Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi và kiến thức thực hành nuôi con của bà mẹ huyện trấn yên, tỉnh yên bái năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.35 KB, 109 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Dinh dưỡng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự
tồn tại và phát triển của mỗi người, đặc biệt là những đối tượng nhạy cảm như
trẻ em, phụ nữ có thai . Suy dinh dưỡng (SDD) ở bà mẹ và trẻ em đang là vấn
đề sức khỏe ở nước nghèo và đang phát triển. Tổ chức Y tế Thế giới đã nhận
định trên thế giới hiện còn 36 nước có tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi cao
nhất, trong đó có nước ta . Sự thay đổi cân nặng và chiều cao là các chỉ tiêu
quan trọng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng, đặc biệt ở trẻ em. Nhiều bằng
chứng khoa học cho thấy tầm vóc khi trưởng thành có liên quan chặt chẽ đến
chiều cao khi còn bé, do đó dinh dưỡng hợp lý trong thời kỳ bào thai và
những năm đầu sau khi sinh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng .
Suy dinh dưỡng trong những năm đầu đời để lại hậu quả khó hồi phục
khi trưởng thành, đặc biệt là các bệnh rối loạn chuyển hóa như béo phì và tiểu
đường. Trẻ dưới 5 tuổi dễ bị SDD vì đó là thời kỳ có nhu cầu dinh dưỡng cao
và nhạy cảm với các loại bệnh tật. Suy dinh dưỡng không chỉ ảnh hưởng đến
thể chất mà cả tinh thần, trí tuệ của trẻ và để lại hậu quả nặng nề cho xã hội .
Theo báo cáo của Viện Dinh dưỡng về tình trạng SDD trẻ em dưới 5
tuổi chung của cả nước năm 2000-2014 là tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi thể
nhẹ cân giảm từ 33,8% năm 2000 đến năm 2014 chỉ còn 14,5%, tỷ lệ suy dinh
dưỡng thể thấp còi năm 2000 là 36,5% giảm xuống còn 24,9% năm 2014, tỷ
lệ suy dinh dưỡng thể gầy còm năm 2000 là 8,6% giảm xuống còn 6,8% năm
2014 ,. Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn còn ở mức cao so với phân loại của WHO và
còn có sự khác biệt khá lớn giữa các vùng miền . Theo kết quả điều tra dinh
dưỡng hàng năm của Viện Dinh dưỡng, tỷ lệ SDD còn rất cao ở các tỉnh miền
núi, nơi tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số với tỷ lệ trẻ nhẹ cân từ
13,8%-23,1% và thấp còi từ 24,1%-35,2% . Đã có nhiều công trình nghiên



2
cứu về tình trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi và các nghiên cứu này rất ý
nghĩa cho các nhà lập kế hoạch y tế công cộng và các nhà quản lý địa
phương… Tuy nhiên các nghiên cứu tập trung nhiều ở vùng thành thị và đồng
bằng mà ít được triển khai ở vùng núi, vùng dân tộc ít người là nơi mà tỷ lệ
suy dinh dưỡng còn cao hơn so với các vùng khác. Vì vậy chúng tôi tiến hành
nghiên cứu “Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi và kiến
thức thực hành nuôi con của bà mẹ huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái năm 2015”
để từ đó có biện pháp can thiệp hợp lý nhằm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của
trẻ dưới 5 tuổi ở địa phương.
Mục tiêu cụ thể:
1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới năm tuổi vùng
dân tộc, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái năm 2015.
2. Mô tả kiến thức, thực hành nuôi con của bà mẹ huyện Trấn Yên,
tỉnh Yên Bái năm 2015.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về suy dinh dưỡng
1.1.1. Khái niệm về suy dinh dưỡng
Suy dinh dưỡng: Là tình trạng cơ thể thiếu protein, năng lượng và các
vi chất dinh dưỡng. Bệnh hay gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, biểu hiện ở nhiều mức
độ khác nhau, nhưng ít nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, tinh thần
và vận động của trẻ .
1.1.2. Nguyên nhân suy dinh dưỡng
Theo mô hình nguyên nhân suy dinh dưỡng được UNICEF phát triển cho
thấy nguyên nhân của SDD rất đa dạng, và có mối quan hệ chặt chẽ với chăm

