Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Quyền tự định đoạt của đương sự và thực tiễn áp dụng tại các tòa án nhân dân ở tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.14 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI MẠNH CƯỜNG

QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH SƠN LA
Chuyên ngành
Mã số

: Luật Dân sự và TTDS
: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

(Định hướng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHAN HỮU THƯ

HÀ NỘI - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung luận văn nghiên cứu là của chính tác giả
thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Phan Hữu Thư.
Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn đúng theo quy định và chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.


Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Mạnh Cường


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

TTDS

: Tố tụng dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

VADS

: Vụ án dân sự

VDS


: Việc dân sự

VKS

: Viện kiểm sát


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ .............................................. 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự .................................................................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự ....................................... 9
1.1.2. Đặc điểm quyền tự định đoạt của đương sự ....................................... 15
1.1.3. Ý nghĩa quyền tự định đoạt của đương sự.......................................... 17
1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về quyền tự định đoạt của đương sự
trong pháp luật tố tụng dân sự........................................................................ 20
1.2.1. Các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết
vụ án dân sự ....................................................................................................... 20
1.2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về quyền tự định đoạt của đương
sự trong giải quyết việc dân sự ........................................................................ 30
Chương 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH
ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TẠI CÁC TÒA ÁN Ở TỈNH SƠN LA VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ .........................................................................................................34
2.1. Tình hình thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
về quyền tự định đoạt của đương sự tại các Tòa án ở tỉnh Sơn La........... 34

2.1.1. Những kết quả đạt được.......................................................................... 34
2.1.2. Những hạn chế còn tồn tại ..................................................................... 38
2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế ......................................................... 43


2.2. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo quyền tự định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự ........................................................................ 50
2.2.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật để đảm bảo quyền tự
định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự .............................................. 50
2.2.2. Giải pháp về thực hiện quy định của pháp luật đảm bảo quyền tự
định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự .............................................. 55
KẾT LUẬN .................................................................................................................58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................61


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển đa dạng và phức tạp. Sự đa
dạng và phức tạp đó một mặt là yếu tố tích cực thúc đẩy các giao lưu dân sự,
mặt khác cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì những tranh
chấp dân sự, các yêu cầu của công dân trong việc bảo vệ những quyền và lợi
ích hợp pháp của họ cũng ngày càng có chiều hướng gia tăng về số lượng và
độ phức tạp về nội dung tranh chấp. Vấn đề đặt ra là, việc giải quyết các tranh
chấp đó như thế nào để vừa bảo vệ được những quyền và lợi ích chính đáng
của công dân, vừa bảo vệ tính đúng đắn và nghiêm minh của pháp luật. Ngoài
ra, trong quá trình giải quyết tranh chấp, thì các quy định của pháp luật liên
quan đến quyền tự định đoạt của đương sự phải được bảo đảm ra sao, để Tòa
án giải quyết tốt các tranh chấp, góp phần vào việc ổn định trật tự xã hội.

Quyền tự định đoạt của đương sự đã được quy định trong các văn bản
pháp luật của Nhà nước ta từ rất sớm và ngày càng được hoàn thiện hơn. Sự
ra đời của BLTTDS 2015 (có hiệu lực toàn phần từ ngày 01/01/2017) đã đánh
dấu một bước phát triển của pháp luật TTDS nói chung và pháp luật TTDS về
quyền tự định đoạt của đương sự nói riêng. Tuy nhiên, để đương sự có đầy đủ
khả năng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa án thì
các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự phải được xây dựng hoàn
thiện trên cơ sở bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Dễ dàng nhận thấy, sau khi ban hành và được áp dụng trong thực tiễn,
những quy định của BLTTDS 2015 về quyền tự định đoạt của đương sự còn bộc
lộ nhiều vướng mắc và bất cập. Điều đó thể hiện rõ ở việc, có nhiều quy định về
quyền tự định đoạt của đương sự chưa rõ ràng, đầy đủ và còn gây ra nhiều cách
hiểu khác nhau; một số quy định được xây dựng chưa phù hợp với các học
thuyết, nguyên lý của TTDS hoặc chưa được xây dựng dưới góc độ tiếp cận
quyền con người, quyền công dân; một số quy định chưa bảo đảm sự tương thích
với pháp luật nội dung hay có những quy định còn thiếu khoa học, thiếu logic


2

chưa đáp ứng yêu cầu về kĩ thuật lập pháp. Bên cạnh đó, mặc dù, BLTTDS năm
2015 có nhiều quy định mới liên quan đến quyền tự định đoạt của đương sự
nhưng lại chưa có văn bản hướng dẫn thi hành các quy định này dẫn đến việc áp
dụng thiết thống nhất. Sự thiếu sót từ bản thân các quy định của pháp luật TTDS
về quyền tự định đoạt của đương sự đã gây ra khó khăn cho cơ quan tiến hành tố
tụng khi áp dụng vào thực tiễn. Điều này đã trực tiếp xâm phạm đến quyền lợi
của đương sự khi họ tham gia giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu để làm rõ các vấn đề lý luận, các
vấn đề pháp lý về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS, bảo đảm
việc hiểu và áp dụng thống nhất các quy định pháp luật vào thực tiễn là một

