ba, góp phần đề ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
ATLĐ, đồng thời đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
trong thực tế trên cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật đã nghiên cứu.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi chuyên ngành đào tạo Luật kinh tế, luận văn chỉ nghiên cứu
vấn đề ATLĐ dưới góc độ pháp luật, trong phạm vi pháp luật lao động, cụ thể là các
quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành về ATLĐ, trong phạm vi Bộ luật lao động năm 2012 và Luật An
toàn, vệ sinh lao động năm 2015 với những nội dung có tác động trực tiếp tới sức


8

khỏe, tính mạng của NLĐ, cụ thể 04 vấn đề: Quyền và nghĩa của các chủ thể trong
việc đảm bảo ATLĐ; Phòng, chống các yếu tố nguy hiểm, có hại cho NLĐ; Khắc
phục hậu quả do TNLĐ, BNN và Thanh tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực ATLĐ.
Về thời gian: Luận văn phân tích thực trạng thi hành pháp luật về ATLĐ
trong thời gian từ khi Bộ luật lao động năm 2012 có hiệu lực đến nay (từ tháng
5/2013 đến tháng 5/2018).
Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật về ATLĐ
tại các doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mac Lênin với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; những quan điểm, đường lối,
chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác ATLĐ, bảo vệ sức khỏe NLĐ cũng
như các vấn đề xã hội có liên quan; các lý thuyết kinh tế học hiện đại về phát triển
các ngành, lĩnh vực để làm rõ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.

Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu để thực hiện Luận văn
bao gồm:
Phương pháp phân tích: Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt các
chương của luận văn, nhằm tìm hiểu các vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hiện
hành và thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về ATLĐ, các yêu cầu của việc
hoàn thiện quy định pháp luật cũng như kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật và
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật trên thực tế.
Phương pháp thống kê: Chương 1 và Chương 2 của luận văn sử dụng
phương pháp thống kê để cung cấp tình hình TNLĐ, BNN của nước ta trong những
năm gần đây, nhấn mạnh sự cần thiết phải đảm bảo ATLĐ, đồng thời làm nổi bật
kết quả đạt được cũng như hạn chế, tồn tại trong quá trình thực hiện pháp luật hiện
hành về ATLĐ trong các doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Phương pháp chứng minh: Phương pháp này được sử dụng ở hầu hết các
mục, các chương của luận văn nhằm đưa ra các dẫn chứng, số liệu minh họa làm rõ
các luận điểm trong từng nội dung của luận văn.
Phương pháp tổng hợp: Sau quá trình thống kê, chứng minh, phân tích, đánh
giá, người viết sử dụng phương pháp tổng hợp chủ yếu trong việc rút ra những nhận
định, đánh giá, đặc biệt được sử dụng nhiều để kết luận các chương và kết luận
chung của luận văn.


9

Phương pháp dự báo khoa học: Phương pháp này được sử dụng trong suốt
quá trình nghiên cứu đề tài nhằm đoán trước những ý kiến, đề xuất có nhiều khả
năng được đặt ra trên cơ sở những số liệu tổng kết.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, học viên còn sử dụng phương pháp lịch
sử, khái quát hóa,…để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Luận văn đã đề cập tương đối hệ thống và giải quyết khá toàn diện một số

