Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 117 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước,
của các cấp các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Các cơ
quan quản lý từ trung ương đến địa phương luôn khuyến khích, huy động và tạo
điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Đặc
biệt, năm 2009 Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định số 1956 phê duyệt
đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” để hướng dẫn và
trợ giúp các tỉnh, thành phố trong cả nước về công tác đào tạo nghề. Đến năm
2020 hoàn thành mục tiêu đào tạo nghề cho khoản 12 triệu lao động nông thôn
trên toàn quốc.
Huyện Chương Mỹ là cửa ngõ phía Tây Nam của trung tâm Thủ đô Hà
Nội, huyện được sát nhập từ tỉnh Hà Tây cũ vào thành phố Hà Nội năm 2008.
Với lịch sử phát triển hơn 200 năm, huyện Chương Mỹ luôn được đánh giá là
địa phương có sự phát triển đồng đều các ngành nghề. Kinh tế Chương Mỹ chủ
yếu là nông nghiệp, huyện được biết đến như một vựa lúa, thực phẩm rộng lớn
cung cấp cho trung tâm thủ đô. Thế mạnh của huyện trong chăn nuôi là đàn gia
súc, gia cầm và thủy cầm hàng trăm nghìn con. Hơn nữa, huyện Chương Mỹ còn
nằm trong quy hoạch chuỗi đô thị Miếu Môn – Xuân Mai – Sơn Tây và nằm
giữa tam giác du lịch Hà Nội – Ba Vì – Chùa Hương. Phát huy lợi thế vị trí đặc
thù, Chương Mỹ đã tạo nên cơ cấu kinh tế khá đồng đều với trục công nghiệp
chiếm 40%, tiểu thủ công nghiệp – dịch vụ thương mại chiếm 33%, nông lâm
ngư nghiệp chiếm 27%. Với những phát triển như trên, huyện Chương Mỹ đã
phát triển kinh tế theo hướng nông nghiệp kết hợp với sản xuất công nghiệp –
tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại. Tất cả đều hướng tới mục tiêu xây


2



dựng quê hương Chương Mỹ giàu đẹp, văn minh, tiến bộ, vững bước đi lên trên
con đường hội nhập và phát triển.
Tuy nhiên, đối với huyện lớn như Chương Mỹ, dân số gần 30 vạn người,
diện tích gieo trồng được duy trì hàng năm khoảng trên 16 nghìn ha, hiện có 337
doanh nghiệp, trên 12.000 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và càng ngày càng
thu hút được nhiều doanh nghiệp đến sản xuất, kinh doanh thì nhu cầu về lao động
nông thôn có trình độ, được đào tạo nghề, có chất lượng cao trên địa bàn huyện
càng trở nên cấp thiết. Những năm qua, công tác đào tạo nghề cho lao động nông
thôn chỉ dừng lại ở việc thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ cho người lao động trong
huyện để họ tìm việc làm, chuyển nghề, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc
sống. Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và các cơ sở nông
nghiệp trên địa bàn huyện chưa có nguồn lao động tại chỗ có tay nghề, đủ trình độ,
đủ tiêu chuẩn về cả chuyên môn và nghiệp vụ để tham gia sản xuất, phục vụ cho
mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Để chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề và mong
muốn giúp huyện nhà nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn,
tôi đã chọn đề tài: “Giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho
lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên
địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa được cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo nghề cho lao
động nông thôn
- Đánh giá được thực trạng hoạt động đào tạo nghề và chất lượng đào tạo
nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội



3

- Chỉ ra được các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề cho lao
động nông thôn trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
- Đề xuất được một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn và chất lượng lao động
được đào tạo trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
+ Phạm vi về nội dung:
Đề tài chỉ nghiên cứu đối với hoạt động đào tạo nghề ngắn hạn cho lao
động nông thôn trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
+ Phạm vi không gian: huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2012
4. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn
- Thực trạng hoạt động đào tạo nghề và chất lượng lao động nông thôn
được đào tạo trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
- Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động nông thôn được đào tạo
trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
- Giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao
động nông thôn trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội


4

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở lý luận về lao động nông thôn và hoạt động đào tạo nghề cho lao
động nông thôn
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Nguồn nhân lực, nguồn lực lao động nông thôn
Nguồn lực là yếu tố cơ bản để tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của bất kỳ ngành kinh tế nào. Trong các nguồn lực có thể khai thác như
nguồn lực tự nhiên, nguồn lực khoa học công nghệ hay nguồn nhân lực thì
nguồn nhân lực là nguồn lực mang tính quyết định vì khi phát huy nguồn nhân
lực thì các nguồn lực khác mới phát huy hiệu quả. Hơn nữa, nguồn nhân lực là
một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại trong
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Vì vậy, việc duy trì và phát triển
nguồn nhân lực là mối quan tâm hàng đầu của mỗi doanh nghiệp, mỗi vùng lãnh
thổ hay mỗi quốc gia.
Theo thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội, nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định của
một quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương, một ngành
hay một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế xã hội [8].
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi
lao động được quy định, như vậy nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao
động. Còn theo nghĩa hẹp thì nguồn nhân lực tương đương với lực lượng lao
động. Tuy nhiên, khái niệm nguồn lao động và lực lượng lao động vẫn được
hiểu đồng nhất với nhau. Theo tổ chức Lao động quốc tế ILO, lực lượng lao
động là một bộ phận dân số trong độ tuổi lao động, thực tế có tham gia lao động
và những người đang tích cực tìm kiếm việc làm. Lực lượng lao động bao gồm
những người có việc làm và những người thất nghiệp [8].
Như vậy, khái niệm nguồn lao động rộng hơn khái niệm lực lượng lao
động. Nó bao gồm cả lực lượng lao động và bộ phận dân số từ đủ 15 tuổi trở lên


