Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

CƠ sở lý LUẬN về QUẢN lý HOẠT ĐỘNG GIÁO dục PHẨM CHẤT TRÁCH NHIỆM CHO học SINH TRƯỜNG TRUNG học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.78 KB, 70 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT
ĐỘNG GIÁO DỤC PHẨM CHẤT
TRÁCH NHIỆM CHO HỌC SINH
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ


Tổng quan về nghiên cứu vấn đề
Các công trình nghiên cứu về giáo dục phẩm chất trách
nhiệm cho học sinh
Về phẩm chất
Ở phương Đông, thời cổ đại nhà giáo dục lỗi lạc Trung
Hoa - Khổng Tử (551 - 479 TCN) trong các tác phẩm của
mình rất coi trọng về vấn đề đạo đức, đặc biệt là phẩm chất,
trách nhiệm của người quân tử. Theo ông, người quân tử phải
là người có đức nhân, coi việc thực hiện “đức nhân” là lí
tưởng tối cao, có thể hy sinh thân mình để hoàn thiện điều
nhân (sát thân thành nhân) và đồng thời phải là người có đủ
phẩm chất và năng lực thi hành đạo lớn.
Ở Việt Nam, ông cha ta từ xa xưa vẫn luôn đề cao việc
giáo dục phẩm chất, đạo đức con người thể hiện trong câu
“Tiên học lễ, hậu học văn”, đây là phương châm giáo dục của
Nho gia. Song do được sử dụng trong thời gian quá dài ở cộng
đồng người Việt nên nó đã được dân gian hoá, gần gũi với
nhiều tầng lớp. Nguyên tắc giáo dục ấy chính là sự phối hợp
giữa gieo mầm, đề cao, giáo dục phẩm chất, đạo đức, truyền


dạy chữ nghĩa tri thức. Đây là lối đào tạo ưu việt mà từ ngàn
xưa ông cha ta đã đúc kết nên.
Ở phương Tây, nói về phẩm chất của con người,
Aristoste (384 -322 TCN) cho rằng thượng đế không áp đặt để


có công dân hoàn thiện về phẩm chất đạo đức, mà việc phát
hiện nhu cầu trên trái đất mới tạo nên được con người hoàn
thiện trong quan hệ đạo đức.
Về trách nhiệm
Trách nhiệm công dân đã được quan tâm như: “Phát
triển toàn diện chất lượng con người để nâng cao trách
nhiệm cá nhân trong điều kiện kinh tế thị trường”, Lê Văn
Quang, Tạp chí Triết học - Số 4, 2009; “Trách nhiệm xã hội
của cá nhân và yêu cầu nâng cao trách nhiệm này trong điều
kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Trần Thị Tuyết,
Tạp chí Triết học - Số 4, 2009 “Nhà nước pháp quyền, xã hội
dân sự với vấn đề quyền và nghĩa vụ công dân”, Phạm Thị
Ngọc Trầm, Tạp chí Triết học - số 4, 2006; “Trách nhiệm xã
hội và vai trò của nó trong cơ chế thị trường ở nước ta”, Vũ
Tuấn Huy, tạp chí Triết học - Số 5, 2009;. Các tài liệu đã đề
tập đến quan niệm về trách nhiệm, vai trò của việc nhận thức


về trách nhiệm đối với xã hội, gia đình, bản thân, thực trạng và
một số biện pháp để nâng cao việc giáo dục trách nhiệm xã hội
của cá nhân trong điều kiện Việt Nam hiện nay.
Về phẩm chất và trách nhiệm của học sinh
Một nghiên cứu tại Đại học Melbourne (Úc) năm 2009
đưa ra các nhóm phẩm chất cần có của con người trong thế kỉ
XXI gồm: Nhóm phẩm chất thuộc về kĩ năng sáng tạo (sức
sáng tạo, …); Nhóm phẩm chất thuộc về giao tiếp (quan hệ
ứng xử với mọi người, thái độ làm việc nhóm và hợp tác …);
Nhóm phẩm chất trong xã hội toàn cầu (vấn đề ý thức công
dân, sự nghiệp và cuộc sống, trách nhiệm xã hội và cá nhân,
bao gồm cả vấn đề hiểu biết sự đa dạng văn hóa…). [52].

