Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

SỨC KHỎE TÂM THẦN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI BỆNH ĐIỀU TRỊ METHADONE TẠI TRUNG TÂM Y TẾ THÀNH PHỐ BẮC GIANG NĂM 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.97 KB, 52 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
----------------------

LÊ THỊ DUNG

SỨC KHỎE TÂM THẦN VÀ MỘT SỐ YẾU
TỐ LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI BỆNH ĐIỀU
TRỊ METHADONE TẠI TRUNG TÂM Y TẾ
THÀNH PHỐ BẮC GIANG NĂM 2019

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG

HÀ NỘI - 2019


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
KHOA KHOA HỌC SỨC KHỎE
BỘ MÔN Y TẾ CÔNG CỘNG
----------------------

LÊ THỊ DUNG

SỨC KHỎE TÂM THẦN VÀ MỘT SỐ YẾU
TỐ LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI BỆNH ĐIỀU
TRỊ METHADONE TẠI TRUNG TÂM Y TẾ


THÀNH PHỐ BẮC GIANG NĂM 2019
Chuyên ngành
Mã số

: Y TẾ CÔNG CỘNG
: 8 72 07 01

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ ANH TUẤN

HÀ NỘI - 2019


3

MỤC LỤC


4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CDTP:

Chất dạng thuốc phiện

CSĐT:

Cơ sở điều trị


DASS:

Thang đánh giá trầm cảm, lo âu, căng thẳng
(Depression Anxiety Stress Scales)

ĐTNC:

Đối tượng nghiên cứu

ĐTV:

Điều tra viên

MMT:

Điều trị thay thế nghiên các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone
(Methadone Mainternance Treatment)

NCMT:

Nghiện chích ma túy

SKTT:

Sức khỏe tâm thần

MLQ:

Mối liên quan


Tp.:

Thành phố

TTYT:

Trung tâm Y tế

UNODC: Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm Liên hợp quốc
(United Nations Office on Drugs and Crime)
WHO:

Tổ chức Y tế thế giới
(World Health Organization)


5

DANH MỤC BẢNG, HÌNH


6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sử dụng ma túy hiện nay đang là vấn đề mà cả xã hội quan tâm, nó len lỏi
vào từng căn nhà, ngõ phố và không loại trừ người nào. Ma túy xâm lấn như vũ bão
trong cộng đồng người với tất cả các tầng lớp trong xã hội, với các lứa tuổi và
không loại trừ nam hay nữ. Theo báo cáo của Cơ quan phòng chống ma túy và tội
phạm Liên hợp quốc (UNODC), năm 2014 ước tính trên thế giới có khoảng 12,7
triệu người nghiện chích ma túy (NCMT) [28]. Tại Châu Á, khoảng 25% đến 40%

người nghiện chất gây nghiện bất hợp pháp và 60% người nghiện các chất dạng
thuốc phiện [26]. Tại Việt Nam tính đến ngày 15/11/2017, cả nước có khoảng
222.582 người nghiện chích ma túy có hồ sơ quản lý. Điều trị thay thế nghiện các
chất dạng thuốc phiện bằng Methadone (MMT) đã được triển khai ở 63 tỉnh, thành phố
trên cả nước với 294 cơ sở điều trị, cung cấp dịch vụ cho 52.818 người bệnh [8].
Methadone là chương trình đã có từ nhiều thập kỷ gần đây, hiện được coi là
phương pháp điều trị “tiêu chuẩn vàng” đối với người bệnh nghiện chất dạng thuốc
phiện, được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia đặc biệt là những quốc gia có thu
nhập thấp và trung bình [27]. Với mục đích giảm tác hại do nghiện các chất dạng
thuốc phiện gây ra và giảm hoạt động phạm tội, giảm sự kỳ thị xã hội, chương trình
điều trị chất dạng thuốc phiện bằng methadone hướng đến đối tượng là người
nghiện chích ma túy. Chương trình này được ghi nhận có hiệu quả tích cực trong
việc giảm sử dụng ma túy và giảm nguy cơ lây nhiễm HIV, cải thiện tình trạng việc
làm, cải thiện sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người nghiện chích
ma túy [12], [23], [24], [27]. Nghiện chất dạng thuốc phiện (CDTP) là một bệnh
mạn tính, điều trị methadone là điều trị lâu dài, phức tạp, liên quan đến tình trạng
thể chất, tâm lý, xã hội đa chiều, đặc biệt vấn đề sức khỏe tâm thần của người điều
trị methadone cũng là một vấn đề mà xã hội chúng ta cần phải quan tâm và hỗ trợ [13].
Tại Việt Nam cũng đã có những chuyên đề về sức khỏe tâm thần (SKTT) đối với
người nghiện chích ma túy, ít nghiên cứu về rối loạn tâm thần trên người bệnh dùng
methadone [2], [21].


7
Tại tỉnh Bắc Giang tính đến ngày 26/7/2018, có 9 cơ sở điều trị (CSĐT)
methadone được đặt tại các huyện/thành phố, đang quản lý điều trị cho 1.118
người bệnh, tổng số ca bệnh đã được điều trị bằng biện pháp này lên hơn
1.900 người [14]. Tháng 11/2015 cơ sở điều trị methadone thuộc Trung tâm Y
tế (TTYT) thành phố Bắc Giang (Tp. Bắc Giang) được thành lập. Tính đến hết
tháng 5/2019 cơ sở đã điều trị lũy tích cho 335 người nghi ện chích ma túy và

hiện tại đang điều trị cho 170 người bệnh [10]. Sức khỏe tâm thần của người
bệnh là một trong các chỉ số phản ánh chất lượng dịch vụ và tác động của dịch
vụ. Đo lường sức khỏe tâm thần của người bệnh đang điều trị methadone ở
đây là rất cần thiết, nghiên cứu sẽ là cơ sở góp phần nâng cao sức khỏe tâm
thần cho người bệnh điều trị methadone. Câu hỏi đặt ra là “Thực trạng sức
khỏe tâm thần của người điều trị methadone ở đây như thế nào và y ếu tố nào
ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của họ?”
Để trả lời câu hỏi này, nghiên cứu “Sức khỏe tâm thần và một số yếu tố liên
quan của người bệnh điều trị Methadone tại Trung tâm Y tế thành phố Bắc Giang
năm 2019” được thực hiện với hai mục tiêu.
1. Mô tả thực trạng sức khỏe tâm thần của người bệnh điều trị Methadone tại Trung

tâm Y tế thành phố Bắc Giang năm 2019.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm thần của đối tượng nghiên cứu.


