Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật an toàn lao động, vệ sinh lao động từ thực tiễn thực hiện tại tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.44 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HÀ PHƯƠNG THẢO

PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG, VỆ SINH LAO ĐỘNG
TỪ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HÀ PHƯƠNG THẢO

PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG, VỆ SINH LAO ĐỘNG
TỪ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số



: 8 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hữu Chí

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hà Phương Thảo


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT AN TOÀN
LAO ĐỘNG, VỆ SINH LAO ĐỘNG

1.1. Khái niệm và đặc điểm của an toàn lao động, vệ sinh lao động


6
6

1.2. Khái niệm, vai trò và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về an toàn
lao động, vệ sinh lao động
1.3. Nội dung pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động

10
18

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG, VỆ
SINH LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH
LẠNG SƠN

26

2.1. Thực trạng các quy định của pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh
lao động

26

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật an toàn lao động, vệ sinh lao động tại
tỉnh Lạng Sơn

41

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
AN TOÀN LAO ĐỘNG, VỆ SINH LAO ĐỘNG TẠI TỈNH

LẠNG SƠN

65

3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động

65

3.2. Hoàn thiện pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động

68

3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về an
toàn, vệ sinh lao động tại tỉnh Lạng Sơn

72

KẾT LUẬN

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ATVSLĐ

: An toàn, vệ sinh lao động


BHXH

: Bảo hiểm xã hội

BHTN

: Bảo hiểm thất nghiệp

BHYT

: Bảo hiểm y tế

BLLĐ

: Bộ luật Lao động

BNN

: Bệnh nghề nghiệp

HĐLĐ

: Hợp đồng lao động

LĐTB&XH

: Lao động - thương binh và xã hội

NLĐ


: Người lao động

NSDLĐ

: Người sử dụng lao động

TNLĐ

: TNLĐ

UBND

: Ủy ban nhân dân


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động sản xuất là hoạt động quan trọng tạo ra của cải vật chất và các giá
trị tinh thần nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, trong đó con người là lực lượng không
thể thiếu, là yếu tố quyết định. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vấn
đề đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động (ATVSLĐ) ngày càng liên quan chặt chẽ đến
sự thành công của mỗi doanh nghiệp, góp phần quyết định đến sự phát triển kinh tế
bền vững của mỗi quốc gia. Xây dựng một nền sản xuất an toàn với những sản phẩm
có tính cạnh tranh cao gắn liền với việc bảo vệ sức khỏe của người lao động (NLĐ)
là yêu cầu tất yếu của sự phát triển bền vững và bảo đảm sức mạnh cạnh tranh trong
nền kinh tế toàn cầu hóa. Quá trình sản xuất luôn tiềm ẩn nhiều nguy hại có thể tác
động đến sức khỏe, tính mạng NLĐ. Nếu lực lượng lao động bị thiệt hại, tổn thương
sẽ ảnh hưởng không chỉ hiệu quả sản xuất mà còn trở thành gánh nặng với xã hội.

Công tác bảo đảm ATVSLĐ thông qua việc áp dụng các biện pháp về khoa học kĩ
thuật, tổ chức, kinh tế, xã hội để loại trừ các yếu tố nguy hiểm và có hại phát sinh
trong sản xuất, ngăn ngừa tai nạn lao động (TNLĐ) và bệnh nghề nghiệp (BNN),
hạn chế ốm đau, duy trì sức khỏe đối với NLĐ, góp phần bảo vệ và phát triển lực
lượng sản xuất, tăng năng suất lao động.
Bên cạnh những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, thời gian qua
công tác ATVSLĐ ở nước ta đã có những chuyển biến đáng kể về hệ thống văn bản
pháp luật và bộ máy tổ chức. Quá trình phát triển sự nghiệp bảo hộ lao động,
ATVSLĐ của nước ta được ghi nhận bởi nhiều thành tựu, những cột mốc quan
trọng, điển hình là việc tăng cường xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp
luật. Trong hơn 20 năm qua, từ khi Bộ luật Lao động (BLLĐ) của nước ta bắt đầu
có hiệu lực, các cơ quan quản lý nhà nước đã tiến hành rà soát nội dung về
ATVSLĐ tại hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở đó, bổ sung, sửa
đổi nội dung Pháp lệnh Bảo hộ lao động, BLLĐ (2002, 2006 và 2012) và mới đây
nhất là Luật ATVSLĐ đã được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 25
tháng 6 năm 2015 (chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2016). Chính phủ và các cơ


2
quan của Chính phủ đã và đang ban hành các nghị định, quyết định, thông tư quy
định chi tiết hướng dẫn thực hiện các chế độ về Bảo hộ lao động, ATVSLĐ và
những vấn đề liên quan. Đồng thời, các Bộ, ngành, địa phương đã tổ chức xây dựng
hàng trăm văn bản và bãi bỏ hiệu lực nhiều văn bản. Tuy nhiên, trong quá trình đó,
nhiều hạn chế, bất cập đã bộc lộ đòi hỏi pháp luật cần được thay đổi để nâng cao
hiệu quả điều chỉnh trong vấn đề ATVSLĐ.
Bộ luật Lao động năm 2012 đã dành hẳn chương IX quy định về ATVSLĐ,
các quy định này đã góp phần xác lập tính pháp lí của công tác ATVSLĐ.
Và với khoảng 394.000 doanh nghiệp đang hoạt động, năm 2017 toàn quốc
xảy ra 8.956 vụ TNLĐ (tăng 975 vụ so với 2016), làm 9.173 người bị nạn, chết 928
người, bị thương nặng 1.915 người, nạn nhân lao động nữ 2.717 người; thiệt hại về

vật chất và tài sản khoảng trên 1.500 tỷ đồng và tổng số ngày nghỉ do tai nạn lao
động là 136.918 ngày. TNLĐ, cháy nổ nghiêm trọng xảy ra cả trong khu vực doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp, dịch vụ và cả trong khu vực phi kết cấu, để lại hậu
quả nặng nề, lâu dài cho NLĐ, gia đình và xã hội; ảnh hưởng rất lớn đến những nỗ
lực phát triển sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và cải thiện môi trường đầu tư.
(Số liệu do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) công bố tại Lễ phát
động Tháng hành động ATVSLĐ lần thứ nhất năm 2017 ngày 18/5/2017).
Với mong muốn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng
pháp luật về ATVSLĐ góp phần bảo vệ tính mạng, sức khỏe cho NLĐ nhất là trong
bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Đó chính là lý do em chọn đề tài "Pháp
luật an toàn lao động, vệ sinh lao động từ thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn"
để làm luận văn tốt nghiệp chương trình Cao học Luật kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật về giải quyết các vấn đề về ATVSLĐ đối với NLĐ đã được hình
thành từ rất sớm ở các nước đang phát triển và được thể hiện ở nhiều công ước quốc
tế của Tổ chức lao động quốc tế (ILO).
Tại Việt Nam, các quy định về ATVSLĐ được thể hiện trong BLLĐ, Luật
Bảo hiểm xã hội (BHXH) và hiện nay là Luật ATVSLĐ. Tuy nhiên, việc giải quyết
các chế độ liên quan đến ATVSLĐ mới chỉ được nhìn nhận và xem xét dưới góc độ


