Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

triết học trong khoa học tự nhiên tiểu luận chuyên ngành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.09 KB, 13 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề triết học trong các khoa học tự nhiên
đặt ra trong lịch sử loài người không phải do ý muốn tùy hứng của con người mà
do quy luật phát triển tất yếu của tri thức khoa học; do sự tiến bộ mạnh mẽ của
khoa học và sự tăng cường xu hướng thống nhất tri thức khoa học; do yêu cầu
khách quan của cả triết học và khoa học tự nhiên. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề triết
học trong khoa học tự nhiên không chỉ góp phần phát triển triết học mà còn thúc
đẩy khoa học tự nhiên tiến lên.
Triết học Mác ra đời giữa thế kỷ XIX là một cuộc cách mạng triệt để, nó
chấm dứt quan niệm siêu hình tách rời triết học với khoa học tự nhiên hoặc coi
"triết học là khoa học của mọi khoa học", "triết học đứng trên khoa học". Đồng
thời khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa triết học với các khoa học tự nhiên,
rằng các thành tựu của khoa học tự nhiên hết sức quan trọng không chỉ trong đời
sống xã hội mà nó còn là cơ sở khoa học để làm rõ những vấn đề về chân lý, có
tính quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy...
Con người là sản phẩm đặc biệt của giới tự nhiên trên trái đất "Hành tinh
xanh" trong thái dương hệ, vừa là chủ thể nhận thức giới tự nhiên vừa là chủ thể
sáng tạo ra những giá trị của nền văn minh nhân loại. Tìm hiểu, khám phá về giới
tự nhiên nói chung và về sự sống, về con người luôn là đỉnh cao vươn tới của khoa
học tự nhiên và của cả triết học, của tri thức con người. Song luận giải về vấn đề
sự sống, về con người có nhiều quan niệm khác nhau do những điều kiện lịch sử
xã hội, quan điểm giai cấp nhất định. Việc khẳng định vai trò: "con người không
chỉ nhận biết giới tự nhiên mà còn cải tạo giới tự nhiên", chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã cho chúng ta một bức tranh toàn cảnh sinh động về sự sống với những
điều kỳ diệu của thiên nhiên dưới ánh sáng của khoa học sinh học hiện đại mang
lại.
Qua tìm hiểu, được biết vấn đề triết học trong sinh học có nhiều công trình
khoa học công bố dưới dạng khác nhau: như đề tài khoa học cấp Bộ, chuyên đề
khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các bài viết đăng trên tạp chí, sách
báo... Mỗi công trình đều có những giá trị nghiên cứu rất đáng trân trọng, bởi ý
nghĩa lý luận và thực tiễn của nó.


Trong khuôn khổ thời gian cho phép, chúng tôi bước đầu tiếp cận vấn đề này,
và chọn đề tài cho tiểu luận bộ môn Triết học trong khoa học tự nhiên: "Tìm hiểu
một số vấn đề triết học trong sinh học". Đây là vấn đề khó, luôn luôn mới mẻ và
vốn dĩ rất phức tạp. Vậy kính mong được sự quan tâm giúp đỡ chỉ dẫn của các nhà
khoa học và đồng nghiệp để chúng tôi tiếp thu, bổ sung và hoàn thiện một cách tốt
hơn.

0


NỘI DUNG
1. Mối quan hệ giữa triết học và sinh học
+ Trước hết, giữa triết học và sinh học có mối quan hệ lâu đời như bản thân
của triết học. Bởi lẽ, theo nguyên gốc từ tiếng Hy Lạp cổ thì triết học
(philosophia) là yêu mến sự thông thái. Triết học ra đời ở cả phương Đông và
phương Tây (Khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước công nguyên) ở một số trung
tâm văn minh cổ đại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp và dưới ngôn ngữ cổ khác
nhau thì triết học coi là khoa học duy nhất, là con đường dẫn đến lẽ phải, sự hiểu
biết sâu sắc của con người. Dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu triết
học đã là hoạt động tinh thần, biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con
người, nó tồn tại với tư cách như một hình thái ý thức xã hội.
Còn đối với sinh học ra đời sớm do nhu cầu thực tiễn, con người bước vào thế
giới văn minh, do nhu cầu sống, tồn tại và phát triển đã có những quan hệ trực tiếp
với giới tự nhiên, do lao động yêu cầu tiếp xúc với môi trường xung quanh kích
thích của những cơ quan giác quan, của hệ thần kinh trung ương và tiếp xúc với
những loại cây trồng, vật nuôi, là yêu cầu lương thực - thực phẩm ngày một nhiều,
việc sinh con đẻ cái, những bệnh dịch làm chết người khiến đặt ra nhu cầu tìm
hiểu về sự sống, về giới sinh vật, về con người, do đó sinh học ra đời, trở thành
nhu cầu không thể thiếu trong đời sống xã hội của loài người. Sinh học tồn tại như
một nhu cầu tự nhiên, trở thành khoa học tự nhiên.

Vậy mối quan hệ giữa triết học và sinh học thể hiện ở điểm nào?
Có thể nói, giữa chúng có những đối tượng nghiên cứu chung, có những vấn
đề nghiên cứu rất gần gũi, liên quan đến nhau, mặc dù nó được nghiên cứu dưới
góc độ khác nhau, và mục đích khác nhau.
Biểu hiện - thời cổ đại: vấn đề triết học với sinh học là việc giải quyết mối
quan hệ: vật chất, sự sống và trí tuệ. Nếu như sinh học từng bước làm rõ sự sống
có nguồn gốc từ đâu, là gì? sinh vật (thực vật, động vật và con người có cấu tạo từ
cái gì? cấu trúc của các loài động thực vật như thế nào?)... Thì triết học đặt ra vấn
đề vật chất và sự sống cái nào có trước cái nào, giữa trí tuệ và sự sống cái nào có
trước cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Tuy nhiên, điều chúng ta cần làm rõ, đó là triết học có nguồn gốc nhận thức
và nguồn gốc xã hội, về nguồn gốc nhận thức đó là lúc con người đạt trình độ trừu
tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa để xây dựng các học thuyết, lý luận. Về
nguồn gốc xã hội: do lúc lao động phát triển đến mức có sự phân chia thành lao
động chân tay và lao động trí tuệ tức xã hội phát triển đến mức xã hội công xã
nguyên thủy bị thay thế bằng xã hội chiếm hữu nô lệ - chế độ có giai cấp đầu tiên
của nhân loại. Vì vậy, từ khi ra đời, triết học nó đã mang tính giai cấp, nó phục vụ
cho giai cấp thống trị ở xã hội có phân chia giai cấp.
Cho nên, ngay từ thời cổ đại vấn đề vật chất, sự sống và trí tuệ đã xuất hiện,
hai quan điểm trái ngược nhau:
- Quan điểm 1: cho vật chất có trước mới có sự sống, có sự sống con người
mới có trí tuệ, tri thức (quan điểm duy vật).
- Quan điểm 2: cho ý thức, trí tuệ có trước sau mới có vật chất, mới có sự
sống (quan điểm duy tâm).
1