5


có khả năng lao động nhưng chưa tham gia hoạt động kinh tế như đang đi học,
không có nhu cầu làm việc hoặc nghỉ hưởng chế độ…
Nguồn nhân lực trên địa bàn nông thôn hay nguồn lực lao động nông thôn
là bộ phận dân số sinh sống và làm việc ở nông thôn trong độ tuổi lao động theo
quy định của pháp luật có khả năng lao động. Tuy nhiên do đặc điểm, tính chất,
mùa vụ của công việc ở nông thôn mà nguồn lực lao động nông thôn còn bao
gồm những người trên hoặc dưới độ tuổi lao động tham gia sản xuất với công
việc phù hợp với bản thân. Như vậy, nguồn lực lao động nông thôn rất dồi dào
và có tiềm năng khai thác lớn nhưng cũng chính là thách thức đặt ra trong việc
giải quyết việc làm ở nông thôn [9].
Khi nghiên cứu đối tượng là nguồn lực lao động nông thôn cần lưu ý
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, lao động nông thôn mang tính thời vụ
Đây là đặc điểm đặc thù, gắn liền với lao động nông thôn. Nguyên nhân là
do đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi mà chúng là những
cơ thể sống trong đó quá trình tái sản xuất tự nhiên và tái sản xuất kinh tế đan
xen với nhau. Cùng là một loại vật nuôi, cây trồng nhưng tại những vùng khác
nhau có điều kiện tự nhiện khác nhau thì chúng lại sinh trưởng, phát triển khác
nhau. Vì vậy mà lao động nông thôn không cần hoặc tác động rất ít vào giai
đoạn cây trồng, vật nuôi tái sản xuất tự nhiên mà vẫn đạt hiệu quả. Đặc điểm này
ko thể xóa bỏ được trong quá trình sản xuất của lao động nông nghiệp nhưng
con người có thể làm giảm tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp. Từ đó, việc
sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất trong đó có nguồn lực lao
động nông thôn một cách hợp lý là vấn đề quan trọng đang được đặt ra. Đặc biệt
là vấn đề thất nghiệp bán phần của lao động nông nghiệp, đòi hỏi phải có sự đa
dạng hoá ngành nghề trong nông nghiệp nông thôn để tận dụng lao động nông nhàn.
Thứ hai, xu hướng biến động nguồn lao động nông nghiệp diễn ra theo hai
giai đoạn



6

Giai đoạn bắt đầu công nghiệp hoá, năng suất lao động nông nghiệp tăng
chậm nên vẫn cần một lực lượng lao động lớn để sản xuất nông nghiệp. Giai
đoạn nền kinh tế phát triển cao, công nghiệp và dịch vụ tăng triển mạnh tạo ra
sức thu hút lớn về lao động. Là thứ lao động tất yếu, xu hướng có tính quy luật
là không ngừng thu hẹp về số lượng và được chuyển một bộ phận sang các
ngành khác.
Thứ ba, chất lượng lao động nông nghiệp trong các nước đang phát triển
thường thấp hơn so với chất lượng lao động trong công nghiệp và dịch vụ
Tuy nhiên, chất lượng lao động nông nghiệp ngày càng tăng do sự phát
triển kinh tế dẫn đến những cải thiện về đời sống vật chất, y tế, giáo dục; và đặc
biệt là tác động trực tiếp của tiến bộ khoa học công nghệ. Sự gia tăng về chất
lượng chính là nhân tố quyết định, quá trình chuyển lao động nông nghiệp sang
các ngành kinh tế khác.
Thứ tư, lao động nông nghiệp diễn ra trong phạm vi rộng lớn, đa dạng về
địa bàn và điều kiện sản xuất. Bởi sản xuất nông nghiệp tiến hành trên toàn lãnh
thổ, địa hình phức tạp và chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên.
Thứ năm, phần lớn lao động nông nghiệp được ít đào tạo
Lao động tham gia sản xuất nông nghiệp theo kinh nghiệm, thường có
trình độ văn hóa, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ tiếp cận thị trường còn
thấp. Vì vậy, họ gặp rất nhiều khó khăn để tự tạo việc làm hay tìm việc làm [9].
1.1.1.2. Thị trường lao động nông thôn
Thị trường lao động là nơi thực hiện các quan hệ xã hội giữa người bán
sức lao động và người mua sức lao động, thông qua các hình thức thỏa thuận về
tiền công hay tiền lương và các điều kiện làm việc khác, trên cơ sở một hợp
đồng lao động bằng văn bản, bằng miệng hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay
thỏa thuận khác. Hay thị trường lao động là không gian diễn ra sự mua bán hàng
hóa đặc biệt, hàng hóa sức lao động, là nơi thực hiện các giá trị sức lao động.



7

Thị trường lao động nông thôn là một bộ phận của thị trường lao động. Thị
trường lao động nông thôn là thị trường lao động trên địa bàn nông thôn, nơi
diễn ra sự mua bán hàng hóa sức lao động mà đối tượng bán sức lao động là lao
động nông thôn.
Thị trường lao động được chia thành 3 khu vực mà tại mỗi khu vực có đặc
điểm riêng khác nhau. Thứ nhất, khu vực thành thị chính thức là nơi tập trung
hầu hết mọi việc làm, khu vực này bao gồm các tổ chức kinh tế lớn như ngân
hàng, công ty, doanh nghiệp... Nhu cầu lao động lớn đặc biệt là lao động chất
lượng cao, trình độ cao. Người lao động luôn tìm đến khu vực thị trường thành
thị chính thức vì công việc được trả lương cao và ổn định. Vì vậy, khu vực này
thường xuyên có 1 dòng người lao động chờ việc làm.
Thứ hai, khu vực thành thị không chính thức là khu vực thành thị tập
trung những cơ sở nhỏ hơn như những cửa hàng, cơ sở kinh doanh, sản xuất và
buôn bán nhiều loại hàng hóa và cũng có thể cạnh tranh được với những khu vực
lớn hơn.
Thứ ba, khu vực nông thôn là nơi tập trung lao động thường làm việc
trong phạm vi gia đình mà mục đích không phải là để lấy tiền công mà để đóng
góp phần của mình vào sản lượng trong gia đình. Tuy vậy vẫn thuộc thị trường
lao động làm thuê, nhất là theo mùa vụ, những người làm thuê thường là do
những hộ gia đình đông con đất trồng trọt lại thiếu.
Thị trường lao động chỉ có thể hình thành và phát triển ở mỗi quốc gia
đảm bảo được các điều kiện sau:
+ Có nền kinh tế hàng hóa phát triển theo cơ chế thị trường
+ Có các điều kiện để sứ lao động trở thành hàng hóa
+ Có định chế pháp luật cho phép tồn tại thị trường lao động, trong đó
người sở hữu tư liệu sản xuất có quyền tự do mua sức lao động còn người lao

động có quyền sở hữu sức lao động của mình, có quyền đem bán sức lao động
như một hàng hóa.
+ Có hệ thống thể chế thị trường lao động thích hợp để giải quyết các nhu
cầu và quan hệ phát sinh trên thị trường này.


