Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

TIỂU THUYẾT VIỆT NAM Thời kì 1965 – 1975 nhìn từ góc độ thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 153 trang )

NGUYỄN ĐỨC HẠNH

TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
Thời kì 1965 – 1975
nhìn từ góc độ thể loại

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC


Bản quyền thuộc Nhà xuất bản Giáo dục
843-2007/CXB/8-1856/GD

Mã số: 8V718M8-CDT

1


Lời giới thiệu
Trong lịch sử 30 năm chiến tranh cách mạng thì thời gian 1965 - 1975 là 10 năm
kết thúc. Để đến với Đại thắng mùa xuân 1975, cả dân tộc đã huy động tổng lực sức
mạnh vật chất và tinh thần của mình, trong đó có sức mạnh của văn học, với đóng góp
không chỉ là con tim và khối óc, mà còn là sinh mệnh, là xương và máu của mấy thế hệ
nhà văn cầm súng, lịch sử tiếp nối từ Nam Cao, Trần Đăng... đến Nguyễn Thi, Lê Anh
Xuân...
Việc đánh giá văn học Việt Nam trong 30 năm chiến tranh, sau khoảng lùi gót 30
năm, kể từ sau 1975 cho đến nay hẳn không còn chuyện gì gây bàn luận. Đã hết sự đôi
co: phủ định hay không phủ định? Đã hết những phán xét chung quanh chỗ đứng hoặc
cách nhìn... để trở lại sự bình tĩnh cần thiết. Nhiều tiểu thuyết viết về chiến tranh sau
chiến tranh đã lần lượt ra đời, với các giá trị mới, nhưng không phải vì mới mà phủ
định các giá trị cũ. Lịch sử đã trở về với gương mặt lịch sử, với những giá trị ổn định
của nó. Nếu dân tộc đã có một thời hào hùng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", nếu


khẩu hiệu “Không có gì quí hơn Độc lập Tự do” đã từng vang động núi sông, thì văn
học cũng đã có những trang rực rỡ - sản phẩm của cả một đội ngũ người viết cùng nhất
tề ra trận, “cùng xương thịt với nhân dân"; và tiểu thuyết, với ưu thế riêng của thể loại
gã gánh trọn nhiệm vụ ghi lại gương mặt chung của dân tộc.
Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ 1965 - 1975 - nhìn từ góc độ thể loại của TS.Nguyễn
Đức Hạnh là một đóng góp vào việc nhận diện lại văn học Việt Nam trong cuộc chiến
cả nước chống Mĩ vĩ đại. Một nhận diện - từ góc độ thể loại; để minh chứng cho sự đối
ứng giữa một bên là tiêu cầu của cách mạng và công chúng, và một bên là sáng tạo
nghệ thuật của nhà văn; và để soi vào sự biến đổi của chính bản thân thể loại (ở đây là
tiểu thuyết) trong một hành trình phát triển chỉ hơn nửa thế kỉ của văn xuôi Quốc ngữ.
Khảo sát tác phẩm theo yêu cầu loại hình, gồm loại hình cảm hứng, loại hình nhân
vật và loại hình kết cấu - xung đột, đó là thao tác khá quen thuộc ở tác giả Nguyễn
Đức Hạnh trong công trình này để qua đó đi tới một nhận thức tổng quan về tiểu
thuyết Việt Nam thời kỳ 1965 - 1975 - trong xu thế vươn tới quy mô và tính chất sử
thi. Trong bề bộn của nhiều cuốn tiểu thuyết, với hàng vạn trang in, việc tìm ra một mô
hình chung cho sự tìm kiếm quả không phải là việc dễ; và Nguyễn Đức Hạnh đã làm
việc đó không chỉ với những thao tác phân tích cẩn trọng, mà còn với cả sự rung động
và xúc cảm của một người đọc luôn trân trọng những giá trị của quá khứ.
Là người được đọc từ rất sớm bản thảo chuyên khảo khi còn là luận án, tôi đã từng
chia sẻ với TS. Nguyễn Đức Hạnh không ít khó khăn trước khối lượng tác phẩm đồ sộ;
và cũng đồ sộ không kém là nhúm luận văn, luận án, bài viết, công trình về chính đề
2


tài này, phải một khổ công lớn trong kiên trì và bền bỉ để tìm ra một cách tiếp cận
riêng, mong không trùng, không giống với các đồng nghiệp trên cùng một hành trình
với mình. Hơn ba năm đã qua, tôi hi vọng cuốn sách vẫn chưa phà gã cũ, trong khám
phá những dấu ấn đặc tặng cho một giai đoạn văn học quan trọng của thế kỉ XX.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc quý mến!
Hà Nội tháng 1 – 2007

GS. PHONG LÊ

3


4


DẪN NHẬP

Tiểu thuyết Việt Nam 1945 - 1975 đã đạt được những thành tựu xuất sắc về giá trị
nội dung tư tưởng, đã có đóng góp lớn lao cho công cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm, giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mười năm cuối cùng của giai
đoạn 1945 - 1975 có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì trong mười năm ấy đã xuất hiện
hàng loạt tiểu thuyết thuộc loại tầm cỡ nhất của cả giai đoạn văn học - những tác
phẩm vừa có cấu trúc thể loại hoàn kết nhất của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, vừa là
đỉnh cao của lịch sử phát triển tiểu thuyết Việt Nam đến thời điểm này. Các tác giả
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại trải qua một hành trình sáng tạo bền bỉ đã đạt tới độ
chín trong nghệ thuật tiểu thuyết: mười năm cuối cùng (1965 - 1975) còn có tính bản
lề khép lại một giai đoạn văn học mang những đặc trưng riêng của thời đại chiên
tranh cách mạng với mô hình sử thi hoá, chuẩn bị tiền đề cho bước chuyển giao để đi
tới một thời đại văn học mới với mô hình phi sử thi
Nếu so sánh với tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, thì tiểu thuyết 1945 1975 nói chung và tiểu thuyết 1965 - 1975 nói riêng đã có sự đổi mới sâu sắc về nội
dung thể tài và các nguyên tắc xây dưng hình thức thể loại Một cấu trúc thể loại mới
mẻ chưa từng có trong lịch sử phát triển tiểu thuyết Việt Nam đã ra đời với đặc trưng
của loại hình tiểu thuyết sử thi. Một cấu trúc thể loại được hình thành từ yêu cầu thời
đại để đáp ứng những nhiệm vụ nặng nề mà vinh quang do yêu cầu chính trị, yêu cầu
lịch sử giao phó. Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này đã hoàn thành sứ mạng lịch sử
của nó.
Nhưng do sự chủ phối tuyệt đối của nhiệm vụ chính trị do yêu cầu cổ vũ động viên

kịp thời công cuộc kháng chiến kiến quốc, nhà văn, bạn đọc và giới nghiên cứu phê
bình văn học đều đặt tiểu thuyết trước một hệ quy chiếu đậm tính chất xã hội học. Các
bài phê bình văn học, các công trình nghiên cứu văn học thời kỳ này chủ yếu khai thác
giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm với ba yêu cầu nặng về chính trị: Có phản ánh
chân thực trà kịp thời cái hiện thực vĩ đại đã có sẵn không? Có thực hiện tốt chức
năng giáo dục đối với quần chúng nhân dân? Có nêu cao yêu cầu tính Đảng khi tái
hiện bức tranh lịch sử xã hội không?
Do đó, trong rất nhiều bài viết về tiểu thuyết thời kỳ này, những nghiên cứu và
đánh giá về cấu trúc thể loại tiểu thuyết trong tính loại hình của nó thật là ít ỏi. Ngay
cả những bài viết tìm hiểu lý thuyết về thể loại tiểu thuyết 1945 - 1975 cũng chỉ tập
trung vào phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc điển hình hoá,
vấn đề nguyên mẫu và nhân vật...
5


Sau năm 1975 và đặc biệt từ khởi điểm đổi mới 1986, một số bài phê bình văn học
và công trình nghiên cứu đã tập trung vào khảo sát thi pháp tiểu thuyết 1945 - 1975 ở
những bình diện mang tính cục bộ: quan mềm nghệ thuật, hình tượng con người, kết
cấu, xung đột... Nhưng các công trình ấy vẫn chưa đi đến một cái nhìn tổng thể về cấu
trúc thể loại của tiểu thuyết giai đoạn này. Những vấn đề được nghiên cứu hoặc tách
rời khỏi hệ thông của nó hoặc mới chỉ dừng lại ở nhận đinh khái quát mà chưa được
chứng minh thật thấu triệt.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi hi vọng với sự cố gắng của mình sẽ đóng góp được
phần nào vào việc phác hoạ diện mạo, định hình cấu trúc thể loại và phân tích, làm
sáng tỏ một số đặc điểm thi pháp của tiểu thuyết Việt Nam 1965 - 1975, trong đó tập
trung chuyên sâu vào các bình diện thủ pháp tiểu thuyết: loại hình cảm hứng tư tưởng,
loại hình nhân vật, loại hình kết cấu và xung đột... trong cấu trúc thể loại của tiểu
thuyết Việt Nam 1965 - 1975.
Từ đầu những năm 80 của thế kỉ.XX, một giai đoạn văn học mới đã ra đời. Ngoại
trừ một số ít tác phẩm vẫn được sáng tác theo quán tính của văn học thời chiến tranh