8

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Chất ma túy

Theo Luật phòng chống ma túy: Chất ma túy bao gồm chất gây nghiện và
chất hướng thần, trong đó:
- Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng
nghiện đối với người sử dụng.
- Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu
sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
Nghiện ma tuý là một rối loạn mạn tính, tái diễn, được biểu hiện bằng

hành vi bắt buộc phải tìm kiếm và sử dụng ma túy bất chấp những hậu quả bất
lợi của việc sử dụng.
1.1.2. Nghiện ma túy

Theo quyết định 3140/QĐ-BYT ngày 30/8/2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế,
người nghiện ma túy là người sử dụng chất ma túy và bị lệ thuộc vào các chất này
[1]. Các triệu trứng của một người nghiện ma túy bao gồm:
a) Thèm muốn mạnh mẽ hoặc cảm thấy buộc phải sử dụng ma tuý nhóm Opiats.
b) Khó khăn trong việc kiểm tra thói quen sử dụng ma tuý nhóm Opiats như
thời gian bắt đầu, kết thúc hoặc liều lượng sử dụng.
c) Xuất hiện hội chứng cai ma tuý nhóm Opiats khi ngừng hoặc giảm đáng kể
liều lượng ma tuý nhóm Opiats đang sử dụng hoặc phải dùng lại ma tuý nhóm Opiats
để làm giảm nhẹ triệu chứng hoặc làm mất hội chứng cai ma tuý nhóm Opiats.
d) Có khuynh hướng tăng liều để chấm dứt hậu quả do liều thấp gây ra.
đ) Sao nhãng các thú vui, sở thích, công việc trước đây bằng việc tìm kiếm
và sử dụng ma tuý nhóm Opiats.


9

e) Tiếp tục sử dụng ma tuý nhóm Opiats mặc dù biết tác hại, thậm chí đã
có bằng chứng rõ ràng về tác hại của ma tuý nhóm Opiats đối với bản thân gia
đình và xã hội.
1.1.3. Methadone

Methadone là một CDTP tổng hợp, có tác dụng dược lý tương tự như các
CDTP khác (đồng vận) nhưng không gây nhiễm độc hệ thần kinh trung ương và
không gây khoái cảm ở liều điều trị, có thời gian bán huỷ dài (trung bình là 24 giờ)
nên chỉ cần sử dụng 1 lần trong 1 ngày là đủ để không xuất hiện hội chứng cai.
Methadone có độ dung nạp ổn định nên ít phải tăng liều khi điều trị lâu dài.

Điều trị thay thế nghiện các CDTP bằng thuốc methadone là một điều trị lâu
dài, có kiểm soát, giá thành rẻ, được sử dụng theo đường uống, dưới dạng siro nên
giúp dự phòng các bệnh lây truyền qua đường máu như HIV, viêm gan B, C, đồng
thời giúp người bệnh phục hồi chức năng tâm lý, xã hội, lao động và tái hoà nhập
cộng đồng [1].
1.1.4. Sức khỏe tâm thần

Sức khỏe tâm thần là một mức độ tâm lý hạnh phúc hoặc không có bệnh tâm
thần. Đó là "trạng thái tâm lý của một người đang hoạt động ở mức độ thỏa đáng về
việc điều chỉnh cảm xúc và hành vi". Từ quan điểm của tâm lý học tích cực hoặc
toàn diện, sức khỏe tâm thần có thể bao gồm khả năng của một cá nhân để tận
hưởng cuộc sống, tạo ra một sự cân bằng giữa các hoạt động cuộc sống và những nỗ
lực để đạt được khả năng phục hồi tâm lý. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), sức
khỏe tâm thần bao gồm "hạnh phúc chủ quan, khả năng tự nhận thức, tự chủ, năng
lực, sự phụ thuộc giữa thế hệ, khả năng tự hiện thực hóa tiềm năng trí tuệ và tình
cảm của một người [25]."WHO tiếp tục tuyên bố rằng hạnh phúc của một cá nhân
được bao hàm trong việc thực hiện các khả năng của họ, đối phó với những căng
thẳng bình thường của cuộc sống, công việc sản xuất và các đóng góp cho cộng
đồng của họ. Sự khác biệt về văn hóa, đánh giá chủ quan và các lý thuyết chuyên
nghiệp khác nhau đều ảnh hưởng đến cách thức mà "sức khỏe tâm thần" được định
nghĩa [25].
Sức khỏe tâm thần được xem là một bộ phận không thể tách rời trong định
nghĩa về sức khỏe (xem WHO, 2001), trong đó sức khỏe tâm thần không chỉ là


10

không bị mắc rối loạn tâm thần, mà còn bao hàm trạng thái thoải mái, sự tự tin
vào năng lực bản thân, tính tự chủ, năng lực và khả năng nhận biết những tiềm
năng của bản thân.

