Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Đánh giá độc tính bán trường diễn và tác dụng của cao lỏng tđ1 trên thực nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.51 MB, 94 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Vết thương ngoài da là những tai nạn, chấn thương ngoại khoa thường
gặp trong cuộc sống, nó có thể xảy ra bất ngờ ở mọi lúc, mọi nơi, mọi thời
điểm trong lao động sản xuất cũng như trong sinh hoạt hằng ngày. Trong đó,
bỏng là một trong những nguyên nhân phổ biến. Theo Lê Thế Trung, trong
thời hòa bình, bỏng chiếm từ 5-10% bệnh nhân chấn thương ngoại khoa với
nhiều mức độ khác nhau. Bỏng gây ra bởi nhiệt, hóa chất, điện,… trong đó
bỏng do nhiệt hay gặp nhất [22]. Bệnh có thể xảy ra riêng lẻ với một vài cá
nhân nhưng cũng có khi là thảm họa lớn xảy ra với rất nhiều người. Theo dữ
liệu trung tâm phòng chống tai nạn thương tích Mỹ, có tới 1,2 triệu ca bỏng
trong số khoáng 2 triệu trường hợp cháy được báo cáo hàng năm, trong đó
xấp xỉ khoảng 100.000 trường hợp bỏng là nghiêm trọng và bắt buộc cần sự
chăm sóc và điều trị của các nhân viên Y tế.
Tùy mức độ bỏng, nguyên nhân bỏng mà bệnh nhân phải chịu những ảnh
hưởng với mức độ khác nhau. Nói chung, bệnh nhân bỏng thường phải điều
trị dài ngày, diễn biến điều trị cần được theo dõi sát sao thường xuyên. Với
các trường hợp bỏng nghiêm trọng, nếu điều trị không tốt có thể dẫn đến
nhiễm trùng và để lại những di chứng lâu dài cho người bệnh, làm ảnh hưởng
đến thầm mỹ, khả năng lao động, sinh hoạt hằng ngày, thậm chí là làm cho
người bệnh tử vong.
Hiện nay, các loại thuốc có tác dụng để điều trị tại chỗ vết thương bỏng
đang được nghiên cứu và sản xuất khá rộng rãi. Tại Việt Nam, nhiều thuốc
nguồn gốc ngoại nhập có thành phần và tác dụng kháng khuẩn, kháng sinh
đang được sử dụng phổ biến trong điều trị vết thương bỏng tại chỗ đem lại
những hiệu quả nhất định như kem sulfadiazin bạc 1%, [3], [4]. Bên cạnh
những thuốc tây y, một số thuốc Y học cổ truyền đã được nghiên cứu tác


2



dụng, kế thừa dựa trên cơ sở khoa học và ứng dụng trong lâm sàng như: cao
từ cây sến mật ong; chitosan (dẫn xuất của chitin có nhiều trong vỏ của nhiều
loài giáp xác: tôm, cua..) [5], [6], [7].
Các thuốc ở nước ngoài có tác dụng tốt nhưng chi phí cao, không phù
hợp với đại bộ phận bệnh nhân bỏng ở nước ta khi các bệnh nhân còn có hoàn
cảnh khó khăn, không đủ chi phí chi trả cho hoạt động khám chữa bệnh. Các
thuốc đã nghiên cứu, sản xuất trong nước có những tác dụng dược lý tương
đương nhưng giá thành lại rẻ hơn rất nhiều do tận dụng được những nguồn
nguyên liệu sản xuất sẵn có, dễ kiếm. Tuy nhiên, các loại thuốc sản xuất trong
nước này lại vẫn còn nhiều những hạn chế nhất định trong các khâu chế biến
sản xuất thuốc thành phẩm nên có thể không đạt được kết quả điều trị mong
muốn. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm kiếm thuốc điều trị bỏng mới tận dụng được
ngay những dược liệu, nguyên liệu trong nước luôn được đặt ra trong công tác
điều trị bỏng.
TĐ1 là bài thuốc nam gồm có cỏ chân vịt, hoàng bá nam, kim ngân hoa
đã được sử dụng từ lâu tại khoa Đông y Bệnh viện Hoằng Hóa tỉnh Thanh
Hóa, đem lại hiệu quả cao trong việc làm lành các vết thương phần mềm và
đặc biệt có tác dụng tốt trong điều trị những vết thương ở bệnh nhân có mức
độ bỏng vừa và nhẹ. Tuy nhiên, đó chỉ là những đánh giá về mặt kinh nghiệm
lâm sàng, chưa có những nghiên cứu khoa học cụ thể được thực hiện nhằm
chứng minh hiệu quả của bài thuốc. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến
hành đề tài: “Đánh giá độc tính bán trường diễn và tác dụng của cao lỏng
TĐ1 trên thực nghiệm” nhằm hai mục tiêu sau:
1. Đánh giá độc tính bán trường diễn của cao lỏng TĐ1 trên thực
nghiệm.
2. Đánh giá tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm và tác dụng lành vết
bỏng của cao lỏng TĐ1 trên thực nghiệm.



3

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm mô học của da

Hình 1.1: Cấu trúc mô học của da
Da là một trong những cơ quan có lớn nhất của cơ thể, chiếm tới gần
15% khối lượng cơ thể người trưởng thành. Nó có cấu tạo gồm có 3 tầng mô
chính là biểu bì, trung bì và hạ bì [8], [9], [10].
1.1.1. Lớp biểu bì
Cấu tạo bởi các tế bào biểu mô lát tầng sừng hoá gồm 5 lớp lần lượt từ
dưới lên là:
• Lớp

sinh sản hay lớp đáy: chỉ gồm một hàng tế bào hình vuông hay trụ,

hơi sẫm màu, đứng trên màng đáy.
• Lớp

Malpighi (hay lớp sợi) gồm nhiều hàng tế bào nhân hình tròn hay

hình trứng, sáng mầu, hạt nhân rõ.
• Lớp

hạt: 2-3 hàng tế bào hình thoi, bào tương có các hạt mầu tím nâu.

• Lớp


bóng: tương đối mỏng, mầu hồng bóng, các tế bào thoái hoá nhân

không bắt màu.
• Lớp

sừng: là những lá sừng mầu đỏ, không nhân.


4

1.1.2. Chân bì
Cấu tạo là những mô liên kết chứa nhiều mạch máu. Nơi chân bì đội biểu
bì lên gọi là các nhú chân bì.
Chân bì là mô liên kết giàu mạch máu, nằm ngay dưới biểu bì và ngăn
cách với biểu bì bằng một màng đáy lượn sóng. Chân bì gồm tập hợp tế bào
sắp xếp 2 lớp là lớp nhú và lớp lưới.
• Lớp

nhú mỏng là mô liên kết thưa có nhiều mạch máu.

• Lớp

lưới dày và rất chắc do có rất nhiều sợi collagen xếp theo nhiều

hướng.
• Bao quanh giữa các tế bào chân bì là chất nền ngoại bào do chính các tế bào

tiết ra(extracellular matrix-ECM) - tập hợp của các đại phân tử polysaccharide
(glycosaminoglycan, proteoglycan) và glycoprotein (collagen, fibronectin, elastin) có vai trò quan trọng trong duy trì và giữ chức năng cấu trúc tế bào cũng như quá
trình liền vết thương [11].