8

Thị trường lao động không đứng yên mà biến động không ngừng và chịu
ảnh hưởng từ 2 yếu tố: cung lao động và cầu lao động. Trong đó, cung lao động
là tổng nguồn lao động do người lao động tự nguyện đem ra tham dự vào quá
trình sản xuất xã hội ở các mức giá trong một khoảng thời gian nhất định. Còn
cầu lao động là tổng lao động mà một quốc gia, một địa phương, một ngành hay
một doanh nghiệp muốn thuê ở các mức giá trong một khoảng thời gian nhất
định.
1.1.1.3. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Đào tạo và phát triển là các hoạt động để duy trì và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của mỗi vùng, mỗi tổ chức. Đây cũng chính là điều kiện quyết
định sức mạnh của mỗi vùng, mỗi tổ chức đó.
Đào tạo là hoạt động dạy các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp hay kiến
thức liên quan đến một ngành nghề cụ thể để người học lĩnh hội và nắm vững
những tri thức, kỹ năng, nghề nghiệp có hệ thống để người học có khả năng đảm
nhận được một công việc nhất định. Như vậy, đào tạo nguồn nhân lực là quá
trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động
để họ có thể đảm nhiệm một công việc nhất định.
Đào tạo nguồn nhân lực bao gồm các hình thức sau:
- Đào tạo mới: được áp dụng với người chưa có nghề.
- Đào tạo lại: đào tạo cho những người có nghề nhưng vì lý do nào đó
nghề của họ không phù hợp nữa.
- Đào tạo nâng cao trình độ lành nghề: nhằm bỗi dưỡng nâng cao kiến

thức và kinh nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm nhận nhưng công
việc phức tạp hơn.
Trình độ lành nghề của nguồn nhân lực thể hiện chất lượng của nguồn
nhân lực. Nó biểu hiện sự hiểu biết về lý thuyết và kỹ năng lao động có thể hoàn
thành nhưng công việc trình độ phức tạp nhất định, thuộc một nghề nghiệp hay
chuyên môn nào đó. Lao động có trình độ lành nghề là lao động có chất lượng
cao hơn và là lao động phức tạp. Trong cùng một đơn vị thời gian thì lao động


9

phức tạp thường tạo ra một giá trị lớn hơn lao động giản đơn. Trình độ lành nghề
biểu hiện ở tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật đối với công nhân hay tiêu chuẩn nghiệp
vụ viên chức. Hoạt động đào tạo nghề nguồn nhân lực sẽ giúp cho người lao
động nâng cao trình độ lành nghề. Hay chính là giúp người lao động bồi dưỡng,
hiểu biết thêm các kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất và nâng cao khả
năng làm được nghề trong chuyên môn mà họ đang đảm nhận.
Có nhiều dạng đào tạo khác nhau như đào tạo cơ bản, đào tạo chuyên sâu,
đào tạo chuyên môn, đào tạo lại, đào tạo từ xa, tự đào tạo trong đó có đào tạo
nghề.
1.1.2. Nội dung hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Theo Luật dạy nghề 2006, đào tạo nghề là hoạt động dạy và học nhằm
trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề
để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học.
Thông qua quá trình đào tạo nghề, người học sẽ được hệ thống các kiến thức về
lý thuyết cần thiết của nghề và được thực hành trong thực tế để hình thành kỹ
năng nghề. Đồng thời, người học còn được giáo dục và phát triển cả thái độ, ý
thức đối với nghề trong tương lai của bản thân. Sau khóa đào tạo nghề, người
học sẽ nắm vững một nghề, một chuyện môn, trong quá trình đào tạo nghề sẽ
được thực hiện với người đã có nghề (đào tạo nâng cao kỹ năng) và người học

để làm nghề, chuyên môn khác [7].
Lĩnh vực dạy nghề rất đa dạng bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng
thủy sản, trồng rừng, bảo vệ thực vật, chăn nuôi thú y; chế biến nông lâm thủy
sản; cấp thoát nước và vệ sinh môi trường nông thôn; quản lý trang trại, hợp tác
xã, tổ hợp tác; dịch vụ nông nghiệp và các lĩnh vực khác. Khi xây dựng kế
hoạch đào tạo nghề, địa phương dựa vào thế mạnh và tình hình kinh tế để lựa
chọn lĩnh vực, ngành nghề đào tạo cho lao động phù hợp và hiệu quả nhất.
Đào tạo nghề có ba trình độ đào tạo là sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao
đẳng nghề. Trong đó, đào tạo nghề trình độ sơ cấp nhằm trang bị cho người học


10

nghề năng lực thực hành một nghề đơn giản hoặc năng lực thực hành một số
công việc của một nghề; có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác
phong công nghiệp, có sức khoẻ, tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt
nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ
cao hơn [7].
Đào tạo nghề trình độ sơ cấp được thực hiện từ ba tháng đến dưới một
năm đối với người có trình độ học vấn, sức khoẻ phù hợp với nghề cần học. Các
cơ sở dạy nghề trình độ sơ cấp bao gồm:
- Trung tâm dạy nghề
- Trường trung cấp nghề, trường cao đẳng nghề có đăng ký dạy nghề trình
độ sơ cấp
- Doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khác (sau
đây gọi chung là doanh nghiệp), trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao
đẳng, trường đại học, cơ sở giáo dục khác có đăng ký dạy nghề trình độ sơ cấp.
Người học nghề học hết chương trình sơ cấp nghề có đủ điều kiện thì
được dự kiểm tra, nếu đạt yêu cầu thì được người đứng đầu cơ sở dạy nghề cấp
chứng chỉ sơ cấp nghề theo quy định của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước

về dạy nghề ở trung ương.
Đào tạo nghề có thể được phân loại như sau:
- Căn cứ vào thời gian đào tạo nghề
+ Đào tạo ngắn hạn: Loại đào tạo nghề này có thể được thực hiện trong 3
tháng, 6 tháng, 9 tháng hoặc 1 năm tại các trung tâm dạy nghề, lớp dạy nghề độc
lập hoặc gắn với cơ sở kinh doanh, dịch vụ, giáo dục khác. Quá trình đào tạo
ngắn hạn tổ chức theo hình thức học lý thuyết và thực hành trên lớp, kèm cặp tại
xưởng, tại nhà, lấy thực hành là chính, vừa học, vừa làm, chuyển giao công
nghệ. Đồng thời, loại đào tạo này còn cung cấp kiến thức khoa học, công nghệ
mới, kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. Đào tạo nghề ngắn hạn dành cho những
người có trình độ học vấn và sức khỏe phù hợp với nghề.


11

Các khóa học ngắn hạn sẽ cung cấp cho người học đầy đủ các yêu cầu kỹ
năng, kiến thức của một nghề nhưng ở trình độ thấp. Và các khóa học này chỉ
cung cấp một phần nội dung của nghề nghiệp hoặc có tác dung bổ trợ cho nghề.
Mỗi người học có thể tham gia nhiều khóa học ngắn hạn để tích lũy dần kiến
thức cho mình hoặc bổ sung, cập nhật kiến thức và kỹ năng mới.
+ Đào tạo dài hạn được thực hiện từ 1 đến 3 năm tại các trường dạy nghề,
cá trường trung học chuyên nghiệp, các trường cao đẳng, đại học có đủ điều kiện
để tổ chức dạy nghề dài hạn. Đào tạo dài hạn thường cung cấp cho người học
đầy đủ kiến thức và kỹ năng cơ bản để thực hiện một nghề. Sau khi kết thúc
khóa học, người học có đủ khả năng để khởi đầu nghề nghiệp của mình.
- Căn cứ vào thực tế đào tạo đối với người học
+ Đào tạo mới là loại đào tạo nghề cho những người chưa có nghề
+ Đào tạo lại là loại đào tạo cho những người đã có nghề song vì một lý
do nào đó mà nghề của họ không phù hợp nữa. Hay đó là quá trình đào tạo cho
người học có cơ hội học tập một lĩnh vực mới để đổi nghề.