yêu cầu bức thiết. Hơn nữa, thực tiễn áp dụng quyền này tại các Toà án nhân
dân tỉnh Sơn La cũng còn nhiều bất cập, vì vậy, học viên lựa chọn nghiên cứu
đề tài “Quyền tự định đoạt của đương sự và thực tiễn áp dụng tại các Tòa
án nhân dân ở tỉnh Sơn La”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền tự định đoạt của đương sự là một nội dung quan trọng của pháp
luật TTDS Việt Nam. Có nhiều công trình khoa học có liên quan đến vấn đề
này đã được nghiên cứu dưới nhiều hình thức khác nhau. Có thể kể đến những
công trình sau:
Cuốn sách chuyên khảo “Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người,
quyền công dân trong giải quyết VADS tại Tòa án Nhân dân” năm 2017 của
tác giả Nguyễn Thị Thu Hà là công trình mới nhất có liên quan đến đề tài của
tác giả. Công trình đã nghiên cứu công phu và có hệ thống về cả lý luận và
thực tiễn trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong TTDS.
Tuy nhiên, đối tượng mà công trình này tập trung nghiên cứu là các biện
pháp, cách thức để bảo đảm quyền con người, quyền công dân của đương sự
trong TTDS, chứ không đi sâu nghiên cứu về các quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS.
Đề tài khoa học cấp trường “Cơ chế bảo đảm quyền con người, quyền


3

cơ bản của công dân trong tố tụng dân sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp
và thi hành Hiến pháp năm 2013” năm 2017 do tác giả Nguyễn Thị Thu Hà
làm chủ biên, và đề tài “Cơ chế bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự đáp ứng tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam” năm
2015 do tác giả Nguyễn Triều Dương làm chủ biên đã nghiên cứu và đề cập
đến các biện pháp, cách thức để bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự
hoặc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong TTDS.

Luận văn thạc sĩ luật học “Quyền tố tụng của đương sự và thực tiễn
thực hiện” năm 2013 của tác giả Đỗ Thị Hà đã làm rõ được những vấn đề lý
luận và thực tiễn về quyền tố tụng của đương sự. Tuy nhiên, đối tượng nghiên
cứu của luận văn này là quyền tố tụng của các đương sự nói chung chứ không
nghiên cứu riêng về quyền tự định đoạt của đương sự.
Các luận văn thạc sĩ khác như: “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự” năm 2011 của tác giả Nguyễn Văn Tuyết;
“Quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ án kinh doanh, thương mại” năm
2013 của tác giả Nguyễn Thị Thu Minh; “Đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa
vụ chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam” năm 2013 của
tác giả Nguyễn Thanh Nga; “Quyền yêu cầu, thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu
của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam” năm 2015 của tác giả Nguyễn
Thị Minh Trang. Tất cả những luận văn này đều có một đối tượng nghiên cứu
rõ ràng và ít nhiều đều có giá trị đóng góp cho sự phát triển của khoa học
pháp lý TTDS ở Việt Nam. Tuy nhiên, các luận văn này chỉ có liên quan một
phần đến đề tài của tác giả. Chưa có luận văn nào nghiên cứu độc lập và có hệ
thống về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam hiện hành
và thực tiễn thực hiện quyền này tại các tòa án nhân dân.
Các bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí pháp luật có nghiên
cứu những vấn đề riêng lẻ có liên quan đến quyền tự định đoạt của đương sự
như: bài viết “Việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự tại phiên
tòa sơ thẩm dân sự” của tác giả Bùi Thị Huyền đăng trên tạp chí Luật học số


4

9/2007; “Giải quyết trường hợp thay đổi địa vị tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm”
của tác giả Lê Thu Hà đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 9/2007;
“Việc thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân
sự” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà đăng trên tạp chí Tòa án Nhân dân số

8/2010; “Nguyên tắc “quyền tự định đoạt và quyết định của đương sự” trong
tố tụng dân sự, tố tụng hành chính” của tác giải Nguyễn Quang Hiền đăng
trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 17/2013; “Giải quyết việc đương sự rút
yêu cầu khởi kiện trong VADS nhiều đương sự có cùng yêu cầu” của tác giả
Nguyễn Thị Hạnh – Nguyễn Thị Hương đăng trên tạp chí Tòa án Nhân dân số
20/2013; “Về trường hợp VADS có nhiều đương sự mà có một đương sự rút
yêu cầu khởi kiện” của tác giả Nguyễn Thị Hương đăng trên tạp chí Kiểm sát
số 18/2013…Các bài viết này đề cập đến những vấn đề khác nhau có liên
quan đến quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS. Tuy nhiên, hầu hết
các bài viết chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá các quy định của BLTTDS
2004 hoặc BLTTDS sửa đổi 2011 có liên quan đến quyền của đương sự.
Nhiều vấn đề có tính lý luận và thực tiễn liên quan đến quyền tự định đoạt của
đương sự chưa được đề cập hoặc đã được đề cập nhưng chưa được lý giải một
cách thỏa đáng và cần được tiếp tục nghiên cứu sâu sắc, toàn diện hơn trong
giai đoạn hiện nay.
Như vậy, qua các công trình đã công bố ở trên, có thể nhận thấy, chưa
có một công trình nào nghiên cứu trực tiếp và cụ thể về quyền tự định đoạt
của đương sự trong TTDS Việt Nam có liên hệ đến thực tiễn áp dụng tại các
TAND tỉnh Sơn La. Vì vậy, có thể nói, luận văn là công trình khoa học đầu
tiên nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về quyền tự định đoạt của đương
sự trong TTDS Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS; thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật TTDS