Như vậy, xuất phát từ những đối tượng nghiên cứu tương đối giống nhau song
lý giải ở góc độ triết học lại khác với sinh học do vai trò, chức năng, mục đích
nghiên cứu của nó? Song, điều chúng ta thấy rõ mối quan hệ triết học với sinh học

ngay từ thời cổ đại, nó mật thiết nhau ngay từ khi triết học ra đời.
+ Vấn đề quan hệ sinh học và triết học: được quay trở về vấn đề có bản chất,
vấn đề hàng đầu của nó: sự sống là gì? có nguồn gốc từ đâu? vấn đề sự sống đã tồn
tại từ thời cổ đại đến bây giờ. Sinh học dựa trên những cơ sở lý luận nào do triết
học khái quát, cũng như vai trò thế giới quan, phương pháp luận triết học nào mà
sinh học cần dựa vào sinh học mới có định hướng điều chỉnh đúng trong nghiên
cứu thực nghiệm. Chỉ rõ vai trò của triết học rất cần thiết với sinh học, khái quát
đánh giá về thuyết tiến hóa của Đác Uyn và của sinh học nói chung. Trong tác
phẩm Chống Duy rinh, phần triết học về tự nhiên; giới hữu cơ; Ph.Ăngghen
(1820-1895) viết: "Từ thời La - Mác không những người ta đã thu thập được
những tài liệu phong phú từ lĩnh vực các khoa thực vật học và động vật học cả về
mặt miêu tả lẫn giải phẫu, mà còn xuất hiện hai ngành khoa học hoàn toàn mới, có
ý nghĩa quyết định đối với vấn đề đang thảo luận ở đây, đó là: ngành nghiên cứu
sự phát triển của các mầm thực vật và động vật (phôi thai học) và ngành nghiên
cứu vết tích hữu cơ còn lưu lại trong các lớp vỏ trái đất (cổ sinh vật học). Cụ thể là
người ta thấy có một sự trùng hợp đặc biệt giữa sự phát triển tuần tự của những
phôi hữu cơ thành những sinh vật trưởng thành và cái chuỗi những thực vật và
động vật kế tiếp nhau xuất hiện trong lịch sử trái đất. Và chính sự trùng hợp đó đã
đem lại cho thuyết tiến hóa một cơ sở hết sức chắc chắn. Nhưng bản thân thuyết
tiến hóa còn rất trẻ, nên chắc chắn rằng sự nghiên cứu sau này sẽ phải sửa đổi rất
nhiều những quan niệm hiện tại, kể cả những quan niệm thật sự là của Đác Uyn về
quá trình tiến hóa của các loài" (1).
+ Mối quan hệ giữa triết học và sinh học:
Là mối quan hệ khách quan tất yếu do bản thân thế giới quy định, bởi vì đối
với triết học, vấn đề cơ bản là giải quyết giữa tư duy (trí tuệ) và tồn tại, mà tư duy
chỉ có ở con người; vậy tư duy, trí tuệ có nguồn gốc từ đâu mà vấn đề này thuộc sự
nghiên cứu của sinh học; trong khi đó, ngày nay loài người đang đứng trước những
vấn đề nóng bỏng thời sự, có tính toàn cầu, nhưng vấn đề khía cạnh của sinh học
phải được xem xét dưới góc độ triết học: như nhân bản vô tính, đột biến gen sinh
học, vấn đề con người với ô nhiễm môi trường sinh thái, những bệnh dịch như:

Sarc, H5N1... đòi hỏi cần được nhận thức và giải quyết dưới những góc độ triết
học đúng đắn. Đồng thời, triết học phải dựa trên những thành tựu khoa học sinh
học hiện đại mới có đủ cơ sở để giải quyết một cách triệt để, điều này đã được
A.Anhxtanh viết: "Các khái quát hóa triết học cần phải dựa trên các kết quả khoa
học. Tuy nhiên, một khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng thường rất
ảnh hưởng đến sự phát triển tiếp tục khoa học khi chúng ra một trong những rất
nhiều phương hướng phát triển có thể" (1) và Giáo sư viện sĩ I.G. Pêtrôpxki đã viết:
"những thành tựu của lôgíc toán, của vật lý siêu nguyên tử và của Xibécnetic đã
chỉ ra rằng các quy luật của thế giới khách quan và của việc nhận thức nó phức tạp
hơn rất nhiều so với các đại biểu khoa học tự nhiên siêu hình đã hình dung và đặt
(1)
(1)

C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tr.169.
A.Anhxtanh: Sự tiến triển của vật lý học, tiếng Nga, M, 1965, tr.48.