- Căn cứ vào trình độ lành nghề
+ Trình độ bán lành nghề là loại đào tạo mà người học chỉ được trang bị
một số kiến thức và kỹ năng nghề nhất định. Đào tạo trình độ bán lành nghề phù
hợp với ngành nghề giản đơn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyển đổi cơ cấu lao
động tại chỗ, phát triển trang trại, kinh tế hộ gia đình và phát triển việc làm cho
người lao động.
+ Trình độ lành nghề là loại đào tạo mà người học được cung cấp đầy đủ
kiến thức lý thuyết tổng hợp và kỹ năng chuyên sâu. Người học được đào tạo ở
trình độ này có thể đảm nhận được các công việc phức tạp, phục vụ trong các
khu công nghiệp, khu chế xuất, những dây chuyền sản xuất công nghệ cao hay
phục vụ nhu cầu xuất khẩu lao động.
+ Trình độ cao là loại đào tạo mà người học được hệ thống lý thuyết, kỹ
năng thực hành đầy đủ và được tiếp cận với những khoa học mới, công nghệ tiên
tiến, hiện đại. Người học sẽ có khả năng thực hiện công việc trên những máy
móc công nghệ mới, đòi hỏi kỹ năng khéo léo cao.


12

Hoạt động đào tạo nghề cho đối tượng là LĐNT thường là loại hình đào
tạo nghề ngắn hạn ở trình độ sơ cấp nghề và trình độ bán lành nghề. Ngoài ra,
khi tham gia đào tạo nghề người LĐNT có thể được đào tạo mới, đào tạo nâng
cao tay nghề hoặc đào tạo lại. Ở nước ta, đào tạo nghề cho LĐNT là sự nghiệp
của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất
lượng LĐNT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn. Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho LĐNT, có
chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi
LĐNT, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo
nghề cho LĐNT.
Mặt khác, học nghề là quyền lợi và nghĩa vụ của LĐNT nhằm tạo việc

làm, chuyển nghề, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống. Với mục
tiêu như vậy, khi triển khai hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT cần phải lựa chọn
hình thức đào tạo nghề để đạt kết quả cao nhất và hiệu quả kinh tế nhất.
Các nhà quản lý, cán bộ làm công tác đào tạo nghề cho lao động nông
thôn có thể áp dụng các hình thức đào tạo nghề phổ biến hiện nay:
+ Đào tạo tại nơi làm việc là đào tạo trực tiếp, chủ yếu thực hành kỹ năng
ngay trong quá trình sản xuất. Đào tạo tại nơi làm việc được tiến hành theo hai
cách là cá nhân và tổ đội sản xuất. Trong đó, đào tạo cá nhân là cách mà người
học được một lao động có trình độ lành nghề cao hướng dẫn ngay tại vị trí làm
việc. Người lao động vừa hướng dẫn, vừa sản xuất và dạy nghề theo kế hoạch
đặt ra. Còn cách đào tạo theo tổ đội sản xuất là cách mà người học được tổ chức
thành từng tổ và được dạy nghề bởi người có trình độ văn hóa, trình độ nghề
nghiệp và phương pháp sư phạm nhất định.
Quá trình dạyBước
nghề1:tiến
hànhdạy
theo
đồ sau:
Giảng
lý sơ
thuyết,
nguyên tắc và phương pháp làm việc

Bước 2: Giao việc làm thử cho người học

Bước 3: Giao việc hoàn toàn cho người học
Sơ đồ 1.1: Quá trình đào tạo tại nơi làm việc


13


Bước 1: Người đảm nhận đào tạo nghề vừa tiến hành sản xuất, vừa hướng
dẫn người học học nghề. Trong quá trình sản xuất, người dạy giảng dạy cho
người học nghề lý thuyết về cấu tạo máy móc, nguyên tắc vận hành, quy trình
công nghệ, thao tác làm việc và phương pháp làm việc. Người học theo dõi,
quan sát theo những thao tác và phương pháp của người dạy.
Bước 2: Giao việc làm thử cho người học. Người học sau khi đã nắm
được nguyên tắc và phương pháp làm việc sẽ được phân công việc làm thử dưới
sự kiểm tra, chỉnh sửa của người dạy.
Bước 3: Giao việc hoàn toàn cho người học. Khi người học có thể làm
công việc độc lập sẽ được giao hoàn toàn tiến hành công việc đó nhưng người
vẫn phải thường xuyên theo dõi, giúp đỡ.
Hình thức đào tạo tại chỗ sẽ phát huy hiệu quả cao nhất khi mà việc kèm
cặp trong sản xuất được tổ chức hợp lý và có chế độ kèm cặp lẫn nhau giữa
người dạy, người học và tổ chức.
+ Tổ chức các lớp cạnh nơi làm việc
Hình thức này được áp dụng trong trường hợp yêu cầu công việc tương
đối phức tạp, đào tạo trong sản xuất không đáp ứng được về yêu cầu số lượng
cũng như chất lượng. Hình thức này đòi hỏi phải tổ chức các lớp đào tạo riêng
cho tổ chức mình hoặc tổ chức khác cùng ngành. Các lớp đào tạo dạy nghề theo
chương trình gồm 2 phần là lý thuyết và thực hành. Phần lý thuyết sẽ được giảng
dạy tập trung trên lớp học. Còn phần thực hành sẽ được tiến hành tại các phân
xưởng sản xuất dưới sự hướng dẫn của người dạy có chuyên môn.
+ Đào tạo tại các trường chính quy


14

Sản xuất ngày càng phát triển thì đòi hỏi về lực lượng lao động có tay
nghề, nắm bắt khoa học kỹ thuật mới càng cao. Vì vậy, hoạt động đào tạo nghề