5

Việt Nam về quyền tự định đoạt của đương sự trong vài năm gần đây tại tòa án

nhân dân tỉnh Sơn La.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ đề tài luận văn thạc sỹ ứng dụng, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu về nội dung quyền tự định đoạt của đương sự được ghi nhận trong
BLTTDS mới nhất hiện nay để đánh giá sự phát triển của pháp luật TTDS
Việt Nam. Đồng thời đi sâu vào khảo sát, phân tích và giải quyết những vấn
đề đặt ra từ thực tiễn áp dụng quyền tự định đoạt của đương sự tại các Tòa án
nhân dân ở tỉnh Sơn La.
Luận văn tập trung làm rõ các quy định của BLTTDS năm 2015 và các
văn bản pháp luật có liên quan về quyền tự định đoạt của đương sự. Từ đó,
luận văn nghiên cứu những điểm tích cực và hạn chế của pháp luật TTDS
hiện hành về quyền tự định đoạt của đương sự.
Luận văn chỉ nghiên cứu quyền này trong việc giải quyết các VADS
theo thủ tục tố tụng thông thường, không nghiên cứu quyền này trong giải
quyết VADS theo thủ tục TTDS rút gọn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận,
thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt
của đương sự tại toà án nhân dân tỉnh Sơn La. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và bảo đảm áp
dụng thống nhất pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS.
Để đạt được mục đích này, luận văn đề ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể
sau:
Thứ nhất, làm rõ bản chất của quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS, xây dựng được khái niệm, chỉ ra được những đặc điểm và khái quát
được vai trò về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS.
Thứ hai, làm rõ được nội dung một số quyền tự định đoạt của đương sự
trong TTDS.



6

Thứ ba, khảo sát thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật TTDS
Việt Nam về quyền tự định đoạt của đương sự tại các tòa án.
Thứ tư, phát hiện những vướng mắc, bất cập trong các quy định của
pháp luật TTDS Việt Nam về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS
và đưa ra kiến nghị cụ thể để giải quyết những vấn đề còn bất cập, vướng
mắc.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận: việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Để đạt được mục đích nghiên cứu
đã đặt ra, luận văn đã sử dụng những nhiều phương pháp nghiên cứu khoa
học. Cụ thể, phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu về sự hình
thành và phát triển của khái niệm quyền; phương pháp phân tích và bình luận
được sử dụng để đem lại góc nhìn đa chiều và làm rõ các quy định về quyền
tự định đoạt của đương sự trong pháp luật TTDS hiện hành; phương pháp so
sánh được sử dụng để chỉ ra những điểm khác biệt của pháp luật TTDS Việt
Nam và pháp luật TTDS một số nước về quyền của đương sự; làm rõ những
điểm tiến bộ và hạn chế của quy định pháp luật hiện hành về quyền tự định
đoạt của đương sự trong TTDS; phương pháp nghiên cứu học thuyết pháp lý
(một phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống) được sử dụng để nghiên
cứu chuyên sâu về nội dung các quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS, từ đó dùng làm cơ sở vững chắc trong việc kiến nghị hoàn thiện pháp
luật; phương pháp diễn dịch, quy nạp và tổng hợp được tác giả sử dụng để
khái quát các ý chính trong từng vấn đề cụ thể, giúp cho các ý tưởng trong
luận văn được sáng rõ.
6. Những đóng góp của việc nghiên cứu đề tài
Kết quả nghiên cứu đề tài “ Quyền tự định đoạt của đương sự và thực
tiễn áp dụng tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La” có thể đem lại những

điểm mới sau:


7

- Luận văn là công trình đầu tiên trình bày được khái niệm, đặc điểm và
vai trò về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS. Ngoài ra, điểm mới
của việc nghiên cứu đề tài còn thể hiện ở chỗ, không chỉ dừng lại ở những
quy định của pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự mà thông qua đó
còn thấy được quyền tự định đoạt của đương sự có liên quan chặt chẽ đến việc
bảo đảm cho đương sự thực hiện đầy đủ các quyền của họ trong việc giải
quyết VADS tại Tòa án và thấy được hậu quả pháp lý của việc vi phạm
quyền tự định đoạt của đương sự… Luận văn cũng làm rõ được giá trị và sức
ảnh hưởng của các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS
với vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Luận văn đã tổng hợp, khái quát và tự rút ra được một số vấn đề lý luận
có giá trị về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS. Những nội dung
này có thể được sử dụng như một cơ sở lý thuyết tham khảo giúp các tác giả
tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định về quyền tự định đoạt của
đương sự nói riêng và quyền của các đương sự nói chung trong TTDS.
Luận văn đã phân tích, đánh giá một cách tương đối toàn diện và sâu
sắc các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về quyền tự định đoạt của
đương sự và thực tiễn áp dụng pháp luật trong những năm gần đây tại tòa án
tỉnh Sơn La. Từ những nghiên cứu này, luận văn đã làm sáng rõ những hạn
chế, bất cập của các quy định pháp luật hiện hành về quyền tự định đoạt của
đương sự, và những vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định về
quyền tự định đoạt của đương sự trong thực tiễn xét xử. Đồng thời, luận văn
đưa ra những luận giải cụ thể về nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập
đó.
Luận văn đã có những kiến nghị sửa đổi, bổ sung cụ thể đối với một số

quyền tự định đoạt của đương sự được quy định trong BLTTDS 2015. Những
kiến nghị này không chỉ có giá trị để hoàn thiện các quy định về quyền tự
định đoạt của đương sự mà còn có thể dùng như tài liệu tham khảo để nghiên
cứu hoàn thiện các quy định về quyền của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa


8

vụ liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
nội dung cụ thể của luận văn được kết cấu thành 2 chương như sau :
Chương 1: Những vấn đề chung về quyền tự định đoạt của đương sự
trong luật tố tụng dân sự.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền tự định đoạt của
đương sự tại các tòa án ở tỉnh Sơn La và một số kiến nghị.