sóc y tế, lương thực - thực phẩm và thực hành chăm sóc trẻ tại hộ gia đình ,,,.
Nguyên nhân trực tiếp của suy dinh dưỡng là thiếu ăn về số lượng hoặc
chất lượng (tình trạng nghèo đói) và mắc các bệnh nhiễm khuẩn ,. Trẻ em lứa
tuổi từ 0 - 5 tuổi là đối tượng bị SDD cao nhất , bởi vì cơ thể ở giai đoạn này
phát triển nhanh, nhu cầu dinh dưỡng rất cao và không được ăn bổ sung đầy
đủ các chất dinh dưỡng.
Sữa mẹ và thức ăn bổ sung đóng vai trò quan trọng đối với thời gian bị
SDD và thể loại SDD ,,. Các quan niệm dinh dưỡng sai lầm của người mẹ
hoặc gia đình trong vấn đề chăm sóc thai sản, nuôi con bằng sữa mẹ và thức
ăn bổ sung là những nguyên nhân quan trọng, trực tiếp làm cho trẻ dễ bị SDD.
Trẻ không được bú sữa mẹ, hoặc bú chai nhưng số lượng sữa không đủ, dụng
cụ bú sữa không đảm bảo vệ sinh đều có thể dẫn đến SDD. Khi cho ăn bổ
sung muộn, như ở một số nước châu Phi, các trường hợp SDD nặng thường
xảy ra vào năm thứ 2 . Cho ăn bổ sung quá sớm, hoặc cho trẻ ăn thức ăn đặc
quá muộn, số lượng không đủ và năng lượng, protein trong khẩu phần ăn thấp
cũng dễ dẫn tới SDD.
Hậu quả tức thời:
tử vong, tàn tật

Hậu quả lâu dài: phát triển thể
lực và trí tuệ ở lứa tuổi trưởng
thành, năng lực sản xuất, khả
năng sinh sản, các bệnh mạn
tính


4

Hậu
quả


Tình trạng SDD trẻ em
Bệnh tật

Khẩu phần ăn
của trẻ em
An ninh thực phẩm
hộ gia đình đình
Nguồn lực cho an
ninh lương thực
- Sản xuất thực
phẩm
- Thu nhập
- Quà

Chăm sóc bà
mẹ và trẻ em

Nguồn lực cho chăm sóc
- Kiểm soát nguồn lực và
tự quyết của người chăm
sóc trẻ.
-Tình trạng sức khoẻ thể
chất và tinh thần của người
chăm sóc trẻ
- Kiến thức và niềm tin
của người chăm sóc trẻ.

Nguyê
n nhân

trực
tiếp

Môi trường sức
khoẻ
Nguồn lực cho y tế
- Cung cấp nước sạch
- Vệ sinh đầy đủ
- Có chăm sóc y tế
- An toàn môi trường

Nguyê
n nhân
tiềm
tàng

ĐÓI NGHÈO
- Cấu trúc chính trị - xã hội – kinh tế
- Môi trường văn hoá - xã hội
- Các nguồn tiềm năng (Môi trường, công
nghệ, con người)

Nguyê
n nhân
gốc rễ

Hình 1.1: Mô hình nguyên nhân - hậu quả SDD của UNICEF.
1.1.3. Hậu quả của SDD.
1.1.3.1. Suy dinh dưỡng và tình trạng bệnh tật, tử vong.
Hậu quả của SDD thể nặng để lại là rất nặng nề, có thể dẫn đến tử vong

ở trẻ em. Đối với SDD thể vừa và thể nhẹ hậu quả cũng không kém phần quan
trọng. Nghiên cứu của Chen và cộng sự ở Bangladesh trên trẻ em 15-26 tháng