Một số các rối loạn sức khỏe tâm thần thường gặp nhất hiện nay bao gồm:
rối loạn giấc ngủ, trầm cảm, lo âu, stress…
Trầm cảm
Trầm cảm là một chứng rối loạn tâm trạng, gây ra một cảm giác buồn và mất
hứng thú kéo dài dai dẳng.
Nguyên nhân chính xác dẫn đến trầm cảm chưa được xác định rõ, nhưng
từ những biểu hiện của người mắc trầm cảm, có thể nêu ra một số nguyên nhân
chủ yếu như:
- Yếu tố di truyền: Theo một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng có khoảng 46% các
cặp song sinh cùng trứng sẽ cùng mắc trầm cảm. Nếu bố mẹ mắc bệnh trầm cảm thì
sau khi sinh con cái có nguy cơ mắc bệnh trầm cảm cao hơn bình thường.
- Giới tính: Theo các nghiên cứu cho thấy tỉ lệ phụ nữ mắc bệnh trầm cảm
cao gấp 2 lần so với nam giới.
- Do ảnh hưởng bởi một số bệnh: Các bệnh như chấn thương sọ não, tai biến
mạch máu não, u não, sa sút trí tuệ... cũng sẽ là nguyên nhân gây ra bệnh trầm cảm.
Những người mắc các bệnh lý nghiêm trọng như ung thư, đột quỵ, bệnh tim.
- Yếu tố nội tiết: Sự thay đổi chu kỳ kinh nguyệt, mang thai, sẩy thai, giai
đoạn sau sinh, tiền mãn kinh hay mãn kinh cũng chính là nguyên nhân bệnh
trầm cảm ở phụ nữ.
- Những sự kiện chấn động: Sự căng thẳng quá độ đến từ những sự kiện,
những biến động trong cuộc sống thường ngày, sự mất mát người thân, tranh cãi, áp
lực trong công việc hay những mối quan hệ xấu với mọi người xung quanh.
- Mất ngủ thường xuyên: Ngủ quá ít sẽ làm ảnh hưởng đến các triệu
chứng của trầm cảm. Cần duy trì giờ ngủ và thức phù hợp, cả việc đi ngủ đúng
giờ vào mỗi đêm.


11

- Tâm lý bi quan: Nghiên cứu cho thấy những người có tính cách bi quan có

nhiều khả năng bị trầm cảm hơn những người sống lạc quan, vui vẻ và ưa sự chia sẻ.
- Yếu tố văn hoá - xã hội: Những sang chấn tâm lý - xã hội đã góp phần làm
tăng nguy cơ trầm cảm. Tỉ lệ trầm cảm thường thấy tương đối cao ở người nghèo,
dân tộc thiểu số và những người có nguồn trợ cấp xã hội ít ỏi.
Lo âu
Lo âu là trạng thái cảm xúc chủ quan, thoáng qua hoặc dai dẳng (lo âu dai
dẳng thường do đặc điểm nhân cách) khi con người phải đối đầu với một sự đe dọa,
một công việc khó hoàn thành, thường thì các nguyên nhân này không có tính trực
tiếp và cụ thể, mơ hồ, khó xác định, lo âu trở nên bệnh lý khi ta không kiểm soát
được nó, lúc này lo âu gây rối loạn toàn bộ hành vi con người [17], [9], [16].
Có nhiều dạng rối loạn lo âu khác nhau, với các triệu chứng khác nhau. Tuy
nhiên, các dạng lo âu đều có một điểm chung: tình trạng lo âu xảy ra quá thường
xuyên, thái quá, không tương xứng với tình hình hiện tại gây ảnh hưởng đến sinh hoạt
và chất lượng cuộc sống. Những biểu hiện của tình trạng lo âu quá mức hay còn gọi
là rối loạn lo âu bao gồm: cảm thấy căng thẳng, lo lắng, bồn chồn; nhịp tim nhanh,
thở nông, thở gấp; đổ mồ hôi nhiều, tay chân run; luôn cảm thấy mệt mỏi, yếu đuối;
không tập trung, hay lơ đãng; biếng ăn, rối loạn tiêu hóa; mất ngủ, khó ngủ.
Lạm dụng ma túy hoặc rượu có thể làm trầm trọng thêm rối loạn lo âu
tổng quát: Caffeine và nicotine, rượu và các chất ma túy tổng hợp cũng có thể
làm tăng sự lo lắng.
Stress
Stress là một thuật ngữ tiếng Anh bắt nguồn từ chữ La tinh “stringi”, có
nghĩa là “bị kéo căng ra”, được dùng trong vật lý học để chỉ một sức nén mà vật
liệu phải chịu đựng. Đến thể kỷ thứ 17 từ ý nghĩa sức ép trên vật liệu stress
được chuyển sang dùng cho người với ý nghĩa một sức ép hay một xâm phạm
nào đó tác động vào con người gây ra một phản ứng căng thẳng [29]. Hiện nay
stress là một thuật ngữ được dùng rộng rãi, tuy nhiên mỗi tác giả sử dụng với


12

những sắc thái khác nhau.
Theo Hans Selye: Stress là một hội chứng bao g ồm nh ững đáp ứng không
đặc hiệu của cơ thể đối với kích thích từ môi trường bên ngoài [ 18].
Stress bình thường là một tình huống stress nhẹ, đối tượng ch ịu đựng
được và phản ứng thích nghi tốt, đối tượng thu xếp được trạng thái cân b ằng
mới. Stress trở nên bệnh lý khi tình thuống stress xuất hi ện bất ng ờ và quá
mạnh hoặc không mạnh nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần vượt quá khả năng
chịu đựng của đối tượng gây ra các rối loạn cơ thể, tâm thần và ứng xử [ 17].
- Stress kéo dài: Căng thẳng, stress kéo dài sẽ làm mất cân bằng tâm
lý, gặp phải chấn động mạnh về tâm lí như mất người thân hay gặp phải
những chuyện quá sốc.
1.2. Thực trạng nghiện chích ma túy và hậu quả của nghiện chích ma
túy
1.2.1. Thực trạng nghiện chích ma túy