3
coi như một giải pháp nhằm giảm thiểu thiệt hại, hậu quả trong quá trình lao động.
Các nghiên cứu liên quan đến bản chất pháp lý, các tiêu chí rõ ràng để giải quyết
các chế độ liên quan trực tiếp đến NLĐ chưa nhiều. Trong những năm gần đây, có
một số bài báo khoa học, công trình khoa học đề cập tới một số khía cạnh của
ATVSLĐ đối với NLĐ nói chung như: Luận án Tiến sĩ: Hoàn thiện hệ thống tổ
chức và hoạt động chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, của Nguyễn Thị
Chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 2010, ; Luận văn Thạc sĩ: "Quản lý
nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động theo pháp luật Việt Nam", của

Nguyễn Thị Hải Yến, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012; Luận văn thạc sĩ luật:
Bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động theo Luật bảo hiểm xã hội 2014, của Phạm
Đài Trang, Học viện Khoa học Xã hội, năm 2017 …
Tuy nhiên, những công trình trên mới chỉ nghiên cứu về ATVSLĐ ở một
khía cạnh nhất định, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chi tiết, cụ thể từ
thực tiễn thi hành pháp luật về ATVSLĐ tại tỉnh Lạng Sơn.
Kết quả của những công trình trên là những tài liệu tham khảo đặc biệt hữu
ích cho tác giả trong quá trình thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp này.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về ATVSLĐ. Từ
đó, đề ra một số giải pháp nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập của pháp luật, đồng
thời nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ATVSLĐ trên thực tế.
3.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về pháp luật ATVSLĐ, bao
gồm: Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung, nguyên tắc và yếu tố ảnh hưởng đến
pháp luật ATVSLĐ.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật ATVSLĐ và thực tiễn thi
hành tại tỉnh Lạng Sơn; chỉ ra những hạn chế, thiếu sót của pháp luật hiện hành và
nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót đó.
Thứ ba, đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả của pháp luật về ATVSLĐ trong thời gian tới.


4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Về đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là các quy định pháp luật hiện hành
về vấn đề ATVSLĐ và thực tiễn thi hành pháp luật ATVSLĐ được thực hiện tại
tỉnh Lạng Sơn.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt thực tiễn, luận văn tập trung nghiên cứu tình hình thi hành pháp luật
ATVSLĐ tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Số liệu sử dụng trong
phân tích, đánh giá tình hình được lấy từ kết quả điều tra, khảo sát trực tiếp tại Sở
LĐTB&XH, BHXH, Liên đoàn Lao động, một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh…
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử và đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam vào việc nghiên cứu
pháp luật về ATVSLĐ và thực tiễn thi hành tại tỉnh Lạng Sơn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của hệ thống
các quy định của pháp luật về ATVSLĐ của Việt Nam.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được áp dụng để giải quyết các vấn đề
lý luận pháp luật về ATVSLĐ.
- Phương pháp thống kê: Đối chiếu, thống kê, mô hình hóa các số liệu về
ATVSLĐ tại các đơn vị trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Phương pháp chuyên gia: Gặp gỡ để trao đổi trực tiếp, xin ý kiến của các
chuyên gia về lĩnh vực ATVSLĐ đang làm việc tại các cơ quan, ban ngành trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn như: Sở LĐTB&XH, Phòng Tài nguyên và môi trường, Công an
tỉnh Lạng Sơn, Liên đoàn Lao động tỉnh Lạng Sơn và lãnh đạo, những cán bộ làm
bảo hộ lao động, công tác công đoàn tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Ý nghĩa khoa học: các nghiên cứu, đánh giá, đề xuất trong luận văn góp
phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận pháp luật về ATVSLĐ.


5
- Ý nghĩa thực tiễn: luận văn có thể được phục vụ làm tài liệu tham khảo
cho việc học tập, nghiên cứu về những vấn đề có liên quan.

- Ngoài ra, luận văn cũng có ý nghĩa tham khảo đối với NLĐ, người sử
dụng lao động (NSDLĐ) cần tìm hiểu pháp luật về ATVSLĐ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo và Phụ
lục, luận văn được kết cấu gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động và thực tiễn
thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn.
Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động.


6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG, VỆ
SINH LAO ĐỘNG
1.1. Khái niệm và đặc điểm của an toàn lao động, vệ sinh lao động
1.1.1. Khái niệm an toàn lao động, vệ sinh lao động
An toàn lao động là tình trạng nơi làm việc đảm bảo cho NLĐ được làm
việc trong điều kiện không nguy hiểm đến tính mạng, không bị tác động xấu đến
sức khỏe. An toàn lao động luôn gắn với công cụ lao động và phương tiện lao động
cụ thể. Bởi lẽ, để có thể tiến hành sản xuất, kinh doanh thì con người phải sử dụng
công cụ lao động, phương tiện lao động để sản xuất ra sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ.
Công cụ và phương tiện lao động bao gồm từ các công cụ đơn giản đến các máy,
thiết bị tinh vi, hiện đại, từ một chỗ làm việc đơn sơ, thậm chí không có mái che đến
những nơi làm việc trong nhà xưởng với đầy đủ tiện nghi. Chúng ta cần đánh giá,
xem xét mức độ ảnh hưởng của các công cụ, máy, thiết bị, nhà xưởng đối với tính
mạng, sức khỏe con người để đảm bảo môi trường làm việc tốt nhất cho NLĐ. NLĐ
sử dụng công cụ, phương tiện lao động gắn với đối tượng lao động, tiến trình công
nghệ trong sản xuất, môi trường lao động 1.