phải được tổ chức tại các trung tâm dạy nghề, các trường trung học chuyên
nghiệp, các trường cao đẳng, đại học để đáp ứng nhu cầu trên. Hình thức này sẽ
đáp ứng yêu cầu dạy nghề tập trung, quy mô tương đối lớn và đào tạo lao động
có tay nghề cao. Các trường tham gia dạy nghề phải được Bộ hoặc các ngành
cho phép tổ chức, có bộ máy quản lý, đội ngũ giáo viên chuyên ngành và cơ sở
vật chất đảm bảo cho đào tạo nghề.
Để hoạt động đào tạo nghề đáp ứng được nhu cầu lao động hiện nay thì
cần có một mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển sâu rộng. Mạng lưới cơ sở dạy
nghề là hệ thống các cơ sở dạy nghề bao gồm các trường dạy nghề chuyên
nghiệp, các trường cao đẳng và trung học có chức năng dạy nghề, các trung tâm
dạy nghề, các trung tâm thao gia dạy nghề, các cơ sở dạy nghề của các tổ chức
hay các làng nghề tham gia dạy nghề và truyền nghề.
Trong đó, lớp dạy nghề là đơn vị đào tạo nằm trong một tổ chức kinh
doanh. Lớp dạy nghề được mở khi mà tổ chức có nhu cầu đào tạo nghề đơn
giản, nhu cầu về lao động chưa lành nghề. Lớp đào tạo nghề giúp tổ chức bồi
dưỡng lao động chưa lành nghề và lành nghề [7].
Trường dạy nghề là đơn vị cơ sở của ngành dạy nghề trong hệ thống giáo
dục quốc dân. Trường dạy nghề quản lý và sử dụng cơ sở vật chất của xã hội và
đào tạo những người trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội. Trường dạy
nghề có tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động
của trường. Nhiệm vụ của trường dạy nghề là đào tạo lao động có nghiệp vụ
lành nghề, bồi dưỡng nâng cao trình độ lành nghề và đào tạo lao động lành nghề
trình độ cao.
Trung tâm dạy nghề là cơ sở đào tạo ngắn hạn trong hệ thống giáo dục
quốc dân, do cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế chính trị, tổ chức xã hội, cá
nhân hoặc tổ chức thành lập hoạt động theo quy định của pháp luật. Nhiệm vụ


15


của các trung tâm dạy nghề là đào tạo nghề cho lao động, bồi dưỡng nghề cho
lao động. Ngoài ra, theo Luật Dạy nghề 2006 trung tâm dạy nghề còn đảm
nhiệm nhiệm vụ là tư vấn học nghề, tư vấn việc làm miễn phí cho người học
nghề; tổ chức cho người học nghề tham quan, thực tập tại doanh nghiệp; liên
doanh, liên kết hoạt động dạy nghề với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong
nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài; được thành lập doanh nghiệp và tổ chức
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật; đưa nội dung giảng
dạy về ngôn ngữ, phong tục tập quán, pháp luật có liên quan của nước mà người
lao động đến làm việc và pháp luật có liên quan của Việt Nam vào chương trình
dạy nghề khi tổ chức dạy nghề cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài [7].
1.1.3. Đánh giá chất lượng đào tạo nghề
Đào tạo nghề là một trong những bộ phận của hệ thống giáo dục quốc
dân. Đào tạo nghề có nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp trong sản xuất,
kinh doanh và dịch vụ. Trong những năm qua, đào tạo nghề đã phát triển mạnh
về quy mô và chất lượng đào tạo. Chất lượng đào tạo nghề là mức độ thực hiện
mục tiêu, chương trình, nội dung đào tạo nghề. Qua đó, tiến hành kiểm định chất
lượng đào tạo nghề nhằm xác định, đánh giá kết quả thực hiện đào tạo nghề. Kết
quả kiểm định chất lượng đào tạo nghề được công bố công khai để người học
nghề, xã hội biết và giám sát.
Theo thông tư hướng dẫn kiểm định chất lượng đào tạo nghề của Bộ
LĐTB&XH, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chất lượng đào tạo nghề được sử
dụng bao gồm 9 tiêu chí sau:
- Mục tiêu và nhiệm vụ
- Tổ chức và quản lý
- Hoạt động dạy và học
- Giáo viên và cán bộ quản lý
- Chương trình, giáo trình
- Thư viện



16

- Cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng dạy học
- Quản lý tài chính
- Các dịch vụ cho người học nghề [2].
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo nghề cho LĐNT
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa
– hiện đại hóa, chất lượng của nguồn lực lao động có vai trò rất quan trọng.
Trong khi đó, nước ta là một nước có truyền thống nông nghiệp lâu đời dân số
sông chủ yếu bằng nghề nông. LĐNT chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn lực lao
động quốc gia. Tuy nhiên, do đặc thù của nguồn LĐNT nên chất lượng lao động
còn yếu kém, chưa được tiếp cận với khoa học công nghệ phát triển hay các
phương pháp lao động mới. Vì vậy, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ để nâng
cao chất lượng cho nguồn LĐNT, trước hết là hoạt động đào tạo nghề cho
LĐNT hiện nay. Muốn vậy, cần có các biện pháp cụ thể tác động trực tiếp vào
các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo nghề cho LĐNT. Hoạt động đào
tạo nghề cho LĐNT chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố bao gồm các yếu tố bên
trong và các yếu tố bên ngoài, đồng thời nó cũng tác động tới nhiều hoạt động
khác của nền kinh tế đất nước.
1.1.4.1. Các yếu tố bên trong
Nội dung của đào tạo nghề rất đa dạng và bao gồm nhiều yếu tố, mỗi yếu
tố đều có tác động gây ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau đối với chất lượng
đào tạo nghề. Các yếu tố này có mối quan hệ gắn bó với nhau, đồng thời có tác
động qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau và cũng có thể mâu thuẫn nhau. Vì vậy,
những yếu tố bên trong là các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp nhất tới chất lượng đào
tạo nghề cho LĐNT. Các yếu tố chính bao gồm cơ sở vật chất của cơ sở dạy
nghề, đội ngũ giáo viên của cơ sở đào tạo, chương trình giảng dạy, học liệu sử
dụng trong đào tạo nghề, chất lượng LĐNT được đào tạo…
Cơ sở vật chất của các cơ sở tham gia đào tạo nghề



17

Đây là tiền đề đảm bảo cho hoạt động đào tạo nghề được diễn ra liên tục
và đảm bảo số lượng, chất lượng lao động được đào tạo. Cơ sở vật chất sử dụng
trong đào tạo nghề bao gồm hệ thống trường lớp, phòng học, xưởng thực hành,
ký túc xá, nhà công vụ cho giáo viên, nhà ăn, ô tô bán tải hoặc thuyền máy để
chuyên chở thiết bị, cán bộ, giáo viên đi dạy nghề lưu động, các loại thiết bị dạy
nghề…
Tất cả cơ sở vật chất đều tham gia phục vụ cho quá trình đào tạo nghề.
Trước hết, hoạt động đào tạo nghề phải được diễn ra tại một địa điểm nào đó, có
thể là phòng học lý thuyết hoặc xưởng thực hành. Bên cạnh đó, tiến hành đào
tạo nghề cần phải có những trang thiết bị, dụng cụ máy móc phục vụ cho quá
trình dạy và học nghề. Chúng có thể là bàn ghế, loa đèn, máy móc thực hành,
dụng cụ thực hành, nguyên nhiên liệu… Đặc biệt, trong thời đại khoa học kỹ
thuật phát triển như hiện nay những trang thiết bị phục vụ cho đào tạo nghề phải
là những thiết bị máy móc hiện đại, đồng bộ và phù hợp để người học được tiếp
cận với công nghệ thực tiễn ngoài thực tế.
Khi cơ sở đào tạo có hệ thống cơ sở vật chất tốt thì kết quả đào tạo được
nâng cao, kết thúc khóa đào tạo người học có trình độ lành nghề cao, chuyên
môn vững vàng và có thể đáp ứng yêu cầu công việc. Đặc biệt là lực lượng
LĐNT, khi tham gia đào tạo nghề có được môi trường học đảm bảo và được tiếp
cận với khoa học kỹ thuật mới, giảm khoảng cách với công việc thực tế bên
ngoài. Hơn nữa, khi cơ sở vật chất không đáp ứng được yêu cầu của đào tạo
nghề sẽ làm giảm hiệu quả đào tạo, gây lãng phí cho tổ chức, địa phương và
toàn xã hội.
Đội ngũ giáo viên của cơ sở dạy nghề
Đây là yếu tố quan trọng, có đóng góp không nhỏ vào chất lượng đào tạo
nghề. Giáo viên dạy nghề là những người truyền đạt trực tiếp kiến thức lý thuyết
cũng như kỹ năng thực hành cho người học. Thông qua giáo viên dạy nghề, học