Ở Nhật Bản đạo đức được đánh giá là cơ sở nền tảng các
giá trị gia đình và giá trị văn hóa truyền thống, trong chương
trình giáo dục phổ thông được ưu tiên thực hiện hơn so với
các môn học khác. Đạo đức của người Nhật được ghi trong
chương trình quốc gia nhằm rèn luyện phẩm chất và trách
nhiệm con người đối với bản thân, gia đình, xã hội, … gồm 6
mục tiêu: Nhiệt tâm phát triển một đất nước và xã hội dân
chủ; Tinh thần tôn trọng nhân phẩm và lòng yêu quý cuộc


sống; Nhiệt tâm kế thừa, phát triển văn hóa truyền thống và
sáng tạo văn hóa giàu tính cá nhân; Ý thức đóng góp cho sự
phát triển một thế giới hòa bình; Ý thức đạo đức; Khả năng tự
quyết định một cách độc lập [2].
Các công trình nghiên cứu về QLGD phẩm chất trách
nhiệm cho học sinh
Công trình nghiên cứu khoa học của Phạm Minh Hạc và
các cộng sự: “Chiến lược phát triển toàn diện con người Việt
Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
đã phần nào cụ thể hóa được mục tiêu, hoạch định chiến lược
giáo dục toàn diện cho học sinh giáo dục trong các nhà
trường, trong đó có hệ thống các trường THCS. Thành công ở
công trình này là đã đưa ra một hệ thống giải pháp quản lý xã
hội về giáo dục. Trong đó có giải pháp “Tổ chức phong trào
thi đua yêu nước và các phong trào rèn luyện đạo đức và lối
sống cho toàn dân trước hết là cán bộ đảng viên, cho thầy và
trò các trường học”.
Luận án tiến sĩ: “Xây dựng mô hình quản lý công tác
giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường ĐHSP trong giai
đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Hoàng Anh (2011) đã nghiên



cứu lý luận, thực trạng và đề xuất các giải pháp quản lý công
tác giáo dục đạo đức dựa trên cơ sở những phẩm chất đạo đức
của sinh viên sư phạm, từ đó đề xuất mô hình quản lý mới
công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm và các giải
pháp thực hiện mô hình.
Tóm lại, qua nghiên cứu tổng quan lịch sử vấn đề, tôi
thấy rằng: Việc xuống cấp trong đạo đức, PCTN của mọi
người nói chung và học sinh hiện nay nói riêng đang là vấn đề
được các nhà nghiên cứu thường xuyên quan tâm. Đặc biệt là
vấn đề xây dựng con người có đủ phẩm chất trách nhiệm
trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, mỗi địa phương mang những
đặc thù riêng, mỗi thời điểm đều có sự biến đổi không ngừng,
do đó việc nghiên cứu thực trạng GDPCTN và quản lý
GDPCTN cho học sinh THCS Đông Hải – quận Hải An –
thành phố Hải Phòng đã kế thừa và phát triển những công
trình nghiên cứu đó và đi sâu vào nghiên cứu đề tài này để
góp phần vào việc nâng cao chất lượng quản lý GDPCTN cho
học sinh THCS hiện nay.
Hiện nay có nhiều cách tiếp cận trong quản lý giáo dục
như: tiếp cận chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và
kiểm tra giáo dục; tiếp cận quá trình: quản lý mục tiêu giáo


dục, nội dung giáo dục; người giáo dục và học sinh; phương
tiện giáo dục; phương pháp giáo dục; cơ sở vật chất phục vụ
hoạt động giáo dục; tiếp cận nội dung quản lý: quản lý giáo
dục của giáo viên, quản lý học tập của học sinh và quản lý các
hoạt động, điều kiện hỗ trợ cho dạy và học; tiếp cận chu trình:

quản lý việc xác định nhu cầu học tập, quản lý việc lập kế
hoạch và thiết kế giáo dục, tổ chức hoạt động giáo dục và
đánh giá kết quả giáo dục.
Tuy nhiên, luận văn nghiên cứu quản lý hoạt động
GDPCTN cho học sinh trường THCS Đông Hải - Quận Hải
An – Thành phố Hải Phòng tiếp cận quá trình CIPO. CIPO
được cấu tạo từ chữ đầu của các từ tiếng Anh: Context - Bổi
cảnh; Input - Đầu vào; Process - Quá trình; Output, Outcome Đầu ra. Mô hình quản lý giáo dục CIPO được UNESCO đưa
ra năm 2000 trong Chương trình hành động Daka để quản lý
chất lượng giáo dục trong nhà trường phổ thông. Mô hình
quản lý CIPO gồm 3 thành phần cơ bản: Đầu vào, Quá trình,
Đầu ra, và 3 thành phần này được xem xét trong một bối cảnh
nhất định, và có thể hiểu chất lượng giáo dục của một nhà
trường phổ thông là chất lượng của 3 thành phần cơ bản đó.
Chất lượng giáo dục của cơ sở giáo dục được đánh giá


qua 10 yếu tố [30]:
Học sinh khoẻ mạnh được nuôi dưỡng tốt, được khuyến
khích thường xuyên để có động cơ học tập chủ động.
Giáo viên thành thạo nghề nghiệp và được động viên
đúng mức.
Phương pháp và kỹ thuật dạy và học tích cực.
Chương trình giáo dục thích hợp với người dạy và người
học.
Trang thiết bị, phương tiện, tài liệu giáo dục phù hợp, dễ
tiếp cận và thân thiện với người sử dụng.
Môi trường giáo dục tốt.
Hệ thống đánh giá chất lượng giáo dục thích hợp.
Hệ thống quản lý giáo dục được mọi người tham gia, có

tính dân chủ.
Tôn trọng và thu hút được nguồn lực của địa phương và
cộng đồng.
Chính sách phù hợp với giáo dục.


Các yếu tố trên được sắp xếp trong 04 thành phần cơ bản
của giáo dục: đầu vào (Input), quá trình (Process), đầu ra
(Output) và bối cảnh cụ thể (Context). Chất lượng giáo dục
(giáo dục) được hình thành từ chất lượng của 04 thành tố trên
Luận văn của tôi lựa chọn mô hình nghiên cứu CIPO vì
mô hình giáo dục CIPO có những ưu điểm sau:
+ Thể hiện được tinh thần của các tiếp cận quản lý chất
lượng trong giáo dục như: tiếp cận kiểm soát chất lượng, tiếp
cận đảm bảo chất lượng, tiếp cận quản lý chất lượng tổng thể
(TQM) và tiếp cận ISO.
+ GDPCTN cho học sinh trường THCS là một quá trình
hoạt động diễn ra liên tục dưới sự tác động của các yếu tố
khác nhau, cả trong và ngoài nhà trường. Hơn nữa GDPCTN
cho học sinh đều phụ thuộc vào các yếu tố đó. Như vậy, hoạt
động GDPCTN cho học sinh trường THCS có đầy đủ các điều
kiện để vận dụng tiếp cận CIPO trong quản lý.
Một số khái niệm cơ bản
Quản lý, quản lý giáo dục
Quản lý


Khái niệm quản lý
Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý tùy theo quan
điểm và cách tiếp cận. Theo những định nghĩa kinh điển nhất,

hoạt động quản lý là các tác động có định hướng có chủ đích của
chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị
quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và
đạt được mục đích của tổ chức.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu khoa học cũng có
những định nghĩa khác nhau về thuật ngữ “Quản lý” tùy theo
cách tiếp cận khác nhau:
Thuật ngữ “Quản lý” (Tiếng Việt gốc Hán) lột tả được bản
chất của hoạt động này trong thực tiễn, nó bao gồm hai quá
trình tích hợp vào nhau, quá trình “Quản” gồm coi sóc, giữ gìn,
duy trì ở trạng thái “ổn định”, quá trình “Lý” gồm sự sửa sang,
sắp xếp, đổi mới hệ, đưa hệ vào thế “phát triển”. Nếu người
đứng đầu tổ chức chỉ lấy việc “Quản” làm chính thì tổ chức dễ
bị trì trệ, ngược lại nếu chỉ quan tâm đến việc “Lý” thì sự phát
triển của tổ chức không bền vững. Do vậy, người quản lý phải
luôn xác định và phối hợp tốt, trong “Quản” phải có “Lý” và
trong “Lý” phải có “Quản”, làm cho trạng thái của hệ thống