Vệ sinh lao động có thể hiểu như là một lĩnh vực khoa học, công nghệ
chuyên ngành nghiên cứu việc quản lý- nhận dạng, đánh giá và kiểm soát nguy cơ
của các tác hại nghề nghiệp, các mối nguy hại đối với sức khỏe con người, đề xuất
các biện pháp cải thiện môi trường, điều kiện làm việc nhằm bảo vệ sức khỏe,
nâng cao khả năng lao động và phòng ngừa bệnh nghề nghiệp cho NLĐ. Vệ sinh
lao động có các nhiệm vụ: Nghiên cứu đặc điểm nhận dạng các tác hại nghề
nghiệp, các mối nguy hại đối với sức khỏe NLĐ; nghiên cứu những biến đổi sinh
lý, sinh hóa, tâm sinh lý và căng thẳng do các tác hại nghề nghiệp tác động đến con
người; nghiên cứu các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát nguy cơ của các tác
hại nghề nghiệp; nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn vệ sinh sức
khỏe môi trường điều kiện làm việc, các chế độ và kiểm tra việc thực hiện; nghiên
1. Khoản 2, Điều 3, Luật An toàn, vệ sinh lao động số 84/2015/QH13 ngày 26/6/2015


7
cứu xây dựng các tiêu chuẩn khám tuyển, khám sức khỏe định kỳ và khám bệnh
nghề nghiệp2.
Dưới các góc độ xem xét khác nhau, ta có nhiều cách định nghĩa khái niệm
ATVSLĐ. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, an toàn lao động được hiểu là "tình
trạng điều kiện lao động không gây ra sự nguy hiểm trong sản xuất". Vệ sinh lao
động được hiểu là "tổng thể các tiêu chuẩn môi trường lao động; bảo hộ an toàn lao
động, trang thiết bị bảo hộ lao động, máy móc sản xuất, thiết bị sản xuất, chế độ ăn
uống tối ưu thích hợp với mỗi loại lao động; vệ sinh cá nhân của người lao động;
nhà ở và các tiện nghi sinh hoạt; quản lý sức khỏe cho người lao động và gia đình..." 3.
Nếu hiểu theo nghĩa là một yêu cầu của quá trình sản xuất thì an toàn lao
động là tình trạng không có các yếu tố nguy hiểm, gây chấn thương hoặc tử vong
cho NLĐ, chẳng hạn như: cháy nổ, điện giật, vật rơi, đổ sập, văng bắn, khí độc… và
vệ sinh lao động là yêu cầu về điều kiện, môi trường làm việc của từng loại công
việc, ngành nghề để sức khỏe NLĐ không bị ảnh hưởng xấu. Nếu hiểu theo nghĩa là
biện pháp áp dụng trong sản xuất thì an toàn lao động là tổng hợp các biện pháp

nhằm loại trừ các yếu tố nguy hiểm phát sinh trong quá trình lao động đảm bảo cho
người lao động được làm việc trong điều kiện an toàn. Vệ sinh lao động là hệ thống
các biện pháp, phương tiện về tổ chức và kĩ thuật vệ sinh nhằm phòng ngừa sự tác
động của các yếu tố có hại trong sản xuất đối với NLĐ.
Với cùng ý nghĩa là bảo đảm sức khỏe, tính mạng NLĐ, công tác an toàn
lao động và vệ sinh lao động luôn được tiến hành đồng thời, hỗ trợ nhau, tạo nên
môi trường lao động thuận lợi. Tuy nhiên, cần hiểu đó là hai phương diện khác nhau
của một vấn đề, chứ không nên đánh đồng, nhầm lẫn chúng là một. Sự khác nhau
chủ yếu đó là mục đích cụ thể của chúng. Việc triển khai thực hiện các biện pháp an
toàn trong quá trình lao động có ý nghĩa quyết định trong việc ngăn ngừa TNLĐ và
những sự cố khác có thể phát sinh trong quá trình làm việc gây thiệt hại trực tiếp
cho NLĐ. Còn công tác vệ sinh lao động được đặt ra với các đơn vị sử dụng lao
động nhằm mục đích kiến tạo một môi trường lao động xanh, sạch, trong lành, hạn
2. Khoản 3, Điều 3, Luật An toàn, vệ sinh lao động số 84/2015/QH13 ngày 26/6/2015
3. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, An toàn và vệ sinh lao động


8
chế đến mức thấp nhất các tác nhân vật lí, sinh học, hóa học độc hại, giảm thiểu tình
trạng người lao động mắc các BNN.
1.1.2. Đặc điểm của an toàn lao động, vệ sinh lao động
Một là: an toàn, vệ sinh lao động mang tính chất khoa học, kĩ thuật rõ nét
Đây là tính chất cơ bản của công tác này bởi mọi biện pháp nhằm hạn chế,
loại trừ các yếu tố nguy hiểm, độc hại đều xuất phát trên cơ sở nghiên cứu khoa học,
được thực hiện bằng các giải pháp kĩ thuật, ứng dụng công nghệ. Không phải tự
nhiên mà người ta đề ra được các nội dung ATVSLĐ. Các hoạt động điều tra, phân
tích điều kiện lao động, khảo sát, đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố độc hại lên cơ
thể NLĐ, nghiên cứu các giải pháp đảm bảo an toàn trong từng công việc cụ thể…
đều thuộc về lĩnh vực khoa học. Đồng thời, cũng từ các phát minh, ứng dụng kĩ
thuật mà NLĐ được trang bị các phương tiện bảo hộ cá nhân cần thiết, các thiết bị

vệ sinh trong môi trường chung… Đặc biệt, chính những nguyên lí khoa học, kĩ
thuật là cơ sở để đề ra các tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh mang tính quốc gia, hoặc
trong phạm vi ngành.
Các biện pháp nhằm hạn chế, loại trừ các yếu tố nguy hiểm, có hại đến sức
khỏe NLĐ trong môi trường làm việc đều dựa trên cơ sở khoa học - tự nhiên và
được thực hiện bằng các giải pháp kinh tế. Nó bao gồm các hoạt động điều tra, kiểm
soát điều kiện lao động; phân tích, đánh giá ảnh hưởng các yếu tố nguy hiểm, có hại
đối với NLĐ, giải quyết xử lý điều kiện, môi trường lao động, ban hành các tiêu
chuẩn kĩ thuật về ATVSLĐ đối với từng ngành nghề, lĩnh vực, cải tiến trang thiết bị
kĩ thuật, công nghệ sản xuất… Theo quy định hiện hành, các bộ ngành chức năng
có trách nhiệm phối hợp với nhau trong việc ban hành và quản lý thống nhất hệ
thống tiêu chuẩn, quy phạm về ATVSLĐ. Về hình thức, các quy định tiêu chuẩn về
ATVSLĐ chứa đầy đủ những yếu tố của một quy phạm pháp luật có tính bắt buộc
chung. Bên cạnh đó, về nội dung còn chứa đựng những yêu cầu về mặt kĩ thuật
nghiêm ngặt dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học về ATVSLĐ. Vì tính chất này mà
công tác ATVSLĐ càng phải gắn bó chặt chẽ với hoạt động đầu tư, phát triển
nghiên cứu khoa học, khuyến khích các phát minh phù hợp với thực tế sản xuất,
đem lại an toàn cho NLĐ.