1.1.3. Lớp hạ bì
Hạ bì được đặc trưng bởi mô liên kết thưa, nhiều mô mỡ tập trung thành lại
thành từng đám tạo thành tiểu thuỳ mỡ và giữa các tiểu thùy ngăn cách nhau bởi
các mô liên kết. Tế bào mỡ có hình đa diện lớn bào tương chứa đầy các hạt mỡ
đã bị tan ra trong dung môi khi làm tiêu bản nên không bắt màu thuốc nhuộm.
Nhân tế bào mỡ dẹt, nằm sát màng bào tương.
1.1.4. Các thành phần phụ thuộc da
Nằm ở chân bì và hạ bì da gồm có: Lông, cơ dựng lông, tuyến mồ hôi và
tuyến bã:
• Tuyến

mồ hôi được đặc trưng bởi các tiểu cầu mồ hôi; đó là một đám

những đoạn ống nhỏ bị cắt ngang hay cắt chéo.


5

• Lông:

Gồm hai phần: Phần trung tâm có mầu nâu là lông chính thức,

phần ngoại vi gồm nhiều hàng tế bào xếp đồng tâm đó là nang lông.
• Cơ

dựng lông: là những đám cơ trơn mầu đỏ nằm trong mô liên kết của

chân bì, thường thấy ở cạnh các lông.
• Tuyến


bã: là nhưng khối lớn, nhiều thuỳ ngăn cách nhau không hoàn

toàn, nhiều các tế bào các tế bào nhỏ, sẫm màu, lợp thành một hàng trên màng
đáy, dần dần chúng bị biến đổi thành các tế bào bã rất lớn, sáng mầu, nhân teo
và di chuyển vào vùng trung tâm của tuyến để sau đó được tống ra ngoài.
1.2. Tổng quan về bỏng
1.2.1. Định nghĩa và dịch tễ bỏng
Bỏng là các tổn thương do nhiệt độ, hóa chất hoặc dòng điện gây ra. Tổn
thương bỏng thường chỉ ở da, nhưng cũng có trường hợp bỏng sâu tới các lớp
dưới da như gân, cơ, xương khớp và các tạng.
Bỏng là chấn thương ngoại khoa thường gặp. Theo thống kê, nước Anh có
khoảng 250.000 bệnh nhân bỏng mỗi năm [12]. Con số này ở Mỹ lên đến hơn 1
triệu người [13]. Việt Nam ước tính mỗi năm có khoảng 844.000 người bị
bỏng, chiếm gần 1% dân số, trong đó 25% là trẻ em từ 1 đến 5 tuổi [14]. Tai
nạn bỏng là một trong những gánh nặng đối với ngành y tế các nước. Hàng
năm, số bệnh nhân bỏng cần điều trị nội trú ở Pháp khoảng 10.000 người [15],
ở Hoa Kỳ khoảng 75.000 người [13], ở Anh khoảng 112.000 người [12]. Tại
Việt Nam, chỉ tính riêng Viện Bỏng Quốc Gia mỗi năm đã tiếp nhận và điều trị
cho hơn 2.500 bệnh nhân bỏng mức độ từ nặng đến rất nặng [15].
Bỏng để lại những gánh nặng thương tật nặng nề, đồng thời là nguyên
nhân gây tử vong đáng lo ngại. Thống kê của tổ chức Y tế Thế giới năm 2004
cho thấy mỗi năm có hơn 310.000 bệnh nhân tử vong do bỏng lửa, chưa kể
đến các loại bỏng khác, trong đó hơn 30% bệnh nhân dưới 20 tuổi [16]. Tại
Việt Nam, nghiên cứu “Gánh nặng bệnh tật và chấn thương ở Việt Nam 2008”
của Nguyễn Thị Trang. Nhưng cho thấy tỷ lệ tử vong do bỏng là 243/100.000


6

dân, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ chung của khu vực và thế giới [17]. Cũng

theo nghiên cứu này, số năm sống tàn tật hiệu chỉnh (DALYs) mà tai nạn bỏng
để lại lên tới 15.717/100.000 dân [17].
1.2.2. Mức độ nặng của tổn thương bỏng
Đối với tổn thương bỏng, phản ứng của cơ thể, diễn biến của quá trình
liền vết thương, nguy cơ xuất hiện các biến chứng và hậu quả do bỏng để lại
tùy thuộc vào mức độ nặng của tổn thương. Để đánh giá mức độ nặng của tổn
thương bỏng, có thể dựa vào các yếu tố sau: độ sâu của tổn thương, diện tích
vết bỏng, tác nhân gây bỏng, vị trí bỏng trên cơ thể và thể trạng bệnh nhân
[18]. Cụ thể:
1.2.2.1. Tác nhân gây bỏng
Các tác nhân gây bỏng có thể chia thành ba nhóm chính là nhiệt độ, hóa
chất và dòng điện [16],[12]. Mức độ nặng của tổn thương phụ thuộc vào loại
tác nhân và đặc điểm của tác nhân gây bỏng.
Các tác nhân nhiệt độ như ngọn lửa, các vật rắn nóng, các chất lỏng nóng
hoặc khí nóng gây bỏng nhiệt. Mức độ tổn thương trong bỏng nhiệt phụ thuộc
nhiệt độ của tác nhân, thời gian, diện tích và áp lực của nguồn nhiệt lên da
[12]. Nhiệt độ càng cao, thời gian tiếp xúc càng dài, diện tích càng rộng và áp
lực lên da càng lớn, mức độ tổn thương càng nặng [12].
Các hóa chất như acid hay kiềm mạnh có thể gây bỏng hóa chất với mức
độ nặng của tổn thương phụ thuộc vào bản chất và nồng độ của tác nhân [18].
Các acid gây biến tính protein, hoại tử mô và thường gây đau cho bệnh nhân
[12]. Riêng acid hydrofluoric có khả năng thâm nhập sâu vào mô cơ thể, gây
nhiễm độc toàn thân, có thể dẫn đến tử vong ngay cả với vết bỏng nhỏ [12].
Các tác nhân kiềm có khả năng thâm nhập vào mô sâu hơn hầu hết các acid,
gây biến tính protein, làm tế bào mất nước và gây hoại tử mô mỡ [12]. Đặc
biệt, bỏng kiềm ban đầu không đau nên bệnh nhân thường không biết để xử
trí kịp thời khiến tổn thương nặng thêm [12].