2


ra hàng loạt những vấn đề mới đối với lý luận và phương pháp luận của khoa học.
Do đó cần phải lý giải về phương diện triết học những thành tựu của khoa học tự
nhiên hiện đại"(2).
2. Một số vấn đề phương pháp trong sinh học
Phương pháp là sự thể hiện mối quan hệ lẫn nhau, biện chứng giữa chủ thể và
khách thể trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nó là
tổng hợp những quy luật phản ánh thực tại khách quan được nhận thức và con
người được con người tự giác sử dụng để tìm ra chân lý và cải tạo hiện thực. Vì
vậy, phương pháp giữ vai trò liên kết giữa thực tiễn và lý luận. Nó hình thành
trong các kết quả nghiên cứu đã đạt được và làm điểm tựa, điểm xuất phát, làm
chỗ lấy đà cho những nghiên cứu mới, những thành tựu và những phát minh mới.

Nhìn lại lịch sử sinh học chúng ta thấy rất rõ điều đó. Trong thời cổ đại, khi
trình độ hiểu biết của con người còn rất hạn chế thì những phương pháp nghiên
cứu cũng rất nghèo nàn. Trong sinh học lúc bấy giờ chưa hình thành (như một
khoa học độc lập) nhưng những nghiên cứu các hiện tượng sinh học đã bắt đầu với
phương pháp phổ biến là quan sát và mô tả. Sự nhận thức sinh học thời ấy hoàn
toàn do các giác quan của con người quyết định. Những người sử dụng phương
pháp này có hiệu quả là Hippơcrát (460-377 TCN), Arixtốt (387-322 TCN),
Vtêapơrát (372-286 TCN) là những nhà triết học đầu tiên trong lịch sử triết học đã
dùng phương pháp mô tả để phân loại các loài sinh động vật mặc dù nó còn rất
đơn giản.
Cùng với sự tích luỹ và phát triển của tri thức, con người đã tìm ra những
phương pháp mới, đáng kể nhất là phương pháp giải phẫu. Việc sử dụng các dụng
cụ đơn giản như dao, kéo,... đã cho phép đi sâu vào những cấu tạo bên trong của
cơ thể. Galiêng khoảng (129-204) hay Hoa Đà (thời kỳ Tam Quốc - Trung Quốc)
đã dùng phương pháp này để nghiên cứu các loài vật, đặc biệt là loài khỉ có cấu
tạo cơ thể rất gần với cơ thể người.
Tuy nhiên, trong suốt thời kỳ trung cổ việc nghiên cứu các vấn đề sinh học
cũng như tất cả các nghiên cứu khoa học khác đã bị tôn giáo chặn đứng lại, khoa
học hoàn toàn bị chôn chân trong thần học. Chỉ giai đoạn phục hưng các phương
pháp trên đây mới lại được sử dụng và nâng cao nhờ sự đóng góp quan trọng của
Lêona đờ vanh xi (1452-1519), A.Vedar (1511-1561), Mác vây (1578-1657),
Miken lăng giê lô... những "người khổng lồ" của giai đoạn này đã có công lớn
trong việc giải thoát nhân loại khỏi bức màn đen của giáo hội. Nhưng vào giai
đoạn này, nhất là từ thế kỷ XVII trở đi, vấn đề phương pháp đã nổi lên hàng đầu.
Triết học thời kỳ cận đại đã thấy nhu cầu đó và sẵn sàng đáp ứng. Vì vậy, những
tác phẩm lớn bàn về phương pháp đã xuất hiện. Phương pháp được Ph.Bêcơn
(1561-1626) coi là ngọn đèn pha soi đường cho người đi trong đêm tối. Do ngành
cơ học phát triển: xuất hiện phương pháp mổ xẻ để xem xét sinh vật. Phương pháp
cũng đã đi sâu nghiên cứu bản thân sinh học nhưng còn siêu hình. Về phương diện
triết học nhiều nhà triết học quan niệm hoạt động của con người như những cỗ

máy. Phương pháp quy nạp do chính Ph.Bêcơn đề xuất và phương pháp diễn dịch
toán học do R.Đề các (1596-1650) xây dựng đã đáp ứng nhu cầu của các khoa học
(2)

I.G.Pêtrôpxki: Tuyển tập "Triết hcọ của chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa thực chứng mới" (tiếng Nga,
M, 1963, tr.5).

3


kinh nghiệm và của toán học suốt một thời gian dài hàng mấy thế kỷ phương pháp
phân tích đã thống trị trong tất cả các khoa học, kể cả sinh học.
Thời kỳ cận hiện đại, với sự ra đời của kỹ thuật hiển vi, sinh học đã bước
sang giai đoạn nghiên cứu tế bào và các cơ quan cơ thể con người. Chính nó đã
dẫn đến một trong ba phát minh vĩ đại của khoa học thế kỷ XIX. Đồng thời, từ
cuối thế kỷ XVIII trở đi người ta đã tích luỹ được một khối lượng tài liệu lớn về
giới tự nhiên sống, tư tưởng phát triển xâm nhập vào khoa học tự nhiên. Các
phương pháp đã có không còn đủ nữa. Phương pháp lịch sử ra đời đã đưa sinh học
lên một bước phát triển mới, sang một giai đoạn mới, giai đoạn nghiên cứu giới tự
nhiên sống trong sự phát triển biện chứng của nó, giai đoạn hình thành lý thuyết
tiến hóa của S.Đácuyn (1809-1882).
Bằng phương pháp lịch sử, ông đã sắp xếp các loài sinh vật qua các giai đoạn
lịch sử khác nhau. Nhờ phương pháp lịch sử này, ông đã gắn kết vẽ ra các nhánh
tiến hóa khác nhau của các loài sinh vật. Dựa trên phương pháp lịch sử Đác uyn đã
xây dựng nên tác phẩm bất hủ "Nguồn gốc các loài" xuất bản 1859. Tác phẩm đó
đã kết liễu những quan niệm coi loài là những cấu tạo không biến đổi và mở đầu
cho một sự nhận thức khoa học mới về các quy luật phát triển của thế giới hữu cơ
như là quá trình lịch sử. "Đác uyn đã phát hiện ra quy luật phát triển của thế giới
hữu cơ"(1), "đã đánh đổ hẳn được quan niệm cho rằng những loài động vật và thực
vật là không có liên hệ gì với nhau cả, là ngẫu nhiên mà có, là do "thượng đế tạo