cách mạng, phần lớn sáng tác đã hướng tới mô hình nghệ thuật phi sử thi, xét riêng ở
thể loại tiểu thuyết, từ sự đổi mới thi pháp tiểu thuyết kể trên đã xuất hiện một số ý
kiến đánh giá lại về giá trị nghệ thuật của tiểu thuyết 1945 - 1975.
Trong bối cảnh đó, đặt vấn đề nghiên cứu cấu trúc thể loại và các bình diện thủ
pháp trong nó của tiểu thuyết sử thi 1965 - 1975 không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn
có ý nghĩa thực tiễn. Từ sự nghiên cứu đó, chúng ta đánh giá toàn diện và chính xác
hơn về giá trị và đóng góp của tiểu thuyết sử thi hiện đại Việt Nam trong tính lịch sử
của nó một cách khoa học. Với cái nhìn loại hình học lịch sử tiểu thuyết, chúng ta có
thể xác định những tiêu chí thể loại của một loại hình tiểu thuyết - sản phẩm đặc thù
của thời đại chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. So sánh
mô hình thể loại của tiểu thuyết sử thi trước 1975 với mô hình thể loại của tiểu thuyết
phi sử thi sau 1975, chúng ta nhận ra sự phủ đinh biện chứng và sự tiếp biến - kế thừa
ở phương diện thi pháp tiểu thuyết khi thời đại chuyển giao hệ hình tư duy nghệ thuật.
Sự nghiên cứu những vấn đề kể trên sẽ là một đóng góp tích cực để tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại nhìn lại mình rồi tự vượt chính mình.
Trong chương trình môn văn của các trường Đại học và Cao đẳng sư phạm, giai
đoạn văn học 1945 - 1975 có một vị trí quan trọng. Nhưng việc giảng dạy và học tập
giai đoạn văn học này, từ thực tiễn giảng dạy của chúng tôi, chưa phải đã đạt được kết
quả mong muôn. Tình trạng dạy chay, học chay vẫn còn xuất hiện ở nơi này nơi khác.
Thực trạng đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó chúng tôi cho rằng có ba
nguyên nhân chủ yếu: sự lười đọc của một số thầy và trò trong xu thế xuống cấp của
văn hoá đọc, các tiểu thuyết giai đoạn 1945 - 1975 ít tái bản và nếu tái bản cũng chỉ với
số lượng ít, khả năng mua sách của giáo viên và đặc biệt của sinh viên rất hạn hẹp.
Trước thực trạng đó, cuốn sách hy vọng sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích cho
6


công tác dạy và học văn trong trường sư phạm nói riêng và trong nhà trường nói
chung.


7


GIỚI THUYẾT VỀ THỂ LOẠI SỬTHI
VÀ TIỂU THUYẾT SỬ THI HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
1945 – 1975
1. Giới thuyết về thể loại sử thi và tiểu thuyết sử thi hiện đại Việt Nam 1945 1975
1.1. Khái niệm sử thi và thể tài sử thi
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về thể loại sử thi ở Việt Nam và nước ngoài
[xem 1, 55, 56, 114]. Qua các ý kiến của Arixtốt, Hêghen, Biêlinxki... Ở nước ngoài,
của Phan Đăng Nhật, Hoàng Ngọc Hiến, Phan Thu Hiền, Đinh Gia Khánh... Ở Việt
Nam, chúng ta có thể tìm đến một khái niệm thống nhất về thể loại sử thi: “Thể loại
tác phẩm tự sự dài (thường là thơ) xuất hiện rát sớm trong lịch sử văn học của các dân
tộc nhằm ngợi ca những sự nghiệp anh hùng có tính toàn dân và có ý nghĩa trọng đại
đối với dân tộc trong buổi bình minh của lịch sử. Về kết cấu, sử thi là một câu chuyện
được kể lại có đầu có đuôi với quy mô lớn vì theo Hêghen: “nội dung và hình thức của
nó thực sự là toàn bộ các quan niệm, toàn bộ thế giới và cuộc sông của một dân tộc
được trình bày dưới hình thức khách quan của một biến cố thực tại”. Các nhân vật
chính của sử thi là những anh hùng - tráng sĩ tiêu biểu cho sức mạnh thể chất và tinh
thần, cho ý chí và trí thông minh, lòng dũng cảm của cộng đồng” [157 - 192].
Nhưng số phận của thể loại sử thi ra sao trong lịch sử thể loại văn học thế giới?
Hiện nay có hai ý kiến khác nhau trả lời câu hỏi này.
Thứ nhất: Ý kiến của Hêghen tiêu biểu cho các ý kiến khẳng định sự “một đi
không trở tại” của thể loại sử thi cùng với thời đại đã sản sinh ra nó. Sử thi cổ đại ra
đời vào thời điểm bản lề khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã và xã hội bộ tộc, bộ
lạc tiền giai cấp xuất hiện. Nó tồn tại trong xã hội cổ đại, kéo dài qua thời kỳ trung cổ
với những phiên bản mang đặc điểm thể loại của nó, rồi biến mất trong các giai đoạn
lịch sử tiếp theo.
Ý kiến của Mĩ. Bakhtin trong tác phẩm Lý luận và thi pháp tiểu thuyết có nhiều
điểm tương đồng với Hêghen. Nhưng M.Bakhtin khác Hêghen ở chỗ: ông vẫn khẳng

định sức sống lâu bền của một số đặc điểm thể loại của sử thi trong các thể loại văn
học hiện đại: “Cái cảm quan về thời gian ấy và quan niệm về đẳng cấp thời gian mà nó
[tức sử thi - chúng tôi nhấn mạnh] ấn định đã thấm nhuần vào tất cả các thể loại cao cả
thời cổ đại và trung đại. Nó thấm xuống tận nền móng các thể loại sâu xa đến nỗi vẫn
tiếp tục sống ở đó cả trong các thời đại sau này - cho đến tận thế kỉ XIX và thậm chí
lâu hơn nữa” [8 - 46].
Ý kiến của Bakhtin đã dự báo sự hồi sinh của những phẩm chất sử thi trong các thể
loại văn học hiện đại.
8


Thứ hai: Ý kiến của giáo sư Nga N. Pôxpêlốv lại cho rằng: Sử thi là một loại hình
văn học thuộc thể tài lịch sử - dân tộc tồn tại trong suất tiến trình văn học của nhân
loại.
Vậy thể tài là gì? Muốn xác định và phân chia loại thể văn học phải dựa vào tiêu
chí nội dung thể loại mang tính loại hình, đó là những đặc điểm thể loại mang tính phổ
quát của nhân loại - những đặc điểm vừa mang tính hình thức vừa mang tính nội dung
của hàng loạt tác phẩm văn học nằm trong một loại hình. Cái đơn vị "hình thức mang
tính quan niệm” ấy là thể tài [thuật ngữ của giáo sư Trần Đình Sử].
Theo Pôxpêlốv, văn học nhân loại trong tiến trình của nó đã xuất hiện bốn thể tài
chính tương ứng, với bốn loại hình nội dung đời sống của con người. Mỗi một loại
hình nội dung đời sống của con người được quan niệm như một kiểu quan hệ của con
người với thế giới.
Kiểu quan hệ thứ nhất: Kiểu quan hệ thần thoại với thể tài thần thoại. Đây là kiểu
quan hệ giữa con người với thần linh.
Kiểu quan hệ thứ hai: Kiểu quan hệ lịch sử dân tộc với thể tài sử thi. Đây là kiểu
quan hệ giữa con người của cộng đồng này với con người thuộc cộng đồng khác, dân
tộc này với dân tộc khác.
Kiểu quan hệ thứ ba: Kiểu quan hệ thế sự với thể tài thế sự - phong tục. Đây là
kiểu quan hệ giữa táng lớp này với tầng lớp khác hộ phận người này với bộ phận

người khác trong mối quan hệ dân sự.
Kiểu quan hệ thứ tư. Kiểu quan hệ đời tư với thể tài tiểu thuyết. Đây là kiểu quan
hệ giữa cá nhân với cá nhân ở góc độ đời tư
Như vậy thể tài sử thi không phải là tên gọi một thể loại văn học mà là một phương
thức chiếm lĩnh đời sống theo nguyên tắc sử thi hoá trong văn học. Nguyên tắc phản
ánh hiện thực này có đặc điểm: hướng về những đề tải và xung đột mang tầm vóc lịch
sử - dân tộc; đặt ra những vấn đề liên quan đến vận mệnh cộng đồng; tái hiện hiện thực
bằng kinh nghiệm cộng đồng (nếu phản ánh đời sống cá nhân từ góc độ cộng đồng thì
vẫn có tính sử thi); khắc hoạ hình tượng người anh hùng hay cón người lý tưởng của
dân tộc trong một bức tranh hiện thực hoặc có quy mô sử thi hoành tráng hoặc có tính
sử thi ở cảm hứng tư tưởng, ở chủ đề. Vì thế, thể tài sử thi có thể xuất hiện ở bất cứ
thời đại nào có những biến cố lịch sử trọng đại liên quan đến vận mệnh sống còn của
dân tộc, hoặc quyết định những bước ngoặt lịch sử của mỗi cộng đồng. Mặc dù,
nghiêng về ý kiến thứ hai, chúng tôi vẫn lấy ý kiến mang tính dự báo về sự tiềm ẩn
những phẩm chất sử thi trong nền móng các thể loại văn học hôm nay của Bakhtin là
một gợi ý quan trọng trong quá trình thực hiện đề tài.
1.2. Khái niệm tiểu thuyết sử thi (còn gọi là tiểu thuyết anh hùng ca) và tiểu
thuyết sử thi Việt Nam 1945 – 1975
9