9

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự
Để đưa ra được khái niệm “quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS” cần phải hiểu được khái niệm về quyền.
Quyền luôn là một phạm trù trừu tượng và được tiếp cận dưới nhiều
giác độ khác nhau. Học thuyết pháp luật tự nhiên cho rằng, khi con người sinh

ra đã được hưởng thụ các quyền mà luật tự nhiên ban cho, các quyền này đã
chi phối và hướng dẫn hành vi con người đi đến sự công bằng và đúng đắn.
Luật của tự nhiên đã có trước khi loài người xuất hiện, nó tồn tại vĩnh hằng,
độc lập, bất biến và khách quan1 (cả ở Phương Đông và Phương Tây đều cùng
quan điểm này2). Khi xã hội văn minh ra đời, để bảo vệ được quyền tự nhiên
đó, Nhà nước phải tìm tòi, khám phá luật của tự nhiên để xây dựng thành hệ
thống pháp luật (luật của tự nhiên, chi phối luật của con người).
Trái ngược với quan điểm trên, học thuyết pháp luật thực chứng cho
rằng, quyền là khả năng nhà nước trao cho chủ thể thông qua pháp luật. Thực
chứng có nghĩa rằng trước hết luật phải tồn tại một cách rành rọt, cụ thể, minh
chứng được3. Theo học thuyết pháp luật thực chứng, quyền không phải là
những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các Nhà nước xác

1

Đỗ Minh Đức (2014), “Tìm hiểu học thuyết pháp luật tự nhiên”, Nghiên cứu lập pháp, (06), tr.15.
Nhà bác học Aristotle – cha đẻ của học tuyết pháp luật tự nhiên Phương Tây cho rằng: pháp luật phải là “sự
suy diễn từ sự hài hòa của trật tự tự nhiên”. Ở Phương Đông, Lão Tử cho rằng, luật là cái có sẵn trong tự nhiên,
luân lý tự nhiên đó không gì phá hủy được, con người nếu soạn luật cần tuân thủ công lý đó. Hay trong triết lý
của Đạo Phật thuyết về luân hồi, nhân quả đều được diễn giải như quy luật vĩnh hằng tồn tại trong vũ trụ.
(Xem: Nguyễn Đăng Dung – Đặng Minh Tuấn (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.63 và Phạm Duy Nghĩa (2011), Giáo trình pháp luật đại cương, Nxb Công an Nhân
dân, tr.12).
3
Phạm Duy Nghĩa (2014), Phương pháp nghiên cứu luật học, Nxb. Công an Nhân dân, tr.62.
2


10


định, thừa nhận và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật 4. Và vì thế,
học thuyết này cho rằng “không có một pháp luật lý tưởng nào duy nhất 5”. Ở
đây, trong khi các quyền tự nhiên có tính đồng nhất trong mọi hoàn cảnh, mọi
thời điểm, thì các quyền pháp lý mang tính chất khác biệt tương đối về mặt
văn hóa, chính trị6.
Như vậy, dù tiếp cận theo học thuyết pháp luật tự nhiên hay pháp luật
thực chứng, phạm trù “quyền” đều có mối liên hệ gần gũi với nhà nước và
pháp luật.
Từ những cách tiếp cận ở trên có thể khái quát lại: Quyền là khả năng
mà pháp luật cho phép chủ thể được hưởng, được thực hiện những hành vi
gắn với những điều kiện nhất định7.
“ Quyền tự định đoạt của đương sự” là một trong những nguyên tắc cơ
bản của BLTTDS. Vì vậy, nó được hiểu là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo,
định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS và được ghi nhận
trong các văn bản TTDS.
Điều đó có nghĩa, “quyền tự định đoạt” của đương sự trong TTDS là
những nguyên lý, tư tưởng chủ đạo quán triệt và xuyên suốt toàn bộ hệ thống
các quy định của pháp luật TTDS cũng như trong việc thực hiện và áp dụng
các quy định đó trên thực tế, đồng thời là nguyên tắc chi phối toàn bộ hoạt
động của đương sự khi tham gia tố tụng.
Khi có chủ thể yêu cầu bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong
trường hợp có vi phạm hoặc có tranh chấp hoặc họ cho rằng là có vi phạm hoặc
đang tranh chấp thì Tòa án phải xem xét thụ lý giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của họ.
4

Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng (chủ biên) (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về
quyền con người, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tlđd chú thích 2, tr.39.
5
Vũ Văn Mẫu, tlđd chú thích 1, tr. 86.