ra" và là bất biến, và ông là người đầu tiên đã làm cho sinh vật học có một cơ sở
hoàn toàn khoa học" (2). Chính những công trình khoa học sinh học của Đác uyn đã
cung cấp cơ sở khoa học cho phép biện chứng duy vật của C.Mác - Ph.Ăngghen,
góp phần đánh đổ quan điểm siêu hình cho rằng trong thế giới tự nhiên các loài
sinh vật phát triển một cách từ từ. Phương pháp của Đác uyn thực sự là "một cuộc
cách mạng căn bản hơn tất cả các cuộc cách mạng trí tuệ trong lịch sử nhân
loại"(3).
+ Sinh học hiện đại bao gồm nhiều ngành khoa học khác nhau, như:
- Sinh học đại cương.
- Sinh học thực nghiệm.
- Sinh học phân tử.
Cho nên, sinh học hiện đại còn biết đến nhiều phương pháp khác nhau như:
- Phương pháp mô hình hóa (bản đồ gen).
- Phòng xạ (các bon 14).
- Hiển vi điện tử...
Sinh học "phải khảo sát tất cả các hình thức biểu hiện của sự sống, từ hình
thức thấp nhất cho đến hình thức cao nhất" (4).
Tóm lại, đối với sinh học không được tuyệt đối các phương pháp nào mà coi
nhẹ các phương pháp khác.
Nguyên tắc của phép biện chứng duy vật đối tượng quy định phương pháp
vẫn còn giá trị cho tới ngày nay.
(1)

C.Mác - Ph.Ăngghen. Tác phẩm, tập 19, Nxb lần thứ hai tiếng Nga, tr.300.
V.I.Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M., 1974, tr.165.
(3)
O.Mate. Sự thay đổi những quan niệm do cuộc cách mạng của Đác uynh gây nên. Tác phẩm
"Rút từ sinh học", nxb khoa học (tiếng Nga), 1975, t.5, tr.3.
(4)
Ph.Ăngghen, Chống Duy rinh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1969, tr.111.

(2)

4


3. Sự sống dưới ánh sáng của khoa học hiện đại, nhất là sinh học
3.1. Các quan niệm trước Ph.Ăngghen
+ Quan niệm duy tâm tôn giáo: cho rằng trí tuệ, tinh thần, thượng đế có
trước, sự sống có sau.
Chẳng hạn: những quan điểm, khái niệm "lực sống", hay "sức sống", thuyết
"sức sống" (Vitalism) bắt nguồn từ triết học cổ Hy Lạp (Platôn, Arixtốt), sau này
được A.I.Ôparin xây dựng cơ sở khái niệm "Thuyết sức sống mới" và Đrixơ phát
triển. Ví dụ: trong cuốn sách: "Vật chất, tinh thần và con người" E.Sincốt khẳng
định rằng "giá trị không sống là nhờ chỗ nó được tổ chức và điều khiển bởi một
khởi nguyên sáng tạo đặc biệt, khởi nguyên đó là một trong những thuộc tính của
thượng đế"(1). Ví dụ: ở Mỹ có ngành "Thần tạo học" cho rằng có vị thần sáng tạo ra
sự sống.
- Cũng có quan niệm cho rằng sự sống từ khi khai thiên lập địa vốn tự thân,
tồn tại tự thân như nó có, đây là những quan điểm siêu hình.
- Đến giữa thế kỷ XIX: do khoa học phát triển, nhưng chưa đủ căn cứ trả lời
câu hỏi này, vì thế cuối thế kỷ XIX, những phát minh của Đác uyn cũng chưa trả
lời rõ nguồn gốc, bản chất của sự sống.
- Cho đến Đuy rinh: đã dùng mục đích luận để giải thích sự sống. Biện hộ cho
chủ nghĩa duy linh, ví dụ ông ta viết: "Một cách chắc chắn rằng những bản năng...
được tạo ra chủ yếu là nhằm có được sự thỏa mãn gắn liền với những hoạt động
của những bản năng ấy", hay: "giới tự nhiên đáng thương" luôn luôn buộc phải
chỉnh đốn lại trật tự của thế giới vật thể"", ngoài ra nó lại còn nhiều công việc
khác "đòi hỏi nó phải tinh tế hơn người ta vẫn quen tưởng"... (2).
+ Quan điểm duy tâm về sự sống, sau này có G.Sơram, O.Cun, I.Haxơ... quả
quyết cho rằng sự sống bắt nguồn không phải từ chính bản thân vật chất. Không

thể có sự sống nếu thiếu sự tham gia của lý trí trừu tượng, của tác nhân siêu vật
chất.
Bên cạnh thuyết sức sống mới, chủ nghĩa Tô mát mới cũng cho rằng chỉ có
thể hiểu được đặc trưng của vật chất sống bằng cách thừa nhận sự sáng tạo của
thượng đế.
Tóm lại, nhìn chung quan điểm của Thuyết sức sống mới, chủ nghĩa Tô mát
mới và các trào lưu duy tâm khác tựu trung lại là phủ nhận nguồn tốc tự nhiên của
sự sống, phủ nhận tính vật chất của các hiện tượng sống, phủ nhận sự phát triển
của vật chất và nguyên tắc tiến hóa của vật chất từ đơn giản đến phức tạp, từ
không sống đến sống. Tất cả các trào lưu ấy đều thừa nhận sự chi phối có tính chất
quyết định của yếu tố siêu vật chất của sự sống.
3.2. Quan điểm duy vật biện chứng của Ph.Ăngghen
+ Đến đầu thế kỷ XIX các khoa học tự nhiên đã có bước phát triển về chất,
vào lúc đó hóa học tổng hợp được các cấu trúc phân tử hóa học, tạo tiền đề cho tư
tưởng khoa học Ph.Ăngghen ra đời. Trong 2 tác phẩm: Biện chứng của tự nhiên và
chống Đuy-rinh, Ph.Ăngghen đã đưa ra quan điểm rất mới về sự sống, điều đầu
(1)
(2)

E.V.Sinnốt, Sđd, Newyork, 1957, tr.64.
C.Mác - Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 20, tr.99.