Về loại hình tiều thuyết này, Từ điển thuật ngữ văn học đã định nghĩa: "Tên gọi
ước lệ (...) để chỉ những tiểu thuyết (từ thế kỉ XIX - XX) có dung lượng lớn thể hiện
những đề tài lịch sử - dân tộc Những tác phẩm này vừa là tiểu thuyết, đồng thời vừa có
nhiều thuộc tính gần gũi với thể loại sử thi cổ đại và trung đại (tầm bao quát tính
hoành tráng của những sự kiện có tầm thời đại), cảm hứng dân tộc hoặc lịch sử, mô tả
các sự kiện và xung đột có tính bước ngoặt như chiến tranh cách mạng...". [157 - 230]
Trong một thời gian dài, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam chỉ xếp một số tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại có dung lượng lớn như Cửa biển (Nguyên Hồng), Vỡ bờ
(Nguyễn Đình Thi), Sông mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng)... vào loại hình tiểu

thuyết sử thi. Đây là cách phân loại dựa vào tiêu chí quy mô sử thi hoành tráng. Từ
thập kỉ 80 của thế kỉ XX trở lại đây, tiêu chí xác định loại hình thể loại của tiểu thuyết
Việt Nam 1945 - 1975 đã thay đổi theo xu thế rộng mở hơn. Tiểu thuyết sử thi không
chỉ phản ánh hiện thực theo bề rộng với quy mô lớn mà có thể phản ánh hiện thực theo
chiều sâu của tư tưởng và cảm hứng mang tính sử thi Với những tiêu chí này, không
chỉ tiểu thuyết mà toàn bộ nền văn học Việt Nam 1945 - 1975 là một nền văn học
mang tính sử thi - một nền văn học mang nội dung lịch sử dân tộc và có hình thức
nghệ thuật thấm đẫm chất sử thi. Ở giai đoạn văn học ngời sáng chủ nghĩa anh hùng
cách mạng này chúng ta không chỉ được tiếp xúc với tiểu thuyết sử thi mà còn gặp gỡ
với truyện ngắn sử thi, thơ sử thi... Thể tài lịch sử - dân tộc và khuynh hướng sử thi
hoá đã mang lại cho văn học nói chung và tiểu thuyết thời kỳ này nói riêng một vẻ đẹp
và sức mạnh hào hùng, xứng đáng với thời đại Hồ Chí Minh - một thời đại anh hùng.
Tình hình tương tự cũng diễn ra trong các nền văn học sử thi hiện đại của các nước
thuộc phe xã hội chủ nghĩa cũ (xem một số vấn đề của tiểu thuyết hiện đại - 158). Khái
niệm sử thi hoá ở đây cần được hiểu theo cách kiến giải của giáo sư Trần Đình Sử:
"Khái niệm sử thi hoá ở đây không phải là khái niệm thể loại mà còn là khái niệm loại
hình nội dung thể loại hay đúng hơn là loại hình văn học. Khi M.Bakhtin đem đối lập
sử thi với tiểu thuyết là ông đối lập hai loại hình văn học. Do đó, khái niệm sử thi ở
đây không hề đồng nhất với sử thi cổ đại với tính chất tự sự khách quan, dung lượng
lớn, kể hết mọi biểu hiện phong phú của đời sống như bách khoa toàn thư. Sử thi ở đây
hiểu là khuynh hướng ưu tiên cho chủ đề dân tộc, mâu thuẫn địch - ta, xây dựng những
con người tiêu biểu cho ý chí phẩm chất cao đẹp của dân tộc". [129 - 10]
2. Sự tương đồng giữa sử thi cổ điển và tiểu thuyết sử thi hiện đại ở một số
phương diện thi pháp thể loại
2.1. Tinh thần dân tộc và ý thức cộng đồng
Sử thi ra đời trong những thời đại có những biến cố lịch sử đặc biệt có ý nghĩa
quyết định đối với đời sống tinh thần và vận mệnh của dân tộc và nhân dân. Thời đại
diễn ra những xung đột dữ dội, những sự kiện kì vĩ ấy được gọi là thời đại có trạng
thái sử thi. Trong những thời đại như thế, tinh thần dân tộc và ý thức cộng đồng là
động lực mạnh mẽ tạo ra sức mạnh tinh thần to lớn cho cả cộng đồng, đoàn kết muôn

10


người như một, coi nhau như anh em để chiến thắng kẻ thù, vượt qua trở ngại, thực
hiện mục đích chung của cả cộng đồng. Cũng trong những thời điểm lịch sử đặc biệt
như thế lòng tự hào dân tộc và ý thức gắn bó sống còn với cộng đồng đã khiến mỗi cá
nhân tự giác đề cao ý thức trách nhiệm trước dân tộc, động cơ cá nhân luôn hoà đồng
với mục đích và quyền lợi của cộng đồng. Người anh hùng Asin trong Iliát của
Hômerơ đã gắn bó cùng đội quân của 18 thành bang Hi Lạp, kề vai sát cánh trong
chiến đấu vì mục đích chung. Asin cũng đã gạt bỏ hiềm khích cá nhân với
Agamenông, ra trận chiến đấu vì danh dự và quyền lợi của toàn thể quân đội và các
thành bang Hi Lạp. Đăm San trong sử thi Bài ca chàng Đăm San của bộ tộc Ê-đê đồng
cam cộng khổ cùng toàn thể bộ tộc trong lao động sản xuất, đi chặt cây thần, chiến đấu
và đánh bại hai tù trưởng hùng mạnh khác. Lòng tự hào và ý thức gắn bó với cộng
đồng chúng ta trong thế đối lập với cộng đồng chúng nó đã tạo ra vẻ đẹp tuyệt vời của
sức mạnh đoàn kết cùng tinh thần xả thân trong các sử thi cổ - trung đại.
Với văn học sử thi hiện đại thế giới nói chung và tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945
- 1975 nói riêng, chúng ta thấy loại hình văn học này cũng chỉ xuất hiện trong những
thời đại anh hùng có những xung đột lịch sử mang tầm vóc kì vĩ và có ý nghĩa sống
còn với cộng đồng. Cuộc chiến tranh vệ quốc chống quân xâm lược Napôlêông của
dân tộc và nhân dân Nga thế kỉ XIX là một bối cảnh sử thi để xuất hiện sử thi hiện đại
Chiến tranh và hoà bình của L.Tônxtôi. Cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, nội
chiến và chống quân can thiệp nước ngoài, cuộc chiến tranh vệ quốc chống phát xít
Đức của Liên Xô cũ ở thế kỉ XX là một thời đại anh hùng để từ đó sản sinh ra Suối
thép, Sapaép, Thép đã tôi thế đấy, Sông Đông êm đềm v.v...
Với Việt Nam, cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và ba mươi năm kháng
chiến đánh bại hai tên xâm lược khổng lồ là Pháp và Mỹ, mười lăm năm xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc... là một giai đoạn lịch sử hào hùng nhất trong lịch sử dân tộc.
Những biến cố bi hùng của giai đoạn này đã tạo ra một trạng thái sử thi cho thời đại
Hồ Chí Minh. Một thời đại mà tinh thần dân tộc cùng ý thức cộng đồng như đôi cánh

vĩ đại nâng mỗi người và mọi người bay lên khỏi cuộc sống đời thường theo ánh sáng
soi đường của Đảng mà đến với đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bay lên
ngang tầm thời đại để hoàn thành trách nhiệm công dân trước dân tộc và lịch sử. Chính
thời đại anh hùng này đã tạo ra trạng thái sử thi để từ đó ra đời một nền văn học cách
mạng mang tính sử thi, trong đó xuất hiện hàng loạt tiểu thuyết sử thi như Cửa biển,
Vỡ bờ, Đất nước đứng lên, Đất Quảng, Mẫn và tôi, Bão biển, Buổi sáng, Chủ tịch
huyện v.v... Những tiểu thuyết nhiều tập đồ sộ đáp ứng tiêu chí quy mô sử thi, những
tiểu thuyết có dung lượng không lớn đáp ứng tiêu chí Âm hưởng sử thì (thuật ngữ của
giáo sư Phan Cự Đệ). Trong các tiểu thuyết sử thi ấy; tinh thần dân tộc và ý thức cộng
đồng trong sử thi xưa đã hồi sinh, tinh thần của những Đăm San, Xinh nhã đã sống lại,
tạo thành nền móng tinh thần cho sức mạnh Việt Nam quật khởi trước thử thách của
lịch sử.
11


2.2. Xung đột sử thi
Văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng bao giờ cũng phản ánh hiện thực cuộc
sống qua những xung đột trong xã hội và xung đột trong tư tưởng, tình cảm con người.
Nhưng mỗi một loại hình văn học lại ưu tiên thể hiện một loại xung đột đặc thù phù
hợp với bản chất thể loại của nó. Văn học sử thi ở mọi thời kỳ lịch sử luôn tập trung
thể hiện một loại hình xung đột trung tâm: xung đột cộng đồng.
Cấu trúc của mỗi kiểu loại xung đột lại quy định một nguyên tắc để xây dựng các
mối quan hệ tương tác giữa các hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Cấu trúc loại
hình của xung đột cộng đồng trong sử thi hình thành một nguyên tắc có tính quy phạm.
Xung đột trong phạm vi lịch sử - dân tộc, có quy mô kì vĩ, có cường độ dữ dội,
hướng tới mục đích và quyền lợi của cả cộng đồng. Nguyên tắc trên chi phối cách tổ
chức của cả bốn kiểu xung đột trong xung đột cộng đồng của sử thi: xung đột chiến
tranh giữa các cộng đồng dân tộc; xung đột giữa con người trong cộng đồng với thế
giới tự nhiên; xung đột về tôn giáo; xung đột mang tính thời đại lịch sử. Trong bốn
kiểu xung đột này, xung đột chiến tranh là kiểu xung đột phổ biến nhất và mang tính