nội dung cơ bản và tiêu biểu của ATLĐ và pháp luật về ATLĐ, cụ thể phân tích,
làm sáng rõ hơn những vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm của ATLĐ, sự cần
thiết phải đảm bảo ATLĐ, nguyên tắc đảm bảo ATLĐ cũng như nội dung cơ bản
của pháp luật về ATLĐ. Từ đó, tạo lập khung cơ sở làm căn cứ cho việc nghiên
cứu, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về ATLĐ. Kết quả nghiên cứu của luận
văn có thể được sử dụng trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo tại các cơ
sở đào tạo luật trong nước.
Đặc biệt, luận văn đã tập trung phân tích và đưa ra những đánh giá một cách
khách quan về thực trạng thực hiện pháp luật hiện hành, chỉ rõ những kết quả đạt
được, hạn chế và nguyên nhân trong quá trình thực thi pháp luật nói chung và tại
các doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng nhằm đề xuất
một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về ATLĐ trong thời gian tới. Chỉ khi tất cả các chủ thể trong xã hội
cùng có ý thức, cùng hiểu rõ vai trò và tầm quan trọng của ATLĐ thì mới cùng
nhau tự giác thực hiện pháp luật đem lại hiệu quả cao nhất.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài các phần: Mục lục, danh mục chữ viết tắt, danh mục các bảng biểu,
danh mục tài liệu tham khảo, mở đầu thì nội dung chính của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về an toàn lao động và quy định pháp
luật hiện hành về an toàn lao động
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về an toàn lao động tại các
doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao
hiệu quả thi hành pháp luật về an toàn lao động tại các doanh nghiệp xây dựng
trên địa bàn Thành phố Hà Nội.


10

Chƣơng 1


MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG
1.1. Một số vấn đề lý luận về an toàn lao động và pháp luật an toàn lao động
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về an toàn lao động
1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của an toàn lao động
Trong quá trình làm việc, con người luôn phải chịu tác động của điều kiện
lao động tiềm ẩn những rủi ro có thể gây ra TNLĐ, thậm chí là tử vong. ATLĐ và
VSLĐ là hai phạm trù không thể tách rời trong quá trình lao động tạo ra sản phẩm,
đảm bảo an toàn tính mạng và sức khỏe nghề nghiệp cho NLĐ. Để bảo vệ con
người một cách tốt nhất, từng phạm trù phải được thực hiện một cách hiệu quả, và
trước hết, ATLĐ phải được đảm bảo để phòng tránh TNLĐ, BNN. Trên phương
diện quốc tế, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã xây dựng nhiều Công ước,
Khuyến nghị liên quan đến ATLĐ như Công ước số 155 về an toàn và sức khỏe
nghề nghiệp năm 1981, Nghị định thư năm 2002, Công ước số 167 về an toàn và vệ
sinh lao động trong ngành xây dựng năm 1988, Công ước số 148 về môi trường làm
việc năm 1977,… Trong các văn bản này, ILO không đưa ra khái niệm cụ thể nào
về ATLĐ mà thông qua các nội dung khác để có cách hiểu toàn diện về hoạt động
ATLĐ. Theo định nghĩa “sức khỏe” tại Công ước số 155 về ATLĐ, VSLĐ và môi
trường lao động, “sức khỏe, liên quan đến công việc, không chỉ là tình trạng không
có bệnh tật, mà c n bao gồm cả các yếu tố về thể chất và tinh thần có tác động đến
sức khỏe và có liên quan trực tiếp đến an toàn và vệ sinh lao động”. Hay tại định
nghĩa chung về sức khỏe nghề nghiệp giữa ILO và WHO được thông qua bởi Ủy
ban về sức khỏe nghề nghiệp tại phiên họp đầu tiên vào năm 1950, được sửa đổi tại
kỳ họp thứ mười hai trong năm 1995, sức khỏe nghề nghiệp phải đạt được ba mục
tiêu khác nhau: (i) duy trì và nâng cao sức khỏe NLĐ và khả năng lao động; (ii) cải
thiện môi trường làm việc để việc làm trở thành an toàn và có lợi cho sức khỏe và
(iii) phát triển văn hóa làm việc theo hướng đảm bảo sức khỏe và an toàn tại nơi làm
việc, khi đạt được các yếu tố trên sẽ thúc đẩy một môi trường xã hội tích cực, hoạt
động trơn tru và có thể nâng cao năng suất lao động5. Từ các nội dung trên có thể

thấy, để có sức khỏe nghề nghiệp, hoạt động ATLĐ sẽ phải tuân thủ các yêu cầu về
5

Bùi Thị Chuyên (2013), Pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài và pháp luật Việt Nam về an toàn

vệ sinh lao động, Luận văn Thạc sĩ, ĐH Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 26