6
Đào Trí Úc (2015), Án lệ: Lịch sử, hiện tại và triển vọng phát triển ở Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp, (10),
tr.16.
7
Lê Văn Long (2003), Quan hệ pháp luật – Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 42.


11

Quyền tự định đoạt của đương sự luôn gắn liền với quyền tự định đoạt
của các chủ thể trong quan hệ pháp luật nội dung. Do đó cơ sở để pháp luật
TTDS quy định đương sự trong TTDS được thực hiện quyền tự định đoạt của
mình chính là các quyền lợi đã được pháp luật nội dung (pháp luật dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại…) ghi nhận và bảo vệ.
Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền năng đặc thù của các đương
sự, có nguồn gốc từ quyền tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận của các chủ
thể trong các quan hệ dân sự. Trong các quan hệ dân sự thì chính các chủ thể
là người, có quyền, lợi ích cho nên họ được tùy ý lựa chọn cách thức ứng xử
của mình, có thể tự mình làm hoặc giao cho người khác thực hiện, có quyền
yêu cầu người có nghĩa vụ thanh toán mọi chi phí, bồi thường thiệt hại. Vì
vậy, khi có tranh chấp thì các đương sự trong TTDS có thể tự mình giải quyết
việc tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi của mình, tự thương lượng với chủ
thể có tranh chấp hoặc ủy quyền cho quyền khác thực hiện, nếu không có
năng lực hành vi tố tụng thì việc định đoạt sẽ được thực hiện thông qua người
đại diện hợp pháp được pháp luật quy định.
Quyền tự định đoạt của đương sự chỉ được thực hiện trong khuôn khổ
pháp luật nội dung cho phép. Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS
luôn phải gắn với các quyền, lợi ích được pháp luật nội dung ghi nhận và bảo
hộ. Trong TTDS thì các đương sự chỉ có thể định đoạt trong phạm vi những

quyền lợi ích hợp pháp đã được pháp luật nội dung ghi nhận và không thể định
đoạt những quyền lợi mà mình không có. Với việc phân tích các quy phạm
pháp luật của luật nội dung cho thấy quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS luôn gắn liền với quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp
luật nội dung và chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở các quy định của pháp
luật nội dung. Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS có mối quan hệ
chặt chẽ với năng lực pháp luật dân sự và việc thực hiện quyền tự định đoạt này
còn phụ thuộc vào năng lực hành vi TTDS của chủ thể có quyền lợi ích.


12

Cùng với sự phát triển của các quan hệ dân sự, những mâu thuẫn giữa
các chủ thể quan hệ cũng phát sinh ngày một nhiều. Một trong những phương
thức giải quyết tranh chấp khi các bên đương sự không tự thỏa thuận được với
nhau là khởi kiện ra Tòa án giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình khi bị xâm phạm. Đây cũng chính là yêu cầu bắt nguồn từ
đời sống thực tiễn đòi hỏi pháp luật phải có những quy định cụ thể về trình tự,
thủ tục giải quyết tranh chấp tại Tòa án để các đương sự thực hiện trong đó
yêu cầu về bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự là quan trọng nhất.
Pháp luật dân sự đã có những quy định tương đối cụ thể về quyền tự
định đoạt của đương sự đó là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của
mình trong trường hợp có tranh chấp. Đây chính là cơ sở thực tiễn để quy
định quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS. Tuy nhiên, việc đảm bảo
thực hiện quyền này trên thực tiễn có được thực hiện triệt để hay không còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau đặc biệt là Tòa án – cơ quan giải quyết
tranh chấp có tạo điều kiện để cho các đương sự thực hiện tốt các quyền mà
pháp luật đã quy định hay không.
Đương sự trong TTDS là các chủ thể có quyền, lợi ích trong vụ việc
dân sự cần giải quyết nên đương sự hoàn toàn có quyền tự do quyết định việc

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án. Khi có quyền, lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm việc khởi kiện hay không khởi kiện là do đương sự tự
quyết định. Sau khi khởi kiện việc có thay đổi nội dung khởi kiện hay không,
có thỏa thuận giải quyết việc kiện hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí
của các đương sự. Điều này đã thể hiện đương sự hoàn toàn có quyền chủ
động trong việc giải quyết các mâu thuẫn, các tranh chấp hoặc các vấn đề có
liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ. TAND là cơ quan xét xử của
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ thụ lí để giải quyết vụ việc
dân sự khi đương sự có đơn yêu cầu nhằm đảm bảo cho đương sự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật.


13

Điều 5 BLTTDS năm 2015 cũng đã thể hiện được những nội dung cơ
bản của quyền tự định đoạt của đương sự. Theo đó:
“1. Đương sự có quyền quyết định khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự
khi có yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền
chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ việc dân sự một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo
đức xã hội.”
Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền tự quyết định về phương
diện tố tụng trước Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự và quyền tự định đoạt này được thực hiện trong suốt quá trình Tòa án giải
quyết vụ việc nên nó có mối liên hệ trực tiếp đến hoạt động của Tòa án và ít
nhiều sẽ bị ảnh hưởng, chi phối bởi những quyết định của Tòa án. Tòa án
nhân danh quyền lực nhà nước để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể

và có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. Tuy nhiên, việc
định đoạt của đương sự phải được tiến hành trong khuôn khổ mà pháp luật
cho phép, sao cho không xâm hại đến tới các quyền tố tụng và quyền lợi hợp
pháp của các chủ thế khác hoặc lợi ích của xã hội. Có thể thấy rằng quyền tự
định đoạt của đương sự là quyền năng đặc thù của các đương sự, có nguồn
gốc từ quyền tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận trong các quan hệ dân sự. Ở
nước ta, quyền tự định đoạt của đương sự được coi là một nguyên tắc cơ bản
trong TTDS, là nền tảng để xây dựng các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục
giải quyết vụ việc dân sự.
Quyền tự định đoạt của các bên khi tham gia các quan hệ dân sự, kinh
doanh, thương mại luôn được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Quyền tự định
đoạt trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này cũng
được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Như vậy, quyền tự


