Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Giải quyết các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân từ thực tiễn xét xử của tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.48 MB, 134 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN BẢO TRÂM

GIẢI QUYẾT CÁC NGHĨA VỤ CHUNG VỀ TÀI SẢN
CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số

: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phƣơng Lan

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, đƣợc trích
dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác của luận văn này.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Bảo Trâm


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy giáo, cô giáo trƣờng
Đại học Luật Hà Nội với những bài giảng đầy tận tâm và nhiệt huyết đã mang lại
cho tôi nhiều kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm trong suốt quá trình học tập từ
bậc cử nhân đến cao học, cũng nhƣ quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn
thạc sĩ luật học này.
Đặc biệt tôi xin dành lời tri ân sâu sắc tới Cô giáo - Tiến sĩ Nguyễn Phƣơng
Lan đã tận tình quan tâm, hƣớng dẫn, truyền dạy những kiến thức chuyên môn và
kinh nghiệm quý báu để tôi có thể hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Cuối cùng tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, ngƣời thân và bạn bè,
những ngƣời luôn ở bên cạnh động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi
nhất để tôi có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập, nghiên cứu một cách tốt nhất.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Nguyễn Bảo Trâm


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật Dân sự

BTTH


Bồi thƣờng thiệt hại

HN&GĐ

Hôn nhân và gia đình

Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000
sửa đổi bổ sung năm 2010
NLHVDS

Năng lực hành vi dân sự

Nghị định số 126/2014/NĐ-CP

Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31
tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp
thi hành Luật Hôn nhân và gia đình

Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10

Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày
09 tháng 06 năm 2000 của Quốc hội về
việc thi hành luật Hôn nhân và gia đình

TAND

Tòa án nhân dân

UBND


Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGHĨA VỤ CHUNG VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ
CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN ........................................................... 6
1.1. Khái niệm nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng .................................... 6
1.2. Đặc điểm nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 8
1.3. Cơ sở để xác định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng ...................... 12
1.4. Ý nghĩa của việc quy định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng ......... 14
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..................................................................................... 17
CHƢƠNG 2: NGHĨA VỤ CHUNG VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG
THỜI KỲ HÔN NHÂN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ............................ 18
2.1. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng theo chế độ tài sản luật định ..... 18
2.1.1. Nghĩa vụ chung nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình .......... 18
2.1.2. Nghĩa vụ chung về tài sản phát sinh từ giao dịch có sự thỏa thuận ý chí
của cả hai vợ chồng ....................................................................................... 20
2.1.3. Nghĩa vụ bồi thƣờng thiệt hại .............................................................. 30
2.1.4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài sản chung,
tài sản riêng của vợ, chồng .......................................................................... ..37
2.1.5. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng phát sinh theo quy định của
các luật khác có liên quan .............................................................................. 40
2.2. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong chế độ tài sản theo thỏa
thuận .................................................................................................................. 44
2.2.1. Các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận của vợ
chồng ............................................................................................................. 45
2.2.2. Cách thức thực hiện, giải quyết các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ
chồng trong chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng ............................. 48

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..................................................................................... 49


CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC NGHĨA VỤ CHUNG VỀ TÀI
SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN TẠI TÒA ÁN VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ................................................................ 50
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết các nghĩa vụ chung về tài sản của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tại Tòa án ..................................................... 50
3.1.1. Xác định tƣ cách tham gia tố tụng của vợ, chồng trong một số vụ việc
giải quyết các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng ................................ 50
3.1.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết các nghĩa vụ chung về tài sản
của vợ chồng nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình......................... 52
3.1.3 Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết các nghĩa vụ chung về tài sản
phát sinh từ các giao dịch do vợ chồng thỏa thuận xác lập ........................... 56
3.1.4 Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết các nghĩa vụ bồi thƣờng thiệt hại
là nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng .................................................... 60
3.1.5 Thực tiễn áp dụng pháp luật khi giải quyết các nghĩa vụ chung về tài
sản của vợ chồng phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung, tài sản riêng ........................................................................................ 64
3.2. Những vƣớng mắc, bật cập trong thực tiễn giải quyết các nghĩa vụ chung
về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tại Tòa án .............................. 66
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lƣợng giải
quyết các vụ việc liên quan tới nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng ......... 71
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3..................................................................................... 74
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 76
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 76


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hôn nhân là một hiện tƣợng xã hội. Xét về thực tiễn có thể hiểu khái quát hôn
nhân là sự kết hợp giữa một nam và một nữ để xây dựng gia đình và chung sống đến
hết cuộc đời. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trƣờng Đại học Luật Hà
Nội thì hôn nhân là “sự liên kết giữa người nam và người nữ dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, theo điều kiện và trình tự nhất định, nhằm chung sống với nhau
suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc và hòa thuận”1. Hôn nhân hợp pháp hình
thành sẽ làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng, nội dung của quan hệ này
là các quyền và nghĩa vụ nhân thân, quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng.
Trong điều kiện kinh tế xã hội phát triển hiện nay, vợ chồng ngày càng tham
gia tích cực vào nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau nhằm đáp ứng các nhu cầu của
cá nhân và của gia đình. Những mối quan hệ này làm phát sinh nhiều quyền và nghĩa
vụ, trong đó có các nghĩa vụ về tài sản mà vợ, chồng phải gánh chịu. Với tƣ cách vừa
là chủ thể của quan hệ HN&GĐ, vừa là chủ thể của các quan hệ xã hội khác, vợ, chồng
đồng thời phải có trách nhiệm với mọi mối quan hệ mà mình tham gia, với gia đình
và với xã hội. Việc xác định đúng đắn nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng của vợ, chồng
là đòi hỏi cần thiết để đảm bảo công bằng và lợi ích của gia đình, của vợ, chồng và tất
cả các chủ thể có liên quan. Trong đó, nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng là một
vấn đề quan trọng cần đƣợc xem xét và quy định một cách cụ thể, toàn diện.
Trƣớc đây, Luật HN&GĐ năm 2000 đã có quy định về nghĩa vụ chung về tài
sản của vợ chồng nhƣng còn rải rác và chƣa đầy đủ. Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy
định bổ sung và tiến bộ hơn về vấn đề này, tuy nhiên vẫn chƣa thực sự chi tiết và
chƣa có hƣớng dẫn cụ thể về việc xác định các nghĩa vụ, do đó chƣa đáp ứng đƣợc
thực tiễn phức tạp liên quan tới nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng đang phát
sinh ngày càng nhiều. Trên thực tế, Tòa án gặp rất nhiều khó khăn khi giải quyết
những vụ việc liên quan tới nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, một phần do
những đặc trƣng riêng của mối quan hệ hôn nhân gia đình, một phần do các quy định
1


Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an Nhân dân, Hà
Nội, tr.148.