5
trong vòng 2 năm cho thấy mối liên quan giữa các chỉ số nhân trắc và tỷ lệ tử
vong ở trẻ.
Trẻ bị suy dinh dưỡng, thiếu các vi chất cần thiết như vitamin A, sắt,
kẽm có khả năng chống đỡ các bệnh nhiễm trùng kém. Người ta ước tính
khoảng 50%-60% trẻ dưới 5 tuổi tử vong do nguyên nhân tiềm ẩn là SDD.
Trong đó, 50% - 70% gánh nặng bệnh tật của tiêu chảy, sởi, sốt rét, nhiễm
trùng đường hô hấp ở trẻ toàn thế giới là có liên quan đến SDD .
1.1.3.2. Suy dinh dưỡng với phát triển hành vi và trí tuệ.
Mối liên quan giữa suy dinh dưỡng và kém phát triển trí tuệ, hành vi
qua những cơ chế sau:
- Do thiếu nhiều chất dinh dưỡng cùng một lúc trong đó có các chất cần
thiết cho sự phát triển trí tuệ như I ốt, sắt...
- Trẻ em thiếu dinh dưỡng thường chậm chạp, ít năng động nên hạn chế
tiếp thu được qua giao tiếp của cộng đồng và người chăm sóc.
- Các thực nghiệm về ăn bổ sung tỏ ra có hiệu quả đến các chỉ số phát
triển trí tuệ.
- Suy dinh dưỡng sớm trong bào thai và trong những năm đầu của cuộc
đời có ảnh hưởng không tốt đến phát triển trí tuệ và ảnh hưởng đến cả thời kỳ
niên thiếu.
1.1.3.3. Suy dinh dưỡng và sức khỏe khi trưởng thành
Suy dinh dưỡng trẻ em thường để lại những hậu quả nặng nề, nếu không
giải quyết tận gốc nguyên nhân dẫn tới thấp còi trong hai năm đầu đời thì khó
có thể cải thiện chiều cao sau này của trẻ. Gần đây, nhiều bằng chứng cho
thấy suy dinh dưỡng ở giai đoạn sớm, nhất là trong thời kỳ bào thai có mối
liên hệ với mọi thời kỳ của đời người. Hậu quả của suy dinh dưỡng có thể kéo

dài qua nhiều thế hệ. Phụ nữ đã từng bị suy dinh dưỡng trong thời kỳ còn là
trẻ nhỏ hoặc trong độ tuổi vị thành niên đến khi lớn lên trở thành bà mẹ bị suy
dinh dưỡng. Bà mẹ bị suy dinh dưỡng thường dễ đẻ con nhỏ yếu, cân nặng sơ


6
sinh thấp. Hầu hết những trẻ có cân nặng sơ sinh thấp bị suy dinh dưỡng (nhẹ
cân hoặc thấp còi) ngay trong năm đầu sau sinh. Những trẻ này có nguy cơ tử
vong cao hơn so với trẻ bình thường và khó có khả năng phát triển bình thường.
Barker nêu ra giả thuyết mới về nguồn gốc bào thai của một số bệnh
mạn tính. Theo ông, các bệnh tim mạch, đái tháo đường, rối loạn chuyển hoá ở
người trưởng thành có thể có nguồn gốc từ suy dinh dưỡng bào thai. Vì thế,
phòng chống suy dinh dưỡng bào thai hoặc trong những năm đầu tiên sau khi ra
đời có một ý nghĩa rất quan trọng trong dinh dưỡng theo chu kỳ vòng đời .
1.1.4. Phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng.
Hiện nay có nhiều phương pháp chính được dùng để đánh giá TTDD
của trẻ em như:
- Điều tra khẩu phần và tập quán ăn uống;
- Các chỉ tiêu nhân trắc;
- Thăm khám thực thể để phát hiện các dấu hiệu lâm sàng của bệnh tật có
liên quan đến dinh dưỡng;
- Các xét nghiệm hóa sinh;
- Điều tra bệnh tật và tử vong.
1.1.4.1. Phương pháp nhân trắc học
Nhân trắc học dinh dưỡng có mục đích đo các biến đổi về kích thước và
cấu trúc cơ thể theo tuổi và TTDD,,. Thu thập các chỉ số về nhân trắc là bộ phận
quan trọng trong cuộc điều tra dinh dưỡng và là chỉ tiêu trực tiếp đánh giá TTDD
của trẻ em. Theo khuyến cáo của WHO ba chỉ tiêu nhân trắc thường dùng là cân
nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao,.