Theo Báo cáo về tình hình ma túy thế giới năm 2012 của UNODC, ước tính
năm 2010 trên toàn cầu có 230 triệu người sử dụng ma túy, trong đó 27 triệu người
có vấn đề nghiêm trọng do sử dụng ma túy; 200.000 người tử vong hàng năm do sử
dụng heroin, cocain và các loại ma túy khác. Trong số, người tiêm chích ma túy
khoảng 20% nhiễm HIV, 46,7% mắc viêm gan C và 14,6% mắc viêm gan B, tạo
thêm gánh nặng về bệnh tật cho toàn cầu [4].
Theo báo cáo của Liên hợp quốc, trong năm 2014 số người nghiện ma túy đã
tăng cao kỷ lục. Theo báo cáo được công bố, trong năm 2014 thế giới có gần 250
triệu người trong độ tuổi từ 15-64 sử dụng ít nhất là một loại ma túy [6]. Số người
trên thế giới sử dụng các chất ma tuý ít nhất 1 lần trong năm 2016 là khoảng 275
triệu người, hay khoảng 5,6% dân số toàn cầu trong độ tuổi từ 15 đến 64. Báo cáo
cho thấy rằng, việc sử dụng ma túy cao nhất trong số những người trẻ tuổi và trẻ từ
12 đến 17 tuổi có nguy cơ nghiêm trọng nhất [19].



13

Tại Châu Á, khoảng 25% đến 40% người nghiện chất gây nghiện bất hợp
pháp và 60% người nghiện các CDTP [26]. Tại Việt Nam tính đến ngày 15/11/2017,
cả nước có 222.582 người NCMT có hồ sơ quản lý, điều trị bằng MMT đã được triển
khai ở 63 tỉnh, thành phố trên cả nước với 294 CSĐT, 52.818 người bệnh [8].
1.2.2. Hậu quả của sử dụng ma túy
Nghiện ma túy không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân người nghiện mà
còn ảnh hưởng lớn đến cộng đồng.
Tác hại đối với cơ thể:
- Đối với hệ hô hấp: Các chất ma túy kích thích hô hấp gây tăng tần số thở
trong thời gian ngắn, sau đó sẽ gây ức chế hô hấp, nhất là khi dùng quá liều.
Nhiều trường hợp ngưng thở nếu không cấp cứu kịp thời sẽ dẫn đến tử vong, đôi
khi ngưng thở rất đột ngột.
- Đối với hệ tim mạch: Các chất ma túy sẽ kích thích làm tăng nhịp tim, ảnh
hưởng trực tiếp lên tim, gây co thắt mạch vành tạo nên cơn đau thắt ngực, nặng hơn
có thể gây nhồi máu cơ tim.
- Đối với hệ thần kinh: Ngoài tác dụng kích thích thần kinh giai đoạn đầu gây
hưng phấn, sảng khoái, lệ thuộc thuốc…, cũng có thể gây các tai biến như: co giật,
xuất huyết dưới nhện, đột quỵ.
- Đối với hệ sinh dục: Người nghiện ma túy dẫn đến khả năng tình dục suy
giảm, và vẫn kéo dài ngay cả khi ngưng dùng thuốc một thời gian khá lâu. Thậm
chí, nếu nam giới dùng ma túy trong thời gian dài sẽ dẫn đến bất lực. Còn ở phụ nữ
sẽ bị rối loạn chu kỳ kinh nguyệt, rong kinh, tăng tiết sữa bất thường và vô sinh.
Tiêm chích ma tuý, dùng chung bơm kim tiêm không tiệt trùng, dẫn đến lây
nhiễm viêm gan vi rut B, C, đặc biệt là HIV.
Ảnh hưởng đến các mối quan hệ:
Ma tuý làm huỷ hoại sức khoẻ, làm mất khả năng lao động, học tập, làm cho
thần kinh người nghiện bị tổn hại. Nghiện ma túy dễ dẫn đến thoái hoá nhân cách,
rối loạn hành vi, lối sống buông thả, dễ vi phạm pháp luật. Mất lòng tin với mọi



14

người, dễ bị người khác lợi dụng, học tập giảm sút hoặc bỏ học, ảnh hưởng đến
tương lai tiền đồ, nếu đã có việc làm thì dễ bị mất việc làm. Bên cạnh đó, người
nghiện ma túy còn mâu thuẫn và bất hoà với bạn bè, thầy cô giáo và gia đình. Ma
tuý còn gây tác hại lâu dài cho con cái, nòi giống: các chất ma tuý ảnh hưởng đến hệ
thống hoocmon sinh sản, làm giảm khả năng sinh hoạt tình dục, ảnh hưởng đến quá
trình phân bào hình thành các giao tử, tạo cơ hội cho các gien độc có điều kiện hoạt
hoá, dẫn tới suy yếu nòi giống.
Ảnh hưởng đến gia đình:
Người nghiện ma túy làm tiêu hao tiền bạc của bản thân và gia đình. Gây tổn
thất về tình cảm. Gia đình tốn thời gian, chi phí chăm sóc và điều trị các bệnh của
người nghiện do ma tuý gây ra.
Ảnh hưởng đến xã hội:
Gây mất trật tự an toàn xã hội, gia tăng các tệ nạn xã hội: Lừa đảo, trộm cắp,
giết người, mại dâm, băng nhóm... Ảnh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục lâu
đời của dân tộc. Làm giảm sút sức lao động sản xuất trong xã hội [5].
Ngoài những hậu quả cho bản thân và cộng đồng, sử dụng ma túy còn gây
nên những gánh nặng về sức khỏe tâm thần. Ước tính khoảng 22,4 % người sử dụng
ma túy nhóm opiat ở Việt Nam bị trầm cảm [22]. Người nghiện chích ma túy bị
cộng đồng kỳ thị, khó khăn tìm kiếm việc làm trong khi họ thường là trụ cột chăm
sóc gia đình [20].
1.3. Chương trình giảm hại và chương trình Methadone
Can thiệp giảm hại đề cập đến các chính sách, chương trình và hoạt động
nhằm mục đích giảm ảnh hưởng có hại về sức khỏe, xã hội và kinh tế của việc sử
dụng các loại thuốc gây nghiện hợp pháp và bất hợp pháp. Các biện pháp can thiệp
giảm hại giúp con người giảm thiểu được tác hại đến sức khỏe, phòng ngừa tử vong
do quá liều và kết nối với các dịch vụ xã hội, y tế khác.