9
Hai là: các yêu cầu về an toàn, vệ sinh lao động mang tính chất pháp lí
Tính chất pháp lí của công tác ATVSLĐ thể hiện ở chỗ muốn các giải pháp
khoa học kĩ thuật, các biện pháp tổ chức ATVSLĐ được thực hiện một cách nghiêm
chỉnh, phải thể chế hóa chúng thành những luật lệ, chế độ, chính sách, tiêu chuẩn,
quy phạm, hướng dẫn để buộc các cấp quản lí, các tổ chức và cá nhân phải nghiêm
túc thực hiện. Chính vì vậy mà công tác ATVSLĐ trở nên bắt buộc phải thực hiện.
Mọi vi phạm về tiêu chuẩn kĩ thuật an toàn, tiêu chuẩn vệ sinh lao động trong quá
trình sản xuất đều bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật về ATVSLĐ và bị xử lí
theo quy định tương ứng.

Trong chế định pháp luật về ATVSLĐ vẫn có một số quy định mang tính
"định khung" khi xác định quyền lợi tối thiểu của NLĐ trong việc thực hiện chế độ
bồi dưỡng bằng hiện vật, hay tiền bồi thường cho người bị TNLĐ, nhưng xét một
cách khái quát và so sánh với các cơ chế điều chỉnh của nhiều chế định khác của
Luật lao động, có thể thấy: Các quy định về ATVSLĐ mang tính "cứng nhắc" hơn
và khó có thể có phần linh hoạt để các bên thực hiện trong hợp đồng lao động
(HĐLĐ) hoặc thỏa ước lao động tập thể. Đó cũng là nguyên nhân khách quan khiến
các chủ thể khi thỏa thuận về điều kiện ATVSLĐ trong HĐLĐ hay thỏa ước lao
động tập thể thường ghi là "theo quy định của pháp luật hiện hành".
Ba là, các yêu cầu về an toàn lao động, vệ sinh lao động mang tính xã hội
Việc thực hiện các quy định về ATVSLĐ đòi hỏi sự tham gia rộng rãi của
tất cả các chủ thể, bao gồm: NLĐ, NSDLĐ, các cơ quan quản lý nhà nước trong
lĩnh vực lao động và các chủ thể khác (như các tổ chức xã hội và các đoàn thể quần
chúng có liên quan). Việc thực hiện đúng, đủ các quy định, tiêu chuẩn về ATVSLĐ
cũng chính là hoạt động đảm bảo ATVSLĐ của mọi chủ thể tham gia quan hệ lao
động. Họ là người thực hiện, giám sát việc thực hiện các quy định và cũng là người
phát hiện các yếu tố nguy hiểm, có hại, từ đó yêu cầu, đề xuất biện pháp giải quyết
nhằm góp phần đảm bảo và cải thiện điều kiện lao động ngày một tốt hơn.
Do vậy, công tác ATVSLĐ chỉ có hiệu quả khi mọi ngành, mọi tổ chức,
mọi cá nhân tự giác thực hiện các quy định của pháp luật về ATVSLĐ. Đó là lý do
tại sao, các quy định về ATVSLĐ thường mang tính xã hội rộng rãi và liên quan
đến nhiều đối tượng trong xã hội.


10
Bốn là, an toàn lao động, vệ sinh lao động đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người lao động.
Ngay từ thời sơ khai, con người đã biết cải tiến công cụ, điều kiện lao động
để tự bảo vệ mình. Do hoạt động sản xuất cũng là một trong những nguyên nhân
gây tác hại đến môi trường sống, cùng với sự phát triển của văn minh nhân loại,

những tiến bộ về trình độ khoa học- kỹ thuật, công nghệ sản xuất cũng tăng lên góp
phần đáng kể vào sự tiến bộ của xã hội nhưng mặt khác lại làm cho môi trường
sống, trong đó môi trường lao động ngày càng xấu đi do những tác động ngày càng
nhiều với các yếu tố nguy hiểm độc hại như phóng xạ, tia tử ngoại….đòi hỏi công
tác ATVSLĐ càng phải được quan tâm chú trọng, phát triển tương xứng.
Lao động an toàn là yêu cầu tất yếu khách quan của quá trình sản xuất. Khi
tiến hành hoạt động sản xuất, NLĐ vừa tác động tới môi trường xung quanh vừa chịu
các tác động ngược trở lại của môi trường nơi họ lao động. Môi trường lao động ngày
càng đa dạng, phức tạp, nguy hiểm đòi hỏi công tác ATVSLĐ phải được quan tâm,
phát triển tương xứng. Điều đó sẽ giảm thiểu các chi phí về y tế và bảo hiểm xã hội
không cần thiết đối với NLĐ bị TNLĐ, BNN; cũng như góp phần bảo vệ môi trường
sống của con người. Hiệu quả của việc thực hiện tốt công tác này góp phần giảm tới mức
thấp nhất sự tiêu hao lao động và những tổn thất về vật chất, con người và môi trường.
Amn toàn vệ sinh lao động là chính sách kinh tế - xã hội lớn, có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc phát triển bền vững và bảo vệ sức khỏe NLĐ. Đặc biệt
trong cơ chế thị trường hiện nay, khi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận là mối quan tâm
hàng đầu của các chủ doanh nghiệp thì vấn đề về an toàn lao động càng trở lên bức
xúc. Điều kiện lao động xấu không chỉ ảnh hưởng đến NLĐ trực tiếp mà còn có tác
động xấu đến thế hệ tương lai. Vì vậy, đảm bảo ATVSLĐ là đảm bảo sức khỏe, tính
mạng NLĐ, duy trì nền sản xuất ổn định và tạo tiền đề góp phần cho sự phát triển
kinh tế- xã hội bền vững.
1.2. Khái niệm, vai trò và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về an
toàn lao động, vệ sinh lao động
1.2.1. Khái niệm pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động
Căn cứ vào những nội dung phân tích tại phần 1.1, tác giả đưa ra khái niệm
pháp luật về ATVSLĐ như sau: ATVSLĐ có thể hiểu là tổng hợp các giải pháp về