đặc thù nhất cho sử thi cổ điển. Khảo sát các sử thi Hi Lạp cổ đại như Iliát và Ôđixê sử
thi Ấn Độ như Ramayana và Mahabharata, sử thi Việt Nam như Đẻ đất đẻ nước, Đăm
San, Xinh nhã..., chúng ta có những ví dụ sinh động cho kiểu xung đột trên.
Với loại hình tiểu thuyết sử thi nói chung, tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975
nói riêng, chúng tôi thấy kiểu xung đột chiến tranh đã trở thành xung đột trung tâm,
đóng vai trò nòng cốt và động lực phát triển của cốt truyện. Xung đột chiến tranh của
sử thi xưa đã hồi sinh trong những hình thức nghệ thuật mới và mang một bản chất
mới. Nhưng nguyên tắc tổ chức của nó thì vẫn không đổi với ba đặc điểm lặp lại của
sử thi - xung đột diễn ra trong phạm vi lịch sử - dân tộc, quy mô kì vĩ, cường độ dữ
dội, hướng tới mục đích và quyền lợi của cả cộng đồng. Các tiểu thuyết viết về chiến
tranh cách mạng ở Việt Nam như Xung kích, Mặt trận trên cao, Vào lửa (Nguyễn Đình
Thi), Dòng sông phẳng lặng (Tô Nhuận Vĩ), Hòn Đất (Anh Đức), Chiến sĩ (Nguyễn
Khải)...; các tiểu thuyết Nga Xô viết về chiến tranh vệ quốc như Thép đã tôi thế đấy
(N. ôxtơrốpxki), Đội cận vệ thanh niên (Fađêép), Pháo đài Bréxt (Ximônốp)... đều tập
trung xây dựng kiểu xung đột chiến tranh với những đặc điểm loại hình kể trên.
Nhưng sử thi không nhất thiết phải miêu tả các xung đột quân sự và các anh hùng
chiến trận. Sử thi còn ngợi ca tinh thần và trí tuệ của bộ tộc trong những xung đột thế
sự và xung đột đời tư mang ý nghĩa thời đại. Trong ôđixê của Hômerơ, Uylítxơ đại
diện cho trí tuệ và sức mạnh tinh thần của dân tộc Hi Lạp thời cổ đại đấu tranh và
chinh phục thiên nhiên với khát vọng mở mang bờ cõi Nhưng xung đột giữa Uylítxơ
với 108 vị cầu hôn lại là xung đột thế sự - đời tư. Chàng Đăm San trong sử thi của
người êđê là anh hùng chiến trận trong các xung đột quân sự. Nhưng xung đột giữa
Đăm San với tục nối dây lại là xung đột thế sự - đời tư mang ý nghĩa thời đại.
12


Kiểu xung đột này cũng đã hồi sinh trong tiểu thuyết sử thi Việt nam ở bộ phận
tiểu thuyết đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội Xung đột thế sự - đời tư trong các tác
phẩm Bão biển (Chu Văn), Buổi sáng, Đất làng (Nguyễn Thị Ngọc Tú), Xi măng (Huy
Phương), Chủ tịch huyện (Nguyễn Khải)... đều được sử thi hoá bằng cách vừa gán bó

và chịu sự tác động của xung đột chiến tranh vừa được miêu tả bằng kinh nghiệm cộng
đồng để thể hiện tinh thần thời đại.
Các tác phẩm văn học Nga Xô viết viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng
xây dựng kiểu xung đột xã hội có cấu trúc tương tự: Đất vỡ hoang (Sôlôkhốp), Rừng
Nga (Lêônốp), Truyện núi đồi và thảo nguyên (Aimatốp)...
2.3. Nhân vật sử thi: người anh hùng và nhân dân
Trong thế giới nghệ thuật sử thi của sử thi cổ - trung đại, nhân vật người anh hùng
và nhân vật nhân dân là hai kiểu nhân vật trung tâm mang những phẩm chất loại hình.
Trong thế giới nhân vật sử thi, nhân vật anh hùng là nhân vật trung tâm luôn toả
sáng với với vẻ đẹp phi thường. Vẻ đẹp ấy vừa mang tính dân tộc vừa mang tính nhân
loại ở thời đại ấy. Tính dân tộc được thể hiện ở những chuẩn mực thẩm mỹ mang sắc
thái riêng của từng cộng đồng dân tộc. Vẻ đẹp của A sin là vẻ đẹp của một bán thần.
Sức mạnh thể chất, ngoại hình, vũ khí và cả cơn nóng giận của chàng đều gợi liên
tưởng đến các vị thần trên đỉnh ôlanhpơ. Con người anh hùng trong sử thi Ấn Độ lại
mang vẻ đẹp và sức mạnh của con người ở một đất nước nhiều thú dữ: "khoẻ như cọp
sức mạnh như chim ưng, cơn thịnh nộ của họ khác gì rắn độc đang điên máu”.
Bên cạnh những chuẩn mực thẩm mỹ mang tính dân tộc, vẻ đẹp và sức mạnh của
người anh hùng sử thi còn mang tính nhân loại: đó là cái phi thường với những kích
thước lớn lao vượt trội, cái anh hùng của người anh hùng sử thi trong mọi tác phẩm sử
thi cổ - trung đại. Vẻ dẹp phi thường ấy được biểu hiện qua bốn phương diện sau đây:
Thứ nhất: Vẻ đẹp ngoại hình, trang phục, vũ khí phi thường.
Thứ hai: Sức mạnh thể chất phi thường.
Thứ ba: Trí tuệ khát vọng phi thường.
Thứ tư. Tái năng, chiến công và sự hy sinh mang tầm vóc phi thường.
Mỗi tác phẩm sử thi lại nhấn mạnh một vài hay lất cả bốn phương diện kể trên
trong vẻ đẹp của người anh hùng đại diện cho phẩm chất và khát vọng của cộng đồng.
Với ý thức cộng đồng, người anh hùng sử thi không bao giờ tách rời khỏi tập thể
nhân dân anh hùng. Tập thể của những con người có tên và không tên, mang sức mạnh
tiềm tàng tiếp sức cho người anh hùng trên từng chặng dường lập chiến công vì lợi ích
cộng đồng.

Từ những đặc điểm loại hình của kiểu nhân vật sử thi này, tiểu thuyết sử thi đã tiếp
nối, nâng cao, đổi mới về hình thức biểu hiện để xây dựng các nhân vật lý tưởng của
13


mình hi thế giới quan duy vật biện chứng thay thế cho thế giới quan trần linh chủ
nghĩa, vẻ đẹp huyền ảo, siêu phàm của nhân vật người anh hùng đã không còn. Nhưng
sự phi thường về sức mạnh tinh thần, trí tuệ, tài năng, chiến công, lý tưởng và khát
vọng, sự xả thân cho cộng đồng... vẫn hồi sinh và trở thành hạt nhân trong cấu trúc
hình tượng nhân vật anh hùng, một cấu trúc nghệ thuật có nội dung mang chất sử thi
và hình thức mang chất tiểu thuyết, với tính đời thường bình dị của nó.
Những Mẫn (Mẫn và tôi - Phan Tứ), Khắc (Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi), Tiệp (Bão
biển - Chu Văn)... là những nhân vật anh hùng được xây dựng theo cấu trúc nghệ thuật
ấy.
Đặc biệt, sự gắn bó giữa người anh hùng cách mạng với cộng đồng nhân dân trong
tiểu thuyết Việt Nam 1945 - 1975 đã có sự đổi mới trong nội dung của mối quan hệ
này. Trong sử thi cổ điển, những phẩm chất phi thường của người anh hùng là do thiên
phú, tập thể nhân dân với các thành phần như tôi tớ, nô lệ, binh lính... gắn bó với
người anh hùng trong quan hệ thụ động và tuân phục. Còn trong tiểu thuyết sử thi ở
Việt Nam và trên thế giới, mối quan hệ giữa anh hùng và nhân dân diễn ra một cách
tích cực ở cả hai chiều quan hệ: không có nhân dân anh hùng thì không có cá nhân anh
hùng; người anh hùng lãnh đạo nhân dân nhưng chính nhân dân góp phần hun đúc lên
phẩm chất anh hùng ở họ.
Có ba loại nhân vật trong kiểu nhân vật tập thể nhân dân mang ba chức năng khác
nhau trong sử thi cổ điển: nhân vật người già biểu tượng cho trí tuệ cộng đồng mang
chức năng ban phát lời khuyên; nhân vật phụ nữ biểu tượng cho cái đẹp, lòng nhân
hậu, đức hy sinh mang chức năng phần thưởng và điểm tựa tinh thần; nhân vật đám
đông biểu tượng cho sức mạnh quần chúng mang chức năng phò trợ. Cả ba loại nhân
vật này khi hồi sinh trong tiểu thuyết sử thi hiện đại đã hoá thân thành các nhân vật
người già, phụ nữ, đám đông mang vẻ đẹp vừa cổ điền vừa hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển

thể hiện ở sự tiếp nối có chọn lọc những phẩm chất sử thi vốn có ở các loại nhân vật
này. Vẻ đẹp hiện đại thể hiện ở sự hoà quyện những phẩm chất sử thi đã được chọn lọc
với những phẩm chất cách mạng của thời đại hôm nay.
Các cụ già như ông già sông Trúc (Đất Quảng - Nguyễn Trung Thành), ông già U
Minh (Rừng U Minh - Trần Hiếu Minh), cụ Cam, cụ Ước (Của biển - Nguyên Hồng),
má Bảy (Gia đình má Bảy - Phan Tứ), má Sáu (Hòn Đất - Anh Đức)... vẫn là những
biểu tượng cho trí tuệ cộng đồng nhưng còn là những lão chiến sĩ trên các mặt trận
khác nhau và trước những thử thách khác nhau. Nhân vật phụ nữ trong tiểu thuyết sử
thì Việt Nam vẫn là biểu tượng cho vẻ đẹp muôn đời của người phụ nữ Việt Nam với
lòng nhân hậu, đức hy sinh và là điểm tựa tinh thần cho cả dân tộc chiến đấu và chiến
thắng mọi kẻ thù. Nhưng họ không chỉ là những ăngđrômác sầu bi hay Pêlênốp chung
thuỷ. Họ còn là những chiến sĩ "anh hùng, bắt khuất, trung hậu, đảm đang”. Nhân vật
đám đông trong sử thi đã hoá thân thể những tập thể anh hùng trong tiểu thuyết sử thi.
Đây không phải là những đám đông vâng phục và đi theo người anh hùng một cách
14