Có 9 nội dung, chương trình trong can thiệp giảm hại bao gồm: (1) Chương
trình bơm kim tiêm; (2) Điều trị thay thế nghiện các dạng thuốc phiện nhóm opiat; (3)
Tư vấn và xét nghiệm HIV; (4) Điều trị ARV; (5) Phòng ngừa và điều trị bệnh lây
truyền qua đường tình dục; (6) Phân phát bao cao su; (7) Truyền thông, giáo dục,


15

cung cấp thông tin cho người nghiện chích ma túy và bạn tình; (8) Phòng ngừa, chẩn
đoán, điều trị viêm gan; (9) Phòng ngừa, chẩn đoán, điều trị lao. Can thiệp giảm hại
mang lại hiệu quả trong phòng chống bệnh truyền nhiễm và cải thiện sức khỏe, làm
giảm nguy cơ bệnh tật cho người nghiện chích ma túy và cộng đồng xã hội [3].
Chương trình methadone lần đầu tiên được đưa vào sử dụng tại Đức từ năm
1939, sử dụng với rnục đích giảm đau trong Chiến tranh thế giới thứ 2. Năm 1964,
tại New York, bác sỹ Maric Nyswnnder và Vincent Dole nghiên cứu về thuốc điều
trị cho những người nghiện heroin, họ phát hiện ra MMT giúp người bệnh ngừng sử
dụng heroin và hầu như không bị tăng liều khi dùng trong thời gian dài, do đó liệu
pháp điều trị duy trì bằng thuốc methadone ra đời. Sau đó MMT lần lượt được đưa
vào sử dụng tại các quốc gia như Mỹ (1965), Hồng Kông (1972), Hà Lan (1980),
Australia (1993), Trung Quốc (2004), Malaysia (2005), Đài Loan (2006), Việt Nam
(2008)... Tính đến nay đã có hơn 80 quốc gia triển khai chương trình điều trị nghiện
các dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế MMT.
Điều trị thay thế hay còn gọi là điều trị hỗ trợ bằng thuốc là việc sử dụng một
loại thuốc tương tự nhưng gặp ít rủi ro hơn, kết hợp với liệu pháp tư vấn và hành vi
để điều trị toàn diện cho người sử dụng ma tuý. Ước tính trên thế giới có khoảng
48,9 triệu người đang sử dụng các dạng thuốc phiện. Các nghiên cứu chỉ ra rằng khi
điều trị rối loạn nghiện ma túy, sự kết hợp giữa thuốc và liệu pháp hành vi là biện
pháp điều trị hiệu quả và thành công nhất. Điều trị thay thế triển khai ngoài cộng
đồng tạo điều kiện về tâm lý, cho phép người bệnh có thể sinh hoạt cùng gia đình
và hòa nhập với cộng đồng [3], Điều trị MMT có hiệu quả tích cực trong việc giảm

sử dụng ma túy, giảm hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV, cải thiện tình trạng việc làm
và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người NCMT [19], [24].
Tại Việt Nam, chương trình MMT thí điểm bắt đầu triển khai từ tháng
5/2008 với 06 trung tâm điều trị tại Hải Phòng và Hồ Chỉ Minh. Tháng 9/2014,
chương trình được triển khai tại 38 tỉnh, thành phố với hơn 120 CSĐT và điều trị
cho 21.317 người bệnh [8]. Đến hết năm 2015, đã có 57 tỉnh, thành phố triển
khai chương trình với 239 cơ sở điều trị, nâng số người bệnh được điều trị lên


16

43.720 người [2].
Năm 2012, sau 04 năm triển khai điều trị MMT, tỷ lệ người bệnh sử dụng ma
túy bất hợp pháp giảm đáng kể, chỉ còn 14% sau 24 tháng điều trị. Tỷ lệ người bệnh
có biểu hiện trầm cảm từ 80% xuống còn 15% sau 12 tháng điều trị. An ninh xã hội
cũng đã được cải thiện đáng kể về trật tự an toàn xã hội ở khu vực có người nghiện
tham gia điều trị. Tỷ lệ người bệnh có hành vi, vi phạm pháp luật giảm từ 40%
xuống 3% sau 9 tháng điều trị. Các mâu thuẫn trong gia đình giảm rõ rệt khi người
bệnh tham gia điều trị, từ 20% xuống còn 3,55% sau 9 tháng điều trị [11].
MMT sử dụng bằng đường uống nên điều trị thay thế nghiện CDTP bằng
MMT là một trong những chương trình can thiệp giảm tác hại hiệu quả nhất trong
dự phòng lây nhiễm HIV cho người NCMT [3]. Điều trị MMT không chỉ dự phòng
lây nhiễm HIV trong nhóm người NCMT mà còn mang lại hiệu quả kinh tế [8].
1.4. Một số nghiên cứu về SKTT người bệnh MMT và các yếu tố liên
quan
1.4.1. Nghiên cứu về SKTT của người bệnh MMT ở Việt Nam
Có nhiều nghiên cứu về người bệnh MMT trong những năm gần đây, tuy
nhiên các nghiên cứu về SKTT thì chưa có nhiều. Trong nghiên cứu của Nguyễn
Thu Trang và cộng sự năm 2016, tỷ lệ người bệnh có nguy cơ rối loạn tâm thần nói
chung và nguy cơ trầm cảm, lo âu và stress ở các mức độ khác nhau lần lượt là