11

ATLĐ theo đúng quy định của pháp luật và việc tuân thủ này là trách nhiệm và
nghĩa vụ của NSDLĐ, đồng thời, NLĐ cần được chỉ đạo và cam kết thực hiện các
hoạt động ATLĐ cũng như được tạo điều kiện để thiết lập hệ thống ATLĐ tại cơ sở.
Không chỉ các tổ chức quốc tế mà các quốc gia trên thế giới đều mong muốn
xây dựng một xã hội phát triển bền vững thông qua việc tạo dựng môi trường làm
việc an toàn và lành mạnh, cân bằng giữa bảo vệ sức khỏe và cơ hội việc làm, cải
thiện đời sống và sức khỏe cho NLĐ. Có thể kể đến một số quốc gia tiêu biểu, đi
đầu trong việc nghiên cứu chính sách về ATLĐ nhằm đảm bảo sức khỏe và tính
mạng của NLĐ, như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,… Cụ thể:
Tại Mỹ, Luật An toàn và sức khỏe nghề nghiệp năm 1970 (Chapter 15 Occupational safety and Health) không đưa ra khái niệm về ATLĐ mà định nghĩa
về “tiêu chuẩn về ATLĐ và sức khỏe nghề nghiệp”, theo đó, các tiêu chuẩn này yêu
cầu phải có điều kiện, được thừa nhận, sử dụng một hoặc nhiều phương tiện,
phương pháp, quy trình hợp lý, cần thiết, thích hợp để cung cấp một công việc và
môi trường làm việc an toàn và lành mạnh.
Nhật Bản có hai đạo luật tiêu biểu cho chính sách chăm sóc, bảo vệ an toàn,
sức khỏe của NLĐ là Luật An toàn và sức khỏe công nghiệp và Luật Tiêu chuẩn lao
động. Tuy không có định nghĩa thế nào là ATLĐ nhưng Luật đã đề ra những trường
hợp NLĐ bị thương, bệnh tật hoặc thiệt mạng vì các công trình, thiết bị, nguyên vật
liệu, khí, hơi,… trong lao động hoặc do công việc yêu cầu sự có mặt của NLĐ; hệ
thống các tiêu chuẩn phòng ngừa yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc; trách nhiệm

của các thành viên trong quan hệ lao động. Mục đích của những đạo luật này nhằm
đảm bảo an toàn và sức khỏe của NLĐ ở nơi làm việc, cũng như để tạo ra môi
trường làm việc thoải mái bằng cách thúc đẩy các biện pháp phòng ngừa TNLĐ một
cách toàn diện và hệ thống.
Tương tự như vậy, ở Hàn Quốc, các nhà xây dựng pháp luật không đưa ra
một định nghĩa cụ thể về ATLĐ mà trực tiếp đưa ra những quy định về TNLĐ,
BNN với mục đích duy trì và thúc đẩy môi trường làm việc an toàn cho NLĐ thông
qua việc phòng ngừa TNLĐ, BNN bằng cách xây dựng và đảm bảo thực hiện những
tiêu chuẩn về an toàn và sức khỏe lao động.
Tại Việt Nam, để bảo vệ an toàn tính mạng và sức khỏe của NLĐ, đồng thời
thực hiện thông lệ quốc tế, Nhà nước đã xây dựng hệ thống các quy định về ATLĐ,
tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn, ATLĐ lại được ghi nhận ở một mức độ khác nhau.
Trước đây, ATLĐ được quy định là một bộ phận nhỏ trong chế định BHLĐ, theo