thụ động. Đây là những tập thể anh hùng đã sản sinh, nuôi dưỡng và tạo ra những
người anh hùng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Họ như dải Ngân Hà ngời sáng mà những
người anh hùng là những ngôi sao sáng nhất: nhân dân xã Kì Bường (Gia đình má
Bảy), nhân dân xã Hoà Thanh (Đất Quảng), nhân dân Hòn Đất (Hòn Đất)... là những
dải Ngân Hà như thế!
2.4. Hiện thực sử thi với không gian - thời gian kì vĩ
Bức tranh hiên thực trong sử thi cổ điển có quy mô hoành tráng, dài rộng và được
miêu tả tỉ mỉ chi tiết ở mọi lĩnh vực đời Sống xã hội như bách khoa toàn thư. Chính sự
rộng lớn về dung lượng hiện thực đã tạo ra quy mô sử thi - một đặc điểm được nhiều
nhà nghiên cứu chọn làm tiêu chí để xác định đặc điểm thể loại của tiểu thuyết sử thi
hiện đại. Nhưng thực ra đây chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là đủ để xác định đâu
là một tác phẩm sử thi hiện đại. Cái quan trọng nhất đâu phải là tác phẩm miêu tả cái
gì mà là tác phẩm ấy đã miêu tả đối lượng đó như thế nào. Một bài thơ bốn câu "O du

kích nhỏ giương cao súng” của Tố Hữu hay truyện ngắn số phận một con người của
M.Sôlôkhốp còn có tính sử thi hơn nhiều tác phẩm dài tập phản ánh hiện thực từ góc
nhìn đời tư. Bởi vậy, tiểu thuyết sử thi hiện đại một mặt kế thừa đặc điểm quy mô sử
thi của sử thi cổ điển trong các bộ tiểu thuyết đồ sộ như Cửa biển, Vỡ bờ, Vùng đời ở
Việt Nam hay như Con đường đau khổ (A.Tôn xtôi), Sông Đông êm đềm
(M.Sôlôkhốp)... trong văn học Nga Xô viết, mặt khác lại xây dựng những tiểu thuyết
phản ánh thời gian ngắn, không gian hẹp, nhân vật ít nhưng vẫn có tính sử thi ở góc
nhìn cộng đồng với đối tượng phản ánh.
Bởi vậy, kiểu không gian, thời gian đặc thù của sử thi cổ điển với đặc điểm: không
gian hoành tráng, thời gian không bị hạn chế - không phải là điều kiện tiên quyết để
xác định bản chất loại hình của tiểu thuyết sử thi. Không gian, thời gian trong loại hình
tiểu thuyết này có độ co giãn rất linh hoạt. Nếu nó gắn bó với số phận cộng đồng, được
triển khai và cắm mốc bằng hệ thống sự kiện lịch sử dân tộc, được miêu tả bằng kinh
nghiệm cộng đồng thì dò không gian chỉ là một làng quê nhỏ bé, thời gian nghệ thuật
chỉ tính bằng ngày bằng tháng, không gian, thời gian ấy vẫn có tính sử thi. Một làng
Cá kiên cường được đặt vào cái mốc lịch sử là năm 1965 trong Mẫn và tôi (Phan Tứ)
vẫn trở thành một không gian, thời gian sử thi vì ở không gian, thời gian ấy đang diễn
ra một xung đột mang tính cộng đồng: xung dột giữa dán tộc với ngoại xâm. Từ xung
đột này, sự chiến thắng hay thất bại của quân dân làng Cá mang tính điển hình vì khả
năng phản ánh cả cục diện và xu thế lịch sử của chiến trường Miền Nam, rộng ra là cả
nước. Hai tuyến nhân vật địch - ta đối đầu trong xung đột lịch sử này được miêu tả
bằng kinh nghiệm cá nhân của nhà văn thống nhất tuyệt đối với kinh nghiệm cộng
đồng. Ta dũng cảm, mưu trí, yêu nước, căm thù giặc. Địch tàn bạo mà hèn nhát, ngu
tối. Ta thắng - địch thua là tất yếu! Nhà văn và cộng đồng đều quan niệm như thế và
thời đại khẳng định đó là một chân lí.
2.5. Hệ thống lời văn sử thi
15


Mỗi một thể loại văn học đều có một hệ thống lời văn đặc thù phù hợp với bản

chất thể loại của nó. Sử thi cổ điển với cấu trúc thể loại đã hoàn kết đòi hỏi phải có
một hệ thống lời văn thuần nhất tính sử thi của riêng nó. Trong những "lời có cánh”
này không thể có sự pha tạp với bất cứ thể loại nào ở phương diện sắc thái thẩm mỹ
của lời văn. Hệ thống lời văn sử thi, từ sự chi phối của đặc trưng thể loại sử thi có các
đặc điểm sau đay: tràn ngập những hình ảnh đẹp đẽ, kì vĩ, gắn liền với thủ pháp cường
điệu, phóng đại và các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ...; thiên về miêu tả các hành
động phi thường với tần số dày đặc các động từ mạnh; luôn gắn bó với giọng điệu
ngưỡng mộ, ngợi ca, tự hào; chỉ gợi tả diễn biến nội tâm qua ngoại hiện của nhân vật,
có nhịp điệu mạnh, tốc độ lời văn dồn dập, hối hả. Đây là chàng Đăm San với "hơi thở
như sấm sét, tiếng nói tiếng cười như sấm vang sét đánh". Người anh hùng A sin lại có
"tiếng hét âm vang như tiếng kèn xung trận, làm cho đấu gối của hết thảy người Tơroa
đều run rẩy. Và trái tim thì tan ra thành nước". Còn đoạn văn miêu tả khung cảnh
chiến trận sau đây trong Iliát của Hômerơ thể hiện rõ nét những đặc điểm cơ bản của
lời văn sử thi: "Tiếng giao chiến rung động xé toang bầu không khí. Tiếng kẻng, kèn,
còi, tiếng tù và ầm ĩ khiến trời đất rung chuyển. Ngựa hí. Voi gầm. Các chiến binh hò
la như sư tử. Tên phóng đi trong không khí tựa những ngôi sao băng".
So sánh lời văn sử thi cổ điển với lời văn của tiểu thuyết sử thi Việt Nam và tiểu
thuyết sử thi Nga Xô viết, chúng tôi thấy tính sử thi thuần nhất đã bị phá vỡ. Trong
tiểu thuyết sử thi hiện đại, hệ thống lời văn có sự kết hợp đặc điểm lời văn sử thi với
đặc điểm lời văn tiểu thuyết và lời văn của kịch (xét ở phương diện kịch bản văn học),
lời văn của kí và lời văn của loại thể trữ tình, một sự tổng hợp và kết tinh chưa từng có
đã diễn ra trong lời văn nghệ thuật của tiểu thuyết sử thi. Dẫu đặc điểm lời văn sử thi
vẫn chiếm ưu thế trong sự "cộng sinh thể loại” ở phương diện ngôn ngữ và phương
diện giọng điệu, nhưng sự tham gia của các kiểu lời văn của các thể loại khác đã đem
lại cho tiểu thuyết sử thi tính tổng hợp để "bộ mặt thể loại” của nó phong phú, đa diện,
hiện đại như chính bộ mặt cuộc sống trong thời đại anh hùng của chúng ta. Trong Sông
mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), chúng ta bắt gặp sự tổng hợp ấy. Đây là một
đoạn văn mang đặc điểm lời văn sử thi hào hùng tráng lệ và đầy chất thơ: "Một lá cờ
đỏ loé lên. Một đơn vị bộ đội, mũ ca lô sao vàng lấp lánh, mình mặc áo trấn thủ xanh
lá cây, chân đi giầy từ đầu phố tiến vào. Súng trên vai tua tủa, bước chân rầm rập (...).

Tiếng hát cất lên:
Đi là đi chiến đấu
Đi là mang mối thù thiên thu
Tiếng hát tràn ngập lòng người, tràn ngập toàn khu phố. Lòng súng sáng biếc trong
bóng chiều (...) tiếng hát vẫn vang lên. Hàng ngũ bước đi hùng dũng, cuồn cuộn nhấp
nhô như dòng suối xanh mát giữa hai bờ cao oi ả..." [140 - 163]
Nhưng bên cạnh lời văn trang trọng, đẹp đẽ ấy là những lời văn mang đặc điểm
của lời văn tiểu thuyết, của kí, với sắc thái trần trụi thô nhám như chính cuộc đời đa
16


tạp: "Đêm đêm (...) ông đi nhặt những xác chết trần truồng chỉ còn da bọc xương,
trong đám người đói nằm la liệt ngoài đường, dồn lại một đống để chờ xe xác đến
mang đi. Tờ mờ sáng, sau khi những người đói còn sống sót toả đi các phố xin ăn, ông
lại sửa sang sạch sẽ những chỗ vỉa hè họ vừa nằm vừa bậy ra hôi thối đến nôn mửa".
[140 - 155]
Trong tiểu thuyết sử thi Pháo đài Brext của Ximônốp, hệ thống lời văn mang tính
tổng hợp được sử dụng để tái hiện cuộc chiến đấu bi hùng của các chiến sĩ Xô viết.
Bên cạnh lời văn mang đặc điểm của kí - tư liệu, của tiểu thuyết, lời văn mang đặc
điểm lời văn sử thi vẫn chiếm ưu thế. "ánh lửa của những tràng đạn pháo, tiểu liên và
súng máy lắp loé trên khắp mặt luỹ. Sông Mukhavext sôi lên dưới lửa, đạn súng máy
ken dày đặc từ hai phía trút xuống cầu (...) những người khác vẫn hăm hở xông qua làn
đạn súng máy, vượt qua những người chết và bị thương, vừa xông lên vừa bắn tiểu
liên, ném lựu đạn...". [152 - 138]
Đặc biệt, chúng tôi lưu ý đến một đặc điểm mới trong hệ thống lời văn của tiểu
thuyết sử thi hiện đại. Bên cạnh sự hồi sinh những đặc điểm lời văn sử thi và khả năng
tổng hợp sức mạnh lời văn của các thể loại khác, chúng tôi còn thấy lời văn của tiểu
thuyết sử thi hiện đại có thêm một đặc điểm: âm hưởng sử thi hàm ẩn trong lời văn
giản dị bình thường cũng sẽ mang lại cho nó tính sử thi. Những lời văn không hào
hùng tráng lệ, không giàu hình ảnh và các biện pháp tu từ, chỉ mộc mạc như lời nói đời