25,2%, 40,0% và 21,5% [13]. Trong nghiên cứu của Nguyễn Minh Tú và cộng sự
về mối liên quan giữa hoạt động thể lực với trầm cảm, lo âu và stress năm 2018,
nghiên cứu sử dụng thang đo hoạt động thể lực toàn cầu (GPAQ) và DASS -21 có
tính tin cậy tỷ lệ có triệu chứng trầm cảm, lo âu và stress lần lượt là 23,5%, 35,8%,
23,8% [15]. Trong nghiên cứu của Catherine Anne Esposito, et al (2009), ước tính
khoảng 22,4% người sử dụng ma túy nhóm opiat ở Việt Nam bị trầm cảm [22].
1.4.2. Các yếu tố liên quan đến SKTT của người bệnh MMT
Trong nghiên cứu của Nguyễn Thu Trang và cộng sự năm 2016, nghiên cứu
cho thấy việc sàng lọc rối loạn tâm thần bằng công cụ chuẩn hoá ở người bệnh
MMT là rất cần thiết [8]; các chỉ số báo cáo SKTT có thể là chất lượng giấc ngủ và


17

liều MMT. Người bệnh có liều MMT trên 120 mg có nguy cơ rối loạn tâm thần cao
hơn 2 lần so với người bệnh có liều dưới 60 mg (OR = 2,4; 95% CI = 1,1 - 5,5) [4].
1.5. Thông tin về địa bàn nghiên cứu
1.5.1. Thông tin chung
Bắc Giang là một tỉnh trung du thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Bắc Giang
nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội, thành phố Bắc Giang là một đô thị loại
II - trung tâm hành chính của tỉnh Bắc Giang, nằm cách trung tâm Hà Nội 50 km về
phía Đông Bắc. Địa giới hành chính: Đông giáp huyện Lạng Giang; Tây giáp
huyện Việt Yên; Nam-Tây Nam giáp huyện Yên Dũng; Bắc giáp huyện Tân Yên. Ở
vị trí trung lộ trên tuyến giao thông huyết mạch (đường bộ, đường sắt liên vận quốc
tế) nối Thủ đô Hà Nội với thành phố Lạng Sơn và cửa khẩu quốc tế Đồng Đăng.
Diện tích tự nhiên 66,73 km gồm 10 phường, 6 xã. Dân số 210.000 người, phân bố
không đồng đều (2018). Thành phố Bắc Giang trước kia và nay được biết đến với
vai trò là một trong những trung tâm lớn của vùng về công nghiệp đạm - hoá chất,
công nghiệp may mặc, đồng thời là trung tâm phân phối, trung chuyển hàng hóa từ
Trung Quốc cho miền Bắc, cũng là nơi tập kết các sản phẩm nội địa xuất khẩu sang

thị trường Trung Quốc. Thành phố Bắc Giang có 02 làng nghề truyền thống, một số
cụm công nghiệp vừa và nhỏ gắn với hệ thống các khu, cụm công nghiệp lớn của
tỉnh liền kề thành phố như: Quang Châu, Đình Trám, Vân Trung, Song Khê - Nội
Hoàng... đó là những thuận lợi cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội và đô thị. Sự
phát triển và lớn dần của nền kinh tế thành phố, cũng là mối e ngại của các nhà chức
trách khi các tệ nạn xã hội phát triển theo, cụ thể tệ nạn ma túy và sử dụng các chất
dạng thuốc phiện.
1.5.2. Tình hình sử dụng chất dạng thuốc phiện tại thành phố Bắc Giang
Thành phố Bắc Giang nơi tập trung số người nghiện ma tuý cao nhất
tỉnh, theo số liệu của TTPC HIV/AIDS Bắc Giang tính đến 31/12/2014 toàn
tỉnh có 1.434 người nghiện ma tuý. Người sử dụng ma tuý có ở 16/16 xã,


18
phường của thành phố, tập trung nhiều tại các phường, xã nh ư: Tr ần Phú,
Trần Nguyên Hãn, Thọ Xương. Theo thống kê 2016, toàn tỉnh Bắc Giang có
186/230 xã có người nghiện ma túy; người nghiện có hồ sơ quản lý là 1.916.
Người nghiện sử dụng Heroin có xu hướng giảm dần, tỷ lệ người sử dụng ma túy
tổng hợp nhóm kích thích dạng Amphetamin ngày càng gia tăng, đến nay số sử
dụng chiếm khoảng từ 40-45%. Người nghiện ma túy tập trung nhiều nhất ở thành
phố Bắc Giang; các huyện có số người nghiện ma túy trên 200 người là: Hiệp
Hoà, Tân Yên, Lục Ngạn [7]. Trên địa bàn thành phố hiện có 03 cơ sở cai nghiện
ma túy tự nguyện nằm trong các đơn vị y tế nhà nước. CSĐT Methadone thuộc
Trung tâm Y tế thành phố Bắc Giang đi vào hoạt động điều trị MMT từ tháng
11/2015, cơ sở đã điều trị thay thế chất dạng thuốc phiện bằng MMT lũy tích cho
326 người NCMT (thực tế hiện đang điều trị tại cơ sở 170 người NCMT) [10].