7


Mức độ nặng của tổn thương trong bỏng điện tùy thuộc vào tính chất và
điện thế của nguồn điện. Trong khi các nguồn điện một chiều với điện thế
thấp thường chỉ gây tổn thương ngoài da, nguồn điện cao thế (khoảng 1000V)
có thể gây tổn thương mô rộng lớn, thậm chí tiêu cơ vân và suy thận [12],
[19]. Dòng điện xoay chiều nếu đi qua cơ tim có thể gây rối loạn nhịp tim và
dẫn tới tử vong [12],[19].
1.2.2.2. Diện tích tổn thương bỏng
Diện tích vết bỏng là một trong các tiêu chí để đánh giá mức độ nặng của
tổn thương: diện tích càng rộng, mức độ tổn thương càng nặng [16]. Vết bỏng
có diện tích rộng có nguy cơ nhiễm khuẩn vết bỏng, nhiễm khuẩn toàn thân cao
[16],[20], thời gian liền vết thương kéo dài, để lại sẹo xấu [16]. Tổng diện tích
bỏng trên cơ thể quá lớn còn có thể dẫn đến sốc tuần hoàn và tử vong [16].
Thống kê ở các nước thu nhập thấp cho thấy nguy cơ tử vong do bỏng trên
30% tổng diện tích bề mặt cơ thể là 50%, đối với bỏng trên 50% diện tích bề
mặt cơ thể là gần 100% [16].
1.2.2.3. Độ sâu tổn thương bỏng
Độ sâu tổn thương bỏng quyết định ảnh hưởng của vết bỏng đến tình
trạng toàn thân, nguy cơ nhiễm khuẩn, khả năng tự liền vết thương, thời gian
liền vết thương và hậu quả sau bỏng [15],[21]. Dựa trên độ sâu tổn thương, có
thể phân loại bỏng như sau:
Bảng 1.1: Phân loại độ sâu tổn thương bỏng.
Bỏng nông
Độ III
Độ III nông
Độ III sâu
Viêm cấp Tổn thương Tổn thương Tổn thương lớp
đỏ da do biểu bì, lớp lớp nhú, phần lưới, chỉ còn
phần sâu tuyến
bỏng

đáy còn
phụ của da
mồ hôi
Độ I

Độ II

Bỏng sâu
Độ IV

Độ V

Bỏng Bỏng da và
toàn bộ các lớp
dưới da,
lớp da
nộitạng


8

Hình 1.2: Phân loại độ sâu tổn thương bỏng
Bỏng độ I: tổn thương lớp nông của biểu bì, các phần khác nguyên vẹn,
tự khỏi sau 2-3 ngày, không để lại sẹo [15], [18].
Bỏng độ II: tổn thương biểu bì, phần đáy còn nguyên vẹn, tự khỏi sau 710 ngày nhờ biểu mô từ phần còn lại của tế bào mầm đáy biểu bì, để lại nền
nhạt màu hơn màu da lành xung quanh [15].
Bỏng độ III nông: tổn thương tới lớp nhú, còn ống, gốc lông, tuyến mô
hôi, tuyến bã nhờn. Tự khỏi sau 12-15 ngày nhờ biểu mô hóa từ các phần phụ
còn lại của da [15].
Bỏng độ III sâu: tổn thương tới lớp lưới trung bì, chỉ còn phần sâu của

tuyến mồ hôi. Hình thành đảo biểu mô từ phần còn lại của tuyến mồ hôi.
Bỏng độ III sâu rất dễ chuyển thành bỏng sâu [15].
Bỏng độ IV: tổn thương sâu hết lớp da, tất cả các thành phần của biểu
mô đều bị phá hủy, không có khả năng tự liền do không có các thành phần của
biểu mô [15].
Bỏng độ V: tổn thương qua da tới lớp cơ, gân, xương, nội tạng, thường
để lại hậu quả nặng nề [15].


9

1.2.2.4. Vị trí bỏng trên cơ thể
Vị trí bỏng trên cơ thể cũng ảnh hưởng đến mức độ nặng của tổn thương.
Những vết bỏng có cùng diện tích và độ sâu tổn thương nhưng ở vị trí khác
nhau thì mức độ nặng khác nhau [18], [23]. Bỏng vùng đầu mặt gây rối loạn
vận mạch dẫn đến thiếu máu não, phù não. Bỏng vùng hậu môn, sinh dục,
nách dễ bị nhiễm khuẩn.
Bỏng bàn tay để lại sẹo co rút, ảnh hưởng tới khả năng vận động nên
được tiên lượng nặng hơn.
1.2.2.5. Thể trạng bệnh nhân
Bỏng ở những đối tượng bệnh nhân đặc biệt như người cao tuổi, trẻ em,
bệnh nhân suy giảm miễn dịch, bệnh nhân đang mắc bệnh mạn tính, bệnh
nhân có các tổn thương kết hợp… được đánh giá ở mức độ nặng hơn so với
những bệnh nhân thông thường [18].
Dựa trên các yếu tố trên, có thể phân loại mức độ nặng tổn thương bỏng
của bệnh nhân như sau:
Bảng 1.2: Phân loại mức độ nặng của bỏng
Mức độ

Đối tượng


- Bỏng độ I.
- Bỏng độ II có diện tích nhỏ hơn 15% diện tích cơ thể với
người lớn và nhỏ hơn 10% với trẻ em.
- Bỏng độ III với diện tích nhỏ hơn 2%.
- Bỏng độ II có diện tích từ 15-25% ở người lớn, từ 10-20% ở
Bỏng
trẻ em.
mức độ - Bỏng độ III có diện tích từ 2-10%.
trung bình - Bỏng độ II trên 25% ở người lớn, trên 20% ở trẻ em.
- Bỏng độ III trên 10%.
- Bỏng điện.
Bỏng
- Bỏng ở các vị trí đầu, mặt, cổ, tay, chân, bộ phận sinh dục.
mức độ
- Bỏng có kết hợp gãy xương hoặc chấn thương đường hô hấp
nặng
- Bỏng ở đối tượng bệnh nhân đặc biệt.
Bỏng
mức độ
nhẹ


10

1.2.3. Diễn biến của tổn thương bỏng
Hình ảnh mô học của tổn thương bỏng được Jackson D. mô tả gồm 3
vùng: vùng hoại tử, vùng phù ứ và vùng xung huyết [24]. Vùng chịu tác động
trực tiếp của tác nhân gây bỏng bị hoại tử mô tế bào. Vùng kế cận bị phù ứ,
phản ứng viêm xảy ra mạnh mẽ, các tế bào bị tổn thương. Vùng ngoài cùng là

vùng xung huyết với hiện tượng giãn mạch, các tế bào ít bị tổn thương.

Hình 1.3: Mô hình 3 vùng trong tổn thương bỏng của Jackson D.
(1: vùng hoại tử; 2: vùng phù ứ; 3: vùng xung huyết)
1.2.3.1. Các giai đoạn liền vết bỏng
Da là cơ quan có nhiều chức phận quan trọng đối với cơ thể. Đây là hàng
rào bảo vệ các cơ quan bên trong trước các yếu tố vật lý, hóa học và vi sinh
vật bên ngoài. Da còn là cơ quan cảm giác, miễn dịch, bài tiết, điều hòa nhiệt
độ. Tính toàn vẹn về cấu trúc và chức năng của da có ý nghĩa quan trọng đối
với cơ thể. Vì vậy khi da bị tổn thương, cơ thể sẽ phản ứng lại bằng các quá
trình sinh lý để thiết lập lại trạng thái ban đầu của da, các quá trình này gọi là
quá trình liền vết thương da.
Liền vết thương da là quá trình sinh lý phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, diễn
ra theo trình tự nhất định và chồng gối lên nhau. Có thể phân quá trình liền vết