thường nhưng vẫn trở thành lời sử thi mới khi nó nói được số phận, khát vọng và lý
tưởng của cả cộng đồng, niềm vui, nỗi buồn, nỗi đau và ước nguyện của toàn dân. Câu
nói giản dị của chị út Tịch (Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi) "Còn cái lai quần cũng
đánh” đâu có gì tương đồng với những "lời có cánh” trong sử thi xưa? Nhưng nó đích
thực là lời văn của sử thi mới ở nội dung, ở sắc thái biểu cảm và ở tư thế người nói gắn
bó với chủ nghĩa anh cách mạng hùng Việt Nam. Cũng tương tự như thế là lời nhân
vật Cượng rỗ (Dưới đám mây màu cánh vạc - Thu Bồn) hỏi vợ vừa sinh con: "Trai hay
gái?", chị Gừng đáp: "Lại phải tìm cho nó một cây súng nữa". Lời đáp này không hề
có những đặc điểm của lời văn sử thi cổ điển, cũng không hào sảng như lời văn trong
một số tiểu thuyết chống Mĩ khác. Nhưng nó vẫn mang âm hưởng sử thi hào hùng
dưới đáy sâu của ngôn từ, khi đề cập tới những vấn đề mang tính cộng đồng bấy giờ:
vấn đề kế tiếp các thế hệ anh hùng khi đất nước còn bị xâm lược, vấn đề chủ nghĩa anh
hùng cách mạng được biểu hiện qua các chi tiết giản dị đời thường nhất.
Cấu trúc thể loại của tiểu thuyết luôn vận động, biến đổi qua từng thời đại. Chỉ có
thể khẳng định cấu trúc thể loại của từng loại hình tiểu thuyết trong từng chặng đường
của lịch sử loại hình tiểu thuyết thế giới. Từ góc độ phác hoạ mô hình cấu trúc thể loại
của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975, chúng tôi đi tìm mô hình nghệ thuật của
nó trong sự đối sánh với mô hình cấu trúc thể loại của sử thi cổ điển ở các phương diện
kể trên. Từ những phác hoạ sơ lược ban đầu này, chúng tôi sẽ đi sâu khảo sát cấu trúc
thể loại của tiểu thuyết sử thi Việt Nam hiện đại trong ba chương tiếp theo của luận án.
17


Chương một
LOẠI HÌNH CẢM HỨNG SỬ THI TRONG CẤU TRÚC THỂ LOẠI
CỦA TIỂU THUYẾT SỬ THI VIỆT NAM 1965 – 1975
1. Loại hình cảm hứng sử thi - một phức hợp cảm hứng tư tưởng đóng vai trò
chủ đạo trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975
1.1. Khái niệm cảm hứng tư tưởng, cảm hứng nghệ thuật và cảm hứng sử thI
1.1.1 Cảm hứng tư tưởng trong tác phẩm văn học

Là một lớp nội dung đặc thù trong nội dung tư tưởng của tác phẩm văn học, cảm
hứng tư tưởng có một vị trí và chức năng quan trọng. Bức tranh hiện thực xã hội hay
bức tranh tâm trạng trong tác phẩm văn học không được tái hiện một cách lạnh lùng
mà bao giờ cũng gắn liền với những cảm xúc mãnh liệt.
Nhà phê bình Nga Biêlinxki nói: "Tư tưởng thơ, đó không phải là phép tam đoạn
thức, không phải là giáo điều, không phải là quy tắc, mà tà một ham mê sống động, đó
là cảm hứng [92 - 268]. Cảm hứng, đó là tình yêu say đắm mang tư tưởng, là sự hoà
quyện nhuần nhuyễn giữa cảm xúc của trái tim với tư tưởng của trí tuệ khi cả hai cùng
hướng tới một đối tượng thẩm mỹ nào đó. Biêlinxki cũng đã giải thích hiện tượng
này:”Trong cảm hứng, nhà thơ là người yêu tư tưởng như yêu cái đẹp, yêu một sinh
thể sống, thấm nhuần tư tưởng một cách nhiệt tình” [92 - 286].
Như vậy, cảm hứng tư tưởng là một lớp nội dung quan trọng trong chỉnh thể tác
phẩm. Đó là một tình cảm mạnh mẽ mang tính tư tưởng, một "ham muốn tích cực đưa
đến hành động” [230 - 230]. Lớp nội dung đặc thù trong tác phẩm văn học này không
thể hiểu một chiều mà mang tính phức hợp với sự liên kết nhiều loại cảm hứng xung
quanh một cảm hứng trung tâm. Nó không phải là một thứ tình cảm được trực tiếp
xướng lên mà là tình cảm nồng nhiệt mang tư tưởng, toát ra từ tính cách nhân vật, từ
tình huống điển hình và miêu tả nghệ thuật trong tác phẩm văn học. tình cảm gắn với
tư tưởng sai trái, giả tạo, tầm thường, không thể tạo ra cảm hứng. Chỉ những tư tưởng
lành mạnh tiến bộ, cách mạng của thời đại mới khơi mở và làm bùng lên những cảm
hứng tư tưởng tích cực. Cảm hứng tư tưởng - khái niệm mà Pôxpêlốv còn gọi là
"khuynh hướng tư tưởng - cảm xúc”, là "nhiệt hứng” [117 - 43], bị quy định bởi hiện
thực đời sống mà nghệ sĩ phản ánh, đồng thời nó cũng bắt nguồn từ thế giới quan và lý
tưởng xã hội của nhà văn.
1.1.2. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học
Khi cảm hứng tư tưởng được nghệ thuật hoá trong tác phẩm văn học thì được gọi
là cảm hứng nghệ thuật. Trước và trong khi đặt bút sáng tác, cảm hứng tư tưởng mới là
động lực thôi thúc, là ngọn lửa làm tan chảy và hoà quyện mọi chất liệu đời sống mà
người nghệ sĩ đã thâu góp để trở thành tác phẩm. Khi tác phẩm hoàn thành, cảm hứng
18



tư tưởng đã được hoà tan vào cấu trúc nghệ thuật. Nó vô hình nhưng lại nằm trong và
chi phối mọi yếu tố của chỉnh thể nghệ thuật. Bản thân cảm hứng tư tưởng là một lớp
nội dung đặc thù của tác phẩm. Nhưng đó chỉ là một cách khu biệt và định danh để dễ
nghiên cứu về nó. Thực chất khi tác phẩm đã hoàn thành, cảm hứng tư tưởng đã được
nghệ thuật hoá thì nó trở thành linh hồn của cấu trúc nghệ thuật, chi phối và ảnh hưởng
đến mọi yếu tố thuộc bình diện hình thức và nội dung của tác phẩm. Theo Pôxpêlốv,
căn cứ vào phẩm chất thẩm mỹ của bản thân hiện thực đời sống mà có thể nêu lên các
loại "Cảm hứng anh hùng, cảm hứng bi kịch, cảm hứng kịch tính hoặc là cảm hứng
cảm thương và cảm hứng lãng mạn, hoặc là cảm hứng châm biếm và cảm hứng hài
hước cùng các biến thể của nó” [116 - 215].
1.1.3. Cảm hứng sử thi trong tác phẩm văn học
Trong cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học do Pôxpêlốv chủ biên, các tác giả đã
phân chia lịch sử văn học nhân loại theo tiêu chí thể tài văn học. Khái niệm thể tài hiểu
theo nghĩa cô đọng nhất là sự thống nhất giữa thể loại với đề tài, là một hình thức thể
loại mang tính nội dung.
Lịch sử văn học nhân loại gồm bốn thể tài chính - bốn loại hình nội dung đời sống
của con người. Môi một loại hình nội dung đời sống của con người được quan niệm
như một kiểu quan hệ của con người với thế giới.
Loại trừ thể tài thần thoại đã ra đi cùng thời đại sản sinh ra nó, với ba thể tài đã và
đang tồn tại - phát triển (thể tài sử thi, thể tài thế sự - phong tục, thể tài tiểu thuyết),
chúng ta thấy thể tài văn học nào cũng có cảm hứng tư tưởng mang tính đặc thù của
nó. Chẳng hạn, thể tài sử thi (tức thể tài dân tộc - lịch sử) lấy cảm hứng sử thi làm cảm
hứng tư tưởng chủ đạo. Các cảm hứng thuộc phạm vi thế sự và đời tư chỉ mang tính
phối thuộc và bị chi phối bởi một "áp lực sử thi". Cảm hứng chủ đạo này chi phối các
tác phẩm thuộc thể tài sử thi ở cả hai cấp độ vĩ mô và vi mô. Nó là cảm hứng chủ đạo
của một trào lưu văn học, một thời đại văn học nằm trong cái khung của thể tài sử thi.
Khi được biểu hiện trong các tác phẩm văn học cụ thể, nó lại được phân thân thành rất
nhiều biến thể, nhưng các biến thể ấy dù mang hình thức này hay khác dù có kết hợp

với các kiểu loại cảm hứng tư tưởng khác ở mức độ nào, tất cả đều bị quy định bởi
những chuẩn mực nghệ thuật sử thi của nền văn học nằm trong thể tài sử thi ấy.
1.2. Cảm hứng sử thi - cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết sử thi Việt Nam
1965 - 1975
Chúng tôi đã trình bày ý kiến của mình về khái niệm cảm hứng tư tưởng trong văn
học. Đồng thời, chúng tôi cũng khẳng định vị trí, chức năng và nội dung của cảm hứng
sử thi trong thể tài dân tộc - lịch sử, từ đó soi chiếu vào thời đại văn học chiến tranh
cách mạng ở Việt Nam, một thời đại văn học mà cảm hứng sử thi là dòng cảm hứng tư
tưởng chủ đạo của nó. Trong dòng cảm hứng chủ lưu ấy có sự góp mặt của nhiều cảm
hứng khác như cảm hứng bi kịch, cảm hứng cảm thương, cảm hứng lãng mạn...
19