5


tiên mà ông khẳng định: sự sống nhất định xuất hiện bằng con đường hóa học.
Điều đó chứng tỏ sự sống có bản chất là vật chất.
Ph.Ăngghen đã đưa ra một định nghĩa về sự sống; rằng: "Sự sống là phương
thức tồn tại của những thể a-bu-min, và phương thức tồn tại này về căn bản, bao
hàm ở sự thường xuyên tự đổi mới của các thành phần hóa học của những thể

ấy"(1), "bất cứ ở chỗ nào mà chúng ta thấy có sự sống thì chúng ta thấy rằng sự
sống gắn liền với một thể a bu min, và bất cứ ở chỗ nào mà chúng ta thấy có một
thể a bu min không nằm trong quá trình phân hủy thì ở đó, không ngoại lệ, chúng
ta cũng thấy những hiện tượng của sự sống" (1) và "sự sống - phương thức tồn tại
của thể a bu min - trước hết là ở bất cứ lúc nào nó cũng vừa là chính nó đồng thời
vừa là cái khác; và như thế không phải do một quá trình nào tác động từ bên ngoài
vào nó, như điều thường xảy ra đối với vật thể chất..." (2).
Như vậy, quan niệm của Ph.Ăngghen về sự sống có 3 ý:
- Sự sống có bản chất vật chất.
- Sự sống là "cái mang" vật chất đó là các thể a bu min.
- "Cái mang" vật chất có cấu trúc, cấu trúc bị phân hủy thì sự sống bị phân
hủy và có thể bị tiêu diệt.
+ Ý nghĩa định nghĩa về sự sống của Ph.Ăngghen:
Sinh thời, Ph.Ăngghen đã nói về định nghĩa sự sống của mình, ông viết:
"Đứng về một khoa học mà nói, thì mọi định nghĩa đều chỉ có một giá trị nhỏ thôi.
Muốn hiểu biết một cách thực sự thấu đáo về cuộc sống chúng ta phải khảo sát tất
cả các hình thức biểu hiện của sự sống, từ hình thức thấp đến hình thức cao nhất.
Nhưng, đối với sự vận dụng thường ngày thì những định nghĩa như trên lại rất tiện
lợi và đôi khi không có nó thì không được" (3).
Về triết học:
- Định nghĩa về sự sống của Ph.Ăngghen đã đánh đổ quan điểm duy tâm, siêu
hình về sự sống.
- Là cơ sở lý luận cho nghiên cứu khoa học và sinh học nói riêng ở thế kỷ XX
và ngày nay.
- Muốn nghiên cứu tìm hiểu sự sống phải dựa vào những thành tựu khoa học
khác như hóa học, vật lý, nhân chủng học...
+ Khoa học hiện đại đã xác minh chắc chắn rằng về mặt phát sinh vật chất
sống hình thành từ vật chất không sống, về mặt cấu trúc vậtc hất cũng bao gồm các
phân tử, nguyên tử và các bộ phận tạo nên nguyên tử - hạt nhân và điện tử. Ngày
nay, khoa học hiện đại chứng minh AND, ARN, các nguyên tố C,H,O,N và cơ sở

của cấu tạo sinh vật. Như vậy, càng khẳng định luận điểm của V.I.Lênin cho rằng
trong cái sống không có gì khác ngoài những nguyên tử hay điện tử hợp thành cơ
sở của cái không sống, cũng là cơ sở của khoa học tự nhiên... Cái khác nhau giữa
hai lĩnh vực này, theo quan điểm duy vật biện chứng, chỉ là hình thức tổ chức đặc
biệt, trong trạng thái đặc biệt, trong trật tự đặc biệt và các quy luật hoạt động của
chúng.
(1)
(1)
(2)
(3)

Sđd,
Sđd,
Sđd,
Sđd,

tr.113.
tr.119.
tr.120.
tr.121.

6


Tóm lại, định nghĩa về sự sống của Ph.Ăngghen và quan điểm của Lênin về
sự sống cho ta một mẫu mực về phương pháp tư duy sáng tạo khoa học, nó trang
bị cho những nhà sinh học hiện đại thế giới quan duy vật biện chứng, rằng chỉ có
dưới ánh sáng chủ nghĩa duy vật biện chứng, sinh học hiện đại mới thực sự phát
huy vị trí của nó, những thành quả của nó đem lại mới thiết thực phục vụ đời sống
xã hội của con người.

4. Tính thống nhất của thế giới hữu cơ trên cơ sở của sinh học hiện đại
Tuy sinh học phân tử hiện đại là một trong những ngành khoa học sinh học
non trẻ nhất nhưng những thành tựu của nó đã góp phần giải quyết những vấn đề
thực tiễn của y học, nông nghiệp, công nghiệp, kỹ thuật. Nó góp phần làm sáng tỏ
hơn nhiều vấn đề quan trọng trước những đòi hỏi của thực tiễn, như vấn đề nguồn
gốc và bản chất của sự sống. Những thành tựu của sinh học phân tử còn là một
chứng minh rất thuyết phục cho luận điểm của triết học Mác - Lênin về sự thống
nhất của thế giới nói chung, của thế giới hữu cơ nói riêng, ở tính thống nhất vật
chất của nó.
Khi phê phán quan điểm sai lầm của E. Đuy rinh cho rằng tính thống nhất của
thế giới là ở sự tồn tại của nó, Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Tính thống nhất của
thế giới không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của sự thống nhất
của nó, vì trước tiên thế giới phải tồn tại đã rồi sau mới có thể thống nhất" và "tính
thống nhất chân chính của thế giới là ở tính vật chất của nó, tính vật chất ấy được
chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà do
một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên" (1).
Những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX như Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, Thuyết tiến hóa, Thuyết tế
bào... càng khẳng định những quan điểm duy vật biện chứng của triết học Mác Lênin bởi tính đúng đắn của nó.
Ví dụ: Thuyết tế bào chứng minh sự tác động qua lại của thế giới động vật và
thực vật, mặc dù trước đó quan điểm và thế giới tách biệt nhau. Nhưng thuyết tế
bào chứng minh thế giới động vật và thực vật có tính thống nhất ở cấu trúc tế bào.
Sau này khi di truyền học ra đời, những phân tử được giải mã đã làm cơ sở phân
tích nguồn gốc các loài động, thực vật, điều mà trước đó Đác uyn chưa thể làm
được.
+ Sinh học phân tử đã chứng minh tất cả các cơ thể từ đơn giản nhất đến
những cơ thể có cấu trúc phức tạp nhất đều có sự thống nhất:
- Về cấu trúc.
- Về thành phần hóa học.
- Về chức năng.