12

đó, “BHLĐ bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, xác
định các điều kiện lao động an toàn và vệ sinh có tính chất bắt buộc, các biện pháp
phòng ngừa, ngăn chặn hoặc khắc phục những yếu tố nguy hiểm, độc hại trong môi
trường lao động nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân cách NLĐ”6. Theo nghĩa
rộng, BHLĐ là tổng hợp các quy định về việc bảo vệ NLĐ khi tham gia quá trình
lao động, nhằm đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích của NLĐ. Theo nghĩa hẹp, BHLĐ
được hiểu là những quy định của Nhà nước liên quan đến việc đảm bảo ATLĐ,
VSLĐ và các chế độ lao động khác nhằm bảo vệ nhân cách của NLĐ. Để tránh
những cách hiểu không thống nhất về thuật ngữ “BHLĐ”, kế thừa Bộ luật lao động
năm 1994, Bộ luật lao động năm 2012 đã thay đổi tên gọi của các chế độ BHLĐ
thành pháp luật về ATLĐ, VSLĐ7. Cho đến nay, khi Luật An toàn, vệ sinh lao động
năm 2015 ra đời, dù ban hành muộn hơn các nước phát triển trên thế giới nhưng đã
phần nào đáp ứng được yêu cầu của luật chuyên ngành trong việc bảo đảm an toàn,

sức khỏe cho NLĐ. Theo đó, Luật đã định nghĩa một cách chi tiết những thương tổn
mà điều kiện lao động tác động xấu tới NLĐ. Cụ thể, “Tai nạn lao động là tai nạn
gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho
NLĐ, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm
vụ lao động” và “Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại
của nghề nghiệp tác động đối với NLĐ”8. Để hạn chế được những tác động xấu này,
một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu là công tác ATLĐ phải được nâng cao
và thực hiện có chất lượng. “An toàn lao động là giải pháp phòng, chống tác động
của các yếu tố nguy hiểm nhằm bảo đảm không xảy ra thương tật, tử vong đối với
con người trong quá trình lao động”9. Đây là một chế định pháp luật tập hợp các
quy phạm pháp luật quy định các biện pháp phòng, tránh những sự cố có khả năng
gây nguy hại cho con người trong quá trình lao động cũng như biện pháp khắc phục
hậu quả TNLĐ, BNN và cải thiện điều kiện lao động cho NLĐ.
Dưới góc độ kỹ thuật, “ATLĐ là tình trạng điều kiện lao động không gây ra

6

Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội, tr. 423
7
Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 424 - 425
8
Khoản 8, khoản 9 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015
9

Khoản 2 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015



13

sự nguy hiểm trong sản xuất”10. Dưới góc độ ngôn ngữ, ATLĐ là sự kết hợp giữa
hai khái niệm “an toàn” và “lao động”, trong đó “an toàn” là “yên ổn trọn vẹn” và
“lao động” là “hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra các loại sản
phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội”11, vì vậy, ATLĐ có thể được hiểu là điều
kiện làm việc mà trong quá trình hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra
những sản phẩm vật chất, tinh thần được diễn ra một cách yên ổn trọn vẹn, tránh
được những tai nạn có thể xảy ra.
Trong phạm vi của luận văn này, “ATLĐ là tổng thể các biện pháp đảm bảo
cho NLĐ được làm việc trong một điều kiện an toàn, không phải đối mặt với bất kỳ
mối nguy hại nào về tính mạng, sức khỏe, đồng thời duy trì tốt khả năng làm việc
lâu dài của NLĐ”.
Như đã phân tích, ATLĐ ra đời và phát triển cùng quá trình phát triển sản
xuất, vì yêu cầu tất yếu khách quan phải bảo vệ tính mạng, sức khỏe NLĐ - yếu tố
chủ yếu và năng động nhất của lực lượng sản xuất xã hội. Dễ dàng nhận thấy ba đặc
điểm cơ bản mang tính chất đặc thù của ATLĐ như sau:
Thứ nhất, ATLĐ mang tính khoa học kỹ thuật12. Công tác ATLĐ phụ thuộc
rất lớn vào trình độ kỹ thuật của mỗi xã hội, trình độ càng tiến bộ thì điều kiện lao
động càng được cải thiện. Bản chất của tiến bộ khoa học kỹ thuật chính là việc sử
dụng máy móc để giảm bớt sức lao động, hạn chế những tác động có hại tới sức
khỏe của NLĐ, tiến tới loại bỏ hoàn toàn các yếu tố nguy hiểm, độc hại trong môi
trường lao động.
Bên cạnh đó, mọi hoạt động phòng chống TNLĐ, BNN đều xuất phát từ
những cơ sở khoa học và được thực hiện bằng các giải pháp kỹ thuật, hay khi xảy ra
TNLĐ, BNN, các hoạt động điều tra, phân tích, đánh giá TNLĐ,… đều phải sử
dụng các công cụ, phương tiện kỹ thuật và do cán bộ kỹ thuật thực hiện. Ngoài ra,
đảm bảo ATLĐ không chỉ được thực hiện bằng việc trang bị các phương tiện bảo
hộ cá nhân, bồi dưỡng bằng hiện vật, thực hiện chế độ chăm sóc sức khỏe,… mà
còn phải tuân thủ nghiêm chỉnh các tiêu chuẩn kỹ thuật trong quá trình lao động