7
Cân nặng theo tuổi (CN/T):
Chỉ số này thường được dùng để đánh giá tình trạng SDD chung nhưng
không cho biết cụ thể đó là loại SDD vừa mới xảy ra hay đã tích lũy từ lâu. Vì
việc thu thập cân nặng tương đối đơn giản hơn so với việc theo dõi chiều cao
ở cộng đồng nên tỷ lệ thiếu cân vẫn được xem như tỷ lệ chung của suy dinh
dưỡng và hay dùng nhất trong sử dụng biểu đồ tăng trưởng. Thiếu cân được
định nghĩa cân nặng theo tuổi dưới -2 độ lệch chuẩn so với quần thể tham
khảo. Chỉ số này cho biết tình trạng thiếu hụt năng lượng khẩu phần một cách
tương đối hay tuyệt đối.
Chiều cao theo tuổi (CC/T):
Chỉ số này đã được WHO khuyến cáo sử dụng của để phát hiện trẻ thấp
còi kết hợp với chỉ số cân nặng theo chiều cao. Chiều cao theo tuổi thấp phản
ánh tình trạng suy dinh dưỡng kéo dài hoặc trong quá khứ làm cho đứa trẻ bị
thấp còi và làm gia tăng khả năng mắc bệnh. Tỷ lệ thấp còi cao nhất là từ 12
đến 24 tháng tuổi. Tỷ lệ hiện mắc SDD thể thấp còi phổ biến hơn tỷ lệ hiện
mắc SDD nhẹ cân ở mọi nơi trên thế giới vì có những trẻ bị thấp còi trong
giai đoạn sớm của cuộc đời có thể đạt được cân nặng bình thường sau đó
nhưng vẫn có chiều cao thấp.
Cân nặng theo chiều cao (CN/CC):
Là chỉ số đánh giá tình trạng dinh dưỡng hiện tại. Chỉ số này phản ánh
tình trạng SDD cấp hay còn gọi thể gày còm. Cân nặng theo chiều cao thấp
phản ánh sự không tăng cân hay giảm cân nếu so sánh với trẻ có cùng chiều
cao, chính là phản ánh mức độ thiếu ăn và nhiễm khuẩn là hai nguyên nhân
chính dẫn đến tình trạng này.
1.1.4.2. Phương pháp điều tra khẩu phần.
Điều tra khẩu phần là bộ phận thiết yếu trong các cuộc điều tra dinh
dưỡng. Thông qua việc thu thập số liệu về tiêu thụ thực phẩm và tập quán ăn



8
uống, nó cho phép rút ra các kết luận về mối quan hệ giữa năng lượng ăn vào và
thói quen ăn uống với tình trạng sức khoẻ,,.
Điều tra khẩu phần có thể tiến hành cho cá nhân hoặc tập thể. Một số
phương pháp điều tra khẩu phần của cá thể hay dùng như hỏi ghi 24 giờ qua,
hỏi ghi tần suất xuất hiện thực phẩm, phương pháp cân đo. Còn điều tra khẩu
phần ở bếp ăn tập thể hay hộ gia đình thường sử dụng phương pháp cân đong,
phương pháp ghi sổ và kiểm kê,.
Phương pháp điều tra tần suất của thực phẩm
Thông qua hỏi trực tiếp hoặc sử dụng các phiếu điều tra trong đó có
nêu các câu hỏi để đối tượng tự trả lời. Mục đích của phương pháp này là tìm
hiểu tính thường xuyên của các loại thực phẩm trong thời gian nghiên cứu,
tìm hiểu số bữa ăn, khoảng cách giữa các bữa ăn, giờ ăn…
Nhờ phương pháp này ta có thể biết:
+ Những thức ăn phổ biến nhất (nhiều người hoặc gia đình dùng nhất)
+ Những thức ăn có số lần sử dụng cao nhất
+ Những dao động theo mùa
Số loại thực phẩm cần hỏi phụ thuộc vào yêu cầu nghiên cứu, nhiều
loại phiếu chỉ tập trung vào tần suất sử dụng một số loại thực phẩm mà người
ta cần nghiên cứu.
1.1.4.3. Phương pháp điều tra tập quán ăn uống.
Là hệ thống câu hỏi nhằm thu thập các thông tin như các quan niệm,
niềm tin, sở thích đối với thức ăn cũng như cách chế biến, phân bố các thức
ăn trong ngày, cách ăn uống trong các dịp lễ hội… Tìm hiểu tập quán ăn uống
và xác định nguyên nhân của chúng là cần thiết, vừa để tiến hành giáo dục
dinh dưỡng có hiệu quả, vừa đề ra phương hướng sản xuất thích hợp. Sự hình
thành và phát triển tập quán ăn uống chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tâm lý,
kinh tế xã hội, tôn giáo, lịch sử và địa lý. Thảo luận nhóm có trọng tâm là một
kỹ thuật để điều tra tập quán ăn uống của địa phương.