- Về phản ứng miễn dịch.
Do đó, người ta mới khi ra vắc xin và thử nghiệm trên khỉ, sau đó mới đưa
vào sử dụng cho con người. Sinh học phân tử cũng đã chứng minh tất cả các
nguyên tố hóa học có mối quan hệ phổ biến (VD: vi khoáng, Cu, Fe, Mg, Au,
Ca...).
- Sự khác nhau của các cơ thể chỉ là trình tự các liên kết của nó.
(1)

Sđd, tr.67.

7


Như vậy, nghiên cứu sự sống ở trình độ phân tử thế giới hữu cơ, thế giới vô
cơ về mặt cấu trúc vật chất là thống nhất với nhau.
+ Từ sự khẳng định về sự thống nhất về cấu trúc của thế giới vật chất các
ngành khoa học hiện đại nghiên cứu khẳng định thế giới thống nhất tính chức
năng. Sinh học hiện đại chứng minh tất cả các cơ thể động thực vật đều có quá
trình sinh hóa... tương tự nhau, chẳng hạn quá trình tổng hợp Prôtêin thì hoàn toàn
giống nhau. Hay quá trình sinh sản trong thế giới động vật đều có quá trình giống
nhau (phân đôi phân tử). Nhưng con người là sinh học hoàn thiện nhất, vì nó được
nhân tính hóa, xã hội hóa.
Như vậy, sinh học phân tử hiện đại đã góp phần chứng minh tính thống nhất
thế giới ở trình độ phân tử khác trình độ vĩ mô. Chẳng hạn, khi phân tích sinh vật
ở trình độ phân tử người ta thấy những quá trình phân hóa, miễn dịch giống nhau.
Nghĩa là, các sinh vật giống nhau cả cấu trúc, chức năng mà còn cả phản ứng hóa
học. Cái quy định sự giống nhau này là cấu trúc tổ chức cơ thể giống nhau quy
định. Cũng vì vậy, khi có khuyết tật về cấu trúc cơ sẽ dẫn đến phản ứng khác nhau,
thậm chí có thể bị đào thải.
+ Thành tựu của khoa học sinh học phân tử đã đem lại những bằng chứng mới

ở mức độ tinh vi hơn về sự thống nhất của thế giới hữu cơ - mức độ phân tử. Như
J.Bécnan - nhà sinh hóa học nổi tiếng người Anh đã viết: "nhờ những thành tựu
của sinh hóa học và sinh học phân tử mà chúng ta đã hiểu rằng sự sống trên trái
đất gần như có một sự thống nhất. Không những mọi cơ thể đều có họ hàng về mặt
di truyền với nhau như Đác uyn đã nói mà ngay cả bản thân các phân tử cấu tạo
nên chúng cũng có các tổ hợp của các phân tử nhỏ có nguồn gốc phát sinh tự
nhiên. Con cháu các phân tử đầu tiên có trong "dịch ban đầu" hay - có lẽ đúng hơn
của các cao phân tử đã sinh ra từ các phân tử này ở giai đoạn thứ hai khi lần đầu
tiên đã xuất hiện một quá trình có tầm quan trọng - quá trình sao chép phân tử" (1).
Về nhận thức chung có tính nguyên tắc đó là di truyền thống nhất là nguồn
gốc chung, là nguyên nhân tồn tại chung của các hình thái của sự sống. Tuy nhiên,
như Lênin nói: "... tự nhiên là vô tận", thông tin di truyền tập trung trong nhân tố
tế bào, trong phân tử AND và ARN, nhưng hiện tượng di truyền không chỉ giới
hạn ở đó. Bởi di truyền tế bào học đã có những bằng chứng xác định về sự di
truyền ngoài nhân, di truyền tế bào chất. Điều đó chứng tỏ rằng ở đây cũng còn
nhiều bí mật. Chắc chắn những nghiên cứu tiếp theo sẽ đem lại những điều bổ ích,
nhiều chi tiết mới, có khi rất quan trọng - giúp chúng ta hiểu biết thêm quá trình tiến
hóa và bản chất của sự sống. Chính vì lẽ ấy mà có thể nói rằng trong tương lai vấn đề
sự sống được giải quyết ra là tùy thuộc nhiều vào kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực
sinh học phân tử nói riêng và sinh học nói chung.
5. Con người dưới ánh sáng của khoa học sinh học
+ Con người là một thực thể sinh học - xã hội. Tuy rằng, con người đã bỏ xa
giới động vật trong quá trình tiến hóa nhưng như thế không có nghĩa là con người
đã lột bỏ tất cả những cái tự nhiên, cái sinh học đó không còn một sự liên hệ nào
với tổ tiên của mình. Vì vậy, khi xem xét con người thì mối quan hệ giữa yếu tố
sinh học và yếu tố xã hội trong quá trình phát triển cá thể có tầm quan trọng đặc
biệt. Nghiên cứu vấn đề con người dưới góc độ khoa học sinh học có ý nghĩa to
(1)

J.Béc nan: Sự xuất hiện của sự sống, Mátxcơva, tiếng Nga, t.5, 1969, tr.204.