mình quản lý luôn được ở trạng thái cân bằng động. Theo quan
điểm của hai tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ
Lộc thì quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng
cách vận dụng tối đa các chức năng kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ
đạo, kiểm tra” [17].
Tóm lại, có thể hiểu: Quản lý là một quá trình tác động
có định hướng, có tổ chức, có kế hoạch và hệ thống của chủ
thể quản lý đến khách thể quản lý dựa trên những thông tin về
tình trạng của đối tượng hình thành một môi trường phát huy
một cách hiệu quả các tiềm năng, các cơ hội của cá nhân và tổ
chức để đạt được mục tiêu đã đề ra. Bản chất của hoạt động

quản lý có thể mô hình qua sơ đồ sau:
- Bản chất của hoạt động quản lý

Công cụ
Khách thể quản lý
Chủ thể

quản lý

Phương pháp

Mục tiêu


Trong đó:
Chủ thể quản lý: Là một cá nhân, một nhóm người hay
một tổ chức tạo ra những tác động quản lý. Nó trả lời câu hỏi:
ai quản lý?
Khách thể (đối tượng) quản lý: Là đối tượng tiếp nhận
các tác động quản lý, có thể là người (quản lý ai?), là vật
(quản lý cái gì?), hoặc sự việc (quản lý việc gì?).
Công cụ quản lý: Là phương tiện tác động của chủ thể
quản lý tới khách thể quản lý như: Mệnh lệnh, quyết định,
chính sách, luật lệ…
Phương pháp quản lý: Là cách thức tác động của chủ thể
quản lý tới khách thể quản lý. Nó có thể là do nhà quản lý áp
đặt hoặc do sự cam kết giữa chủ thể quản lý và khách thể
quản lý.
b) Chức năng quản lý
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau nhưng nhìn

chung đa số các tác giả đều thống nhất ở bốn chức năng cơ
bản sau:


Lập kế hoạch: Đây là chức năng cơ bản nhất trong các
chức năng quản lý. Kế hoạch hóa bao gồm việc xây dựng mục
tiêu đối với thành tựu tương lai của tổ chức, chương trình
hành động và quyết định cách thức, phương tiện cần thiết
trong một thời gian nhất định của một hệ thống quản lý để đạt
được mục tiêu đó.
Tổ chức: Tổ chức là quá trình sắp xếp và phân bổ công
việc, quyền hành và nguồn lực cho các bộ phận, các thành
viên của tổ chức để họ có thể hoạt động và đạt được các mục
tiêu một cách có hiệu quả. Ứng với những mục tiêu khác nhau
đòi hỏi cấu trúc tổ chức của đơn vị cũng khác nhau. Người
quản lý cần lựa chọn cấu trúc tổ chức cho phù hợp với những
mục tiêu và nguồn lực hiện có. Chức năng của tổ chức bao
gồm: lập kế hoạch, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra
Chỉ đạo: Đây là quá trình sử dụng quyền lực quản lý để
tác động đến đối tượng bị quản lý một cách có chủ đích nhằm
phát huy hết tiềm năng của họ hướng vào mục tiêu chung. Chỉ
đạo là chức năng thể hiện năng lực của người quản lý. Việc
chỉ đạo không chỉ bắt đầu sau việc lập kế hoạch và cơ cấu tổ
chức đã hoàn tất, mà nó thấm vào và ảnh hưởng đến hai chức
năng kia.


Kiểm tra: Đây là chức năng quan trọng và xuyên suốt
quá trình quản lý nhằm đánh giá, phát hiện và điều chỉnh kịp
thời giúp cho tổ chức vận hành tối ưu, đạt mục tiêu đề ra.