2

của pháp luật còn chung chung, chƣa cụ thể. Chính vì thế đã dẫn tới việc áp dụng
pháp luật chƣa thống nhất giữa các tòa, nhiều trƣờng hợp giải quyết vụ việc còn thiếu
sót và chƣa thực sự đúng đắn, ảnh hƣởng tới quyền lợi hợp pháp của các chủ thể.
Xuất phát từ thực tế này, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về
nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng và thực trạng giải quyết các vụ việc có liên
quan tại tòa án là hết sức cần thiết và có ý nghĩa thiết thực.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng không phải là một vấn đề mới. Thời
gian qua ở nƣớc ta cũng đã có một số công trình nghiên cứu khoa học liên quan tới
các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, có thể kể đến nhƣ sau:
Nhóm các luận văn thạc sĩ: “Xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng
trong pháp luật Việt Nam” của Nguyễn Quỳnh Hƣơng (2012); “Quyền và nghĩa vụ
về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” của Vũ Thị Chiêm (2013); “Nghĩa
vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014” của Nông Thị Thoa (2014); “Trách nhiệm liên đới giữa vợ chồng đối với
khoản nợ phát sinh từ hành vi pháp lý do một bên vợ hoặc chồng thực hiện” của Vũ
Khánh Ngân (2017)… Các luận văn này đều ít nhiều có phần nội dung liên quan tới
nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên mới chỉ đề cập một phần nhỏ đến
đề tài của tác giả mà chƣa có luận văn nào nghiên cứu độc lập và tổng thể về nghĩa vụ
chung về tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014.
Nhóm các bài viết trên báo, tạp chí: “Nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng theo
quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000” (Nguyễn Hồng Hải, Tạp chí
Luật học, 2000), “Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng khi tham gia quan hệ

kinh doanh bảo hiểm” (Nguyễn Văn Tuyến, Tạp chí Luật học, 2011), … Các bài
viết này có đề cập tới nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, tuy nhiên do tính
chất của một bài báo, tạp chí, các tác giả chỉ mới đƣa ra một khía cạnh sơ lƣợc hoặc
một trƣờng hợp cụ thể về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.
Nhóm các đề tài nghiên cứu khoa học:“Một số vấn đề về nguyên tắc xác định
tài sản chung, tài sản riêng và trách nhiệm tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh” (Nguyễn Thị Lan, 2008), “Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ,


3

chồng đối với cac giao dịch dân sự, thương mại do một bên thực hiện” (Nguyễn
Phƣơng Lan, 2008)…, tuy nhiên do phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu riêng của đề tài
nên các vấn đề về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng mới chỉ đƣợc đề cập ở một
phần nhỏ hoặc một trƣờng hợp cụ thể mà chƣa đƣợc nghiên cứu tổng thể.
Nhóm giáo trình, sách chuyên khảo: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam (Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2009), Bình luận khoa
học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Nguyễn Ngọc Điện, Nxb Trẻ, 2004)…
Các cuốn sách này đều là những công trình bình luận, giải thích các quy định của
Luật HN&GĐ, các vấn đề về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng chỉ đƣợc đƣa ra
một cách chung chung, có tính chất tổng quát, chứ không phân tích một cách cụ thể.
Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có liên quan tới
nhiều vấn đề khác nhƣ bồi thƣờng thiệt hại (BTTH), giao dịch dân sự, sở hữu tài
sản… Có thể vì lẽ đó mà các công trình nghiên cứu trên đều mới chỉ đề cập tới một
khía cạnh hoặc một vài trƣờng hợp của nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng. Do
đó, đến thời điểm hiện tại chƣa có công trình nào nghiên cứu tổng thể và chuyên sâu
về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Chính vì vậy, luận
văn với đề tài “Giải quyết các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân từ thực tiễn xét xử của Tòa án” sẽ nghiên cứu một cách có hệ thống và
chuyên sâu để có cái nhìn tổng thể mang tính học thuật về vấn đề này, trên cơ sở kế

thừa và phát triển thành quả nghiên cứu từ các công trình của các tác giả trƣớc đây.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Với đề tài “Giải quyết các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân từ thực tiễn xét xử của Tòa án” đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là
những vấn đề lý luận về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, căn cứ, ý nghĩa,
nội dung của các nghĩa vụ chung này, các quy định của pháp luật hiện hành về
nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và thực tiễn giải
quyết của tòa án qua các vụ việc cụ thể có liên quan.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
- Nghiên cứu các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng theo quy định của
Luật HN&GĐ năm 2014 và một số văn bản pháp luật khác có liên quan nhƣ Bộ luật


4

dân sự (BLDS) năm 2015, Nghị định số 126/2014/NĐ-CP, Luật Kinh doanh bảo
hiểm năm 2000...
- Các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng đƣợc nghiên cứu trong luận văn
là nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân hoặc
phát sinh trƣớc thời kỳ hôn nhân nhƣng đƣợc vợ chồng thỏa thuận là nghĩa vụ
chung của vợ chồng. Những nghĩa vụ phát sinh sau thời kỳ hôn nhân không nằm
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn.
- Nghiên cứu việc giải quyết các vụ việc cụ thể về nghĩa vụ chung về tài sản của
vợ chồng qua thực tiễn xét xử tại tòa án từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn
giải quyết các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân qua
thực tiễn xét xử tại tòa án, luận văn sẽ tập trung làm sáng tỏ các căn cứ và nội dung
của từng nghĩa vụ, đồng thời thể hiện đƣợc thực tế giải quyết các vụ việc có liên
quan tại tòa án. Từ đó chỉ ra đƣợc những tồn tại về quy định pháp luật và bất cập

trong hoạt động giải quyết các vụ việc nhằm đƣa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện
pháp luật, nâng cao chất lƣợng áp dụng pháp luật trên thực tế và góp phần giải
quyết những vấn đề vƣớng mắc còn tồn tại xung quanh hoạt động giải quyết các vụ
việc có liên quan tới nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng tại tòa án.
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, luận văn
nghiên cứu và giải quyết những vấn đề cơ bản sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về căn cứ và nội dung của nghĩa vụ chung về
tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, ý nghĩa của việc quy định nghĩa vụ
chung về tài sản của vợ chồng trong hệ thống pháp luật.
- Phân tích các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
theo quy định của luật HN&GĐ hiện hành và các quy định khác có liên quan.
- Nghiên cứu thực tiễn giải quyết các vụ việc liên quan tới nghĩa vụ chung về tài
sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tại tòa án, rút ra những bất cập còn tồn tại và
đề xuất phƣơng án hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu


5

Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh;
chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nƣớc và pháp luật, xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật nói chung và pháp luật HN&GĐ nói riêng.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một số phƣơng pháp cụ thể
nhƣ phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê... để giải quyết những vấn
đề mà đề tài đặt ra nhằm đạt đƣợc mục đích nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là công trình khoa học có giá trị về mặt lý
luận và thực tiễn, là tài liệu tham khảo góp phần tích cực cho công tác nghiên cứu,

giảng dạy luật học đối với chuyên ngành luật HN&GĐ nói riêng và pháp luật Dân
sự nói chung, đồng thời phục vụ cho mục đích hoàn thiện pháp luật nƣớc ta về các
vấn đề liên quan tới nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực đối với mọi cá nhân, đặc biệt là
các cặp vợ chồng để tìm hiểu nội dung, bản chất các nghĩa vụ chung về tài sản của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng nhƣ các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề
này. Song song với đó, luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo để các cơ quan
nhà nƣớc nắm đƣợc thực trạng giải quyết các vụ việc liên quan tới nghĩa vụ chung
về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để xem xét bổ sung, hoàn thiện pháp
luật và nâng cao chất lƣợng, hiệu quả trong công tác giải quyết các vụ việc này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn đƣợc
đƣợc kết cấu thành ba chƣơng, cụ thể:
Chƣơng 1: Khái quát về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân
Chƣơng 2: Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
theo pháp luật hiện hành
Chƣơng 3: Thực tiễn giải quyết các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân tại tòa án và một số kiến nghị hoàn thiện


6

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ NGHĨA VỤ CHUNG VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
1.1. Khái niệm nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
Xét một cách khái quát về mặt xã hội, nghĩa vụ nói chung đƣợc hiểu là
những việc một ngƣời cần phải thực hiện vì lợi ích của ngƣời khác. Các nghĩa vụ
theo cách hiểu thông thƣờng này đƣợc ràng buộc bởi quan điểm và đạo đức xã hội,

do đó không có tính chất cƣỡng chế mà thƣờng đƣợc các chủ thể thực hiện phụ
thuộc vào lƣơng tâm và sự tự giác. Các nghĩa vụ thuộc phạm trù đạo đức xã hội
phát sinh rất nhiều trong cuộc sống thƣờng ngày, ví dụ: nhƣờng chỗ ngồi cho phụ
nữ, giúp ngƣời già qua đƣờng, lễ phép với ngƣời lớn tuổi… Mặc dù rất phổ biến
trong thực tiễn nhƣng nghĩa vụ đạo đức không chịu sự điều chỉnh của pháp luật, do
đó không đặt ra hậu quả pháp lý khi một ngƣời không thực hiện những nghĩa vụ
này, tuy nhiên họ có thể phải gánh chịu những hậu quả khác nhƣ bị xã hội phê phán,
bị đánh giá không tốt về ý thức, nhân cách và đạo đức.
Xét dƣới góc độ pháp lý, nghĩa vụ là những việc mà chủ thể phải thực hiện
hoặc không đƣợc thực tiện theo quy định của pháp luật nhằm đáp ứng quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ thể khác. Những nghĩa vụ này mang tính chất pháp lý, là cách
xử sự bắt buộc đƣợc pháp luật ấn định cho chủ thể trong những trƣờng hợp cụ thể.
Sở dĩ những nghĩa vụ này đƣợc đặt trong ràng buộc pháp lý là bởi nó gắn với những
lợi ích đƣợc pháp luật bảo hộ, việc không thực hiện nghĩa vụ sẽ dẫn tới xâm hại
những lợi ích này. Do đó, chủ thể mang nghĩa vụ có trách nhiệm phải thực hiện
nghĩa vụ để đảm bảo các lợi ích hợp pháp của các chủ thể có quyền, nếu không thực
hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng, đủ, kịp thời gây ra thiệt hại cho chủ thể
có quyền thì còn phải bồi thƣờng cho họ.
Trong một quan hệ pháp luật, nghĩa vụ do một bên chủ thể thực hiện có thể
nhằm đáp ứng quyền lợi của bên còn lại hoặc của một bên thứ ba. Dựa vào lợi ích
mà bên có quyền lợi nhận đƣợc có thể phân loại nghĩa vụ thành hai loại đó là nghĩa
vụ nhân thân và nghĩa vụ tài sản. Khác với nghĩa vụ nhân thân gắn liền với các lợi
ích về mặt tinh thần, nghĩa vụ tài sản liên quan tới vấn đề tài sản và các lợi ích vật


7

chất. Theo đó, nghĩa vụ tài sản là những nghĩa vụ mà chủ thể phải thực hiện liên
quan đến tài sản nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
Từ khái niệm nghĩa vụ tài sản này, ta làm rõ khái niệm và bản chất của nghĩa

vụ chung về tài sản của vợ chồng. Trƣớc hết, nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
là nghĩa vụ tài sản, do vậy nó mang đặc trƣng liên quan tới lợi ích vật chất và đƣợc
thực hiện bằng tài sản. Thứ hai, đây là nghĩa vụ “chung” của vợ chồng, yếu tố
“chung” đƣợc thể hiện ở việc cả hai vợ chồng cùng là chủ thể của nghĩa vụ và cùng
có trách nhiệm thực hiện những nghĩa vụ này. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ
chồng do cả hai vợ chồng cùng thực hiện bằng tài sản chung, nếu tài sản chung không
đủ thì phải thực hiện bằng tài sản riêng của mỗi bên để hoàn thành nghĩa vụ.
Trên thực tế, mỗi bên vợ chồng vừa là chủ thể trong quan hệ pháp luật
HN&GĐ, vừa là chủ thể tham gia nhiều quan hệ pháp luật dân sự khác ngoài xã hội.
Trong mỗi quan hệ pháp luật, vợ, chồng có thể đƣợc hƣởng quyền và chịu trách
nhiệm thực hiện các nghĩa vụ về tài sản khác nhau. Tùy theo từng trƣờng hợp, vợ và
chồng có thể có các nghĩa vụ chung hoặc nghĩa vụ riêng về tài sản. Với nghĩa vụ
riêng thì ngƣời có nghĩa vụ là một bên vợ hoặc chồng, bên vợ, chồng này có trách
nhiệm tự mình thực hiện các nghĩa vụ tài sản với bên có quyền bằng tài sản riêng
của mình. Còn với nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng thì cả hai vợ chồng đồng
thời là bên có nghĩa vụ, cả hai phải cùng chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài
sản đối với bên có quyền. Điểm cốt lõi ở nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
không thể hiện ở tài sản dùng để thực hiện nghĩa vụ mà thể hiện ở chủ thể có nghĩa
vụ thực hiện đó là: cả hai bên vợ chồng. Chính vì vậy nghĩa vụ này có thể thực hiện
bằng tài sản chung, cũng có thể thực hiện bằng tài sản riêng, nhƣng luôn đặt ra trách
nhiệm đối với cả ngƣời vợ và ngƣời chồng.
Chủ thể của nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng là hai bên vợ chồng, do
đó nghĩa vụ này mang những đặc trƣng liên quan tới mối quan hệ HN&GĐ, đƣợc
phát sinh trên các cơ sở: mục đích phục vụ lợi ích chung của gia đình, sự thỏa thuận
của vợ chồng, đại diện giữa hai bên vợ chồng và theo các quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật HN&GĐ hiện hành, trong thời kỳ hôn nhân
giữa vợ chồng có thể áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo


8


thỏa thuận, việc áp dụng chế độ tài sản nào phụ thuộc vào sự lựa chọn của vợ
chồng. Căn cứ để xác định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng cũng có sự khác
biệt giữa chế độ tài sản theo luật định và chế độ tài sản theo thỏa thuận.
Đối với chế độ tài sản theo luật định, các vấn đề liên quan tới việc xác định
tài sản thuộc sở hữu chung hay riêng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với từng
loại tài sản chung và tài sản riêng cũng nhƣ các nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về
tài sản của vợ chồng sẽ đƣợc căn cứ theo các quy định sẵn có của pháp luật. Theo
đó, nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng đƣợc xác định dựa trên cơ sở các quy
định của pháp luật.
Đối với chế độ tài sản theo thỏa thuận, vợ chồng đƣợc pháp luật cho phép tự
thỏa thuận và ấn định các nguyên tắc liên quan tới việc xác định tài sản chung, tài sản
riêng, phạm vi quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với các loại tài sản, nghĩa vụ về tài
sản… Do đó với chế độ tài sản theo thỏa thuận thì việc xác định nghĩa vụ chung về
tài sản của vợ chồng trƣớc hết phải dựa theo nội dung văn bản thỏa thuận về chế độ
tài sản của vợ chồng đã đƣợc xác lập trƣớc đó. Chỉ trong trƣờng hợp phát sinh vấn đề
chƣa đƣợc vợ chồng thỏa thuận trong văn bản hoặc có thỏa thuận nhƣng không rõ
ràng dẫn tới không thực hiện đƣợc trên thực tế thì khi đó mới áp dụng các quy định
tƣơng ứng của pháp luật để xác định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.
Nhƣ vậy, đúc kết lại đƣợc nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng là những
nghĩa vụ về tài sản mà vợ chồng cùng có trách nhiệm phải thực hiện, phát sinh trên
cơ sở thỏa thuận của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo lợi
ích chung của gia đình, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, đƣợc thực
hiện bằng tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng của mỗi bên nếu tài sản chung
không đủ thực hiện nghĩa vụ.
1.2. Đặc điểm nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân
Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mang những
đặc điểm nhƣ sau:
- Thứ nhất, chủ thể của nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ

hôn nhân phải là vợ chồng.


9

Vợ chồng ở đây phải đƣợc hiểu là vợ chồng trƣớc pháp luật, tức là giữa hai
bên phải tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp, đƣợc pháp luật công nhận. Hai bên
nam và nữ muốn xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp và đƣợc pháp luật công nhận
tƣ cách vợ chồng thì cần phải đáp ứng đƣợc các điều kiện kết hôn theo luật định và
tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Pháp luật HN&GĐ
Việt Nam qua các thời kỳ đều xác định quan hệ vợ chồng chỉ có giá trị pháp lý khi
vợ chồng thực hiện đăng ký kết hôn. Nhƣ vậy, đăng ký kết hôn chính là sự kiện
pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân, phát sinh các quyền và nghĩa vụ vợ chồng
giữa hai bên nam nữ theo luật định.
Tuy nhiên, có một trƣờng hợp ngoại lệ mà hai bên nam nữ chung sống với
nhau nhƣ vợ chồng, không đăng ký kết hôn nhƣng vẫn đƣợc pháp luật thừa nhận
quan hệ hôn nhân, đó là trƣờng hợp tại khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10
ngày 09/06/2000 về việc thi hành luật HN&GĐ. Cụ thể: quan hệ vợ chồng thực tế
đƣợc xác lập trƣớc ngày ngày 03 tháng 11 năm 1987 (ngày Luật HN&GĐ năm
1986 có hiệu lực) mà chƣa đăng ký kết hôn thì vẫn đƣợc pháp luật thừa nhận là vợ
chồng dù không đăng ký kết hôn, các trƣờng hợp này đƣợc khuyến khích đăng ký
kết hôn nhƣng không bắt buộc. Do đó, hai bên nam nữ trong trƣờng hợp này vẫn
đƣợc pháp luật công nhận có phát sinh quan hệ hôn nhân và có các quyền, nghĩa vụ
vợ chồng theo luật định.
- Thứ hai, về nguyên tắc nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng phát sinh
trong thời kỳ hôn nhân.
Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, đƣợc tính từ
ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân.2 Thời điểm bắt đầu của thời kỳ
hôn nhân là khi hai bên nam nữ thực hiện đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền và đƣợc cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Riêng trƣờng hợp nam nữ

sống chung nhƣ vợ chồng trƣớc ngày 03/07/1987 thì thời kỳ hôn nhân đƣợc tính từ
ngày hai bên bắt đầu chung sống. Thời kỳ hôn nhân chấm dứt trong khi có bản án,
quyết định ly hôn có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc một bên vợ, chồng chết hoặc
bị Tòa án tuyên bố chết.
2

Khoản 3 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014.