9


10
1.1.5. Phân loại suy dinh dưỡng
Trên cộng đồng suy dinh dưỡng thể vừa và nhẹ thường gặp và có ý
nghĩa sức khỏe quan trọng nhất vì ngay cả suy dinh dưỡng nhẹ cũng làm tăng
gấp đôi nguy cơ bệnh tật và tử vong ở trẻ em. Để xác định tình trạng suy dinh
dưỡng, chủ yếu dựa vào chỉ tiêu nhân trắc (cân nặng theo tuổi, chiều cao theo
tuổi, cân nặng theo chiều cao).
1.1.5.1. Phân loại theo quần thể NCHS của Hoa Kỳ.
Từ năm 1981, WHO đã khuyến nghị sử dụng các chỉ số cân nặng theo
tuổi, chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao so với quần thể NCHS của
Hoa Kỳ để đánh giá tình trạng SDD
Trên - 2SD: Bình thường
Từ -2SD đến -3SD: SDD độ 1
Từ dưới -3SD: SDD độ 2
Sau 2 thập kỷ áp dụng, một số nhược điểm của quần thể NCHS bộc lộ:
được xây dựng trên quần thể trẻ em Hoa Kỳ, đa số trẻ không được nuôi bằng sữa
mẹ mà được nuôi bằng sữa công thức, do vậy cân nặng có phần cao hơn và chiều
cao có phần thấp hơn so với trẻ được nuôi bằng sữa mẹ,.
1.1.5.2. Phân loại theo WHO 2006.
Suy dinh dưỡng trong cộng đồng được chia thành 3 thể: SDD nhẹ cân,
SDD thấp còi và SDD gày còm. Theo khuyến nghị của WHO, các chỉ tiêu
thường dùng để đánh giá TTDD là cân nặng theo tuổi (CN/T), chiều cao theo
tuổi (CC/T), cân nặng theo chiều cao (CN/CC). Thiếu dinh dưỡng được ghi
nhận khi các chỉ tiêu nói trên thấp hơn hai độ lệch chuẩn (< -2SD) so với quần
thể tham khảo. Đây là cách phân loại đơn giản cho phép đánh giá nhanh các

mức độ SDD và có thể áp dụng rộng rãi trong cộng đồng.
Từ năm 2006, tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) đã chính thức khuyến cáo
sử dụng quần thể chuẩn (WHO Child Growth Standards) để đánh giá tình trạng