18

viên không chỉ nắm vững chuyên môn nghề mà còn định hướng, tư vấn cho
người học nhận thức văn hóa nghề nghiệp, cách thức tổ chức… Cơ sở đào tạo có
đội ngũ giáo viên có trình độ kỹ năng tay nghề cao, nghiệp vụ sư phạm tốt, tâm
huyết với nghề thì lực lượng lao động đã qua đào tạo có chất lượng trình độ cao
và gắn bó với nghề. Và đây là lực lượng rất cần thiết trong xây dựng kinh tế. Vì
họ là nhân tố tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm tai nạn
lao động và tìm ra phương pháp sản xuất mới. Ngược lại, đội ngũ giáo viên chất
lượng không đảm bảo thì ảnh hưởng tới khả năng tiếp thu của người học, giảm
hiệu quả trong thực hành, không đáp ứng được yêu cầu công việc. Điều này làm
giảm chất lượng đào tạo nghề hay chất lượng nguồn lao động, gây lãng phí tài
nguyên, thời gian và của cải xã hội. Vì vậy, thực tế đòi hỏi ngày càng cao đối
với đội ngũ giáo viên dạy nghề. Họ không chỉ là một nhà sư phạm, nhà chuyên
môn giỏi mà còn phải là một nhà quản lý, một nhà nghiên cứu, một chuyên gia
tâm lý giỏi.
Đối với lực lượng LĐNT tham gia học nghề thì chất lượng đào tạo lại
càng phụ thuộc nhiều vào đội ngũ giáo viên. Bởi vì, đặc điểm của LĐNT nước
ta là chất lượng lao động còn thấp và ít được đào tạo. Khi tham gia học nghề thì
phương pháp kèm cặp tại chỗ, “cầm tay chỉ việc” mới phát huy hiệu quả. Điều
này làm cho vai trò của giáo viên dạy nghề càng được nâng cao. Vì thế, cần có
các chính sách, cơ chế và chế độ đãi ngộ cho đội ngũ giáo viên dạy nghề phù
hợp để thu hút nhân tài và để họ gắn bó với nghề.
Chương trình giảng dạy, học liệu phục vụ cho hoạt động đào tạo nghề
Có cơ sở vật chất đầy đủ và đội ngũ giáo viên có trình độ, cơ sở dạy nghề
phải xác định được sẽ đào tạo nghề gì, quá trình đào tạo như thế nào, thời gian
đào tạo bao lâu là phù hợp, lựa chọn hình thức đào tạo nào… Đó chính là các
vấn đề mà cơ sở cần xác định trong chương trình đào tạo của mình. Chương

trình đào tạo bao gồm giáo trình dạy nghề, thời gian đào tạo nghề, hình thức đào


19

tạo nghề. Trong đó, giáo trình dạy nghề có thể là sách giáo khoa, sách tham
khảo, chuyên khảo hay tài liệu thống nhất của cơ sở đào tạo. Căn cứ vào đó mà
giáo viên truyền dạy cho người học hệ thống lý thuyết, kỹ năng thực hành và
kinh nghiệm thực tiễn của giáo viên. Có như vậy, người học mới hình dung được
công việc phải làm, tiếp cận thực tiễn sản xuất nhanh chóng.
Dù là đối tượng nào thì cũng phải xác định thời gian và hình thức đào tạo
cho phù hợp, đặc biệt là lao động nông thôn. Với thời gian đào tạo ngắn sẽ cung
cấp cho người học đầy đủ các yêu cầu kỹ năng, kiến thức của một nghề nhưng ở
trình độ thấp. Và các khóa học này chỉ cung cấp một phần nội dung của nghề
nghiệp hoặc có tác dung bổ trợ cho nghề. Còn đào tạo dài hạn thường cung cấp
cho người học đầy đủ kiến thức và kỹ năng cơ bản để thực hiện một nghề. Sau
khi kết thúc khóa học, người học có đủ khả năng để khởi đầu nghề nghiệp của
mình. Mỗi hình thức đào tạo nghề: đào tạo tại nơi làm việc, mở các lớp cạnh nơi
làm việc hay đào tạo tại các trường chính quy đều có những ưu điểm, nhược
điểm riêng của mỗi hình thức. Vì vậy, cơ sở đào tạo hay cán bộ chuyên trách
phải lựa chọn được chương trình giảng dạy phù hợp với đối tượng học nghề để
chất lượng đào tạo nghề không ngừng được tăng lên.
Số lượng và chất lượng đầu vào của đối tượng tham gia học nghề
Được coi là cơ sở quyết định chất lượng đào tạo nghề. Tất cả các yếu tố
của quá trình đào tạo nghề đều phục vụ cho quá trình học nghề của người học.
Cơ sở đào tạo có lượng người học lớn, phù hợp với quy mô của cơ sở đào tạo thì
chất lượng đào tạo sẽ được nâng cao rõ rệt. Còn trường hợp lượng người học
quá ít hoặc quá lớn với quy mô của cơ sở, khả năng tiếp thu của người học hạn
chế thì quá trình đào tạo cũng không đạt được hiệu quả. Vì vậy, khi tổ chức lớp
đào tạo nghề cần đào tạo đúng đối tượng có nhu cầu và tổ chức lớp học khoa

học nhất thì chất lượng đào tạo nghề đạt được cao nhất.
1.1.4.2. Các yếu tố bên ngoài