10

Quan hệ vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân, do đó về nguyên tắc
nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân, mọi nghĩa
vụ về tài sản phát sinh trƣớc khi thời kỳ hôn nhân bắt đầu hoặc sau khi thời kỳ hôn
nhân chấm dứt đƣợc xác định là nghĩa vụ riêng về tài sản của một bên vợ hoặc
chồng. Tuy nhiên vợ chồng có quyền thỏa thuận xác định nghĩa vụ riêng của một
bên phát sinh trƣớc khi kết hôn là nghĩa vụ chung của vợ chồng. Về bản chất, nghĩa
vụ này phát sinh chỉ là nghĩa vụ riêng của một bên vợ, chồng, chỉ khi vợ chồng có
thỏa thuận thì nghĩa vụ đó mới có thể trở thành nghĩa vụ chung của vợ chồng. Nói
cách khác, nếu vợ chồng không có thỏa thuận riêng thì nghĩa vụ chung về tài sản
của vợ chồng sẽ chỉ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân, nhƣng nó có thể kéo dài tới
sau khi hôn nhân chấm dứt.
Nhƣ vậy, trừ trƣờng hợp vợ chồng có thỏa thuận khác, về nguyên tắc nghĩa vụ
chung về tài sản của vợ chồng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân. Thời kỳ hôn nhân
chính là một yếu tố quan trọng để xác định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.
- Thứ ba, nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng phát sinh trên cơ sở thỏa
thuận của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
Các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng có thể phát sinh trên cơ sở thỏa
thuận tự nguyện của vợ chồng. Thỏa thuận này đƣợc pháp luật tôn trọng, nằm trong
giới hạn không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức xã hội và không đƣợc xâm hại

quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác, lợi ích của Nhà nƣớc, lợi ích công cộng.
Cụ thể, khi vợ chồng thỏa thuận cùng tham gia vào một giao dịch thì những
nghĩa vụ tài sản phát sinh từ giao dịch này vợ chồng đều có nghĩa vụ thực hiện, đó
chính là nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng. Bên cạnh đó, vợ chồng cũng có thể
thỏa thuận xác định nghĩa vụ riêng của một bên là nghĩa vụ chung về tài sản của vợ
chồng. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ hai trƣờng hợp: vợ chồng thỏa thuận nghĩa vụ
riêng trở thành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng và vợ chồng thỏa thuận thực
hiện nghĩa vụ riêng bằng tài sản chung. Khi hai vợ chồng thỏa thuận để một nghĩa vụ
riêng về tài sản của vợ hoặc chồng trở thành nghĩa vụ chung thì trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ thuộc về cả hai vợ chồng, thỏa thuận này khiến nghĩa vụ riêng về tài sản của
một bên trở thành nghĩa vụ chung về tài sản của hai bên vợ chồng. Còn trong trƣờng


11

hợp vợ chồng thống nhất sử dụng tài sản chung để thực hiện một nghĩa vụ riêng của
vợ hoặc chồng thì thỏa thuận này không khiến nghĩa vụ đó trở thành nghĩa vụ chung
của vợ chồng. Nghĩa vụ này hoàn toàn vẫn là nghĩa vụ riêng của một bên, bên còn lại
không bị ràng buộc trách nhiệm với nghĩa vụ này, tuy nhiên vì tình cảm yêu thƣơng
và sự chia sẻ giữa vợ và chồng mà bên còn lại tự nguyện đồng ý sử dụng tài sản
chung để thực hiện nghĩa vụ riêng cho bên có nghĩa vụ.
Bên cạnh việc trao quyền cho vợ chồng đƣợc thỏa thuận để xác định các nghĩa
vụ chung về tài sản, pháp luật cũng có quy định về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ
chồng xuất phát từ trách nhiệm của vợ chồng đối với gia đình, đối với Nhà nƣớc,
pháp luật và cộng đồng. Theo đó pháp luật quy định các nghĩa vụ chung về tài sản
để ấn định trách nhiệm chung của cả hai vợ chồng trong việc thực hiện các nghĩa
vụ, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cả gia đình, của mỗi bên vợ chồng
hoặc của một chủ thể thứ ba.
Trong cả hai chế độ tài sản theo luật định và theo thỏa thuận của vợ chồng,
các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng có thể phát sinh song song từ cả hai cơ

sở theo thỏa thuận của vợ chồng và theo quy định của pháp luật. Trong chế độ tài
sản theo luật định, bên cạnh những nghĩa vụ đƣợc pháp luật quy định, vợ chồng vẫn
có quyền thỏa thuận xác định một nghĩa vụ là nghĩa vụ chung về tài sản của vợ
chồng. Với chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng, vợ chồng đƣợc phép thỏa
thuận về chế độ tài sản nhƣng vẫn phải tuân theo các quy định mang tính nguyên tắc
của pháp luật. Do đó, bên cạnh những nghĩa vụ chung về tài sản đƣợc xác định theo
văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng thì vẫn có những nghĩa vụ chung
về tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật (ví dụ: pháp luật quy định
nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của gia đình là nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng).
- Thứ tư, cả hai bên vợ chồng cùng có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ chung
về tài sản của vợ chồng.
Việc xác định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng còn có ý nghĩa xác
định phƣơng thức và đối tƣợng phải thực hiện nghĩa vụ. Với nghĩa vụ chung về tài
sản của vợ chồng thì cả hai bên vợ chồng cùng có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ


12

cho bên có quyền, nghĩa vụ này đƣợc vợ chồng thực hiện bằng chính các tài sản
chung của vợ chồng. Ngƣời có quyền có thể yêu cầu cả hai hoặc một bên vợ, chồng
thực hiện nghĩa vụ đó.
Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trƣớc hết đƣợc thực hiện bằng tài
sản chung, nếu tài sản chung không đủ thì phải thực hiện bằng tài sản riêng của vợ,
chồng. Xuất phát từ bản chất nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng đặt trách
nhiệm vào cả vợ và chồng, do đó khi toàn bộ tài sản chung đã đƣợc sử dụng hết
nhƣng nghĩa vụ chƣa đƣợc hoàn thành thì trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ vẫn đặt ra
đối với mỗi bên, khi đó vợ, chồng nếu có tài sản riêng thì phải sử dụng tài sản riêng
của mình để hoàn thành nốt phần nghĩa vụ còn thiếu.
1.3. Cơ sở của nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng

Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng đƣợc xuất phát từ nhiều cơ sở khác
nhau, cụ thể là:
- Thứ nhất, sự thể hiện ý chí tự do, tự nguyện thỏa thuận của vợ chồng
trong các giao dịch dân sự với ngƣời thứ ba:
Khi một chủ thể tham gia vào giao dịch thì chủ thể này sẽ có các quyền lợi và
nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch đó. Trong trƣờng hợp cả hai bên vợ chồng thể hiện ý
chí tự nguyện thỏa thuận và thống nhất về việc xác lập, thực hiện giao dịch thì vợ,
chồng sẽ cùng là một bên chủ thể trong giao dịch này. Từ đó, cả hai vợ chồng sẽ cùng
đƣợc hƣởng quyền lợi và có trách nhiệm chung đối với những nghĩa vụ phát sinh từ
giao dịch này. Do vậy, nghĩa vụ tài sản phát sinh từ các giao dịch do hai bên vợ
chồng thỏa thuận cùng tham gia sẽ là nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.
Ở căn cứ này, sự thể hiện ý chí một cách tự do, tự nguyện và thống nhất của
hai bên vợ chồng trong giao dịch là mấu chốt làm phát sinh nghĩa vụ chung về tài
sản của vợ chồng, không phụ thuộc vào mục đích của giao dịch. Mục đích này có
thể vì lợi ích của cả hai bên vợ chồng, vì lợi ích chung của gia đình, vì lợi ích của
một bên vợ, chồng hoặc vì lợi ích của một bên thứ ba khác. Lý giải cho điều này là
do việc xác lập và thực hiện giao dịch xuất phát từ sự thể hiện ý chí tự nguyện của
cả hai bên vợ chồng, vì vậy cả hai đều có trách nhiệm đối với các hệ quả pháp lý
phát sinh từ giao dịch đó, bao gồm cả những nghĩa vụ tài sản.


13

Trên thực tế sự tham gia của vợ chồng vào các giao dịch có thể đƣợc thực hiện
qua hai cách thức: một là, hai vợ chồng cùng trực tiếp xác lập và thực hiện giao dịch;
hai là, một bên vợ hoặc chồng đại diện cho bên còn lại tham gia vào giao dịch, tƣ
cách đại diện này có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Trong
trƣờng hợp vợ chồng đại diện cho nhau, tuy chỉ có một bên vợ hoặc chồng trực tiếp
tham gia giao dịch nhƣng ngƣời đó có tƣ cách pháp lý là đại diện hợp pháp của bên
vợ chồng còn lại, đƣợc phép thay bên còn lại xác lập và thực hiện các giao dịch.

- Thứ hai, vì lợi ích chung của gia đình:
Xây dựng gia đình, duy trì và phát triển cuộc sống chung là mục đích của hôn
nhân. Cả hai bên vợ chồng đều có quyền và trách nhiệm ngang nhau đối với mọi mặt
của gia đình, thể hiện ở các công việc nhƣ nuôi dạy con cái, chăm lo cuộc sống của
gia đình về cả mặt tinh thần lẫn vật chất… Đóng góp của mỗi bên có thể khác nhau,
thể hiện bằng những cách thức khác nhau tùy theo khả năng của mỗi bên, nhƣng đây
là nghĩa vụ mà cả hai vợ chồng đều có trách nhiệm phải thực hiện. Chính vì thế, mục
đích đáp ứng lợi ích chung của gia đình, nhằm duy trì và đảm bảo cuộc sống chung
chính là một trong những cơ sở để xác định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.
Nghĩa vụ tài sản phát sinh nhằm phục vụ lợi ích chung của gia đình có thể
phát sinh từ giao dịch do một bên vợ hoặc chồng xác lập. Tuy nhiên nó mang ý
nghĩa đáp ứng nhu cầu và đảm bảo sự tồn tại của gia đình nên đƣợc xác định là
nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, không phụ thuộc vào ý chí của hai bên.
Xuất phát từ việc vợ chồng bình đẳng về mọi mặt trong gia đình, do đó cần phải đặt
trách nhiệm lên cả hai vợ chồng trong việc thực hiện các nghĩa vụ vì lợi ích chung
của gia đình, đặc biệt là đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình về ăn, ở, mặc, đi
lại, chữa bệnh, chăm sóc và giáo dục con cái, duy trì và định đoạt tài sản chung…
Những nghĩa vụ này có thể đƣợc thực hiện bằng cả tài sản chung và tài sản
riêng của vợ chồng, tài sản chung sẽ đƣợc sử dụng trƣớc tiên để thực hiện nghĩa vụ
chung về tài sản của vợ chồng, nếu tài sản chung không đủ thì phần còn thiếu sẽ
đƣợc thực hiện nốt bằng tài sản riêng của vợ, chồng.
- Thứ ba, thỏa thuận về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng không đƣợc trái
pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc xâm phạm lợi ích hợp pháp của chủ thể khác:


14

Về nguyên tắc, pháp luật dân sự tôn trọng sự tự do, tự nguyện thỏa thuận
của các bên. Tuy nhiên những thỏa thuận này phải tuân thủ nguyên tắc chung đó là
không trái với pháp luật, không trái đạo đức xã hội và không xâm phạm lợi ích hợp

pháp của chủ thể khác.
Theo đó, thỏa thuận về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng cũng phải là
thỏa thuận hợp pháp, không trái đạo đức xã hội và không xâm phạm lợi ích hợp
pháp của chủ thể khác. Nếu thỏa thuận của vợ chồng vi phạm những điều kiện này
thì sẽ bị vô hiệu và không làm phát sinh nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.
Bên cạnh đó, vợ chồng còn phải chịu những hậu quả đặt ra do vi phạm pháp luật, vi
phạm đạo đức xã hội và xâm phạm lợi ích hợp pháp của chủ thể khác.
- Thứ tư, các quy định của pháp luật:
Xuất phát từ trách nhiệm của vợ chồng trƣớc nhà nƣớc, pháp luật và cộng
đồng, pháp luật đặt ra quy định xác định các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ
chồng. Về cơ bản, nghĩa vụ của chủ thể này luôn tƣơng ứng và mang lại quyền lợi
cho một chủ thể khác. Pháp luật dự liệu các trƣờng hợp thực tiễn, dựa trên yêu cầu
khách quan nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của các chủ thể đƣợc hƣởng quyền là
nhà nƣớc, pháp luật, cộng đồng hoặc một chủ thể thứ ba khác để đặt ra quy định về
nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong một số trƣờng hợp cụ thể. Ví dụ nhƣ
quy định các trƣờng hợp vợ chồng có nghĩa vụ BTTH khi cùng gây thiệt hại, BTTH
do con gây ra…
Bên cạnh đó việc quy định về các trƣờng hợp nghĩa vụ chung về tài sản của
vợ chồng còn đảm quyền lợi và sự công bằng giữa hai bên vợ, chồng đối với những
nghĩa vụ này.
1.4. Ý nghĩa của việc quy định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
Việc xây dựng các quy định và nhận diện rõ cơ sở xác định nghĩa vụ chung
về tài sản của vợ chồng mang nhiều ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Cụ thể:
- Thứ nhất, là cơ cở pháp lý để phân định rõ trách nhiệm của các bên vợ,
chồng trong quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản trong gia đình, đảm bảo lợi ích
chung của cả gia đình và lợi ích của mỗi bên vợ, chồng.