11

thương da làm ba giai đoạn chính: (1) giai đoạn viêm cấp, (2) giai đoạn tăng
sinh, (3) giaiđoạn sửa chữa vết thương và hình thành sẹo [25],[15],[21],[26].
* Giai đoạn viêm cấp
Mục đích của giai đoạn này là ngăn ngừa sự lan rộng của các tác nhân
gây hại đến các mô lân cận, loại bỏ các mầm bệnh và các mảnh vụn tế bào,
tạo cơ sở cho quá trình phục hồi [25],[15],[26].
Phản ứng viêm xuất hiện ngay khi da bị tổn thương, với biểu hiện sớm
nhất là rối loạn tuần hoàn tại chỗ. Rối loạn tuần hoàn tại vị trí viêm được đặc
trưng bởi các hiện tượng: rối loạn vận mạch, tạo dịch rỉ viêm, bạch cầu xuyên
mạch và hiện tượng thực bào [25].
Rối loạn vận mạch là chuỗi các phản ứng liên tiếp bao gồm: co mạch,
sung huyết động mạch, sung huyết tĩnh mạch và ứ máu. Phản xạ co mạch xảy

ra ngay khi mô bị tổn thương, kéo dài trong thời gian rất ngắn nhưng có vai trò
quan trọng trong việc thúc đẩy phản ứng dây chuyền tiếp theo là sung huyết
động mạch. Sung huyết động mạch giúp ổ viêm được tưới máu giàu oxy và
năng lượng, tạo điều kiện cho quá trình thực bào xảy ra. Chỉ khi quá trình thực
bào hoàn tất hiện tượng sung huyết động mạch mới yếu dần đi và chuyển sang
sung huyết tĩnh mạch. Trong sung huyết tĩnh mạch, các mao mạch giãn rộng,
các tế bào ở vùng trung tâm viêm hòa vào lớp huyết tương bao quanh, ổ viêm
được dọn sạch, ngăn cản sự lan rộng của các tác nhân gây bệnh.
Dịch rỉ viêm được hình thành tại vị trí viêm, với hai nhóm thành phần cơ
bản là các thành phần của máu thoát ra (protein huyết tương, các chất điện
giải, hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu…) và các thành phần mới hình thành do rối
loạn chuyển hóa và tổn thương mô (histamin, serotonin, acetylcholin,
bradykinin, leucotrien, các sản phẩm chuyển hóa của acid arachidonic, các
cytokin interleukin-1, interleukin -6, interleukin-8, các chất gây sốt, các acid
nhân, các enzym,…) [25]. Dịch rỉ viêm có vai trò bảo vệ, nhưng lượng nhiều


12

quá có thể gây chèn ép mô gây đau nhức thậm chí hạn chế hoạt động của các
cơ quan xung quanh.
Hiện tượng bạch cầu xuyên mạch là hệ quả của sự tăng tính thấm của
thành mạch do tác dụng của các chất hóa ứng động (các thành phần của VK bị
dung giải, các sản phẩm hoạt hóa của bổ thể, các chemokin,..) [25]. Bạch cầu
di chuyển về phía có phản ứng viêm, bám vào thành mạch, xuyên qua vách
mạch và tiến tới ổ viêm để làm nhiệm vụ thực bào.
Mục đích của thực bào tại ổ viêm là dọn sạch các tế bào có hại, bảo vệ
cơ thể.
Tuy nhiên các phản ứng thực bào tại ổ viêm cũng có thể gây rối loạn
chuyển hóa hoặc tổn thương mô thứ phát, làm tổn thương thêm trầm trọng và

gây khó khăn cho quá trình liền vết thương [25].
* Giai đoạn tăng sinh
Cuối giai đoạn viêm cấp, giai đoạn tăng sinh hình thành mô mới bắt đầu.
Các vết bỏng nông như bỏng độ II có thể tự liền nhờ sự phân bào của các tế
bào lớp đáy biểu bì và biệt hóa thành các lớp tế bào của biểu bì [15],[21]. Với
bỏng sâu từ độ III trở đi, quá trình tái tạo mô bao gồm sự hình thành mô hạt
và quá trình biểu mô hóa phủ kín mô hạt bằng các tế bào biểu mô [15],[21].
Mô hạt bao gồm các tế bào mới và các mạch máu mới. Các mạch máu
mới được hình thành từ các tế bào nội mô tĩnh mạch nhỏ còn sót lại ở vùng
tổn thương, dưới tác dụng kích thích của các yếu tố tăng trưởng: EGF, PDGF,
TGF-β, FGF, VEGF. Trong khi đó, các tế bào mới được hình thành từ nguyên
bào sợi. Nguyên bào sợi vốn là các tế bào sợi trong dịch gian bào, dưới tác
dụng kích thích của dịch rỉ viêm mà hoạt hóa thành nguyên bào sợi, có khả
năng tổng hợp nhiều loại protein của mô nền như collagen, fibrinonectin,
glycosaminglycan (GAG) [25],[21],[26].


13

Sau khi mô hạt hình thành, quá trình biểu mô hóa xảy ra để phủ kín mô
hạt. Quá trình này gồm ba thời kì liên tiếp nhau: (1) sự di cư của các tế bào
sừng từ rìa vết thương vào vùng tổn thương, (2) sự phân chia của các tế bào
lớp đáy để tạo ra các tế bào nguồn, (3) sự trưởng thành của các tế bào biểu mô
để trở thành các lớp tế bào đầy đủ của biểu bì [27], [26].
* Giai đoạn sửa chữa vết thương và hình thành sẹo
Là giai đoạn dài nhất của quá trình liền vết thương [26]. Mô liên kết
được tạo ra và liên tục được sửa chữa để đảm bảo tạo sẹo da bền chắc. Các sợi
collagen được tạo ra bởi nguyên bào sợi và bị phá hủy bởi các collagenase để
không ngừng tái cấu trúc collagen. Các collagen này cùng với các sợi khác
của mô liên kết không ngừng được định hướng, sắp xếp lại để tạo ra mô sẹo

bền chắc. Nếu có sự mất cân bằng trong trạng thái tái lập collagen sẽ dẫn đến
trạng thái không bình thường của sẹo: sẹo phì đại, sẹo lồi hoặc sẹo teo [26].
1.2.3.2. Nhiễm khuẩn vết bỏng
Nhiễm khuẩn là biến chứng hay gặp trong quá trình diễn biến của tổn
thương bỏng bởi vết bỏng tự nó đã tạo ra những điều kiện tại chỗ và toàn thân
thuận lợi cho sự phát triển và lan rộng của vi sinh vật [23], [20], [28].
Tại chỗ: tổn thương bỏng làm mất tính toàn vẹn của da, phá vỡ hàng rào
bảo vệ tự nhiên của cơ thể, tạo điều kiện cho vi sinh vật trên da và từ môi
trường xâm nhập vào vết thương [23],[29]. Tại đây, sự phân giải protein và
lipid của mô tổn thương tạo ra môi trường dinh dưỡng thuận lợi cho sự phát
triển của VK [23],[29]. Hơn nữa, dưới tác dụng của phản ứng viêm, các mao
mạch bị bít tắc khiến cho các tế bào miễn dịch, các yếu tố bảo vệ trong dịch
thể cơ thể cũng như kháng sinh dùng đường toàn thân khó có thể theo đường
tuần hoàn tới mô bị bỏng [29].
Toàn thân: tổn thương bỏng có thể dẫn đến suy giảm miễn dịch, giảm
nồng độ các kháng thể dịch thể, giảm hoạt tính bổ thể, giảm chức năng của