20

Chính sách của Nhà nước về hoạt động đào tạo nghề
Nhà nước ta thống nhất quan điểm chỉ đạo cho rằng đào tạo nghề cho lao
động nông thôn là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã
hội. Nhà nước quản lý hoạt động đào tạo nghề trong hệ thống giáo dục quốc dân
thông qua các văn bản pháp luật như Nghị định, Nghị quyết, thông tư, quyết
định… liên quan đến đào tạo nghề. Ngay từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, khi mà tất cả sức người sức của tập trung cho tiền tuyến thì Nhà
nước vẫn khuyến khích học nghề. Chủ tịch nước ban hành sắc lệnh số 27/SL
ngày 12/03/1947 quy định bắt buộc các hãng kỹ nghệ, hầm mỏ… nếu dùng từ
30 người thợ thì phải dạy một số thợ học nghề bằng 1/10 số thợ chuyên nghiệp.
Vào thập kỷ 80, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng Chính phủ ban hành
Nghị quyết số 104/CP quy định những xí nghiệp có khoảng 2000 công nhân thợ
mỏ trở lên phải thành lập trường dạy nghề nên đào tạo nghề vẫn được duy trì
hiêu quả. Đến giai đoạn đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Nhà nước quá tập
trung vào phát triển kinh tế nên hoạt động đào tạo nghề giảm về quy mô và chất
lượng.
Cho đến nay, Nhà nước và toàn xã hội nhận thấy rõ vai trò của công tác
đào tạo nghề trong phát triển kinh tế, xây dựng đất nước và ngày càng quan tâm
đến hoạt động này đặc biệt là chất lượng lao động qua đào tạo nghề. Ngày
27/11/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 1956/QĐ-TTg phê
duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” để thấy rõ sự
quan tâm của Nhà nước với hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT. Theo đề án, mục
tiêu đề ra là bình quân hàng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông
thôn, trong đó đào tạo, bồi dưỡng 100.000 lượt cán bộ, công chức xã; và nâng

cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập của
lao động nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế,
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Trong


21

đó, giai đoạn 2011 – 2015 mục tiêu là đào tạo nghề cho 5.200.000 lao động nông
thôn, trong đó:
+ Khoảng 4.700.000 lao động nông thôn được học nghề (1.600.000 người
học nghề nông nghiệp; 3.100.000 người học nghề phi nông nghiệp), trong đó đặt
hàng dạy nghề khoảng 120.000 người thuộc diện hộ nghèo, người dân tộc thiểu
số, lao động nông thôn bị thu hồi đất canh tác có khó khăn về kinh tế. Tỷ lệ có
việc làm sau khi học nghề trong giai đoạn này tối thiểu đạt 70%;
+ Đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao kiến thức, năng lực quản lý hành
chính, quản lý kinh tế - xã hội theo chức danh, vị trí làm việc đáp ứng yêu cầu
của công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành và thực thi công vụ cho khoảng
500.000 lượt cán bộ, công chức xã [11].
Đối tượng của đề án chỉ ra rất rõ là đối tượng LĐNT trong độ tuổi lao
động, có trình độ học vấn và sức khỏe phù hợp với nghề cần học. Trong đó ưu
tiên dạy nghề cho các đối tượng là người thuộc diện được hưởng chính sách ưu
đãi người có công với cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng 150%
thu nhập của hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người bị thu hồi
đất canh tác [11].
Qua bước đầu triển khai thực hiện đề án tại tất cả các tỉnh, thành phố trên
cả nước, kết quả đào tạo nghề cho LĐNT thu được rõ rết, bộ mặt của ngành đào
tạo nghề đã có những phát triển mới, hệ thống cơ sở đào tạo nghề không ngừng
được mở rộng và chất lượng LĐNT qua đào tạo nghề ngày càng được nâng cao.
Nhận thức của người lao động
Thực tế nhiều năm qua, công tác đào tạo rơi vào cảnh “Thừa thầy thiếu

thợ”. Tâm lý chung của học sinh cũng như xã hội là phải thi và học Đại học.
Còn các trường nghề thiếu học viên, phần lớn học viên đều do hoàn cảnh khó
khăn, học lực thấp, tâm lý chưa thỏa mãn. Vì vậy, việc đào tạo nghề tại các
trường còn gặp nhiều khó khăn. Chính nhận thức này cũng tác động đến việc


22

phát triển hệ thống cơ sở đào tạo nghề, các cơ sở không thể trang bị thêm trang
thiết bị giảng dạy, trau dồi cho đội ngũ cán bộ giáo viên...
Tuy nhiên, sự phát triển mọi mặt của đất nước yêu cầu cần phải có lực
lượng lao động lành nghề nên nhận thức của người dân về đào tạo nghề đã có
nhưng chuyển biến tích cực. Số lượng học viên tham gia đào tạo nghề không
ngừng tăng và xã hội hóa hoạt động đào tạo nghề. Nhiều hình thức đào tạo nghề
được phát triển rộng rãi, không chỉ đào tạo chính quy tại các trường, các cơ sở
dạy nghề mà người dân có thể tham gia học nghề ngay tại địa phương mình và
được hỗ trợ trong quá trình học và sau học nghề. Đặc biệt là người LĐNT không
những được tham gia học nghề mà còn được hỗ trợ tìm kiếm việc làm hay bổ
sung nghề phụ tăng thu nhập. Chính vì vậy mà hoạt động đào tạo nghề đang
từng bước phát triển vượt bậc khi có sự quan tâm của Nhà nước và toàn xã hội
trong việc tuyên truyền, giáo dục nhận thức cho người dân để họ tham gia và
ủng hộ cho đào tạo nghề. Đây là việc làm cần thiết để phát huy hơn nữa đào tạo
nghề phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước, thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Nhu cầu của xã hội về lao động qua đào tạo nghề
Nhu cầu của xã hội về lao động qua đào tạo nghề là tổng thể những nhu
cầu của tất cả các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, các làng nghề, các
tổ chức hộ gia đình... về lao động có tay nghề nhất định về một ngành nghề nào
đó. Nhu cầu này chỉ được đáp ứng thông qua hoạt động đào tạo nghề. Sản xuất
phát triển thì thúc đẩy nhu cầu lao động ngày càng cao. Khi nhu cầu càng cao thì

các đào tạo nghề phải phát triển tương xứng để đáp ứng được nhu cầu xã hội đặt
ra. Khi đó, các cơ sở dạy nghề phải mở rộng quy mô, hình thức, đầu tư cơ sở vật
chất, bồi dưỡng cho cán bộ giáo viên... để đào tạo được số lượng lớn học viên
tham gia và đào tạo đúng ngành nghề mà xã hội đang có nhu cầu.
Tình hình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học – công nghệ