như tiêu chuẩn về máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, ánh sáng, tiếng
10
11

TCVN 3153:1979, Hệ thống tiêu chuẩn ATLĐ - Các khái niệm cơ bản - Thuật ngữ và định nghĩa.
Vĩnh Lộc, Bảo Đoan, Ngọc Hạnh, Quỳnh Tâm (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh niên, Hà

Nội, tr.6, tr368.
12
Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 425


14

ồn, biện pháp xử lý sự cố,… Đây đều là những tiêu chuẩn do Nhà nước ban hành
trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá của ngành khoa học ATLĐ và của nhiều ngành
khoa học khác đối với từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể, được thể chế hóa thành các
quy phạm pháp luật có tính chất bắt buộc chung.
Muốn thực hiện tốt công tác ATLĐ để không xảy ra TNLĐ, Nhà nước phải
đẩy mạnh công tác tổ chức nghiên cứu khoa học kỹ thuật về ATLĐ gắn liền với
việc cải tiến trang bị kỹ thuật, công nghệ sản xuất, đồng thời, chính mỗi cơ sở sản
xuất phải huy động đông đảo cán bộ và NLĐ tham gia vào quá trình cải thiện điều
kiện làm việc, nâng cao chất lượng ATLĐ.
Thứ hai, ATLĐ mang tính chất pháp lý13. Pháp luật là một trong những công
cụ hữu hiệu nhất để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình và
ATLĐ là một trong những vấn đề xã hội quan trọng chịu sự điều chỉnh của pháp
luật. Muốn các giải pháp khoa học kỹ thuật về phòng, chống TNLĐ, BNN được
thực hiện một cách đồng bộ và nghiêm minh thì các nội dung này phải được thể chế
hóa thành các quy định pháp luật có tính chất “bắt buộc cứng”. Cụ thể, hầu hết các

quy định về ATLĐ như quy định về kỹ thuật (quy trình, tiêu chuẩn); quy định về tổ
chức thực hiện, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, các chính sách, chế độ,… đều
nằm trong những văn bản pháp luật có tính chất bắt buộc cao do có liên quan trực
tiếp đến tính mạng, sức khỏe, toàn vẹn thân thể của con người trong quá trình sản
xuất, trừ một số quy định có thể thỏa thuận nhưng không thấp hơn mức tối thiểu do
pháp luật quy định (bồi thường bằng hiện vật, phụ cấp nặng nhọc, độc hại,…).
Các yêu cầu và biện pháp kỹ thuật đã quy định đòi hỏi phải được thi hành
nghiêm chỉnh, bằng các biện pháp thuyết phục, vận động, đi đôi với cưỡng chế làm
cho NSDLĐ, NLĐ hiểu rõ pháp luật về ATLĐ, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa buộc mọi người phải tuân theo. Mọi vi phạm về tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn
trong quá trình sản xuất đều bị coi là vi phạm pháp luật và bị xử lý theo quy định
tương ứng như phạt tiền, buộc tháo dỡ hoặc dừng hoạt động cho đến khi khắc phục
hoặc đảm bảo những điều kiện lao động theo luật định. Hoạt động thanh tra, kiểm
tra, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền được tiến hành thường xuyên là nhân tố góp phần đảm bảo việc thực thi các
quy định về ATLĐ.
13

Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội, tr. 42


15

Thứ ba, ATLĐ mang tính quần chúng14. Tính quần chúng được thể hiện ở
việc không chỉ NLĐ mà cả NSDLĐ và các tổ chức, cá nhân có liên quan khác đều
có trách nhiệm thực hiện ATLĐ. Chỉ có quần chúng tự giác thực hiện thì mới ngăn
chặn được TNLĐ. Trước hết, NLĐ vừa là người trực tiếp tiếp xúc với máy móc,
thiết bị trong quá trình lao động - đối tượng cần được pháp luật bảo vệ về ATLĐ,

vừa là chủ thể có khả năng phát hiện các yếu tố nguy hiểm, độc hại, đề xuất hoặc
tham gia vào việc tự bảo vệ mình và bảo vệ những người xung quanh trong quá
trình làm việc. NSDLĐ tuy không trực tiếp sử dụng máy móc, thiết bị, vật tư nhưng
lại là chủ thể đầu tư, tổ chức thực hiện các biện pháp ATLĐ tại cơ sở. Mặt khác,
trong quá trình thực hiện các hoạt động ATLĐ, NLĐ, NSDLĐ, tổ chức, cá nhân
liên quan có thể tự giám sát, hoặc cử đại diện giám sát, kiểm tra, đấu tranh chống
những hành vi làm bừa, làm ẩu, thường xuyên nhắc nhở, phát hiện và ngăn chặn kịp
thời những hành vi vi phạm về ATLĐ.
Công tác ATLĐ khó có thể đạt hiệu quả khi được thực hiện bởi một vài cá
nhân đơn lẻ, đồng thời, dù hệ thống pháp luật, quy chuẩn, tiêu chuẩn có đầy đủ và
hoàn chỉnh đến đâu nhưng nếu các thành phần trong hệ thống sản xuất chưa thấy rõ
lợi ích thiết thực, chưa tự giác chấp hành thì ATLĐ cũng không thể đạt được kết
quả như mong muốn. Công tác này chỉ có kết quả khi thu hút được sự tham gia
đông đảo của mọi ngành, mọi tổ chức xã hội, cả NSDLĐ và NLĐ tự giác, tích cực
tham gia thực hiện các chế độ, chính sách, quy định pháp luật nhằm cải thiện điều
kiện lao động, ngăn ngừa TNLĐ, BNN.
Ba đặc điểm nêu trên của ATLĐ không tồn tại một cách độc lập mà luôn có
sự qua lại, tác động lẫn nhau. Một môi trường lao động an toàn nhất thiết phải đảm
bảo được những đặc điểm này để làm tiền đề cho việc thực hiện thành công chế độ
bảo vệ NLĐ - lực lượng nòng cốt và tinh nhuệ của sự phát triển bền vững.
1.1.1.2. Sự cần phải bảo thiết đảm an toàn lao động
ATLĐ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mọi mặt của đời sống lao động
sản xuất nói riêng và đời sống xã hội nói chung, đặc biệt đối với việc bảo đảm an
toàn tính mạng, sức khỏe NLĐ, bảo vệ sức lao động xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhiều lần căn dặn: “Phải đảm bảo ATLĐ, vì người lao động là vốn quý nhất”,
“Thi đua làm nhiều, nhanh, tốt, rẻ, phải đi đôi với bảo đảm ATLĐ, phải biết quý
14

Phạm Đăng Khoa (2015), Giáo trình An toàn và vệ sinh lao động trong xây dựng, Nxb Giáo dục