11
pháp luật, khoa học kĩ thuật, kinh tế- xã hội nhằm ngăn ngừa các nguy cơ xảy ra sự

cố làm chấn thương và đe dọa tính mạng NLĐ, hạn chế các yếu tố có hại cho sức
khỏe NLĐ trong quá trình sản xuất, nhờ đó đảm bảo cho NLĐ được làm việc trong
điều kiện lao động không có những nguy cơ trực tiếp gây TNLĐ hoặc không có
những yếu tố có hại gây BNN.
Các yêu cầu về ATVSLĐ muốn được triển khai có hiệu quả trong thực tiễn
cần được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật.
Tổng hợp các quy phạm pháp luật về ATVSLĐ có tính chất bắt buộc chung
đối với các đơn vị sử dụng lao động, quy định các điều kiện ATVSLĐ trong môi
trường làm việc, các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục những yếu tố nguy
hiểm, độc hại trong môi trường làm việc nhằm bảo vệ sức khỏe NLĐ, hạn chế TNLĐ
và BNN… chính là pháp luật về ATVSLĐ. Xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt
trong bảo vệ sức khỏe của NLĐ nên việc thực hiện các quy định về ATVSLĐ có tính
bắt buộc cao đối với các đơn vị sử dụng lao động, các chủ thể tham gia quan hệ lao động.
Khi nói đến an toàn lao động là phải gắn với vệ sinh lao động vì trong quá
trình lao động tạo ra sản phẩm hai phạm trù này luôn song hành cùng nhau. Sự phát
triển của an toàn lao động phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế, khoa
học công nghệ và yêu cầu phát triển xã hội của mỗi quốc gia. Vào những thập niên
giữa thế kỷ XX, khi yêu cầu tối thiểu cơ bản của NLĐ trước hết là không bị tai nạn,
bệnh tật khi làm việc, thì mục tiêu chính của ATVSLĐ là phải áp dụng ngay các
biện pháp, nhiều khi là bị động để ngăn chặn tai nạn, bệnh tật chứ chưa thể nghĩ đầy
đủ đến các giải pháp có hệ thống, chủ động kiểm soát nguy cơ gây ra tai nạn, bệnh
tật ngay từ đầu. Cùng với sự phát triển của kinh tế, khoa học và công nghệ, công tác
an toàn, vệ sinh lao động cũng dần chuyển từ đối phó, bị động sang thế chủ động
trong việc quản lý và kiểm soát các nguy cơ một cách có hệ thống, trong đó coi
trọng việc nâng cao văn hóa an toàn và ưu tiên biện pháp phòng ngừa.
Như vậy, có thể thấy pháp luật về ATVSLĐ là một chế định trong hệ thống pháp
luật lao động. Chế định này có tầm quan trọng đặc biệt trong việc bảo vệ NLĐ và được
coi là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống pháp luật lao động ở mọi quốc gia4.
4. Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)



12

1.2.2. Vai trò, ý nghĩa của pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động
Pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động có vai trò, ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Một mặt, nó thể chế hóa đường lối, chính sách của giai cấp lãnh đạo,
cầm quyền của một quốc gia về công tác an toàn và vệ sinh lao động trong từng thời
kỳ. Ở Việt Nam, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta luôn coi việc bảo
đảm an toàn, vệ sinh lao động là lợi ích thiết thực nhất đối với người lao động, được
thể hiện rõ qua Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc qua các nhiệm kỳ. Chẳng hạn, Báo
cáo chính trị trình Đại hội Đảng khóa XI chỉ rõ "Chăm lo bảo hộ lao động; cải thiện
điều kiện làm việc; hạn chế tai nạn lao động".
Khoản 2 Điều 35 Hiến pháp năm 2013 có quy định: "Người làm công ăn
lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương,
chế độ nghỉ ngơi"... Ở các thời kỳ khác nhau, Đảng và Nhà nước có thể có những
đường lối chỉ đạo khác nhau để phù hợp với thực tiễn sản xuất kinh doanh luôn biến
động trong nền kinh tế thị trường và trình độ khoa học kỹ thuật luôn phát triển
mạnh mẽ.
Những quan điểm, đường hướng này của Đảng và Nhà nước cần phải được
thể chế hóa thành các quy tắc xử sự chung cho mọi chủ thể trong xã hội và khi đó
nó mới có thể đi vào cuộc sống. Điều này chỉ có thể được thực hiện thông qua hệ
thống pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Mặt khác, pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động tạo hành lang
pháp lý cho các chủ thể thiết lập và thực hiện quan hệ lao động theo hướng bảo vệ
tối đa an toàn, sức khỏe, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử
dụng lao động. Pháp luật này cũng điều chỉnh hợp lý quan hệ lao động phù hợp với
yêu cầu thực tiễn ở những giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội khác nhau của đất
nước. Pháp luật cũng góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người sử dụng
lao động, người lao động trong công tác phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp, cải thiện điều kiện lao động, chăm sóc sức khỏe người lao động, bồi thường
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.


13
1.2.3. Các nguyên tắc của pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động
Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về ATVSLĐ là những tư tưởng chỉ đạo
xuyên suốt quá trình xây dựng và áp dụng các quy phạm về ATVSLĐ. Pháp luật về
ATVSLĐ có các nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc thứ nhất: Nhà nước thống nhất quản lý về ATVSLĐ
Công tác ATVSLĐ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm an
toàn tính mạng và sức khỏe NLĐ. Nó là yếu tố góp phần duy trì sự phát triển bền
vững của nền sản xuất cũng như của xã hội. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay,
đòi hỏi sự quản lý thống nhất của Nhà nước đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả các
hoạt động quản lý về ATVSLĐ. Đây là một nguyên tắc mang tính Hiến định, được
quy định tại Điều 35 Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể tại BLLĐ 2012: "Chính
phủ quyết định Chương trình quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động, đưa vào kế
hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Nhà nước đầu tư nghiên cứu khoa học, hỗ trợ phát
triển các cơ sở sản xuất dụng cụ, thiết bị an toàn, vệ sinh lao động, phương tiện bảo
vệ cá nhân, khuyến khích phát triển các dịch vụ về an toàn, vệ sinh lao động" 5.
Việc thể chế hóa bằng các văn bản dưới luật về pháp luật lao động nói
chung và về lĩnh vực ATVSLĐ nói riêng đã được ban hành tương đối đầy đủ và
đồng bộ, đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công tác quản lý, chỉ đạo và tổ chức
thực hiện ở các Bộ, Ngành, địa phương, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh
doanh trong sản xuất nông nghiệp và đủ cơ sở pháp lý để đưa các quy định về
ATVSLĐ trong BLLĐ vào cuộc sống.
Các cơ quan quản lý nhà nước trước hết là Bộ LĐTB&XH, Bộ Y tế và các cơ
quan Lao động, Y tế địa phương đã đóng vai trò quan trọng trong việc thể chế hóa các
văn bản dưới luật, tổ chức chỉ đạo và hướng dẫn thi hành. Phối hợp với Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam, Liên đoàn Lao động địa phương triển khai các văn bản pháp

luật về Bảo hộ lao động, ATVSLĐ, tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ chủ chốt của
các Bộ, Ngành, các tỉnh, thành phố, các quận, huyện, cán bộ quản lý các doanh nghiệp.
Bộ máy tổ chức và cán bộ làm công tác Bảo hộ lao động đã từng bước được
củng cố tại các cơ quan quản lý nhà nước. Tại các Bộ và Bộ quản lý ngành, chức
5. Điều 134,135 Bộ Luật Lao động năm 2012