11
dinh dưỡng của trẻ, thay cho quần thể NCHS. WHO Child Growth Standards là
kết quả được nghiên cứu được bắt đầu nghiên cứu từ năm 1997 đến năm 2003
bởi TCYTTG với mục tiêu phát triển một chuẩn quốc tế mới để đánh giá sự phát
triển thể chất, TTDD và theo dõi sự phát triển của tất cả trẻ em từ 0 - 5 tuổi.
Nghiên cứu này là một dự án đa quốc gia dựa vào cộng đồng với sự tham gia của
8440 trẻ từ các quốc gia Brazil, Ghana, Ấn Độ, Na Uy, Obman và Mỹ. Chuẩn
mới mô tả sự phát triển bình thường của trẻ dưới điều kiện mơi trường tối ưu và
có thể sử dụng đánh giá TTDD của trẻ em bất kỳ nơi nào, bất kể dân tộc, tình
trạng kinh tế xã hội và tập quán nuôi dưỡng. Tại Việt Nam Viện dinh dưỡng
cũng đã sử dụng quần thể chuẩn này từ năm 2006.
Khi CN/T Z-score < - 2SD: SDD thể thiếu cân
Khi CC/T Z-score < - 2SD: SDD thể thấp còi
Khi CN/CC Z-score < - 2SD: SDD thể gầy còm
TTDD của trẻ được đánh giá theo quần thể tham chiếu WHO 2006 với 3 chỉ
tiêu theo Z-Score:
Bảng 1.1. Đánh giá TTDD theo chỉ số Z- Score
CC/ T
< -2: Thấp còi
< - 3: Thấp còi nặng
CN/ CC
>3: Béo phì
>2: Thừa cân

CN/ T

< - 2: Nhẹ cân
< -3: Nhẹ cân nặng
BMI / tuổi
> 3: Béo phì
> 2: Thừa cân
> 1: Nguy cơ thừa cân

>1: Nguy cơ thừa cân

< -2: Gày (thinness)

<-2: Gày còm

< -3: Quá gày

<-3: Gày còm nặng


12
1.2. Tình hình suy dinh dưỡng trên thế giới và tại Việt Nam.
1.2.1. Tình hình suy dinh dưỡng trên thế giới.
Báo cáo của Tổ chức cứu trợ trẻ em năm 2012 chỉ ra rằng 1/4 trẻ em
trên toàn thế giới và 1/3 trẻ em ở các nước đang phát triển bị còi cọc. Suy
dinh dưỡng là một nguyên nhân quan trọng đóng góp vào 1/3 trường hợp tử
vong toàn cầu, ước tính mỗi năm có khoảng 300 trẻ em chết vì SDD. Tỷ lệ trẻ
có khả năng bị SDD ở các nước nghèo cao gấp hai lần so với các nước giàu.
Năm 2012 tại Ấn Độ, Mesharam II và cộng sự nghiên cứu trên 14.587
trẻ em từ 0 đến 5 tuổi cho thấy tỷ lệ SDD theo các thể nhẹ cân, thấp còi và
gầy còm lần lượt là 49%; 51% và 22%. Nghiên cứu của J. Alom và cộng sự
(2012) tại Bangladesh thấy 25% trẻ SDD thể thấp còi, 28% thể nhẹ cân và

14% thể gầy còm. Một nghiên cứu ở các vùng nghèo của nước láng giềng
Trung Quốc trên 2.201 trẻ em dưới 5 tuổi của H.Zhou và cộng sự (2012) thấy
tỷ lệ SDD nhẹ cân, thấp còi và gầy còm lần lượt là 13,1%; 19,3% và 5,5%.
Nghiên cứu của Bhutta ZA, Salam RA cho thấy trong năm 2011, có 6,9
triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết trên toàn thế giới, một phần ba trong số đó liên quan
đến các bệnh do thiếu dinh dưỡng. Ước tính có khoảng 178 triệu trẻ em dưới 5
tuổi bị còi cọc, 55 triệu bị gầy còm, và 19 triệu trong số này bị ảnh hưởng
nghiêm trọng và có nguy cơ tử vong cao, phần lớn là ở châu Phi cận Sahara và
Nam-Trung Á. Trên toàn cầu, hơn 2 tỷ người có nguy cơ bị vitamin A, iốt, và
thiếu sắt. Thiếu hụt vi chất dinh dưỡng khác quan tâm sức khỏe cộng đồng bao
gồm kẽm, folate. Các yếu tố nguy cơ suy dinh dưỡng bao gồm trọng lượng sơ
sinh thấp, bú sữa mẹ không đủ, ăn bổ sung không đúng, và nhiễm trùng tái phát.
Các bệnh truyền nhiễm thường cùng tồn tại với sự thiếu hụt vi chất dinh dưỡng
dẫn đến vòng luẩn quẩn của suy dinh dưỡng và nhiễm trùng. Tiêu chảy cùng với
thức ăn bổ sung nghèo nàn là làm tăng nguy cơ suy dinh dưỡng. Chiến lược
phòng chống suy dinh dưỡng bao gồm các chương trình khuyến khích cho con