Việt Nam, Hà Nội, tr. 22


16

trọng con người”, bởi khi con người tiến hành lao động cũng là khi họ bắt đầu phải
chịu ảnh hưởng của các tác động xấu từ những yếu tố không thuận lợi, có hại trong
môi trường lao động. Vì vậy, dù công việc nào cũng thật sự cần thiết phải bảo đảm
ATLĐ cho NLĐ, bởi lẽ:
Thứ nhất, TNLĐ, BNN luôn là hiểm họa, đe dọa tới sự an toàn sức khỏe của
NLĐ và sự phát triển bền vững. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, phương tiện
lao động và môi trường lao động là hai yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng, hiệu quả và năng suất lao động. Ngày nay, sự phát triển của nền văn
minh nhân loại cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã cho ra đời hàng loạt
máy móc, trang thiết bị lao động công nghệ hiện đại, một mặt làm tăng năng suất
lao động xã hội, giảm nhẹ lao động thể lực cho con người, thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình phát triển của xã hội, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhưng mặt khác lại làm xuất hiện thêm nhiều yếu tố nguy hiểm, có hại, làm phát
sinh liên tục những rủi ro có thể dễ dàng gây TNLĐ cho NLĐ. Việc không đảm bảo
điều kiện ATLĐ sẽ có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến TNLĐ. Theo ước tính
mới nhất của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), mỗi năm có 2,78 triệu NLĐ thiệt
mạng do TNLĐ và bệnh liên quan tới công việc. Trong đó, 2,4 triệu (chiếm 86,3%)
người tử vong do các bệnh liên quan đến công việc và 380.000 (chiếm 13,7%)
người thiệt mạng do TNLĐ. Hàng năm, số ca TNLĐ không gây tử vong cao hơn
1.000 lần so với số ca tử vong, khoảng 374 triệu NLĐ bị TNLĐ (không gây tử
vong), nhiều trong số đó để lại hậu quả nghiêm trọng, khiến NLĐ mất khả năng làm
việc trong dài hạn15. Ở Việt Nam, theo con số thống kê tình hình TNLĐ năm 2017
của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trong năm 2017, trên cả nước đã xảy ra
8.956 vụ TNLĐ làm 9.173 người bị thương (bao gồm cả khu vực có quan hệ lao
động và khu vực không có quan hệ lao động), trong đó, số người chết là 928 người,

số người bị thương nặng là 1.915 người16. So sánh với các năm trước, chúng ta có
thể thấy được sự biến động của tình hình TNLĐ như sau:
Bảng 1.1: Tình hình TNLĐ giai đoạn 05 năm từ năm 2013 đến năm 2017
TT

Tiêu chí

1 Số vụ TNLĐ
15
16

Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
6.695

6.709

7.620

7.981

8.956

ILO (2018), Cải thiện An toàn và Sức khỏe cho lao động trẻ, tr.7
Thông báo số 908/TB-LĐTBXH ngày 08/3/2018 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về

tình hình TNLĐ năm 2017


17


TT

Tiêu chí

2 Số người bị TNLĐ
3 Số người chết
4

Số người bị thương
nặng

Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
6.887

6.941

7.785

8.251

9.173

627

630

666

862


928

1.506

1.544

1.704

1.952

1.915

(Nguồn: />
Hình 1.1: Tình hình TNLĐ giai đoạn 05 năm từ năm 2013 đến năm 2017
Qua số liệu trên có thể thấy, tỉ lệ TNLĐ dẫn đến số lượng NLĐ chết và bị
thương nặng có xu hướng năm sau cao hơn năm trước. So với năm 2013, số vụ
TNLĐ năm 2017 tăng 2.261 vụ, tương đương 33,78%; số người bị TNLĐ tăng
2.286 người, tương đương 33,19%; số người chết tăng 301 người, tương đương
48%; số người bị thương nặng tăng 409 người, tương đương 27,16%. Những con số
thật đáng buồn, hậu quả do TNLĐ để lại vô cùng lớn, không chỉ gây thiệt hại về tài
sản mà còn gây thiệt hại về con người - một tài sản vô giá không thể nào bù đắp.
Thứ hai, lao động là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Lao động
là nhu cầu thiết yếu của con người, nhờ có lao động con người mới tạo ra của cải
vật chất làm cho xã hội tồn tại và phát triển. Và trong quá trình lao động ấy, NLĐ lực lượng chính đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, đang hàng ngày
phải đối mặt với nguy cơ TNLĐ, suy giảm sức khỏe. Đảm bảo ATLĐ chính là đảm
bảo sức khỏe, tính mạng cho chính con người khi tham gia vào quá trình lao động.
Con người tạo dựng nên xã hội, là chủ thể lao động, đồng thời lại là động lực và