Kiểm tra là một quá trình bao gồm các bước:
+ Xây dựng định mức và tiêu chuẩn
+ Chỉ số các công việc, phương pháp đánh giá
+ Rút kinh nghiệm và điều chỉnh
c) Nội dung quản lý
Theo điều 99 luật giáo dục thì nội dung quản lý gồm:
Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách phát triển giáo dục;
Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp
luật về giáo dục; ban hành điều lệ nhà trường; ban hành quy
định về tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục khác;
Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; tiêu
chuẩn nhà giáo; tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường
học; việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành sách giáo khoa,
giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ;


Tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và
kiểm định chất lượng giáo dục;
Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và
hoạt động giáo dục;
Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục;
Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục;
Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển
sự nghiệp giáo dục;
Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa
học, công nghệ trong lĩnh vực giáo dục;
Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục;
Quy định việc tặng danh hiệu vinh dự cho người có

nhiều công lao đối với sự nghiệp giáo dục;
Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo
dục; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về giáo dục [27].
Quản lý giáo dục


Khái niệm quản lý giáo dục
Theo P.V. Khuđôminxki (nhà lý luận của Liên Xô trước
đây) thì: QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý
thức và có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau
đến các khâu của hệ thống giáo dục nhằm mục đích bảo đảm
việc giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho thế hệ trẻ, đảm bảo phát
triển toàn diện và hài hòa cho thế hệ trẻ.
Ở Việt Nam, QLGD cũng là một lĩnh vực được Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII khẳng định:
"Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản
lý tới khách thể quản lý nhằm đưa ra hoạt động sư phạm của
hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu
quả nhất" [5].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục theo
nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp các lực
lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo
yêu cầu phát triển của xã hội” [3].
Tóm lại, quản lý giáo dục là quản lý con người nên đòi
hỏi phải tuân theo những nguyên tắc giáo dục. Những nguyên


tắc giáo dục là những yêu cầu, những tiêu chuẩn, những luận

điểm cơ bản chỉ đạo việc tổ chức của chủ thể quản lý giáo
dục, các cơ quan quản lý trong ngành giáo dục dù ở cấp nào,
dù đảm nhận chức năng nào đều phải tổ chức và phải hoạt
động theo đúng nguyên tắc giáo dục. Đó là tính khoa học và
tính thực tiễn, tập trung và dân chủ, kết hợp nhà nước và nhân
dân.
b) Chức năng quản lý giáo dục
Chức năng quản lý giáo dục là sự tác động của chủ thể
quản lý giáo dục lên khách thể quản lý giáo dục nhằm thực
hiện mục tiêu giáo dục.
Theo tài liệu của trường Đảng Cao cấp Liên Xô người ta
phân chức năng quản lý gồm 6 nội dung: Soạn thảo mục tiêu;
Kế hoạch hóa; Tổ chức; Phối hợp; Động viên kích thích;
Kiểm tra.
Hiện nay có nhà nghiên cứu chia chu trình quản lý thành
4 giai đoạn song cũng có nhiều tác giả thống nhất chia chu
trình quản lý thành 5 giai đoạn: Chuẩn bị kế hoạch; Kế hoạch
hóa; Tổ chức; Chỉ đạo; Kiểm tra (Giai đoạn này kết thúc chu
kỳ quản lý nhưng đồng thời cũng bắt đầu chu kỳ quản lý tiếp


theo).
Sự phân chia quá trình quản lý thành các giai đoạn chỉ có
tính chất tương đối giúp cho người cán bộ quản lý dễ định
hướng cho hoạt động quản lý của mình. Trong thực tế, các giai
đoạn gối đầu lên nhau, bổ sung cho nhau, xâm nhập vào nhau.
c) Nội dung quản lý giáo dục
Quản lý nguồn lực:Quản lý nhà giáo, cán bộ QLGD.
+ Bố trí, sử dụng.
+ Bồi dưỡng, đào tạo.

+ Xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ.
+ Tạo môi trường làm việc và phát triển đội ngũ.
Quản lý hoạt động dạy học, giáo dục và các hoạt động
khác.
Quản lý hoạt động dạy học: Chủ thể quản lý dạy học
(dạy và học) là Hiệu trưởng, các Phó hiệu trưởng, tổ trưởng
chuyên môn và các nhà giáo.
Hiệu trưởng quản lý dạy học: Thực hiện chương trình


dạy học đúng mục đích, vị trí, nội dung, phương pháp, hình
thức, thời gian của từng môn học theo quy định. Công việc
cụ thể gồm: Lập kế hoạch dạy học; Hướng dẫn những thay
đổi chương trình. Tổ chức hoạt động dạy học, Kiểm tra,
đánh giá việc thực hiện chương trình.
+ Quản lý hoạt động dạy học của giáo viên.
+ Quản lý hoạt động học của học sinh.
+ Quản lý cơ sở vật chất phục vụ dạy và học.
Tổ trưởng chuyên môn quản lý dạy học:
+ Xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch; Phân công giáo
viên, giám sát, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chương trình,
kế hoạch, hướng dẫn những thay đổi.
+ Quản lý hoạt động dạy học của giáo viên: Hướng dẫn
giáo viên xây dựng kế hoạch; giám sát, kiểm tra, đánh giá
chất lượng giờ lên lớp, kết quả học tập của học sinh; tổ chức
các chuyên đề chuyên môn.
+ Quản lý hoạt động học tập của học sinh.
+ Quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và



học.
Giáo viên quản lý dạy học: thông qua các hoạt động trực
tiếp, giảng dạy và giáo dục. Nội dung quản lý gồm:
+ Thực hiện chương trình, kế hoạch dạy học theo sự
phân công (Lập kế hoạch, chuẩn bị lên lớp và lên lớp).
+ Quản lý hoạt động của học sinh (nhận thức, giao tiếp
của học sinh; điều khiển tư duy và hành vi của học sinh).
Quản lý hoạt động giáo dục: là quản lý những hoạt động
nhằm hình thành các phẩm chất, nhân cách, phát triển toàn
diện của học sinh.
Các hoạt động giáo dục gồm: Giáo dục đạo đức, thẩm
mỹ, thể chất, môi trường, sức khoẻ, lao động, quốc phòng,
quốc tế…
Nội dung công tác quản lý hoạt động giáo dục là: Xây
dựng, phê duyệt kế hoạch, tổ chức thực hiện các hoạt động.
Huy động các nguồn lực, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế
hoạch.
Quản lý các hoạt động khác trong nhà trường.


Kiểm tra nội bộ nhà trường: Là hoạt động kiểm tra của
người hiệu trưởng đối với các hoạt động của nhà trường nhằm
đánh giá việc thực hiện các nhiệm vụ; phát hiện, khuyến
khích cái tốt, điều chỉnh những sai lệch để đạt mục tiêu đề ra.
Kiểm tra nội bộ giúp xây dựng, duy trì trật tự, kỷ cương trong
quản lý; tạo điều kiện để các nhà giáo, các bộ phận trong
trường hoàn thành nhiệm vụ.
Quản lý chất lượng giáo dục: Chất lượng giáo dục là
chất lượng đầu ra của quá trình giáo dục, là sự phù hợp trình
độ phát triển của người được giáo dục với mục tiêu của quá

trình giáo dục nói riêng và mục đích của xã hội nói chung.
Nhà trường, quản lý nhà trường
Nhà trường
Có nhiều quan niệm về nhà trường, tuy nhiên ở đây chỉ
xét 2 quan điểm: Dưới quan điểm của Chủ nghĩa Duy vật biện
chứng Mac – LêNin thì nhà trường là một dạng thiết chế tổ
chức chuyên biệt và đặc thù của xã hội, được hình thành do
nhu cầu tất yếu khách quan của xã hội nhằm thực hiện các
chức năng truyền thụ kinh nghiệm xã hội cho từng nhóm dân
cư nhất định trong cộng đồng xã hội. Và quan điểm của chủ