14

đại thực bào, giảm số lượng bạch cầu đa nhân trung tính, lympho bào… do đó
giảm khả năng chống đỡ của cơ thể trước sự phát triển của VK [23],[29].
Ngoài ra, rối loạn huyết động do bỏng dẫn đến thiếu máu nuôi dưỡng các cơ
quan, trong đó có hệ tiêu hóa, làm suy yếu hàng rào bảo vệ ở niêm mạc thành
ruột, tạo điều kiện cho VK xâm nhập vào hệ tuần hoàn chung [29].
Các nghiên cứu cho thấy trên bề mặt của hầu hết các vết bỏng đều có
một hoặc nhiều loại VK [30],[31]. Tuy nhiên nguy cơ nhiễm khuẩn phụ thuộc
vào số lượng và độc lực của VK trên vết bỏng [23]. Các loại VK thường gây
nhiễm khuẩn bỏng là S.aureus, P. aeruginosa và các trực khuẩn đường ruột
[30],[32],[23],[29],[20],[13].

S. aureus là nguyên nhân hàng đầu gây nhiễm khuẩn vết bỏng, đồng thời
cũng là một trong những nguyên nhân chính gây nhiễm khuẩn huyết [23],
[31],[33],[30],[34],[32],[35]. Đây là loại VK nguy hiểm, có nhiều độc tố, khi
vào cơ thể gây nhiều biến chứng nặng nề [23],[29]. Nghiên cứu của Lê Thị
Kim Anh (1997) và Nguyễn Như Lâm (2010) đã cho thấy các chủng S.
aureus phân lập được tại vết bỏng đều có tính kháng thuốc cao đối với hầu hết
các kháng sinh thông thường [34],[30]. Hơn nữa, sự có mặt của S. aureus tại
vết bỏng còn làm tăng tính kháng thuốc [30] và tăng khả năng xâm nhập vào
mô của các VK khác [29].
P. aeruginosa là loại VK có độc lực cao, có khả năng xâm nhập sâu vào
các mô [32],[23],[31],[20],[35]. Đây là nguyên nhân chính gây nhiễm khuẩn
huyết và nhiễm khuẩn toàn thân trong bỏng [32],[23] với tỷ lệ phân lập được
trong máu có khi lên tới 62,5% [32]. P. aeruginosa là loại VK nguy hiểm, đã
kháng hầu hết các loại kháng sinh thường dùng với tỷ lệ kháng cao [30],[23],
[20].
Tình trạng nhiễm khuẩn có thể thúc đẩy phản ứng viêm quá mức, chuyển
bỏng nông thành bỏng sâu, gây hoại tử tổ chức, thải mảnh da ghép [20],[35].


15

Vi khuẩn từ vết bỏng có thể xâm nhập sâu vào cơ thể, gây nhiễm khuẩn huyết,
nhiễm khuẩn toàn thân [31],[23]. Trong điều trị, nhiễm khuẩn bỏng là biến
chứng nguy hiểm, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho bệnh nhân [23],
[29],[31],[20],[13],[35].
1.2.4. Hậu quả của bỏng
Bỏng để lại hậu quả nặng nề cho bệnh nhân, gia đình và xã hội.
Đối với bệnh nhân, tổn thương bỏng ở da, nơi tập trung đầu mút của các
dây thần kinh cảm giác, khiến người bệnh đau đớn, cần dùng nhiều biện pháp
hỗ trợ để giảm đau [36],[15]. Những trường hợp bỏng sâu, bỏng diện rộng,

lượng huyết tương thoát ra ngoài mạch quá lớn mang theo các chất điện giải,
protein có thể khiến bệnh nhân sốc bỏng, suy thận cấp, thậm chí tử vong [36],
[15]. Các biến chứng như nhiễm độc bỏng, sốt do hấp thu mủ bỏng, nhiễm
khuẩn vết bỏng, nhiễm khuẩn toàn thân cũng ảnh hưởng đến sức khỏe, tính
mạng của bệnh nhân [36],[15],[31]. Các vết bỏng cần trên 3 tuần để liền vết
thương thường để lại các di chứng lâu dài như sẹo, co rút da, biến dạng khớp
[19]. Sẹo bỏng không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ, tâm lý mà còn có thể hạn
chế vận động, ảnh hưởng đến hoạt động thường ngày và khả năng lao động
của bệnh nhân [36],[16],[13].
Với gia đình và xã hội, gánh nặng trước tiên của bỏng là chi phí điều
trị. Chi phí điều trị bỏng tùy thuộc vào loại bỏng và mức độ nghiêm trọng
của bỏng [16]. Ở Anh, chi phí trung bình của một ca bỏng nước nhẹ là 1.850
bảng Anh (tương đương 3.618 đô la Mỹ), chi phí này ở Hoa Kỳ vào khoảng
1.187 đô la Mỹ [16]. Các vấn đề khác như phục hồi chức năng lâu dài, tàn
tật, thất nghiệp, khó hòa nhập cộng đồng… cũng là những gánh nặng mà
bỏng để lại [16].


16

1.2.5. Các thuốc điều trị tại chỗ tổn thương bỏng
Điều trị tại chỗ giữ vai trò quan trọng trong quá trình điều trị bỏng. Mục
đích điều trị tại chỗ là nhằm nhanh chóng loại bỏ mô hoại tử, ức chế sự phát
triển của VK, kích thích quá trình biểu mô hóa, hạn chế biến chứng. Tùy vào
tác dụng, các thuốc điều trị tại chỗ có thể được phân thành các nhóm như sau:
1.2.5.1. Các thuốc kháng khuẩn tại chỗ vết thương bỏng
Các thuốc kháng khuẩn tại chỗ vết thương bỏng thường dùng:
- Các dung dịch sát khuẩn: povidon- iodin (betadin 10%), nitrat bạc 0,5% [23].
- Các kháng sinh hoặc hỗn hợp các kháng sinh: kem sulfadiazin- bạc 1%,
Mafenide acetat (Sulfamylon) dạng kem 10% hoặc dung dịch 5%, kem

gentamycin 0,1%, thuốc mỡ polymycin,… [28],[37],[31],[38].
- Các thuốc y học cổ truyền: mỡ Maduxin chế từ lá sến và dầu sến [39].
Trong số các thuốc điều trị tại chỗ vết bỏng, Kem sulfadiazin-bạc 1%
(SSD) là thuốc được sử dụng rộng rãi ở nước ta và nhiều nước trên thế giới do
có phổ kháng khuẩn rộng, tác dụng lên hầu hết các VK và một số vi nấm gây
bệnh [33],[21],[19],[23],[31],[13]. Tác dụng của SSD chủ yếu do tác dụng
diệt khuẩn của bạc phối hợp với tác dụng kìm khuẩn của sulfadiazin [23],[38].
Tuy nhiên, thuốc có một số nhược điểm sau:
- Làm chậm tiêu hủy và rụng hoại tử [40], làm mất hoạt tính của các
enzym làm rụng hoại tử khi dùng kết hợp [41].
- Làm chậm lành vết thương [42],[43].
- Sulfadiazin được hấp thu vào cơ thể và gây những tác dụng không
mong muốn như: giảm bạch cầu, tổn thương thận, tăng men gan, thiếu máu
tan huyết, đặc biệt là những trường hợp bỏng diện rộng [41],[42],[44].
Do việc dùng thuốc phổ biến và kéo dài, SSD đã bị một số vi khuẩn kháng
lại, đặc biệt là S. aureus, P.aeruginosa, Klesiella… [33],[21],[45],[31],[40].