15


Để duy trì cuộc sống gia đình đặt ra rất nhiều nhu cầu về vật chất, ví dụ: tiền
thuê nhà để sinh sống, chi phí ăn uống và sinh hoạt hàng ngày, chi phí cho nuôi
dƣỡng và giáo dục con cái … Từ những yêu cầu của cuộc sống, trong suốt thời kỳ
hôn nhân vợ chồng cần cùng nhau tạo lập tài sản, phát triển kinh tế phục vụ mọi nhu
cầu của cả gia đình. Đây không phải là trách nhiệm của riêng ai mà là nghĩa vụ
chung mà cả hai bên vợ chồng cùng phải thực hiện. Do đó việc quy định nghĩa vụ
chung về tài sản của vợ chồng sẽ đảm bảo lợi ích chung của cả gia đình, góp phần
duy trì cuộc sống gia đình bền lâu và vững chắc, đảm bảo một cuộc sống tốt cho
mọi thành viên trong gia đình và đặc biệt là phát triển thế hệ sau của xã hội.
Bên cạnh những nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, trên thực tế trong
thời kỳ hôn nhân, các bên vợ chồng tham gia vào rất nhiều giao dịch dân sự làm
phát sinh các nghĩa vụ về tài sản mà trong đó bao gồm các nghĩa vụ riêng của một
bên vợ hoặc chồng, bên còn lại không có trách nhiệm phải thực hiện. Về bản chất,
một giao dịch liên quan tới loại tài sản cụ thể và vì mục đích cụ thể sẽ làm phát sinh
các hậu quả pháp lý nhất định. Việc phân định nghĩa vụ riêng và nghĩa vụ chung về
tài sản của vợ chồng một cách rõ ràng, minh bạch sẽ đảm bảo quyền lợi của mỗi
bên vợ, chồng và các bên khác liên quan tới giao dịch. Nhận biết đƣợc cơ sở và
hành lang pháp lý cụ thể, vợ chồng có thể chủ động khi tham gia vào các giao dịch
dân sự và kinh tế bảo đảm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho các thành
viên trong gia đình cũng nhƣ của cá nhân vợ, chồng.
Nghĩa vụ chung và nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng đƣợc định rõ
phƣơng thức thực hiện bằng tài sản chung hoặc tài sản riêng. Từ đó, khi vợ, chồng
tham gia vào các quan hệ dân sự vì lợi ích chung của gia đình, vì lợi ích cá nhân vợ,
chồng hay vì lợi ích của ngƣời khác sẽ đƣợc kiểm soát trong một trật tự pháp lý rõ
ràng và ổn định, quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên sẽ đƣợc đảm bảo.
- Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý để việc giải quyết các tranh chấp liên quan tới
nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.
Trong thực tế các bên vợ, chồng cùng lúc tham gia vào rất nhiều các quan hệ
pháp luật khác nhau với các chủ thể khác ngoài xã hội và khó tránh khỏi những

trƣờng hợp phát sinh tránh chấp liên quan tới tài sản của vợ chồng. Tranh chấp có


16

thể nảy sinh giữa vợ, chồng với nhau hoặc giữa vợ chồng với chủ thể thứ ba. Quy
định về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng nói riêng và nghĩa vụ tài sản của vợ
chồng nói chung tạo một hành lang pháp lý rõ ràng để ngƣời có quyền xác định
đƣợc ngƣời có nghĩa vụ là cả hai vợ chồng hay một bên vợ, chồng, xác định đƣợc
nghĩa vụ đƣợc thực hiện bằng tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng. Tƣơng
tự, vợ, chồng cũng xác định đƣợc nghĩa vụ chung của cả hai bên, nghĩa vụ của riêng
của một bên và tài sản dùng để thực hiện nghĩa vụ là tài sản nào. Do vậy, đây chính
là cơ sở pháp lý quan trọng trong giải quyết các tranh chấp về thực hiện các nghĩa
vụ và tranh chấp có liên quan tới tài sản, nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng.
Việc xác định tài sản và nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng của vợ chồng trên
thực tế rất phức tạp bởi quan hệ hôn nhân gia đình và cuộc sống chung vợ chồng
mang những đặc điểm riêng biệt, không giống với bất cứ quan hệ xã hội nào khác,
có liên quan tới các yếu tố nhân thân, tình cảm và nhiều vấn đề tế nhị. Do đó khi
phát sinh tranh chấp thƣờng rất phức tạp và khó xác minh, thực tiễn giải quyết các
tranh chấp này ở nƣớc ta nhiều năm qua đã chứng minh điều này. Chính vì thế, việc
đặt ra quy định và làm rõ các cơ sở xác định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
là không thể thiếu. Từ những cơ sở và quy định này sẽ phân biệt đƣợc nghĩa vụ
riêng và nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, đảm bảo công bằng, chính xác,
khách quan khi giải quyết các vụ việc liên quan trên thực tế, bảo vệ đƣợc quyền lợi
hợp pháp của tất cả các bên.
- Thứ ba, việc quy định về nghĩa vụ tài sản của vợ chồng giúp “hiện thực
hóa” quyền sở hữu của vợ chồng.
Quyền sở hữu tài sản và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng nhằm xác định nguồn gốc
của tài sản, phạm vi quyền sở hữu, phân biệt tài sản thuộc quyền sở hữu chung của

vợ chồng hoặc thuộc sở hữu riêng của một bên cùng các quyền, nghĩa vụ của mỗi
bên hoặc cả hai bên vợ chồng đối với mỗi loại tài sản. Nghĩa vụ về tài sản của vợ
chồng - bao gồm các quy định về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng - giải
quyết các vấn đề mang tính ứng dụng thực tiễn, đó là các vấn đề nhƣ: tài sản trong
gia đình đƣợc định đoạt vì mục đích gì và nhƣ thế nào, tài sản nào đƣợc dùng để