19


CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHÊN CỨU
2.1. Đối tượng , địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Người bệnh đang điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone
tại CSĐT Methadone Trung tâm Y tế thành phố Bắc Giang.
Tiêu chuẩn lựa chọn:
-

Người bệnh đang điều trị MMT tại CSĐT TTYT Tp. Bắc Giang;

-

Cả nam và nữ;

-

Từ 18 tuổi trở lên;

-

Tự nguyện tham gia nghiên cứu;

-

Bệnh án có đủ một số thông tin cần thiết như thời gian bắt đầu điều trị, liều điều trị,
số ngày không uống thuốc trong tháng, kết quả xét nghiệm ma túy, HIV…
Tiêu chuẩn loại trừ:

-


Người bệnh không có mặt tại CSĐT trong thời gian nghiên cứu (khoảng 2
tuần);

-

Người bệnh đã bỏ điều trị, ra khỏi chương trình, chuyển sang CSÐT khác, từ
CSĐT khác đến uống nhờ, tạm thời tại thời điểm nghiên cứu.


20
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu sẽ được thực hiện tại cơ sở điều trị Methadone TTYT Tp. Bắc Giang.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu từ tháng 2 - 11/2019.
Trong đó:
+ Giai đoạn chuẩn bị từ tháng 2-6/2019,
+ Điều tra thực địa tháng 7-8/2019,
+ Làm sạch số liệu tháng 9/2019,
+ Phân tích số liệu và viết báo cáo tháng 10-15/12/2019,
+ Báo cáo từ 16-31/12/2019.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích. Kết hợp giữa nghiên cứu định tính
và định lượng.
2.2.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Lấy mẫu thuận ti ện, ch ọn toàn b ộ 170 đ ối t ượng nghiên c ứu t ại c ơ
sở nghiên cứu.
2.3. Các biến số và chỉ số nghiên cứu và tiêu chí đánh giá
2.3.1. Bảng biến số và chỉ số nghiên cứu

Bảng 1.1. Tổng hợp các chỉ số, biến số chính
TT

Biến số

Phân
loại
biến

Chỉ số

Phương
pháp thu
thập

A. Thông tin chung
1
2
3
4
5

Tỷ lệ người bệnh phân theo nhóm
tuổi
Tỷ lệ người bệnh phân theo giới
Giới tính
Nhị phân
tính
Trình độ học
Tỷ lệ người bệnh phân theo trình

Thứ bậc
vấn
độ học vấn
Tình trạng
Tỷ lệ người bệnh phân theo tình
Rời rạc
hôn nhân
trạng hôn nhân
Nghề nghiệp
Định Tỷ lệ người bệnh phân theo nghề
Nhóm tuổi

Thứ bậc

Phỏng
vấn


21

danh nghiệp
Mức thu nhập
Tỷ lệ người bệnh phân theo mức
6

Liên tục
thu nhập
nhân/tháng
B. Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng SKTT
Tỷ lệ người bệnh có vấn đề

Phân loại
có/không có
Nhị phân về trầm cảm
7
vấn đề trầm (có/không) Tỷ lệ người bệnh không có
cảm
vấn đề về trầm cảm
Mức độ trầm
Rời rạc
Tỷ lệ người bệnh theo mức
8
cảm
(thứ tự) độ trầm cảm
Tỷ lệ người bệnh có vấn đề về
Phân loại
Nhị phân lo âu
9
có/không có
(có/không) Tỷ lệ người bệnh không có
vấn đề lo âu
vấn đề lo âu
Rời rạc
Tỷ lệ người bệnh theo mức
10 Mức độ lo âu
DASS-21
(thứ tự) độ lo âu
Tỷ lệ người bệnh có vấn đề
Phân loại
11
Nhị phân về Stress

có/không có
(có/không) Tỷ lệ người bệnh không có
vấn đề stress
vấn đề Stress
Rời rạc
Tỷ lệ người bệnh theo mức
12 Mức độ stress
(thứ tự) độ Stress
Có vấn đề về
Tỷ lệ/phân bố người bệnh, có
trầm cảm, lo âu,
Nhị phân; vấn đề về trầm cảm, lo âu,
Stress theo đặc
Rời rạc
Stress theo một số đặc điểm
13 điểm nhân khẩu
nhân khẩu học…
học
C. Mục tiêu 2: Phân tích yếu tố liên quan
P, OR, CI95% giữa các
Mối liên quan giữa các
yếu tố cá nhân (tuổi,
yếu tố cá nhân với vấn
giới, nghề nghiệp, thu
14
Rời rạc
đề trầm cảm, lo âu,
nhập…) với vấn đề
Stress của người bệnh.
trầm cảm, lo âu, Stress

- Phiếu
của người bệnh.
PV;
- P, OR, CI95% giữa các - Bệnh án;
- Mối liên quan giữa các
yếu tố điều trị MMT DASS-21
yếu tố điều trị MMT với
(liều, thời gian, chi phí…)
15
Rời rạc
vấn đề trầm cảm, lo âu,
với vấn đề trầm cảm, lo
Stress của người bệnh.
âu, Stress của người
bệnh.
16 Mối liên quan giữa các Rời rạc - P, OR, CI95% giữa các


22

yếu tố gia đình/xã hội
với vấn đề trầm cảm, lo
âu, stress của người
bệnh

yếu tố gia đình/xã hội
(mối quan hệ, hỗ trợ, kỳ
thị…) với vấn đề trầm
cảm, lo âu, stress của
người bệnh