17

1.2.5.2. Các thuốc làm rụng hoại tử vết bỏng
Sử dụng các thuốc làm rụng hoại tử vết bỏng nhằm loại trừ nhanh mô
hoại tử, loại bỏ môi trường thuận lợi cho VK phát triển, tạo điều kiện cho quá
trình liền vết thương xảy ra. Các thuốc thường dùng bao gồm: các enzym tiêu
hủy protein có nguồn gốc động vật, thực vật hoặc vi sinh vật; N-acetylcystein;
các acid yếu như acid salicylic… [21].
1.2.5.3. Các thuốc kích thích biểu mô hóa và tạo mô hạt
Các thuốc trong nhóm này chủ yếu có nguồn gốc động vật và thực vật
như: mỡ Maduxin (từ dầu sến và lá sến), mỡ Madecasol (từ cây rau má), kem
nghệ, dầu gấc, dầu gan cá,… [21].

1.2.5.4. Các thuốc làm khô se vết bỏng
Thành phần của các thuốc làm khô se vết bỏng thường chứa tanin, có tác
dụng làm đông dịch vết thương, kết tủa protein, liên kết các tơ collagen tạo
thành một màng [21. Một số thuốc trong nhóm: cao đặc lá sim, cao kháo
nhậm, cao kháo vàng, cao lá tràm, chè dây, vỏ xoan trà,… [21].
1.2.5.5. Các vật liệu sinh học thay thế da hoặc che phủ tạm thời
Sử dụng các vật liệu che phủ nhằm mục đích giảm đau cho bệnh nhân,
hạn chế mất dịch, mất máu qua vết thương, hạn chế nhiễm khuẩn vết bỏng,
kích thích biểu mô hóa ở vết bỏng nông, kích thích tạo mô hạt ở bỏng sâu
[19],[38]. Các vật liệu thường dùng có thể là da động vật (da ếch tươi, da ếch
đông khô, da lợn), da người (da tử thi, da tự thân bệnh nhân) hoặc vật liệu có
nguồn gốc sinh tổng hợp: màng Biobrane, màng Intergra, … [19],[38].
1.3. Tổng quan về mô hình nghiên cứu bỏng
Nghiên cứu tác dụng của thuốc trên các mô hình động vật là giai đoạn
bắt buộc đối với quá trình nghiên cứu và phát triển thuốc nói chung cũng như
nghiên cứu và phát triển thuốc điều trị bỏng nói riêng. Vì vậy, các mô hình
thực nghiệm trên động vật có vai trò rất quan trọng. Nhiều mô hình nghiên


18

cứu về bỏng đã được phát triển, đề xuất dựa trên nguyên tắc chung là sử dụng
tác nhân thích hợp tạo tổn thương bỏng trên động vật sao cho các tổn thương
này có diễn biến sinh lý tương tự trên người [53]. Yêu cầu chung của mô hình
thực nghiệm nghiên cứu bỏng là tạo ra những tổn thương đồng nhất, kiểm
soát được độ sâu vết bỏng, thực hiện trên động vật sẵn có, dụng cụ đơn giản,
dễ tiến hành. Nội dung của một mô hình nghiên cứu bao gồm: phương pháp
tạo tổn thương bỏng và các chỉ tiêu đánh giá.
1.3.1. Các phương pháp gây bỏng trên thực nghiệm
Tương ứng với các nhóm tác nhân chính gây bỏng, các phương pháp gây

bỏng thực nghiệm có thể được phân loại theo ba nhóm chính: dùng điện, dùng
hóa chất và dùng nhiệt độ [46],[47].
Phương pháp dùng điện thường đòi hỏi các động vật bậc cao như chó
thậm chí động vật linh trưởng để tạo ra tổn thương bỏng có diễn biến sinh lý
tương tự trên người [46].
Phương pháp sử dụng hóa chất để gây bỏng có nhược điểm là khó kiểm
soát sự khuếch tán của hóa chất vào da, do đó thường khó tạo ra được các vết
bỏng đồng nhất về diện tích và độ sâu [46].
Phương pháp gây bỏng sử dụng nhiệt độ dễ tiến hành, tạo ra được những
tổn thương đồng nhất, được áp dụng rộng rãi trong nhiều nghiên cứu [46]. Có
nhiều mô hình bỏng nhiệt thực nghiệm đã được phát triển và đề xuất, trong đó
các nguồn nhiệt được sử dụng chủ yếu là nước sôi, kim loại nóng và ngọn lửa.
Mô hình sử dụng nước sôi để gây bỏng được Mason và Walker mô tả
vào năm 1968 [48]. Trong đó, động vật thực nghiệm được giữ cố định trên
một dụng cụ kim loại có khe hở ở vùng lưng, tương ứng với vùng da đã được
loại bỏ lông của con vật. Khi cho động vật tiếp xúc với nước sôi, vùng da
không được bảo vệ tiếp xúc trực tiếp với nước sôi và bị bỏng. Nhiệt độ của
nước và thời gian tiếp xúc được điều chỉnh để thu được tổn thương có độ sâu


19

như mong muốn. Diện tích khe hở cũng được tính toán để vết bỏng có diện
tích phù hợp. Đây là mô hình bỏng nhiệt thực nghiệm kinh điển, tạo ra những
tổn thương bỏng đồng nhất, được áp dụng khá rộng rãi trong các nghiên cứu
[46],[47].
Các mô hình gây bỏng bằng kim loại nóng có nguyên tắc chung là sử
dụng dụng cụ kim loại được làm nóng đến nhiệt độ xác định, tiếp xúc với
vùng da đã được cạo lông của con vật dưới một áp lực không đổi, trong
khoảng thời gian thích hợp để tạo tổn thương bỏng [47],[46],[27]. Mô hình

kinh điển sử dụng dụng cụ gây bỏng là các miếng kim loại. Do áp lực giữa
dụng cụ kim loại và vùng da gây bỏng do kỹ thuật viên quyết định, khó kiểm
soát, các vết bỏng được tạo ra có thể không đồng nhất về độ sâu tổn thương
[46]. Để khắc phục nhược điểm này, một số mô hình cải tiến sử dụng dụng cụ
gây bỏng là thanh kim loại. Khi đó, áp lực lên vùng da gây bỏng do trọng
lượng của thanh kim loại quyết định nên tạo ra được những tổn thương bỏng
đồng đều hơn [46]. Pocidalo J.J (1955) và Hladovec I. (1961) đã sử dụng các
ống kim loại có thể chứa nước nóng làm nguồn nhiệt gây bỏng. Phương pháp
này có thể điều chỉnh áp lực lên vùng da gây bỏng bằng cách điều chỉnh thể
tích nước trong ống kim loại. Hơn nữa, nước trong ống cũng giúp giữ nhiệt độ
ốngkim loại hằng định hơn trong thời gian gây bỏng. Ở Việt Nam, phương
pháp này đã được áp dụng thành công trong các nghiên cứu của Nguyễn Thị
Tỵ (1989), Vũ Thị Ngọc Thanh (2003) và Trần Thị Lự (2011) [49],[39],[51].
Ngọn lửa cũng được dùng làm tác nhân gây bỏng bằng cách cho tiếp xúc
với vùng da động vật trong những khoảng thời gian xác định. Katacura T và
cộng sự đề xuất sử dụng một ngọn lửa ga phân tán nhiệt làm tác nhân gây
bỏng [31],[47]. Trong mô hình của Stieritz và Holder, ngọn lửa được tạo ra
bằng cách trải ethanol lên vùng da động vật và đốt để tạo vết bỏng [29],[47].
Các mô hình này đòi hỏi dụng cụ phức tạp, ít được áp dụng trong các mô hình
nghiên cứu [29].