23

Khi kinh tế phát triển, xã hội ổn định thì Nhà nước, ban ngành, xã hội mới
quan tâm và đầu tư cho đào tạo nghề. Khi kinh tế đất nước phát triển thì ngân
sách Nhà nước đầu tư cho hoạt động này càng được gia tăng vì đào tạo nghề là
một lĩnh vực trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mặt khác, điều này cũng đòi hỏi
lao động có trình độ lành nghề cao để đáp ứng yêu cầu sản xuất, các tổ chức
tham gia đào tạo bồi dưỡng lao động. Một xã hội ổn định cũng giúp cho hoạt
động đào tạo nghề được quan tâm hơn. Đào tạo nghề được mở rộng quy mô và
nâng cao chất lượng khi nền kinh tế phát triển, xã hội ổn định và ngược lại.
Cách mạng khoa học kỹ thuật tạo ra bước ngoặt lớn trong lịch sử loài
người, nó làm thay đổi phương thức sản xuất và tư liệu sản xuất. Đồng thời, nó
đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với năng lực và phẩm chất của lực lượng lao
động. Qua đó, đòi hỏi quá trình đào tạo nghề phải diễn ra liên tục và không
ngừng bổ sung tiến bộ khoa học kỹ thuật mới. Vì vậy càng thấy rõ, tác động
nhiều mặt của khoa học – công nghệ đến hoạt động đào tạo nghề.
1.2. Thực tiễn hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn
1.2.1. Trên thế giới
1.2.1.1. Kinh nghiệm đào tạo nghề cho lao động nông thôn của Hàn Quốc
Phát triển nguồn nhân lực nông thôn là một trong những yếu tố quan trọng
đầu tiên của toàn bộ chính sách phát triển nguồn nhân lực nông thôn, nó tạo ra
nền tảng và căn cứ để phát triển nguồn nhân lực theo một định hướng nhất quán,
dài hạn và đồng bộ. Chính phủ Hàn Quốc tiến hành song song việc tăng đầu tư

ngân sách vào đào tạo người dân nông thôn với mục tiêu cao nhất là làm thay
đổi suy nghĩ thụ động, trông chờ ỷ lại của người dân vào Nhà nước đã ngự trị
trong phần lớn nông dân nước này qua nhiều thế kỷ. Mục tiêu của chính sách
đào tạo nông dân là giúp họ có niềm tin mãnh liệt vào chính mình trước những
khó khăn về vật chất và tinh thần để họ trở nên tích cực, năng động, sáng tạo đối
với sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn trên đất nước Hàn Quốc.


24

Tại Hàn Quốc, việc chuyển giao kiến thức, đào tạo nghề, kỹ năng chuyên
môn cho người lao động nông thôn để tạo ra năng lực làm việc có năng suất lao
động cao là công việc chung của cả Nhà nước, các doanh nghiệp và tổ chức kinh
tế trong xã hội. Chính phủ phải là nhà đầu tư lớn nhất và toàn diện nhất vào xây
dựng các cơ sở đào tạo nghề, nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng cho người lao động.
Các doanh nghiệp và cơ sở kinh tế có trách nhiệm trong việc đưa ra nhu cầu, kế
hoạch về sử dụng lao động và tham gia cùng Chính phủ dưới nhiều hình thức
khác nhau trong triển khai các chương trình đạo tạo nghề cho người lao động mà
mình đang sử dụng hoặc sẽ sử dụng.
Hàn Quốc đã triển khai chính sách tín dụng hỗ trợ cho lực lượng lao động
nông nghiệp trẻ để họ học nghề mới, đặc biệt là lao động mới bước vào nghề.
Chương trình này được triển khai sâu rộng ở các khu vực nông thôn, là cầu nối
giữa các chuyên gia và các nhà nông có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực nông
nghiệp, sau đó bổ nhiệm những người này vào các vị trí tư vấn và giám hộ cho
các đối tượng lao động trẻ còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong các hoạt động liên
quan tới nông nghiệp. Nhà nước Hàn Quốc đứng ra chi trả các khoản chi phí về
tư vấn, đào tạo và giám hộ cho những người thực hiện hoạt động này.
Qua các năm thực hiện đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại Hàn
Quốc, nước ta thể đúc rút được nhiều kinh nghiệm quý báu như sau:
Thứ nhất, phát triển nguồn nhân lực nông thôn phải được đặt trong tổng

thể chính sách phát triển nguồn nhân lực cho yêu cầu công nghiệp hóa và hiện
đại hóa nền kinh tế. Phát triển nguồn nhân lực nông thôn không thể tách rời phát
triển nguồn nhân lực chung của nền kinh tế, nói cách khác, việc phát triển nguồn
nhân lực cho khu vực nông thôn phải gắn kết với việc phát triển nhân lực cho
toàn nền kinh tế. Do đó, phát triển nguồn nhân lực nông thôn phải được định
hướng theo sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu toàn nền kinh tế, chứ không thể


25

chỉ riêng cho khu vực nông thôn, bởi vì kinh tế nông thôn không thể tách rời
kinh tế chung của quốc gia và phải hướng theo sự phát triển chung đó.
Thứ hai, chính sách phát triển nguồn nhân lực nông thôn có những đặc thù
riêng so với chính sách phát triển nguồn nhân lực chung. Trong khi chính sách
chung phải xem xét các mục tiêu phát triển nhân lực cho sự phát triển của các
ngành kinh tế trong dài hạn, trung hạn và ngắn hạn thì chính sách phát triển
nguồn nhân lực nông thôn còn phải xem xét mục tiêu chuyển dịch một bộ phận
nhân lực từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp và chuyển dịch trong
nội bộ khu vực nông thôn. Phát triển nguồn nhân lực nông thôn phải tính đến
quy hoạch phát triển nông thôn dài hạn, gắn với công nghiệp hóa nền kinh tế.
Điểm đặc thù quan trọng nhất của chính sách phát triển nguồn nhân lực nông
thôn là khu vực sản xuất nông nghiệp phải được xem xét cẩn trọng trong các
mối quan hệ với tăng trưởng, an ninh lương thực và việc làm của người lao động
để hoạch định chính sách về nhân lực cho phù hợp với khu vực này trong các
giai đoạn của toàn bộ quá trình công nghiệp hóa.
Thứ ba, chính sách chi tiêu cho phát triển nguồn nhân lực nói chung và
nguồn nhân lực nông thôn nói riêng phải được coi là một bộ phận quan trọng
của chính sách đầu tư công. Nghiên cứu kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy rất
rõ vai trò của vốn đầu tư nhà nước vào nhiều mặt khác nhau của chương trình
phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực nông thôn nói riêng. Sự

thành công trong phát triển nguồn nhân lực nông thôn phụ thuộc rất lớn vào
quan điểm và mức độ chi tiêu của Nhà nước vào giáo dục, văn hóa và đào tạo
nghề cho người lao động chuẩn bị bước vào nghề và những lao động đang làm
việc. Không có nước nào mà Chính phủ lại coi nhẹ chi tiêu ngân sách vào các
hoạt động giáo dục và đào tạo người lao động để có nguồn nhân lực chất lượng
cao. Cùng với phân bổ ngân sách thỏa đáng vào giáo dục văn hóa và đào tạo
nghề cho người động xã hội nói chung và nông thôn nói riêng. Chính phủ đóng


×