8


lớn, nó phát huy nhân tố nội lực, nguồn nhân lực trong phát triển sản xuất, hoạt
động khoa học kỹ thuật, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
+ Đắc uyn trong tác phẩm "Nguồn gốc các loài " đã chỉ ra rằng, con người là
kết quả tiến hóa lâu dài của các loài sinh vật, loài người là một nhưng sinh vật có
nhiều loài khác nhau.
Nhưng Đác uyn mới chỉ quan tâm đến góc độ sinh học mà chưa chú ý đến góc
độ xã hội con người. Chính một trong những hạn chế đó sau này, CNTB đã lợi
dụng và chủ nghĩa Đác uyn xã hội đã gây nên những trở ngại lớn về nhận thức, lý
luận và thực tiễn ở thế kỷ XX.
Ph.Ăngghen nghiên cứu con người chủ yếu từ bình diện xã hội, ông cho rằng
do thời tiết khí hậu nên loài vượn sống trên cây đã rời xuống đất, do kiếm sống,
lao động, trải qua nhiều thế hệ, chi trước đã biến thành tay, dáng đứng thẳng, đôi
bàn tay được giải phóng, rồi tìm ra lửa nấu chín thức ăn, tư duy phát triển, chế tạo
ra công cụ lao động bước vào bình minh lịch sử xã hội loài người.
Như vậy, Ph.Ăngghen lại chưa đề cập con người dưới góc độ sinh học; di
truyền học phân tử đã chứng minh loài người từ một loài, mỗi loài có nhiễm sắc
thể, các cá thể giao phối để sinh con đẻ cái, riêng loài người có 46 nhiễm sắc thể,
do vậy không có người thượng đẳng cũng như người hạ đẳng, bởi tất cả có cấu
trúc nhiễm sắc thể như nhau.
Những năm 1900 khoa học sinh học chứng minh loài người có vào đây
khoảng 6 triệu năm, có tổ tiên từ châu Phi. Cuối năm 2002, các nhà khoa học đã
phát hiện ở châu Phi, những nơi có nhiều chất phóng xạ, ở đó có nhiều sọ người
cổ. Trên cơ sở khảo cổ học, nhân chủng học, tế bào học... các nhà khoa học đã
thống nhất giải thích cho rằng, do ảnh hưởng của chất phóng xạ mà loài người mất
đi 2 nhiễm sắc thể, sau đó có quá trình lao động mà loài vượn người mới dần thành
người.

+ Khoa học hiện đại: cho rằng con người hiện đại tiếp tục tiến hóa chỉ có điều
chưa thay đổi nhiễm sắc thể, cơ chế di truyền của con người đang chịu áp lực
ngoại cảnh như thức ăn, môi trường... cho đến bây giờ vấn đề cơ chế tác động sinh
học xã hội trong con người vẫn nan giải. Tuy nhiên, dưới ánh sáng của khoa học
sinh học hiện đại và quan điểm duy vật biện chứng, chắc chắn loài người sẽ tiếp
tục thu được những thành tựu khoa học mới, chinh phục tự nhiên phục vụ cho con
người, vì sự nghiệp giải phóng loài người.
6. Sinh học và phép biện chứng duy vật
+ Từ chỗ Đác uyn cho rằng cái quyết định biến dị, di truyền là chọn lọc tự
nhiên nên những kẻ theo chủ nghĩa Đác uyn xã hội đã lợi dụng, đẩy nó đến cực
đoan, chủ nghĩa phát xít triệt để lợi dụng gây cho loài người thảm họa chiến tranh
thảm khốc, bằng chứng hai cuộc chiến tranh thế giới đã cướp đi hàng chục triệu
sinh mạng con người, gây hậu quả rất nghiêm trọng về xã hội, môi trường.
+ Sinh học hiện đại chứng minh ngoài những yếu tố mà Đác uyn đã nêu, còn
có yếu tố làn sóng quần thể. Bởi vì, cá thể không thể làm nên sự tiến hóa, mà đơn
vị của tiến hóa phải là quần thể.
+ Di truyền tuân theo quy luật ngẫu nhiên, song cái ngẫu nhiên cũng có tính
quy luật (quy luật tính trạng) nghĩa là nó làm giàu cho phép biện chứng. Bởi theo
Ph.Ăngghen: "phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật
9


phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và
của tư duy"(1).
+ Sự phát triển của sinh học hiện đại đặt ra nhiều giả thiết mà giả thiết cũng
là một hình thức phát triển khoa học, giả thiết đúng thì tồn tại, sai thì bị bác bỏ.
Như vậy, trên cơ sở giả thiết sinh học tạo điều kiện cho phép biện chứng duy vật
vẽ bức tranh về thế giới ngày càng phù hợp với bản thân rõ hơn.
V.I.Lênin cho rằng phép biện chứng là linh hồn của chủ nghĩa Mác. Chính phép
biện chứng cũng chính là linh hồn của những tiên đoán của Ph.Ăngghen, Ph.Ăngghen