14
năng quản lý ATVSLĐ được giao cho một đơn vị trực thuộc, tùy theo đặc thù của
ngành, lĩnh vực, như: Bộ LĐTB&XH có Cục An toàn lao động là cơ quan tham
mưu cho Bộ quản lý nhà nước về An toàn lao động; Bộ Y tế, chức năng quản lý về
sức khỏe nghề nghiệp được giao cho Cục Quản lý môi trường y tế; Bộ Công
Thương, có Cục Kỹ thuật An toàn - Môi trường công nghiệp; Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn là Cục chế biên nông lâm, thủy sản; Bộ Xây dựng là Vụ
Quản lý hoạt động xây dựng;...
Từ năm 2003, Thanh tra An toàn lao động, Thanh tra vệ sinh lao động (và
Thanh tra chính sách lao động được sát nhập thành Thanh tra lao động thuộc ngành
LĐTB&XH. Ngày 10/7/2008, Bộ LĐTB&XH đã phối hợp Bộ Nội vụ xây dựng và
ban hành Thông tư liên tịch số 10/2008/TTLT-BLĐTBXH-BNV, trong đó quy định
việc thành lập bộ phận quản lý nhà nước, chức năng và quyền hạn về An toàn lao
động tại các địa phương (tỉnh/huyện/xã)6.
Sự quản lý của Nhà nước về ATVSLĐ không chỉ mang tính thống nhất mà
con mang tính chất tập trung dân chủ. Đây là trách nhiệm của các ngành chức năng
và là nghĩa vụ của những chủ thể tham gia quan hệ lao động. Quyền quản lý cao
nhất thuộc về Chính phủ, bên cạnh đó có sự phân công, phân cấp quản lý giữa các
ban ngành chức năng nhằm tạo cơ chế cho các cấp quản lý được phát huy tính chủ
động trong việc thực hiện chức năng quản lý của mình, mang lại hiệu quả cao nhất.
Quản lý nhà nước về ATVSLĐ là một tiền đề pháp lý nhằm thiết lập điều kiện vật
chất cho việc thực thi pháp luật về ATVSLĐ trong thực tế.
Với mục đích đảm bảo về tính mạng, sức khỏe NLĐ nhằm xây dựng một

nền kinh tế - xã hội phát triển bền vững, Nhà nước ta đã và đang cố gắng từng bước
đảm bảo cho NLĐ được làm việc trong môi trường lao động an toàn và vệ sinh phù
hợp với điều kiện hiện có của đất nước.
Nguyên tắc thứ hai: Thực hiện ATVSLĐ là nghĩa vụ bắt buộc đối với các
bên trong quan hệ lao động.
An toàn, vệ sinh lao động là hoạt động mang tính xã hội. Thiếu sự tham gia
của cá nhân, đơn vị và tổ chức, công tác bảo hộ lao động không thể triển khai trong
6. Thông tư liên tịch số 10/2008/TTLT-BLĐTBXH-BNV, ngày 10/7/2008


15
thực tế. Đặc biệt, sự tham gia của các bên trong quan hệ lao động là điều kiện tiên
quyết bảo đảm hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo hộ lao động. Vì vậy, nguyên tắc
đảm bảo nghĩa vụ bắt buộc của các bên trong việc thực hiện bảo hộ lao động là điều
kiện quan trọng để nâng cao tính khả thi của pháp luật.
Người sử dụng lao động là người đầu tư kinh phí và tổ chức các hoạt động
bảo hộ lao động tại cơ sở. Việc NSDLĐ phải chịu chi phí cải tạo điều kiện lao động
đã làm giảm sức cạnh tranh sản phẩm của họ trên thị trường. Điều này gây lên xu
hướng giảm đến mức thấp nhất các chi phí đầu vào trong đó bao gồm cả chi phí
dành cho công tác ATVSLĐ để hạ giá thành sản phẩm. Xét về lợi ích trước mắt,
hoạt động này ảnh hưởng đến lợi nhuận. Nhưng về lâu dài, bảo hộ lao động mang
đến những lợi ích quan trọng như ổn định sản xuất, tăng năng suất lao động, công
nhân yên tâm làm việc, giảm chi phí khắc phục TNLĐ và BNN. Nhưng hiện nay,
không phải mọi chủ sử dụng lao động đều ý thức được vấn đề này nên Nhà nước
nhấn mạnh tính bắt buộc trong việc thực hiện các quy định về ATVSLĐ, coi đây là
nghĩa vụ của NSDLĐ và là một trong những điều kiện để họ được phép sử dụng lao
động. Để các quy định của pháp luật về ATVSLĐ được thực hiện trên thực tế, các
chủ thể tham gia quan hệ lao động bắt buộc phải tuân thủ thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình theo quy định mà pháp luật đã ban hành. Điều đó được quy định rất rõ
tại Khoản 1, Điều 138, BLLĐ 2012 quy định về nghĩa vụ của NSDLĐ: "Người sử

dụng lao động có nghĩa vụ bảo đảm nơi làm việc đạt yêu cầu về không gian, độ
thoáng, hơi, khí độc; bảo đảm các điều kiện an toàn, vệ sinh lao động đối với máy,
thiết bị, nhà xưởng; kiểm tra đánh giá những yếu tố nguy hiểm, có hại tại nơi làm
việc; định kỳ kiểm tra, bảo dưỡng máy, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng". Khoản 2,
Điều 7 Luật ATVSLĐ (Luật số 84/2015/QH13 của Quốc hội thông qua ngày
25/6/2015, có hiệu lực từ 01/7/2016) quy định về nghĩa vụ của NSDLĐ: xây dựng,
tổ chức thực hiện và chủ động phối hợp với các cơ quan tổ chức trong việc bảo đảm
ATVSLĐ tại nơi làm việc thuộc phạm vi trách nhiệm của mình; tổ chức huấn luyện,
hướng dẫn các quy định, nội quy, quy trình, biện pháp bảo đảm ATVSLĐ...7.
7. Khoản 1, Điều 138, Bộ Luật Lao động 2012; Khoản 2, Điều 7 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015