Những khẳng định trên đây được hình thành dựa trên ba cơ sở:
Thứ nhất: Cơ sở lịch sử.
Cảm hứng thời đại trong văn học, theo giáo sư Hà Minh Đức "thường trước hết
được thể hiện ở sự miêu tả thành công, chân thực và sâu sắc những sự kiện tớn của
đất nước, của cộng đồng tác động đến vận mệnh chung của mọi người”[44]. Từ mối
quan hệ giữa thời đại với nhà văn, chúng ta thấy "mỗi thời đại đều có tầm vóc bước đi
và âm vang của nó” [44]. Chính âm vang thời đại ấy tạo nên tính thời đại trong văn
học. Tính thời đại là một chuẩn mực thẩm mỹ để đánh giá văn học. Một tác phẩm văn
học mang tính thời đại là một tác phẩm mang cảm hứng thời đại.
Với thời đại văn học 1945 - 1975, chúng ta thấy các khái niệm cảm hứng anh
hùng, cảm hứng bi kịch, cảm hứng lãng mạn hay cảm hứng cảm thương đều còn quá
chật hẹp, chưa đủ bao quát hết cảm hứng chủ đạo của nó. Một số công trình nghiên
cứu văn học định danh cảm hứng chủ đạo của thời đại văn học này là: tính sử thi, chất
sử thi, yếu tố sử thi, văn học sử thi, cảm nhận sử thi, cảm hứng sử thi...
Từ sự không thống nhất trong khái niệm ấy dẫn đến tình trạng nhận thức mơ hồ
của người đọc. Chúng tôi sử dụng khái niệm cảm hứng sử thi như tên gọi của dòng
cảm hứng tư tưởng bao trùm thời đại văn học này, một dòng cảm hứng xuất hiện từ

Cách mạng tháng Tám, rồi tiếp tục sự tìm kiếm những phương thức nghệ thuật thích
hợp cho nó trong văn học chống Pháp và kết tinh rực rỡ trong văn học chống Mỹ và
xây dựng chủ nghĩa xã hội từ 1960 đến 1975. Thời đại Hồ Chí Minh là một thời đại
anh hùng của dân tộc Việt Nam. Không một ai, kể cả những kẻ từng là kẻ thù của
chúng ta có đủ chứng cứ để bác bỏ điều đó.
Một thời đại anh hùng tất yếu sẽ sản sinh ra một thời đại văn học anh hùng. Trong
một nền văn học lấy cái anh hùng, cái vĩ đại làm đối tượng thẩm mỹ trung tâm thì cảm
hứng chủ đạo của nó làm sao có thể rên rỉ ốm yếu? Cảm hứng sử thi xuất hiện trong
nền văn học này là một điều tất yếu.
Thứ hai: Cơ sở lý luận.
Tính quy phạm của thể tài văn học với các thành tố nằm trong cấu trúc nghệ thuật
của nó là một tất yếu. Mỗi một thể tài văn học đều là một cấu trúc nghệ thuật thống
nhất với tính hệ thống của nó. Từ đề tài, chủ đề, thế giới nhân vật, kết cấu, giọng điệu,
ngôn ngữ, điển hình nghệ thuật... đều mang tính quy phạm. Các yếu tố của thể tài khác
khi gia nhập "vương quốc” của thể tài dân tộc - lịch sử đều bị biến dạng và không thể
giữ nguyên vẹn giá trị tự thân đích thực của nó. Nói như vậy để khẳng định: Cảm hứng
chủ đạo của thể tài dân tộc - lịch sử phải là cảm hứng sử thi như Lỗ Tấn từng nói đại ý:
Trong tim chảy ra phải là máu. Trong suối chảy ra phải là nước.
Thứ ba: Cơ sở thực tiễn văn học.
Khảo sát tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ này, chúng tôi có đủ cơ sở để khẳng định
20


cảm hứng sử thi là cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết Việt Nam 1965 - 1975. Những
minh chứng cho luận điểm này sẽ được trình bày ở các chương tiếp theo.
1.3. Cảm hứng sử thi là một phức hợp cảm hứng tư tưởng Với hai bộ phận tiểu
thuyết viết về đề tài chiến tranh cách mạng và đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, cảm
hứng sử thi với hình thức là một phức hợp cảm hứng được biểu hiện trong từng bộ
phận tiểu thuyết với đặc trưng vừa thống nhất vừa có nét đặc thù.
1.3.1. Cảm hứng sử thi trong tiểu thuyết sử thi viết về đề tài chiến tranh cách

mạng
Chiến tranh là một biến cố đặc biệt của lịch sử, một đề tài trung tâm của thể tài dân
tộc - lịch sử. Tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 viết về đề tài chiến tranh cách
mạng nằm trong cấu trúc của thể tài dân tộc - lịch sử đã lấy cảm hứng sử thi làm cảm
hứng chủ đạo của nó. Trong phức hợp của cảm hứng tư tưởng này, cảm hứng anh hùng
là nguồn ánh sáng phi thường rọi chiếu vào tất cả. Các loại cảm hứng khác đều xuất
hiện trong sự chi phối của nó.
Cảm hứng sử thi với tư cách là cảm hứng thời đại của giai đoạn văn học 1945 1975, là cảm hứng chủ đạo của cả trào lưu văn học sáng tác theo phương pháp hiện
thực xã hội chủ nghĩa, trong đó có tiểu thuyết 1965 - 1975.
Tiểu thuyết Việt Nam viết về đề tài chiến tranh cách mạng 1965 - 1975 là tiểu
thuyết sử thi (hay còn gọi là tiểu thuyết anh hùng ca) với đặc điểm: "Sự hình thành
những tính cách các nhân vật được đặt trong liên hệ phối thuộc với các sự kiện có quy
mô lịch sử dân tộc” [116]. Cảm hứng sử thi của nó là phức hợp cảm hứng, với cấu trúc
gồm các nhóm cảm hứng sau đây:
1.3.1.1. Cảm hứng anh hùng và cảm hứng kịch tính
Bàn về cảm hứng anh hùng, Pôxpêlốv đã viết: "Cảm hứng anh hùng bao hàm sự
khẳng định chiến công lớn lao của một cá nhân hoặc của cả một tập thể. Sự khẳng định
ý nghĩa to lớn của chiến công đó với sự phát triển của nhân dân, dân tộc, nhân loại.
Đối tượng của cảm hứng anh hùng trong văn học là chất anh hùng của bản thân thực
tại hoạt động tích cực của những con người đã thực hiện những nhiệm vụ lớn mang
tính chất tiến bộ của toàn dân tộc” [116 - 143].
Như vậy cảm hứng anh hùng là một tình cảm xã hội với ý thức hướng về chiến
công và nhấn mạnh ý nghĩa của những chiến công đó đối với dân tộc và nhân loại. Chủ
thể của những chiến công đó là những con người anh hùng (cá nhân hoặc tập thể). Tất
nhiên, nhà văn thường không ca ngợi "chất anh hùng” (một khái niệm mang tính dân
tộc - lịch sử) một cách trực tiếp mà "lý giải bằng tư tưởng sáng tạo tính anh hùng ấy
dưới ánh sáng lý tưởng về sự dũng cảm, trung thực và nghĩa vụ công dân. Nghệ sĩ tái
tạo đời sống thành thế giới hình tượng của tác phẩm, trong đó thể hiện quan niệm của
tác giả về chiến công, về bản chất, số phận và ý nghĩa của tính cách anh hùng” [116 143].
21



Nhưng khi loại hình hoá các dạng thức của cảm hứng tư tưởng trong văn học,
Pôxpêlốv và các cộng sự của ông đã nghiên cứu chúng ở tình trạng biệt lập tách rời.
Chúng tôi thấy chưa có sự đầy đủ ở cách tiếp cận này. Dù ai cũng hiểu cảm hứng tư
tưởng của một tác phẩm văn học hiện đại là một hệ thống gồm nhiều dạng thức châu
tuần quanh một dạng thức cảm hứng trung tâm. Nhưng không phải ai cũng thấy có
những dạng thức luôn gắn bó song hành với nhau. Đó là cảm hứng anh hùng và cảm
hứng kịch tính. Chỉ có thông qua xung đột và kịch tính, chất anh hùng mới được bộc lộ
và khẳng định. Xung đột và kịch tính giữa con người và hoàn cảnh, với các thế lực đối
lập hoặc trong chính nội tâm con người. Không có một con người nào ngồi im không
hoạt động, không suy nghĩ, không tình cảm, không tư tưởng mà có thể được gọi là anh
hùng. Vậy cảm hứng anh hùng chỉ có thể được bộc lộ qua cảm hứng kịch tính. Vậy
cảm hứng kịch tính là gì? Đó là: "Những tình thế kịch tính và những cảm xúc kịch tính
do tình thế ấy gây nên ở con người, có thể trở thành đối tượng của sự đánh giá mang tư
tưởng sâu sắc trong các tác phẩm văn học, và tạo nên cảm hứng của chính nó” [116 153].
Khảo sát tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975, chúng ta nhận thức sâu sắc hơn
về cảm hứng sử thi của tiểu thuyết giai đoạn này với cấu trúc mang tính hệ thống của
nó. Cảm hứng anh hùng và cảm hứng kịch tính là hai dạng thức cảm hứng đầu tiên cần
bàn đến trong cấu trúc cảm hứng này.
Trong các tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975, chúng ta thấy rõ ràng đã xuất
hiện những "tình thế đời sống mang tính kịch căng thẳng”. Đó là khi "khát vọng - nhu
cầu xã hội - nhu cầu cá nhân” của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam "bị đặt
trước nguy cơ thất bại hoặc chết chóc do sức mạnh bên ngoài, độc lập với ý thức và ý
chí của họ” [l 16 - 152].
Thế giới phân đôi giữa ta và địch, giữa dân tộc và ngoại xâm, giữa nông dân và địa
chủ trong mối thù truyền kiếp... trong tiểu thuyết giai đoạn này đã biểu hiện một xung
đột gay gắt, sống còn nhất. Mà "xung đột giữa cái cao cả với cái thấp hèn sẽ làm nảy
sinh cảm hứng anh hùng” [4 - 152]. Cảm hứng kịch tính là điều kiện nghệ thuật để
cảm hứng anh hùng bộc lộ. Cảm hứng anh hùng bao giờ cũng mang nội dung khẳng