17

thực hiện nghĩa vụ nào, ai là ngƣời có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ… Có thể hiểu
quy định về quyền sở hữu thể hiện trạng thái “tĩnh” của quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng, còn quy định về nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng thể hiện trạng thái “động”
của quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Nhƣ vậy, quy định nghĩa vụ về tài sản của vợ
chồng giúp vợ chồng thực hiện quyền sở hữu của nình trong các quan hệ tài sản cụ
thể.3
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng phát sinh thƣờng ngày trong cuộc
sống của các cặp vợ chồng. Là một vấn đề gần gũi và rất phổ biến, tuy nhiên nhận
thức về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng còn thiếu sót rất nhiều. Để giải
quyết đƣợc các vấn đề thực tiễn thì trƣớc hết phải đi từ bản chất, cần phải nắm rõ
khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của đối tƣợng. Do vậy, trong nội dung Chƣơng 1 của
luận văn, tác giả đã lần lƣợt làm rõ khái niệm nghĩa vụ chung về tài sản của vợ
chồng, từ đó đƣa ra các các đặc điểm, cơ sở xác định và ý nghĩa của việc quy định
và xác định các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng. Cụ thể, thông qua phân
tích rút ra đƣợc nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng là những nghĩa vụ về tài sản
mà vợ chồng cùng có trách nhiệm phải thực hiện, phát sinh trên cơ sở thỏa thuận
của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo lợi ích chung của gia
đình, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, đƣợc thực hiện bằng tài sản
chung của vợ chồng và tài sản riêng của mỗi bên nếu tài sản chung không đủ thực
hiện nghĩa vụ. Việc làm rõ cơ sở xác định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng

có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn, giúp phân biệt các nghĩa vụ chung và
nghĩa vụ riêng của vợ, chồng khi giải quyết các vụ việc có liên quan và cách thức
thực hiện các nghĩa vụ này. Đồng thời đây cũng là cơ sở để nghiên cứu các nghĩa vụ
riêng, nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong thực tiễn và quy định của pháp
luật thực định.

3

Nguyễn Hồng Hải (2000), “Nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000”, Tạp chí Luật học, tr.19


18

CHƢƠNG 2
NGHĨA VỤ CHUNG VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ
HÔN NHÂN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng theo chế độ tài sản luật định
Trong chế độ tài sản theo luật định, các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ
chồng đƣợc xác định theo quy định của pháp luật HN&GĐ và các luật khác có liên
quan. Bao gồm các nghĩa vụ chung nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
nghĩa vụ phát sinh từ những giao dịch có sự thỏa thuận ý chí của vợ chồng; nghĩa
vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, tài sản riêng của
vợ chồng; các nghĩa vụ bồi thƣờng thiệt hại và các nghĩa vụ khác theo quy định của
pháp luật. Các nghĩa vụ sẽ đƣợc làm rõ và phân tích cụ thể sau đây:
2.1.1. Nghĩa vụ chung nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình
Khi bƣớc vào hôn nhân cả hai vợ chồng cùng nhau chăm lo vun vén cho cuộc
sống gia đình. Sự đóng góp của mỗi ngƣời có thể khác nhau nhƣng đều vì một mục
đích mang lại lợi ích vật chất và tinh thần để đáp ứng nhu cầu của gia đình, duy trì
và phát triển cuộc sống của gia đình tốt hơn, đầy đủ hơn, có chất lƣợng ngày càng

cao. Phù hợp với điều này, về mặt pháp lý vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ ngang
nhau về mọi mặt trong gia đình, có trách nhiệm liên đới trong các giao dịch nhằm
đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình4. Nhƣ vậy, nghĩa vụ tài sản phát sinh từ các
giao dịch này là nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng. Pháp luật ấn định trách
nhiệm chung của vợ chồng về đảm bảo “nhu cầu thiết yếu” bởi đó là những nhu cầu
tối thiểu, tối quan trọng để duy trì cuộc sống gia đình, đảm bảo đạt đƣợc mục đích
xây dựng gia đình của hôn nhân. Chính vì vậy, cơ sở xác định nghĩa vụ chung về tài
sản của vợ chồng nằm ở mục đích của giao dịch là đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
gia đình, không phụ thuộc vào ngƣời trực tiếp xác lập và thực hiện giao dịch đó là
cả hai bên vợ chồng hay chỉ là một bên vợ hoặc chồng.
Thực tế, bên cạnh việc tham gia vào quan hệ hôn nhân với tƣ cách là vợ, chồng
thì đồng thời mỗi ngƣời cũng tham gia vào rất nhiều các quan hệ pháp luật khác, tự

4

Khoản 1 Điều 27 và khoản 1 Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014


19

mình xác lập và thực hiện nhiều giao dịch với các chủ thể khác ngoài xã hội. Thông
thƣờng, các giao dịch do một bên vợ hoặc chồng tự xác lập và thực hiện, không có
sự thỏa thuận hay ủy quyền của bên vợ, chồng còn lại thì về nguyên tắc chỉ làm
phát sinh các quyền và nghĩa vụ riêng của ngƣời xác lập giao dịch, không liên quan
tới bên vợ hoặc chồng còn lại. Tuy nhiên để đảm bảo cuộc sống gia đình, đảm bảo
quyền lợi của các bên vợ, chồng, những giao dịch hợp pháp do một bên vợ hoặc
chồng xác lập và thực hiện sẽ làm phát sinh nghĩa vụ chung về tài sản đối với cả hai
bên vợ chồng nếu giao dịch này nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia
đình. Đây chính là một trong những nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng đƣợc
quy định tại khoản 2 Điều 37 Luật HN&GĐ năm 2014. Quy định này cũng góp

phần khẳng định quyền tự chủ của vợ, chồng trong việc xác lập và thực hiện các
giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống gia đình, việc đáp ứng các
nhu cầu này vừa là quyền lại vừa là nghĩa vụ của mỗi bên vợ chồng, có ý nghĩa đảm
bảo và duy trì cuộc sống chung của cả gia đình.
Ví dụ: Khi ngƣời chồng đi công tác xa, ngôi nhà của gia đình bị bão cuốn mất
mái. Khi đó ngƣời vợ phải tự vay tiền để sửa chữa ngôi nhà, đảm bảo gia đình có
nơi sinh sống. Giao dịch này nhằm mục đích phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia
đình, do đó dù giao dịch chỉ do ngƣời vợ xác lập nhƣng nghĩa vụ trả nợ phát sinh
trong trƣờng hợp này là nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.
Giao dịch do một bên vợ, chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
gia đình sẽ làm phát sinh nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng theo quy định tại
khoản 2 Điều 37 Luật HN&GĐ năm 2014, tuy nhiên giao dịch phải đáp ứng đƣợc
các điều kiện sau:
- Một là, giao dịch phải hợp pháp, không bị vô hiệu. Giao dịch đƣợc xác lập
phải là một giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức
xã hội và đáp ứng đủ các điều kiện khác về nội dung, hình thức có hiệu lực của giao
dịch theo quy định của pháp luật.
- Hai là, giao dịch phải nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Trong
cuộc sống thực tiễn nhu cầu của gia đình có rất nhiều và phong phú, khác nhau tùy
theo hoàn cành mỗi gia đình. Trong số rất nhiều những nhu cầu đó cần phải xác


×