nhấn mạnh rằng phép biện chứng duy vật "trong nhiều năm nay vẫn là một thứ công
cụ lao động tốt nhất của chúng tôi và thứ vũ khí sắc bén nhất của chúng tôi" (2), rằng
"chỉ có phép biện chứng mới có thể giúp ích cho khoa học tự nhiên vượt khỏi trở lực
về lý luận"(3).
7. Sinh học với việc giải quyết những vấn đề toàn cầu
7.1.Vấn đề chiến tranh
+ Các nhà khoa học sinh học chứng minh chiến tranh sinh học là nguy hiểm
nhất, cùng với nó là chiến tranh hóa sinh. Thực tế loài người đã chứng minh thảm
họa 2 trái bom nguyên tử do Mỹ thả xuống Hirôsima và Magasaki (Nhật Bản) năm
1945, đã giết chết hơn 70 vạn người, để lại di truyền 3-4 thế hệ rất tồi tệ. Hay chất
độc màu da cam, điôxin mà quân đội Mỹ giải xuống miền Nam Việt Nam trong
những năm chiến tranh xâm lược Việt Nam đã gây hậu quả nhiều thế hệ người Việt
Nam, gây nhức nhối dư luận xã hội, hiện nay các tổ chức xã hội, phi Chính phủ và
Ủy ban nạn nhân chất độc da cam điôxin Việt Nam đã vận động hàng chục triệu
chữ ký người dân trong và ngoài nước đòi lại công lý cho những nạn nhân Việt
Nam.
Ngăn ngừa thảm họa chiến tranh, nhất là chiến tranh sinh học siêu vi trùng,
bệnh dịch cho con người và cho các loài sinh vật khác đó là cuộc đấu tranh, tiếng
nói chung của loài người tiến bộ.
7.2. Vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái do con người gây ra, do áp lực
của toàn cầu hóa, của chất thải công nghiệp gây nên... hàng năm trái đất bị mất
đi hàng triệu ha rừng, làm bão lụt, hạn hán, lũ quét ở nhiều quốc gia, khu vực, gần
đây sóng thần và động đất ở Nam Á làm chết gần 300.000 người. Nhiệt độ trái đất
tăng lên, những đảo băng ở Nam cực tan nhanh, các loài động thực vật có xu
hướng mất nhanh, đặc biệt tầng ôzôn có dấu hiệu xấu gây lo ngại cho loài người.
Ngoài ra, những vấn đề khoa học mới phát hiện như nhân bản vô tính, biến đổi
gien ở các loài động thực vật... nó dùng để phục vụ nhu cầu khoa học hay vì mục đích
phản khoa học là một thách thức lớn khó lường.
Bên cạnh đó, những vấn đề khoa học có liên quan đến xã hội, như sự xuất
hiện những bệnh dịch mới như Sarc ở người, cùng H5N1 ở gia cầm, thủy cầm, các

loài vi trùng, côn trùng mới phá hoại thiệt hại vật nuôi cây trồng cho sản xuất nông
nghiệp...
Các tệ nạn ma túy, mại dâm... gây băng hoại thân thể con người gây bức xúc
trong xã hội cần được ngăn chặn.
(1)
(2)
(3)

C.Mác - Ph.Ăngghen, Sđd, t.2, tr.201.
Ph.Ăngghen, Lút vích Phoi ơ bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Nxb ST, 1969, tr.55.
Sđd, tr.53.

10


KẾT LUẬN
Loài người đã bước vào thiên niên kỷ thứ III, khoa học kỹ thuật đã mở ra
những chương mới, những khám phá, phát minh khoa học bởi trí tuệ con người.
Kỷ nguyên của khoa học côngnghệ đang đưa nhân loại tới một chân trời mới, với
nhiều kỳ vọng tốt đẹp hơn, song bên cạnh đó cũng rất nhiều thách thức, những vấn
đề có tính chất toàn cầu, những vấn đề phức tạp gây thương tổn đến con người vẫn
còn rình rập, tiềm ẩn trong xã hội; những vấn đề đó đặt ra cho khoa học tự nhiên,
khoa học sinh học hiện đại những nhiệm vụ hết sức cấp thiết, đặc biệt đòi hỏi thái
độ ứng xử của con người với tự nhiên, với hệ sinh thái, với các loài sinh vật và
chính con người một cách khoa học, văn minh, văn hóa hơn.
Việc nghiên cứu những vấn đề triết học trong sinh học, dưới ánh sáng của chủ
nghĩa duy vật biện chứng đã đem lại cho các nhà khoa học nói chung và sinh học
nói riêng con đường nghiên cứu khoa học chân chính và những thành công rực rỡ.
Đồng thời, việc vạch ra mối quan hệ qua lại giữa sinh học với tiến bộ khoa học kỹ thuật và thông qua đó vạch ra vai trò của sinh học là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của triết học.

Trong lịch sử và thực tế hiện nay đã khẳng định vai trò của sinh học hết sức
quan trọng, trước hết là vai trò xã hội của sinh học biểu hiện ở khả năng đáp ứng
thực tế những nhu cầu vật chất của con người; ở tư cách là lực lượng sản xuất trực
tiếp của xã hội, ở chỗ đảm bảo cho sự tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nó còn góp phần
vào việc định hướng phát triển của con người với tư cách vừa là chủ thể nhận thức
thế giới tự nhiên và là chủ thể duy nhất cải tạo tự nhiên trong hiện thực.

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
GS. Trần Đức Thảo, Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có
con người, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1989.
2.
C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1996.
3.
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, M, 1977.
4.
GS. Trần Bá Hoành, Vai trò của di truyền học và môi trường trong sự
phát triển trí tuệ.
5.
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, Di truyền học người: sự lợi dụng và xuyên tạc
một số thành tựu của nó, Thông báo Triết học, số 11-1975.
6.
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, Những tiên đoán của Ăngghen trong
lĩnh vực khoa học tự nhiên, Thông báo triết học, số 18-1970.
7.
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, Một số quan điểm duy tâm trong sinh

học hiện đại, Thông báo triết học, số 4-1976.
8.
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, Một số vấn đề về phương pháp trong
sinh học hiện đại, Tạp chí Triết học số 4/1981.
9.
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, Sinh học - tiến bộ khoa học kỹ thuật và
việc giải quyết một số vấn đề toàn cầu cấp bách của thời đại, Tạp chí triết học, số
4/1989.
10.
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, Một số vấn đề cần được quan tâm: mối
quan hệ giữa yếu tố sinh học và con người, Tạp chí triết học số 4/1992.
11.
GS. Nguyễn Tài Thư, Một số phương hướng nghiên cứu cần thiết về
con người - chủ thể sáng tạo, Triết học số 3 (1992).
12.
Nguyễn Văn Việt, Di truyền học và giá trị sinh thái, Tạp chí triết học
số 4 (2004).
13.
Phạm Thị Ngọc Trầm, Cách tiếp cận triết học - xã hội đối với hiện
trạng môi trường sinh thái nhân văn ửo Việt Nam, Tạp chí Triết học số 6-2004.
14.
Một số vấn đề triết học và con người, Nxb Khoa học xã hội, 2002.
15.
Trần Đức Long, Một số vấn đề đạo đức nảy sinh do việc ứng dụng các
thành tựu của sinh học và công nghệ sinh học, Tạp chí triết học, số 11/2004.

12




×