20

1.3.2. Động vật thực nghiệm
Khi lựa chọn động vật để tiến hành các nghiên cứu thực nghiệm về bỏng,
cần quan tâm đến đặc điểm cấu trúc da, đặc điểm sinh lý, kích thước cơ thể,
giá thành và tính sẵn có của động vật [27],[47],[52],[53].
Đặc điểm cấu trúc da là tiêu chí quan trọng để lựa chọn động vật thực
nghiệm bởi vì muốn tạo ra được những tổn thương bỏng có diễn biến sinh lý

tương tự trên người, da động vật cần có cấu tạo tương tự da người. Không kể
động vật linh trưởng, da lợn có cấu trúc gần với da người nhất, sau đó đến
chuột lang, chuột cống trắng, thỏ, chuột nhắt trắng [27],[46],[47],[52]. Do đó
các nghiên cứu về bỏng sâu thường đòi hỏi tiến hành trên lợn hoặc chuột lang
[47],[52].
Đặc điểm sinh lý của động vật cũng là một tiêu chí cần quan tâm. Lợn
thường đòi hỏi điều kiện gây mê, hồi mê và chăm sóc sau bỏng khá phức tạp
[47],[46]. Thỏ rất dễ bị nhiễm khuẩn, do đó thích hợp cho các nghiên cứu về
nhiễm khuẩn bỏng, tuy nhiên đòi hỏi điều kiện vệ sinh nghiêm ngặt trong quá
trình thực nghiệm [46],[47]. Chuột cống trắng có đặc tính kháng khuẩn rất tốt,
không yêu cầu điều kiện thí nghiệm quá khắt khe, thích hợp cho các nghiên
cứu trong thời gian kéo dài [46], tuy nhiên để sử dụng cho các nghiên cứu về
nhiễm khuẩn bỏng cần phải cấy VK vào vết thương [47].
Kích thước cơ thể động vật ảnh hưởng đến thao tác thực nghiệm, động vật
càng lớn càng dễ thao tác. Tuy nhiên các động vật có kích thước lớn thường có
giá thành cao, ảnh hưởng đến chi phí nghiên cứu [27],[46],[52], [53].
1.3.3. Chỉ tiêu đánh giá
Có thể đánh giá quá trình tái tạo hồi phục vết thương bỏng thông qua các
chỉ tiêu đại thể, vi thể và hóa mô.


21

* Diễn biến đại thể tại vết bỏng
- Các đặc điểm chung của vết bỏng như mức độ phù nề, sung huyết, tiết
dịch, tình trạng loét, hoại tử vết thương: dùng để đánh giá diễn biến của quá
trình liền vết thương, đặc biệt là phản ứng viêm và tình trạng nhiễm khuẩn tại
chỗ [27],[53],[54].
- Mức độ thu hẹp diện tích vết bỏng: cho thấy diễn biến của giai đoạn
tăng sinh với sự hình thành mô hạt và biểu mô hóa [27],[53],[54],[55]. Giai

đoạn tăng sinh được đặc trưng bởi hiện tượng các tế bào biểu mô di cư từ rìa
vết thương vào trung tâm, lắng đọng, tăng sinh, hình thành biểu mô mới do đó
diện tích vết thương thu hẹp dần cho thấy giai đoạn tăng sinh đang diễn ra.
- Thời gian liền vết bỏng: là thời gian cần thiết để hoàn tất quá trình liền
vết thương. Thời gian liền vết bỏng càng ngắn chứng tỏ quá trình tái tạo phục
hồi vết thương xảy ra càng nhanh [27],[54].
- Độ bền cơ học của mô mới được tạo thành: khả năng chịu lực, tính đàn
hồi của mô mới được tạo thành [27],[53]. Tiêu chí này giúp đánh giá kết quả
của quá trình liền vết thương, đặc biệt là giai đoạn sửa chữa vết thương và
hình thành sẹo [27].
Bản chất của quá trình liền vết thương là thiết lập lại sự toàn vẹn về cấu
trúc và chức năng cho da, vì vậy đánh giá độ bền cơ học của mô mới được tạo
thành là một tiêu chí cần quan tâm.
* Diễn biến vi thể tại vết bỏng
Quá trình tái tạo và phục hồi tổn thương bỏng có thể đánh giá dựa trên
diễn biến vi thể tại vết bỏng thông qua các chỉ tiêu sau:
- Số lượng, mật độ của các loại bạch cầu, các tế bào thực bào tại mô tổn
thương: thể hiện mức độ viêm tại mô tổn thương [27],[54],[55]. Phản ứng
viêm càng mạnh, các tế bào viêm tập trung càng nhiều tại vị trí vết thương.


22

- Mật độ và cấu trúc các mạch máu, các tế bào biểu mô được tân tạo
[27],[53],[54].
- Chỉ số phân chia tế bào ở lớp đáy biểu bì: thể hiện rõ ràng khả năng tái
tạo và phục hồi [27],[55].
* Diễn biến của các chỉ số sinh hóa tại mô tổn thương
- Định lượng hydroxyprolin tại mô tổn thương: đánh giá mức độ tổng
hợp collagen tại mô tổn thương, cho biết diễn biến của giai đoạn tăng sinh và

tạo mô hạt [27],[54],[55]. Collagen là thành phần cấu tạo chính của chất nền
ngoại bào của da, chiếm khoảng 75% trọng lượng khô của da. Tuy nhiên hiện
nay chưa có phương pháp định lượng trực tiếp collagen tại mô tổn thương, do
đó phải định lượng collagen thông qua hydroxyprolin, một acid amin đặc
trưng của collagen [27],[55].
- Định lượng hexosamin và acid hexuronic tại mô tổn thương: cho biết
mức độ tổng hợp glycosaminoglycan và proteoglycan từ nguyên bào sợi [27],
[55]. Đây là những chất nền ngoại bào quan trọng, tạo ma trận để collagen có
thể liên kết và lắng đọng, tạo điều kiện cho giai đoạn sửa chữa vết thương và
ổn định cấu trúc mô mới được tân tạo [27].
1.3.3.1. Đánh giá mức độ nhiễm khuẩn tại vết thương
Trong điều trị, nhiễm khuẩn là biến chứng nguy hiểm, là nguyên nhân tử
vong hàng đầu cho bệnh nhân [13],[20],[23],[29],[31],[35]. Nhiễm khuẩn vết
bỏng có thể thúc đẩy phản ứng viêm quá mức, chuyển bỏng nông thành bỏng
sâu, gây hoại tử tổ chức, thải mảnh da ghép [20],[35]. Vi khuẩn từ vết bỏng có
thể xâm nhập sâu vào cơ thể, gây nhiễm khuẩn huyết, nhiễm khuẩn toàn thân
[23],[31]. Vì vậy, tình trạng nhiễm khuẩn tại vết thương là một trong những
chỉ tiêu cần theo dõi trong quá trình điều trị.
Mức độ và nguy cơ nhiễm khuẩn vết bỏng có thể đánh giá dựa trên
chủng loại và mật độ VK trên bề mặt vết bỏng hoặc trong mô tổn thương [31],