14

định đoạt của đương sự được hình thành và bắt nguồn từ bản chất của các
quan hệ pháp luật nội dung có cùng bản chất bao gồm các quan hệ về dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Tuy nhiên, trong
khuôn khổ của luận văn này tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu về mối liên hệ giữa
quan hệ dân sự và quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ án kinh doanh,
thương mại.
Trong quan hệ dân sự quyền “tự định đoạt” của chủ thể được sử dụng
rộng rãi và sâu sắc, thuộc tính “tự định đoạt” của chủ thể được thể hiện thông
qua các hành vi quyết định về quyền lợi của mình trong các quan hệ được
thiết lập trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, tự nguyện cam kết, thỏa thuận.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là quyền của đương sự trong
việc tự quyết định việc tham gia tố tụng và thực hiện các quyền tố tụng để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án trong suốt quá trình tố

tụng, các đương sự cũng có thể ủy quyền cho người khác thực hiện một số
hoặc toàn bộ quyền và nghĩa vụ của mình những quyền quyết định cuối cùng
vẫn thuộc về các đương sự. Tuy nhiên các đương sự chỉ có quyền định đoạt
những vấn đề thuộc phạm vi các quyền, lợi ích đã được pháp luật TTDS ghi
nhận và bảo vệ.
Có thể thấy rằng, quyền tự định đoạt của đương sự là quyền tố tụng của
đương sự trong việc tự quyết định về quyền, lợi ích hợp pháp của họ và lựa
chọn các biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích đó bằng những
hành vi cụ thể dựa trên cơ sở ý chí tự nguyện của chính đương sự. Đương sự
có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết
vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi
kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ
lí giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự
và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó; trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu


15

cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện không trái pháp
luật và đạo đức xã hội.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về quyền tự định đoạt
của đương sự như sau: Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là
quyền tố tụng được quy định trong pháp luật TTDS, theo đó đương sự thể
hiện tự do ý chí của mình bằng việc tự mình lựa chọn quyết định các hành vi
tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự.
1.1.2. Đặc điểm quyền tự định đoạt của đương sự
Quyền tự định đoạt của đương sự bắt nguồn từ quyền tự quyết của các
bên đối với các vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong

quan hệ dân sự. Vì vậy nó có đặc điểm sau:
- Về chủ thể: Trong tranh chấp dân sự chủ thể của những tranh chấp này
có thể là bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào tham gia vào các quan hệ dân sự
trong đời sống xã hội hàng ngày, khi các quan hệ đó không được thống nhất giải
quyết theo thỏa thuận hoặc bất đồng trong việc giải quyết hậu quả của một quan
hệ dân sự dẫn đến tranh chấp không giải quyết được và một trong hai bên yêu
cầu Tòa án giải quyết.
- Về mục đích: tham gia các quan hệ dân sự của các chủ thể là tiêu
dùng.
- Về quan hệ tranh chấp giữa các bên tham gia: là quan hệ dân sự, đó
là sự không thống nhất việc thực hiện hay không thực hiện quyền hoặc nghĩa
vụ của một trong hai bên khi tham gia các quan hệ dân sự trong cuộc sống
(mỗi bên có thể là một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức), trong đó một
bên yêu cầu Tòa án buộc bên kia phải thực hiện một số nghĩa vụ phát sinh từ
các quan hệ dân sự.
Do quan hệ dân sự là quan hệ tư nên khi các bên tham gia giao lưu dân
sự thì đều bình đẳng và được pháp luật bảo vệ, các bên có quyền và nghĩa vụ
ngang nhau và bình đẳng với nhau.


16

Còn quyền tự định đoạt trong tố tụng hành chính thì người khởi kiện và
người bị kiện có quyền ngang nhau nhưng thực tế giữa một bên là cơ quan
nhà nước ban hành quyết định hành chính vẫn có thế mạnh quyết định nên
quyền tự định đoạt của đương sự cũng vẫn bị hạn chế, như người khởi kiện
quyết định trái pháp luật và yêu cầu trả lại ngay tài sản bị chuyển giao không
đúng pháp luật nhưng yêu cầu không thực hiện, ví dụ: Hội đồng xét xử có
quyền chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một
phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái pháp luật; buộc cơ quan nhà

nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ,
công vụ theo quy định của pháp luật, không có quyền buộc cơ quan ban hành
văn bản trái pháp luật khắc phục ngay hậu quả.
Trong tố tụng hình sự thì đương sự là bị hại, quyền tự định đoạt thể
hiện trong việc thu thập và cung cấp chứng cứ, nhưng vì đây là công việc của
cơ quan điều tra nên đương sự không bảo vệ kịp thời yêu cầu của mình do đó
chưa bảo đảm quyền tự định đoạt của họ.
Bên cạnh những đặc điểm riêng biệt trên thì quyền tự định đoạt của
đương sự còn được thể hiện thông qua tính phổ biến đó là khả năng thực hiện
quyền, tự định đoạt các quyền năng tố tụng của các đương sự là như nhau.
Các đương sự không phân biệt tư cách tham gia tố tụng là nguyên đơn, bị đơn
hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi tham gia tố tụng đều bình
đẳng trước pháp luật trong việc thực hiện quyền tự định đoạt của mình. Cụ thể
là nếu nguyên đơn có quyền khởi kiện thì bị đơn có quyền phản tố đối với yêu
cầu của nguyên đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra
các yêu cầu độc lập để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Mặt khác,
trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng, một hoặc các bên đương sự
đều có quyền thương lượng, thỏa thuận và hòa giải với nhau nhằm chấm dứt
các tranh chấp. Nếu các đương sự không thể giải quyết được với nhau thì có
quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình đối với các hành
vi xâm phạm.


17

1.1.3. Ý nghĩa quyền tự định đoạt của đương sự
Quyền tự định đoạt của đương sự là một nguyên tắc cơ bản của pháp
luật TTDS, nội dung mang tính xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng nhằm
bảo đảm cho các đương sự có điều kiện, bằng hành vi của mình, tự mình thực
hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng, trên cơ sở đó mà các lợi ích hợp

pháp của đương sự được bảo vệ và tôn trọng. Không chỉ với ý nghĩa là
nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS, quyền tự định đoạt của đương sự biểu
thị như một nội dung quyền vừa mang giá trị phổ biến, vừa mang tính đặc thù
trong hệ thống quy phạm pháp luật. Không chỉ với ý nghĩa là một nguyên tắc
cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự, quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự còn có ý nghĩa đặc biệt về nhiều mặt:
1.1.3.1. Về phương diện chính trị, kinh tế, xã hội
* Về phương diện chính trị: Sự ghi nhận quyền tự định đoạt của đương
sự trong TTDS góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người,
của công dân, đáp ứng các đòi hỏi của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Để xây dựng một xã hội văn minh thì đòi hỏi có một nhà nước pháp
quyền dường như là một yếu tố tất yếu. Ngay từ năm 1919, trong bản “Yêu
sách gửi tới hội nghị Véc - xây”, tại Điều 7 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh đến tầm quan trọng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Sau này, ý
kiến đó đã được Người viết lại thành diễn ca với tựa đề “Việt Nam yêu cầu
ca”, trong đó đáng lưu ý hơn cả là hai câu thơ: “Bảy xin Hiến pháp ban hành,
trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Muốn xây dựng được nhà nước pháp quyền thì các hoạt động của đời
sống xã hội cần có quy định của pháp luật điều chỉnh một cách khoa học và
công bằng. Trong lĩnh vực dân sự, tranh chấp dân sự xảy ra trong đời sống là
một yếu tố khá quan mang tính quy luật, do đó cần phải có cơ chế để giải
quyết các tranh chấp dân sự khi xảy ra trên thực tế. Quy định nguyên đơn có
các quyền trong TTDS (mà bắt đầu bằng quyền khởi kiện) chính là ý chí của
Nhà nước trong việc trao quyền cho con người, công dân có thể yêu cầu Tòa


18

án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi bị xâm phạm hoặc tranh chấp.
Nếu Tòa án có thể giải quyết “thấu tình, đạt lý”, bảo vệ được quyền và lợi ích

hợp pháp của nguyên đơn sẽ tạo được lòng tin của người dân đối với Nhà
nước, giúp củng cố và duy trì một trật tự chính trị ổn định và hài hòa.
* Về phương diện kinh tế - xã hội: việc quy định cho đương sự có
quyền tự định đoạt trong TTDS sự giúp đương sự bằng chính quyền năng
pháp luật trao có thể sử dụng để bảo vệ các giá trị pháp lý mà mình xứng đáng
được hưởng, góp phần bảo vệ các lợi ích hợp pháp trong quan hệ pháp luật
dân sự và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Từ quá trình phát triển của pháp luật, ngày nay có lẽ cần có một cách
tiếp cận mới về pháp luật, khả năng cạnh tranh và thích ứng bất tận đã làm
cho pháp luật dường như không chỉ còn là thượng tầng kiến trúc mà đã trở
thành một hạ tầng quan trọng giúp xã hội phát triển (việc quả quyết rằng pháp
luật chỉ chịu ảnh hưởng bởi kinh tế là một việc sai lầm). Thời đại của sự hội
nhập đã đến, chất lượng pháp luật là một trong những cơ sở góp phần thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Dưới cái nhìn của các nhà đầu tư, nếu một
hệ thống pháp luật quốc gia không đủ để bảo đảm quyền lợi cho họ khi tranh
chấp xảy ra thì việc từ bỏ cơ hội đầu tư là đương nhiên. Nói cách khác, từ góc
độ kinh tế học, trong các tiêu chí đánh giá tiềm năng của thị trường trước khi
đầu tư vào Việt Nam, tiêu chí về chất lượng của hệ thống pháp luật là một
trong những tiêu chí quan trọng.
Một hệ thống pháp luật với các quy định đảm bảo quyền tự định đoạt
của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án sẽ góp phần
trong việc mở rộng cơ hội lựa chọn đầu tư kinh doanh của thương nhân vào
Việt Nam. Nếu con đường tìm đến công lý trở nên tốn kém và khó lường
trước, thương nhân sẽ tìm đến những con đường khác, những thị trường có
mức độ bảo vệ bằng pháp luật cao hơn hoặc những phương thức giải quyết
tranh chấp không có lợi cho xã hội. Yêu cầu đặt ra là làm sao để Tòa án trở
thành chỗ dựa của doanh nhân? Việc xây dựng một hệ thống pháp luật dân sự