định và phủ định như hai mặt đối lập mà thống nhất.
Thứ nhất: Cảm hứng anh hùng với nội dung khẳng định cái cao ca.
Hàng loạt nhân vật anh hùng với những chiến công phi thường đã xuất hiện trong
tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975. Họ là quần chúng cách mạng, cán bộ cách
mạng và đặc biệt là hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ - hình tượng người anh hùng vệ quốc
kiểu mới, lần đấu tiên xuất hiện trong lịch sử văn học Việt Nam. Họ đã "chống trả bọn
ngoại xâm, đấu tranh với các thế lực phản động, nhằm đạt tới những hình thái xã hội
chính trị tiên tiến” [4 - 153]. Họ được miêu tả với cảm hứng khẳng định, ca ngợi, biết
ơn vì những phẩm chất cao đẹp hay vì những chiến công, tin tưởng, đau xót thương
tiếc khi họ ngã xuống vì quê hương đất nước.
22


Cảm hứng anh hùng với nội dung khẳng định cái cao cả ấy đã dành bao yêu
thương kính trọng cho Thắm, Hoàng, ông già sông Trúc, Vân, Vi, Xuyến trong Đất
Quảng của Nguyễn Trung Thành, Khắc An, Quyên trong Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi,
Quỳnh, Đông, Hảo trong Vùng trời của Hữu Mai, Huy trong Chiến sĩ của Nguyễn
Khải... Không chỉ hướng về nhân vật anh hùng là người cán bộ cách mạng, người lính
cách mạng đã vượt qua những thử thách khốc liệt nhất, những đau thương mất mát ghê
gớm nhất để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cách mạng (đã có nhiều công trình nghiên
cứu phân tích vấn đề này nên chúng tôi không trình bày lại), cảm hứng anh hùng trong
tiểu thuyết sử thi thời kỳ này còn rọi chiếu ánh sáng lý tưởng hoá vào một nhân vật
đẹp đẽ vô ngần có tên gọi là nhân dân. Nhân dân giản dị, bình thường mà vĩ đại là một
hình tượng nghệ thuật trung tâm. Họ có tên hoặc không tên nhưng sức mạnh của họ là
vô địch. Trong tập thể anh hùng ấy ta bắt gặp các cụ già anh hùng: ông già sông Trúc
trong Đất Quảng, ông già U Minh trong Rừng U Minh, ông Nhâm trong Gia đình má
Bảy, cụ Ước trong Sóng gầm...
Và đó là các bà mẹ Việt Nam anh hùng: má Sáu trong Hòn Đất; má Bảy trong Gia
đình má Bảy; má Chín trong Rừng U Minh; bà Tư trong Dưới đám mây màu cánh
vạc...

Rồi các cô gái như Mẫn trong Mẫn và tôi; Vân, Vi trong Đất Quảng; út Sâm, Ngọ
trong Gia đình má Bảy; Quyên trong Hòn Đất các em thiếu niên và nhi đồng như
Bưởi, Xuyến, Sơn trong Đất Quảng, thằng út trong Hòn Đất, Tự, Thó trong Dưới đám
mây màu cánh vạc... tất cả khác nhau về đặc điểm cá thể hoá nhưng đều có chung bản
chất xã hội, đều thuộc kiểu nhân vật loại hình. Họ là những người anh hùng trong cuộc
kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Lí tưởng cách mạng mang lại cho họ sức mạnh tinh
thần kì diệu để vượt qua mọi thử thách. Lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, những
đau thương họ phải vượt qua và chiến công của họ đều thật phi thường. Khuynh hướng
lý tưởng hoá ấy có sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn cách mạng.
Văn học cách mạng nói chung và tiểu thuyết Việt Nam 1965 - 1975 nói riêng đã cố
gắng phản ánh trung thực về hiện thực cuộc sống ấy và có lẽ vẫn còn chưa theo kịp
cuộc sống. Các hồi kí của các nhà văn từng vừa cầm súng vừa cầm bút đã cho biết điều
đó: "Các nhà văn viết về chiết: tranh cầm bút trong một hoàn cảnh thật cách xa với
những cái mà đôi khi chúng ta đã bắt gặp thấy (...) dù một trí tưởng tượng phong phú
và bất ngờ đến đâu cũng không thể nghĩ ra được những gì xảy đến trong chiến tranh”
[16 - 47]. Tác phẩm viết về chiến tranh còn sơ lược một nhược điểm mà nhiều ý kiến
đề cập đến gần đây, thì lại phụ thuộc vào nhiều lý do, trong đó có lý do tài năng của
nhà văn, rồi cách hiểu đơn giản về phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa,
quan niệm đơn giản về người anh hùng... Những lý do ấy thì ở văn học hôm nay và có
lẽ mai sau vẫn tồn tại. Với không khí dân chủ hoá đời sống và tự do sáng tác hôm nay,
với điều kiện vật chất thời gian, thông tin... đầy đủ như hôm nay, các nhà văn Việt
Nam đã có một tác phẩm nào (dù viết về chiến trình hay viết về công cuộc đổi mới)
xứng đáng với tầm vóc thời đại hay chưa? Hình mẫu nhân vật trung tâm của thời đại
23


hôm nay là ai? Biết rõ những nhược điểm mà văn học Việt Nam 1945 - 1975 mắc
phải, tại sao văn học đương đại vẫn chưa thể vượt qua và đạt được những thành tựu
rực rỡ ? Có lẽ, câu trả lời vẫn là: Chúng ta chưa có những tài năng lớn để vượt qua
những nhược điểm, thử thách, mà sự xuất hiện những tài năng lớn lại không phụ thuộc

vào ý chí của chúng ta. Tất cả các nhân vật anh hùng của cảm hứng anh hùng kể trên
đều được đặt vào những tình thế giàu kịch tính. Đây không chỉ là một biện pháp nghệ
thuật, một kỹ thuật tiểu thuyết có vai trò tạo độ căng và sự hấp dẫn cho tác phẩm. Đây
là một cảm hứng tư tưởng chi phối cấu trúc nghệ thuật của loại hình tiểu thuyết sử thi
trong nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tác phẩm văn học có thể có
cảm hứng kịch tính mà không có cảm hứng anh hùng, nhưng cảm hứng anh hùng bao
giờ cũng song hành với cảm hứng kịch tính, kịch tính thấm đượm vào tác phẩm từ cấp
độ vĩ mô đến vi mô, chi tiết, ngôn ngữ, đến toàn bộ chỉnh thể nghệ thuật. Cảm hứng
anh hùng với tư cách là hạt nhân của loại hình cảm hứng sử thi, đã tạo ra một chuẩn
mực thẩm mỹ lấy cái hùng, cái cao cả làm nội dung và làm tiêu chuẩn đánh giá cao
nhất. Các loại cảm hứng tư tưởng khác đều bị chi phối bởi tiểu chuẩn thẩm mỹ này và
biến đổi về chất theo sự quy định của nó.
Tất cả các nhân vật đều được đưa tới những thử thách khắc nghiệt nhất, đều được
đưa lên trận tuyến ác liệt để chọn một trong hai con đường sống và chết hiểu theo cả
nghĩa hẹp và nghĩa rộng của nó. Thắm và tập thể anh hùng xã Hoà Thanh trong Đất
Quảng đứng trước hai thử thách: bó tay chịu chết hay đồng khởi? Bỏ chạy hay cầm
súng đánh Mĩ?
Cửa biển và Vỡ bờ - hai bộ tiểu thuyết sử thi đồ sộ viết về quá trình tức nước vỡ bờ
của hàng triệu con người lao khổ đi theo ánh sáng soi đường của cách mạng đến cuộc
hồi sinh vĩ đại cho cả một dân tộc... Số phận của cá nhân hoà chung vào số phận của
cả dân tộc. Bão táp trong tâm hồn mỗi con người cũng chính là bão táp trong hiện thực
lịch sử bấy giờ.
Như vậy cảm hứng kịch tính kết hợp với cảm hứng anh hùng đã thấm đượm vào
thế giới quan nhà văn, vào phương thức chiếm lĩnh hiện thực và hiện hữu trong thế
giới nghệ thuật của các tiểu thuyết sử thi thời kỳ này.
Thứ hai: Cảm hứng anh hùng với nội dung phủ định cái thấp hèn.
Khẳng định và ngợi ca cái cao cả, phủ định và đả kích cái thấp hèn, đó là hai mặt
đối lập trong sự thống nhất của nội dung cảm hứng anh hùng. Khí phủ định cái thấp
hèn (mà ở đây là loại nhân vật phản diện), chúng tôi thấy sự xuất hiện của cảm hứng
châm biếm. Đó là chân dung ngoại hình của nhân vật phản diện được vẽ bằng thủ pháp

phóng đại để trở thành lố bịch, hài hước hay quái dị. Sự ngu đốt, hèn hạ và độc ác của
chúng là đối tượng của cảm hứng châm biếm - đả kích. Thế nhưng sự hài hước chỉ
dừng lại ở các chi tiết mà không trở thành cảm hứng hài hước.
Cái thấp hèn ở đây được hình tượng hoá thành thế lực bóng tối: đó là đế quốc Mĩ
24


×