16
Người lao động là một bên trong quan hệ lao động, là người hưởng lợi trực
tiếp từ việc thực hiện ATVSLĐ. Nhưng do chưa nhận thức được vấn đề này một
cách cụ thể, nghiêm túc nên đôi khi NLĐ không tự giác tuân thủ các quy trình
ATVSLĐ. Họ có thể vì những lợi ích trước mắt như lương cao, chế độ phụ cấp
tốt… mà bỏ qua việc thỏa thuận về điều kiện làm việc trước khi kí kết HĐLĐ. Việc
thực hiện các quy định về ATVSLĐ phụ thuộc rất lớn vào ý thức của NLĐ. Vậy
nên, NLĐ cũng cần quan tâm, tìm hiểu các nội dung liên quan đến quyền và nghĩa
vụ của mình trong quan hệ lao động. Khoản 2, Điều 138, BLLĐ 2012 và Khoản 2,
Điều 6 Luật ATVSLĐ quy định về nghĩa vụ của NLĐ.
Các quy định về ATVSLĐ không chỉ có ý nghĩa bắt buộc đối với NSDLĐ
và NLĐ mà còn đặt ra đối với mọi tổ chức, cá nhân liên quan như các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội… Qua đó cho thấy, các quy định về ATVSLĐ có ý nghĩa
bắt buộc đối với tất cả các bên khi tham gia quan hệ lao động. Nguyên tắc này được
quán triệt xuyên suốt trong quá trình xác lập quan hệ lao động cũng như quá trình
thực hiện quy trình lao động, sản xuất. Thực hiện tốt nguyên tắc này trên thực tế sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và hạn chế đến mức thấp nhất các
TNLĐ và BNN có thể xảy ra.

Nguyên tắc thứ ba: Đảm bảo sự tham gia của tổ chức Công đoàn trong lĩnh
vực ATVSLĐ
Công đoàn là tổ chức đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ.
Với quyền hạn, trách nhiệm và cơ chế hoạt động, Công đoàn là tổ chức với chức
năng đại diện cho NLĐ tham gia với cơ quan nhà nước xây dựng pháp luật về bảo
hộ lao động, tiêu chuẩn ATVSLĐ, phối hợp với Nhà nước đề xuất chương trình
nghiên cứu khoa học về bảo hộ lao động; giáo dục, tuyên truyền vận động NLĐ
chấp hành quy định ATVSLĐ; tham gia xét khen thưởng và xử lý việc vi phạm
pháp luật về ATVSLĐ8.
BLLĐ 2012 đã tách hẳn Chương XIII (Điều 188- Điều 193) để quy định về
quyền hạn và trách nhiệm của Công đoàn. Tại Luật Công đoàn năm 2012 cũng quy
định rất rõ trách nhiệm của NLĐ phải tạo điều kiện cho tổ chức Công đoàn được
8. Luật Công đoàn 12/2012/QH13


17
thành lập và đi vào hoạt động. Điều đó cho thấy vai trò vị trí của Công đoàn trong
quan hệ lao động là vô cùng quan trọng trong việc tham gia, phối hợp kiểm tra việc
chấp hành pháp luật về ATVSLĐ. Công đoàn có quyền yêu cầu người có trách
nhiệm tạm ngưng hoạt động ở những nơi có nguy cơ gây TNLĐ, tham gia điều tra
TNLĐ và có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý người có trách
nhiệm để xảy ra TNLĐ. Bên cạnh đó, căn cứ tiêu chuẩn của Nhà nước về ATVSLĐ.
Công đoàn thỏa thuận với NSDLĐ các biện pháp đảm bảo ATVSLĐ và cải thiện
điều kiện lao động, vận động xây dựng phong trào đảm bảo an toàn lao động và tổ
chức mạng lưới an toàn viên, vệ sinh viên. Cùng với đó, Công đoàn còn tham gia
các hoạt động lớn của quốc gia, hàng năm phối hợp tổ chức "Tuần lễ Quốc gia An
toàn, vệ sinh lao động- Phòng chống cháy nổ"9.
Như vậy, tổ chức Công đoàn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động bảo
đảm thực hiện pháp luật về ATVSLĐ cũng như trong việc tuyên truyền nâng cao
nhận thức của NLĐ trong việc yêu cầu và thực hiện pháp luật về ATVSLĐ, trong

việc yêu cầu NSDLĐ xây dựng và bảo đảm điều kiện được ATVSLĐ.
Nguyên tắc thứ tư: Tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về ATVSLĐ trong các
Công ước có liên quan đến ATVSLĐ mà Việt Nam đã phê chuẩn.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tham gia và phê chuẩn rất
nhiều Công ước quốc tế và khu vực, trong đó có nhiều Công ước liên quan đến việc
đảm bảo về ATVSLĐ. Khi xây dựng khung pháp lý và chính sách về ATVSLĐ
Việt Nam tôn trọng và thể hiện trong pháp luật của mình đối với các Công ước mà
Việt Nam đã phê chuẩn10].
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á phê chuẩn Công ước 155 năm 1981 về
ATVSLĐ và môi trường lao động. Với một số ngành nghề kỹ thuật đặc thù, tiềm ẩn
nguy cơ cao về TNLĐ và BNN; ILO đã thông qua một số Công ước - khuyến nghị
về ATVSLĐ như: Công ước 62 năm 1930 về Các quy định an toàn xây dựng; Công
ước 152 năm 1979 về ATVSLĐ đối với bốc xếp tại các cảng biển;..v...v. Đặc biệt,
9. Chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, định kỳ tháng 3 hàng năm, Ban chỉ đạo Tuần lễ quốc gia ATVSLĐ Phòng cháy chữa cháy.
10. Tổ chức Lao động quốc tế, />

18

nhằm bảo vệ đặc biệt cho hai nhóm lao động dễ bị tổn thương, ILO chú trọng đến
nhóm NLĐ là phụ nữ và trẻ em11.
Tính đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn 21 Công ước của tổ chức lao động
quốc tế ILO, chủ yếu tập trung ở nhóm lao động là phụ nữ và trẻ em, các ngành
nghề có kỹ thuật đặc thù, tiềm ẩn nhiều nguy cơ TNLĐ và BNN. Đặc biệt, hiện nay
Việt Nam mới tham gia Công ước số 187 năm 2009 về Khung chính sách thúc đẩy
ATVSLĐ12. Việc gia nhập Công ước này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
Việt Nam, nhằm thúc đẩy những nỗ lực dần dần của quốc gia trong việc cải thiện
điều kiện lao động, ngăn ngừa TNLĐ và BNN thông qua hệ thống chính sách và các
chương trình quốc gia phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
1.3. Nội dung pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động
Những quy định về ATVSLĐ có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ

quyền lợi của NLĐ, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe, tính mạng của NLĐ
trong quá trình lao động sản xuất. Khả năng làm việc và sự sáng tạo của NLĐ cũng
như năng suất và hiệu quả làm việc nói chung phụ thuộc khá nhiều vào điều kiện
làm việc. Điều kiện làm việc bao gồm tập hợp các yếu tố vệ sinh công nghiệp, sinh
lý, tâm lý xã hội và thẩm mỹ có tác động lên trạng thái, chức năng của cơ thể con
người, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng làm việc, quá trình tái sản xuất sức lao
động và hiệu quả làm việc khi đang tham gia quá trình lao động và sau khi kết thúc
quá trình lao động.
Pháp luật về ATVSLĐ đặt ra các quy định về đảm bảo an toàn, vệ sinh
chung đối với NLĐ trong quá trình lao động nhằm xác định trách nhiệm của
NSDLĐ trong việc thiết lập điều kiện lao động thuận lợi đối với NLĐ. Từ đó hướng
tới mục tiêu đảm bảo tại nơi làm việc không tồn tại hoặc tồn tại ở mức thấp nhất các
yếu tố nguy hiểm, độc hại vượt quá giới hạn chịu đựng của NLĐ về tâm, sinh lí và
sức khỏe.
Pháp luật về ATVSLĐ có những nội dung chủ yếu sau đây:
11. Theo Viện khoa học An toàn và vệ sinh lao động, />12. Quyết định số 232/2014/QĐ-CTN ngày 23/1/2014 phê chuẩn để Việt Nam gia nhập Công ước 187,
/>

19
1.3.1. Các quy định về tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh lao động
Tiêu chuẩn ATVSLĐ là các quy phạm quy định về các tiêu chí, chuẩn mực
kĩ thuật, các yêu cầu về vật lí, hóa học, sinh học… để đảm bảo ATVSLĐ sản xuất.
Có hai loại: tiêu chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn ngành. Sự khác nhau chủ yếu chính là
phạm vi áp dụng, tiêu chuẩn quốc gia áp dụng trên toàn quốc còn tiêu chuẩn ngành
áp dụng đối với từng ngành nghề sản xuất nhất định. Các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đã ban hành các loại tiêu chuẩn ATVSLĐ để áp dụng trong những ngành
kinh tế kĩ thuật khác nhau. Đó là căn cứ để thực hiện và đánh giá mức độ ATVSLĐ.
NSDLĐ buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định này, không thể thay đổi hoặc
thỏa thuận thay đổi chúng nhằm phòng ngừa TNLĐ, BNN.
1.3.2. Các quy định nhằm bảo vệ sức khỏe người lao động, hạn chế

những yếu tố không thuận lợi trong môi trường lao động
* Quy định về việc trang bị phương tiện bảo đảm ATVSLĐ
NSDLĐ có trách nhiệm thực hiện việc trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân
cho NLĐ theo quy định của pháp luật. NLĐ trong khi làm việc chỉ cần tiếp xúc với
những yếu tố vật lý xấu; bụi và hóa chất độc hại; yếu tố sinh học độc hại, môi
trường vệ sinh lao động hoặc làm việc với máy, thiết bị, công cụ lao động, làm việc
ở vị trí mà tư thế lao động nguy hiểm dễ gây ra TNLĐ; làm việc trên cao; làm việc
trong hầm lò, nơi thiếu dưỡng khí; làm việc trên sông nước, trong rừng và điều kiện
lao động nguy hiểm, độc hại khác (như: trắc địa, đo đạc, cắm tuyến cầu đường;
quan trắc viên khí tượng mặt đất; vận hành hoặc lái các loại máy, thiết bị khai thác,
xây dựng trong hầm lò; thợ sắt làm việc trong hầm lò; sĩ quan, thuyền viên làm việc
trên tàu vận chuyển xăng dầu...) sẽ được trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân.
* Quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với NLĐ trong quá
trình làm việc
Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được hình thành từ rất
sớm tại các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia có nền công nghiệp sản
xuất phát triển sớm như Anh (Luật Công Xưởng 1883). Năm 1866, tại Đại hội đại
biểu Đệ nhất Quốc tế họp ở Giơnevơ, lần đầu tiên C.Mác đề xướng khẩu hiệu
"Ngày làm 8 giờ". Tiếp đó năm 1884, Mỹ và Canada, 8 tổ chức quyết định công


20
nhân thị ủy vào ngày 01 tháng 5 năm 1886 và bắt đầu làm việc 8 giờ. Ngày
11/4/1919, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) được thành lập theo Hiệp ước Vécxây,
đã thông qua một loạt các công ước về vấn đề thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
Quy định của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi thể hiện rõ
thái độ của Nhà nước đối với lực lượng lao động- nguồn tài nguyên quý giá nhất
của mỗi quốc gia, đồng thời tạo hành lang pháp lý để Nhà nước thực hiện chức năng
quản lý của mình. Đối với NLĐ, việc quy định này tạo điều kiện cho họ thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ trong quan hệ lao động, giúp họ bố trí, sử dụng quỹ thời gian một

cách hợp lý, tăng năng suất lao động và sức khỏe cho cá nhân NLĐ. Đó cũng là căn
cứ pháp lý để NSDLĐ thực hiện quyền quản lý, điều hành, giám sát lao động, đặc
biệt trong xử lý kỷ luật lao động, từ đó tiến hành trả lương, thưởng, khen thưởng và
xử phạt NLĐ.
Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là một trong những quy
định quan trọng của pháp luật lao động. Làm việc và nghỉ ngơi một cách hợp lý có ý
nghĩa to lớn trong việc đảm bảo sức khỏe cho NLĐ cũng như góp phần tái sản xuất
sức lao động và tăng năng suất, hiệu quả trong công việc. Do vậy, quy định về thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi dưới góc độ đảm bảo ATVSLĐ là một vấn đề hết
sức cần thiết và quan trọng.
* Quy định về tiền lương, phụ cấp đối với NLĐ trong điều kiện lao động
không thuận lợi
Nhà nước công bố danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Thông thường hệ số lương của một
nghề, công việc được tính căn cứ vào hệ số phức tạp của công việc hoặc yêu cầu đối
với trình độ, tay nghề của NLĐ. Nhưng với các công việc thuộc danh mục này thì
hệ số lương sẽ được tính căn cứ vào: hệ số phức tạp của công việc hoặc yêu cầu đối
với trình độ của NLĐ; hệ số tiêu hao lao động trong điều kiện lao động không thuận
lợi. Do đó NLĐ làm các công việc nặng nhọc, độc hại được hưởng mức lương cao
hơn bình thường. Doanh nghiệp không phải doanh nghiệp nhà nước được quyền tự
xây dựng thang lương, bảng lương và các khoản phụ cấp lương hoặc có thể áp dụng
hệ thống thang lương, bảng lương và phụ cấp lương theo quy định của Nhà nước.


×