19


minh bạch, công bằng, thuận tiện và bảo đảm cho cạnh tranh lành mạnh sẽ
giúp Việt Nam trở thành một môi trường tiềm năng cho việc mở rộng quy mô
kinh doanh của các thương nhân nước ngoài. Đồng thời, giúp khuếch trương
nguồn nguyên khí quốc gia - một thời đại mới sẽ đến với người dân Việt
Nam: thời đại của những người trẻ tuổi, có học vấn, có dũng khí kinh doanh,
biết giữ gìn vốn cổ của tổ tiên và học hỏi tinh hoa nhân loại để làm giàu cho
bản thân và đất nước. Muốn đạt được mục đích đó, điều thiết yếu đặt ra là
phải quy định cho các đương sự có đầy đủ các quyền, nhất là quyền tự định
đoạt để yêu cầu cơ quan tư pháp quốc gia bảo vệ quyền lợi của mình khi bị
xâm phạm.
Bên cạnh đó, việc trao quyền tự định đoạt cho đương sự trong TTDS
góp phần tạo động lực cho sự phát triển của xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển
ổn định và lành mạnh. Lĩnh vực dân sự là lĩnh vực đa dạng, phong phú và phổ
biến nhất của đời sống xã hội. Khi tranh chấp dân sự nảy sinh, nếu không có
các quy định cho phép đương sự có quyền tự định đoạt để yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền lợi của mình sẽ dẫn đến tình trạng người dân “tự xử tranh chấp”
hoặc giải quyết tranh chấp bằng “luật rừng”, điều này sẽ dẫn đến sự bất ổn
trong các giao lưu dân sự, là rào cản ngăn bước xã hội phát triển. Có đồng
quan điểm như trên, Giáo sư Nguyễn Huy Đẩu khẳng định: “Một tố tụng thiết
lập hoàn bị là một sự bảo chứng cho hòa bình xã hội”. Hay nói như cách của
Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Bách nhận định : “Một tố tụng tốt là một bảo đảm cho
an toàn xã hội ”.
1.1.3.2. Về phương diện pháp lý
Các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là sự
ghi nhận một phương thức giải quyết các tranh chấp dân sự. Trong các luật
chuyên ngành (dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động),
pháp luật đã ghi nhận rất nhiều các phương thức khác nhau để giải quyết các
tranh chấp dân sự như tự bảo vệ, yêu cầu Tòa án bảo vệ, thương lượng, hòa
giải, trọng tài. Mỗi phương thức đều có những ưu và nhược điểm nhất định,



20

tuy nhiên có thể khẳng định, phương thức giải quyết tranh chấp tại Tòa án thể
hiện những ưu điểm vượt trội hơn cả. Bởi lẽ, Tòa án là cơ quan tư pháp, được
Nhà nước trao cho quyền bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân (nói cách khác Tòa án chính là đại diện công lý của công dân); bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật sẽ có tính chất bắt buộc
tuân theo, nếu các bên không tuân thủ phán quyết của Tòa sẽ phải chịu sự
cưỡng chế bằng quyền lực Nhà nước.
Bên cạnh đó, việc trao quyền và bảo đảm thực hiện quyền tự định đoạt
của đương sự là sự cụ thể hóa các giá trị về quyền con người, quyền công dân
được ghi nhận trong Hiến pháp. Với vị trí là đạo luật “mẹ”, Hiến pháp được ví
như một bản thỏa thuận lớn của người dân (khế ước xã hội), có hiệu lực cao
nhất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Ở đó, người dân được thỏa thuận và
thống nhất ý chí về phạm vi hưởng quyền cũng như những nghĩa vụ phải thực
hiện để duy trì một trật tự vận hành của xã hội. Theo tư tưởng của Rousseau,
khế ước xã hội về bản chất là “hình thức liên kết với nhau để dùng sức mạnh
chung mà bảo vệ mọi thành viên”, sự liên kế đó được thể hiện trong công ước
(khế ước), vì vậy “chúng ta phải luôn luôn trở lại với công ước”. Theo đó, do
Hiến pháp là bản thỏa thuận chung của xã hội nên tất cả các quy tắc xử sự
trong pháp luật chuyên ngành khi ban hành đều phải phù hợp với Hiến pháp.
Vậy, quy định về quyền tự định đoạt của đương sự chính là sự cụ thể hóa
những tinh thần, giá trị tổng quát mà Hiến pháp đã quy định để bảo vệ quyền
con người, quyền công dân một cách tốt nhất - bảo đảm cho đương sự có đầy
đủ những quyền mà mình đã tham gia “cam kết, thỏa thuận”.
1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về quyền tự định đoạt của
đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự
1.2.1. Các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải

quyết vụ án dân sự
1.2.1.1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án
dân sự


×