23

[20]. Vết bỏng có mật độ VK ít hơn 10 5VK/1g mô thường ít có nguy cơ
nhiễm khuẩn lan tràn [21],[23],[31]. Tuy nhiên nếu mật độ VK từ 10 7109VK/1g mô, nguy cơ nhiễm khuẩn huyết rất cao [21],[31].
Để xác định số lượng và chủng loại VK tại vết bỏng, có thể sử dụng các
phương pháp sau:
+ Xác định số lượng VK hay vi nấm có trong 1g mô tổn thương hoặc
trên 1cm2 diện tích vết bỏng [20],[23],[54],.

- Phương pháp xác định số lượng VK có trong 1g mô tổn thương: cho
biết chính xác nhất mức độ nhiễm khuẩn vết bỏng, tuy nhiên khó khăn trong
lấy mẫu và xử lý mẫu bệnh phẩm [20],[23].
- Phương pháp xác định số lượng VK trên 1cm2 diện tích vết bỏng: đơn
giản, dễ thực hiện [23]. Với bỏng nông, phương pháp định lượng VK trên mặt
vết bỏng có giá trị tương đương với định lượng VK qua sinh thiết [56].
+ Phân tích mô học: quan sát hình ảnh vi thể mô tổn thương và nhận xét
sự xâm nhập của vi sinh vật vào mô [23].
1.4. Các thuốc điều trị tại chỗ
1.4.1. Các thuốc Y học hiện đại
1.4.1.1. Các thuốc kháng khuẩn, sát khuẩn
• Các

dung dịch sát khuẩn: Povidin-iodine 10%, nitrat bạc 0,5%...

• Các

sulfamid, kháng sinh: kem sulfadiazine-bạc 1%, [57]…

1.4.1.2. Các thuốc làm giảm hoại tử
Các thuốc làm rụng hoại tử bao gồm các enzyme tiêu hủy protein
(pepsin, chymotrypsin…), các acid yếu, N-acetylcystein [58],[59].


24

1.4.2. Các thuốc Y học cổ truyền
Có nhiều thuốc Y học cổ truyền cả trong và ngoài nước đã được nghiên
cứu và chứng minh áp dụng trong điều trị tại chỗ làm thúc đẩy nhanh quá
trình chữa lành các vết thương phần mềm, chấn thương bỏng cũng như kháng

khuẩn giảm tình trạng nhiễm trùng…
1.4.2.1. Các nghiên cứu nước ngoài
Dựa vào lý thuyết, quan điểm lý luận của Y học cổ truyền, nhiều bài
thuốc đã được nghiên cứu, ứng dụng tương đối hiệu trong điều trị toàn thân
hoặc tại chỗ với vết thương phần mềm tại nhiều nước trên thế giới như Trung
Quốc, Nhật Bản…
Theo tác giả Khuyến Hoa Phát dựa vào phương Ích khí hóa ứ (sử dụng
uống: Thái tử sâm, Sinh hoàng kỳ, Địa long, Đan sâm) trong điều trị đã cho
thấy tác dụng làm vết thương loét mau lành, miệng vết loét liền nhanh và
giảm sinh sẹo xấu [60].
Theo tác giả Kimura M. và cộng sự cho thấy, tác dụng của bài thuốc
uống Kigikenchuto cổ truyền Nhật Bản (gồm 7 vị thuốc: Nhục quế, Bạch
Thược, Can khương, đại táo, cam thảo, Đương quy, Hoàng kỳ) làm tăng quá
trình liền vết loét da do tỳ đè nén thực nghiệm trên chuột là đáng kể thông qua
giảm các yếu tố gây viêm, tăng hình thành mạch, kích thích tạo tiền chất nền
ngoại bào [61].
Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu thực nghiệm khác cũng đã được tiến
hành củng cố thêm vai trò và giá trị của các bài thuốc Y học cổ truyền trong
điều trị tại chỗ các vết thương phần mềm như bài thuốc Châu Hương tán của
Lý Bỉnh và cộng sự có tác dụng làm cải thiện tuần hoàn ở miệng vết thương,
thúc đẩy phản ứng viêm cục bộ, từ đó giải phóng các yếu tố tế bào, tăng sinh
mô hạt và sợi collagen [62].


25

1.4.2.2. Các nghiên cứu trong nước
Tác giả Nghiêm Đình Phàn sử dụng bài thuốc từ Cỏ lào tại các vết thương
phần mềm nhiễm khuẩn và vết thương phần mềm lâu liền thấy tình trạng tiết
dịch và mùi hôi tại vết thương có sự thuyên giảm rõ rệt. Đồng thời, cao lá Cỏ lào

cũng cho thấy tác dụng đáng kể trong việc tân tạo mô hạt và liền sẹo của vết
thương nhanh chóng, cũng như chống nhiễm khuẩn tốt trên cả in vitro và in vivo
với các chủng thường gây nhiễm trùng da như: tụ cầu vàng (staphylococcus
aureus), trực khuẩn mủ xanh (Pseudomonas aeruginosa)… [63].
Mỡ Maduxin được bào chế từ cây sến mật có tác dụng tăng cường
collagen ở vết bỏng nhiệt giúp vết bỏng có thể liền sẹo nhanh, rút ngắn thời
gian điều trị [6].
Theo tác giả Vũ Thị Ngọc Thanh kem Chitosan 2% được chiết xuất từ vỏ
tôm phế thải có tác dụng điều trị tại chỗ vết thương bỏng nhiệt thực nghiệm
trên thỏ có tác dụng tương đương kem sulfadiazine-bạc 1% do có khả năng ức
chế vi khuẩn chủ yếu gây nhiễm khuẩn vết thương bỏng và kích thích tăng
cường quá tình tái tạo biểu mô [64].
Tác giả Trần Hữu Tiệp (2012) nghiên cứu tác dụng của cao lỏng Bạch
đàn trong điều trị vết thương phần mềm nhiễm khuẩn. Nghiên cứu cho thấy
cao lỏng Bạch đàn có tác dụng kháng khuẩn vết thương và kích thích sự hình
thành mô hạt trên vết thương nhanh hơn so với chỉ làm sạch và diệt khuẩn
thông thường bằng dung dịch natri clorua 10%0 [65].
Một số thuốc y học cổ truyền khác có tác dụng kích thích liền nhanh vết
thương bỏng: rau má, mật ong, nước củ nghệ [66].


×