18


mục tiêu của sự phát triển, do đó, đảm bảo an toàn cho NLĐ là điều tất yếu cần phải
thực hiện.
Thứ ba, ATLĐ có liên quan mật thiết với sản xuất, trực tiếp phục vụ cho sản
xuất và là chìa khóa để cải thiện điều kiện lao động, phòng ngừa các nguy cơ dẫn
đến TNLĐ. Dù quá trình lao động sử dụng phương tiện lao động nào thì sức lao
động của con người vẫn là yếu tố quyết định nhất. Đặc biệt, quá trình toàn cầu hóa
đã dẫn tới việc phổ biến rộng rãi công nghệ mới, sự phát triển với tốc độ nhanh của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ… làm xuất hiện những mối nguy hiểm, rủi ro mới.
Thực hiện công tác ATLĐ không dừng lại ở quy mô một cá nhân, một bộ phận hay
một tổ chức mà trở thành vấn đề mang tính quốc gia và toàn cầu, nhằm hạn chế
TNLĐ, BNN, bảo vệ tính mạng, sức lao động của NLĐ, với mục đích duy trì lợi ích
của người sản xuất và kích thích quá trình sản xuất, nâng cao hiệu suất lao động;
đồng thời, tạo điều kiện cần thiết để tái tạo sức lao động, phục vụ lâu dài cho sản
xuất. Nếu chỉ nhằm lợi ích trước mắt, việc thực hiện ATLĐ có thể làm tăng chi phí
đầu tư, nâng giá thành sản phẩm, giảm một phần lợi nhuận, tuy nhiên, nếu không có
biện pháp phòng ngừa, các yếu tố nguy hiểm, có hại có thể tác động vào con người
gây chấn thương, làm giảm sút khả năng lao động, thậm chí là tử vong, kéo theo các
thiệt hại do tai nạn, ốm đau; điều trị, chữa bệnh,… Đây là những tổn thất mà không
một ai, kể cả NLĐ và NSDLĐ mong muốn xảy ra. Vì vậy, về lâu dài, thực hiện
ATLĐ sẽ làm hạn chế khả năng xảy ra TNLĐ, BNN trong quá trình lao động sản
xuất, NLĐ sẽ gắn bó hơn với doanh nghiệp, yên tâm làm việc, hơn hết, NLĐ sẽ dễ
dàng có được trạng thái tinh thần cũng như sức khỏe tốt nhất để làm việc, tạo được
không khí phấn khởi, quan hệ vui vẻ giữa mọi người trong doanh nghiệp, từ đó
năng suất, chất lượng lao động cũng tăng lên, góp một phần lớn cho việc hoàn thành
kế hoạch sản xuất hiệu quả, tạo ra được lợi nhuận tối đa. Có thể nói, một doanh
nghiệp muốn tồn tại, đứng vững trong nền kinh tế thị trường thì không thể chỉ chạy
theo lợi nhuận mà phải tính đến lợi ích lâu dài và sự phát triển bền vững. Điều này
chỉ có thể đạt được nếu thực hiện tốt công tác ATLĐ, để ATLĐ không tách rời khỏi
sản xuất, phải gắn liền với sản xuất và trực tiếp phục vụ cho sản xuất.

Thứ tư, trong nền kinh tế hội nhập, ATLĐ là một trong những nội dung quan
trọng của xúc tiến thương mại. Mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế là xu
hướng tất yếu, khách quan của nền kinh tế thế giới. Bắt kịp với sự vận động của
toàn cầu, mỗi quốc gia, không riêng Việt Nam, tham gia vào nhiều tổ chức mới với
nhiều luật chơi mới, nên công tác quản lý sản xuất nói chung và quản lý ATLĐ nói


×