2.3.2. Tiêu chí đánh giá
Một phần của bộ câu hỏi phỏng vấn người bệnh là thang đo mức độ
trầm cảm, lo âu, căng thẳng tinh thần, sử dụng thang đo chuẩn đã đ ược nhi ều
nghiên cứu sử dụng DASS-21, gồm 21 câu hỏi, trong đó 7 câu h ỏi đo m ức đ ộ
trầm cảm, 7 câu hỏi cho lo âu và 7 câu cho Stress. V ới m ỗi câu h ỏi, thang đi ểm
từ 0 đến 3, tương ứng với 0 = “ Không đúng với tôi chút nào cả” , 1 = “Đúng với
tôi phần nào, hoặc thỉnh thoảng mới đúng” , 2 = “Đúng với tôi phần nhiều,
hoặc phần lớn thời gian là đúng”, 3 = “Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết
thời gian là đúng”. Điểm “trầm cảm”, “lo âu” và “Stress” được tính b ằng cách
cộng điểm các đề mục thành phần, rồi nhân hệ s ố 2, đánh giá phân lo ại theo
bảng sau:
Bảng 1.2. Thang điểm đánh giá mức độ trầm cảm, lo âu, Stress
Mức độ
Bình thường
Nhẹ
Vừa
Nặng
Rất nặng

Trầm cảm (D)
0-9
10 - 13
14 - 20
21 - 27
≥ 28

Lo âu (A)
0-7
8-9

10 - 14
15 - 19
≥ 20

Stress (S)
0 - 14
15 - 18
19 - 25
26 - 33
≥ 34

Ba yếu tố trầm cảm, lo âu, stress ngoài phân tích theo mức độ sẽ được gộp lại
để xác định có hay không vấn đề trầm cảm, lo âu, stress (0 = Bình thường/Nhẹ; 1 =
Vừa/Nặng/Rất nặng), từ đó phân tích các yếu tố liên quan đến có hay không có vấn
đề về sức khỏe tâm thần.
2.3.3. Khung lý thuyết nghiên cứu
Qua tổng quan tài liệu từ các nghiên cứu và tham khảo các văn bản hướng
dẫn điều trị Methadone tại Việt Nam, khung lý thuyết được xây dựng với trọng


23

tâm là rà soát các yếu tố liên quan đến vấn đề sức khỏe tâm thần (cụ thể là trầm
cảm, lo âu, stress) của người bệnh điều trị Methadone, từ đó xây dựng bộ công cụ
phù hợp để có thể thu thập thông tin, đánh giá các yếu tố liên quan này.


24

Yếu tố cá nhân

Thông tin nhân khẩu học: Tuổi, giới, tình trạng hôn nhân, việc làm, thu nhập…
Tiền sử SDMT: thời gian, mức độ dùng
Sử dụng rượu, bia, thuốc lá, ma túy
Điều trị Methadone: liều, thời gian, kinh phí điều trị…

Yếu tố từ cơ sở điều trị methadone SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA NGƯỜI BỆNH METHA
Trình độ, thái độ của nhân viên y tế
Thuận tiện: thời gian mở cửa, khoảng cách
Quy trình, nội quy của cơ sở điều trị
Hỗ trợ của NVYT, dịch vụ chuyển gửi
Sự sẵn có của dịch vụ hỗ trợ liên quan

Yếu tố từ gia đình/cộng đồng
Sự gắn kết với gia đình, họ hàng
Mối quan hệ với bạn bè, cộng đồng
Sự kỳ thị hay hỗ trợ từ gia đình, cộng đồng
Mạng lưới người SDMT ở địa phương…

Hình 1.1. Khung lý thuyết các yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm thần


25
của người bệnh Methadone
2.4. Phương pháp thu thập thông tin
2.4.1. Công cụ thu thập thông tin
Bộ công cụ thu thập thông tin gồm có:


Bộ câu hỏi phỏng vấn: Được thiết kế sẵn, phỏng vấn trực tiếp người bệnh, bao
gồm các thông tin về đặc điểm nhân khẩu; tiền sử sử dụng ma túy, hành vi nguy

cơ và hành vi dự phòng; quá trình điều trị methadone; nhiễm HIV, điều trị ARV
và các bệnh kèm theo (Phụ lục 2: Bộ câu hỏi phỏng vấn người bệnh);



Bản trích lục thông tin bệnh án: để thu thập một số thông tin quan trọng từ bệnh
án điều trị của người bệnh, có thể là nhạy cảm hoặc khó nhớ khi phỏng vấn người
bệnh (Phụ lục 3: Bản thu thập thông tin bệnh án);
Thang đo Dass – 21: Thang đo m ức đ ộ tr ầm c ảm, lo âu và stress
(Phụ lục 2: Bộ câu hỏi phỏng v ấn b ệnh nhân – T ừ G1 đ ến G21)
2.4.2. Các kỹ thuật thu thập thông tin
- Bộ câu hỏi phỏng vấn người bệnh trực tiếp.
- Bản thu thập thông tin b ệnh án.
2.4.3. Quy trình thu thập thông tin và sơ đồ nghiên cứu
- Quy trình thu thập thông tin
Hiện nay, tổng số người bệnh đang điều trị tại cơ sở là 170.
Bước 1: Trao đổi thông tin, đồng thuận với cơ sở nghiên cứu. Gi ới thi ệu
mục đích, quy trình triển khai thu thập số liệu, đảm bảo không ảnh hưởng
đến cơ sở và người tham gia nghiên cứu. Tiến hành chọn đi ều tra viên, t ập
huấn điều tra viên về quy trình nghiên cứu, phương pháp phỏng vấn, thu thập
số liệu bệnh án…
Bước 2: Thu thập danh sách toàn bộ người bệnh đang điều trị tại cơ sở
nghiên cứu, rà soát các thông tin sàng l ọc tiêu chu ẩn người b ệnh đ ể xác đ ịnh
số người bệnh đủ tiêu chuẩn. Kiểm tra tính kết nối giữa mã s ố c ủa ng ười
bệnh ở danh sách và mã số người bệnh ở bệnh án để đảm bảo tính kết nối
phù hợp.
Bước 3: Chọn toàn bộ người bệnh đủ điều kiện để phỏng vấn và thu thập
thông tin bệnh án.



×