tịch Hồ Chí Minh về nhà trường ở Việt Nam. Người cho rằng
học tập ở nhà trường chính là yếu tố quyết định đến việc xây
dựng đất nước, phục vụ đắc lực cho nâng cao dân trí, đẩy lùi
giặc dốt. Tầm quan trọng của nhà trường là không thể phủ
nhận.
Như vậy, nhà trường có thể coi là một thiết chế tổ chức
chuyên biệt trong hệ thống tổ chức xã hội, đóng vai trò tái tạo
nguồn nhân lực phục vụ cho sự duy trì và phát triển của xã
hội.
Đặc điểm của giáo dục nhà trường:
Mang tính tự giác và tính mục đích rõ ràng: GDNT được
tổ chức và diễn ra theo một kế hoạch đào tạo xác định. NT có
kế hoạch cụ thể cho từng môn học, từng loại hình đào tạo,…
trong khoảng thời gian hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng,
hàng năm,… cho từng lớp.
Nội dung giáo dục của nhà trường được chọn lọc một
cách khoa học cơ bản và có hệ thống.
Hoạt động giáo dục, quá trình giáo dục (giáo dục theo

nghĩa rộng) của nhà trường do cán bộ quản lý nhà trường,


giáo viên, những người được đào tạo một cách bài bản về
chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm thiết kế, tổ chức và vận
hành, kiểm tra và điều chỉnh trên cơ sở của khoa học giáo
dục.
Phương pháp và phương tiện giáo dục nhà trường về
nguyên tắc là tôn trọng học sinh, được lựa chọn và sử dụng
trên cơ sở khoa học phù hợp với trình độ, tâm sinh lý học sinh
và nội dung giáo dục cho phép đem lại kết quả bằng con
đường ngắn nhất.
Các loại hình nhà trường: Trường công lập; Dân lập; Tư
thục; Bán công. Với hệ thống các trường học nhiều, các loại
hình đào tạo đa dạng như vậy tạo điều kiện thuận lợi cho người
dân tham gia vào giáo dục.
Quản lý nhà trường
Nội dung quản lý nhà trường
Có nhiều quan niệm về quản lý nhà trường. Tác giả
Đặng Quốc Bảo khi nghiên cứu đã quan niệm: “Quản lý nhà
trường là quản lý một thiết chế vừa có tính sư phạm, vừa có
tính kinh tế, trong đó phải xác định sứ mệnh là đào tạo học


sinh trở thành người lớn có trách nhiệm tự lập với ba giấy
thông hành đi vào đời là: giấy thông hành học vấn, giấy
thông hành kỹ thuật nghề nghiệp và giấy thông hành kinh
doanh” [4].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: "Quản lý nhà trường ở
Việt Nam là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong

phạm vi trách nhiệm, đưa nhà trường vận hành theo nguyên
lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo
đối với thế hệ trẻ và từng học sinh" [26].
Như vậy, có rất nhiều quan niệm khác nhau nhưng ta có
thể hiểu như sau: Quản lý nhà trường chính là những công
việc mà người cán bộ quản lý trường học phải thực hiện
những chức năng nhiệm vụ của mình trong việc lãnh đạo, chỉ
đạo nhà trường. Đó chính là những hoạt động có ý thức, có kế
hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý tác động tới các hoạt
động của nhà trường nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của nhà trường đề ra.
b. Mục tiêu của quản lý nhà trường bao gồm:
Đảm bảo kế hoạch giáo dục kế tiếp, tuyển sinh học sinh
đúng số lượng, đúng chất lượng theo quy định của Bộ


GD&ĐT. Duy trì sĩ số và hạn chế tối đa số học sinh lưu ban,
bỏ học.
Đảm bảo chất lượng, hiệu quả quá trình dạy học và giáo
dục, tiến hành các hoạt động giáo dục theo đúng chương trình,
đảm bảo đạt yêu cầu của các môn học và hoạt động giáo dục.
Xây dựng đội ngũ giáo viên của nhà trường đồng bộ, đủ
về số lượng và chất lượng ngày càng cao.
Từng bước hoàn thiện, nâng cao CSVC, trang thiết bị,
phương tiện - kỹ thuật phục vụ tốt các hoạt động dạy học và
giáo dục.
Xây dựng và hoàn thiện môi trường giáo dục lành
mạnh thống nhất ở địa phương.
Thường xuyên cải tiến công tác quản lý trường học theo
tinh thần dân chủ hóa nhà trường.

Trong lý luận và thực tiễn khẳng định, quản lý nhà
trường gồm hai loại:
Quản lý các chủ thể bên ngoài nhà trường nhằm định
hướng và tạo điều kiện cho nhà trường hoạt động và phát
triển.


×