13
bú, chế độ ăn uống bổ sung vi chất dinh dưỡng, đảm bảo vệ sinh khi chế biến
thức ăn.
Tác giả Silvia và cộng sự cho thấy thời gian trung bình cho trẻ ăn thức
ăn đặc là 22,2 tuần sau sinh; 60,9% trẻ thôi bú mẹ trước 4 tháng; 18,0% trẻ sơ
sinh cân nặng dưới 5 kg vào thời điểm dừng bú mẹ. Trong các yếu tố liên
quan đến người mẹ, chỉ có tuổi của người mẹ là có ảnh hưởng đến thời gian
cho con bú. Thức ăn dặm đầu tiên để nuôi trẻ là nước nghiền khoai tây
(48,6% trường hợp). Thịt và chất tinh bột được dùng cho trẻ ăn trung bình 5-7
tuần sau khi thôi bú.
Nghiên cứu tại Trung Quốc chỉ ra sự khác biệt về thực hành nuôi con là
rất khác nhau giữa các vùng, các dân tộc, các nền văn hóa và phụ thuộc vào

nguồn thực phẩm. Ở vùng nông thôn phía Bắc của Trung Quốc, trứng, đậu là
nguồn thức ăn phổ biến để cung cấp đạm cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, trong khi
cá và thịt là rất hiếm ở đây. Sau khi điều chỉnh chế độ ăn cho trẻ dựa vào
nguồn thức ăn phổ biến tại địa phương thì đã có sự thay đổi đáng kể về thực
hành nuôi dưỡng trẻ của các bà mẹ tại đây.
Theo báo cáo của UNICEF, xu hướng SDD thể thấp còi và gầy còm ngày
càng giảm trong suốt giai đoạn từ năm 1990 đến 2013. Số trường hợp SDD thể
thấp còi năm 1990 là 257 triệu trẻ, đến năm 2013 chỉ còn 161 triệu trẻ.

Biểu đồ 1.1. Xu hướng suy dinh dưỡng thể thấp còi trên thế giới.


14
Bên cạnh đó, SDD thể gày còm cũng có dấu hiệu giảm tuy nhiên mức độ
giảm thấp hơn SDD thể gày còm. Năm 1990 có 160 triệu trẻ được báo cáo trên
toàn thế giới bị SDD gày còm, đến năm 2013 số trẻ bị SDD chỉ còn 99 triệu trẻ.

Biểu đồ 1.2. Xu hướng suy dinh dưỡng thể gầy còm trên thế giới.
1.2.2. Tình hình suy dinh dưỡng tại Việt Nam.
Suy dinh dưỡng do thiếu protein nǎng lượng (thường gọi là SDD) là
tình trạng thiếu dinh dưỡng quan trọng và phổ biến ở trẻ em nước ta. Biểu
hiện của SDD là trẻ chậm lớn và thường hay mắc bệnh nhiễm khuẩn như tiêu
chảy và viêm đường hô hấp, trẻ bị giảm khả nǎng học tập, nǎng suất lao động
kém khi trưởng thành.
Tình trạng dinh dưỡng của người Việt Nam đã được cải thiện đáng kể
trong 30 năm qua. Năm 1985 tỷ lệ SDD là 51,5%, nhưng những năm gần đây,
với sự phát triển của nền kinh tế xã hội và sự triển khai có hiệu quả của chương
trình phòng chống SDD trẻ em (PEM) tỷ lệ SDD đã giảm xuống một cách đáng
kể, xuống còn 19,9% năm 2008. Tốc độ giảm SDD trẻ em tại Việt Nam trong
năm năm qua khoảng 2% một năm và Việt Nam được coi là một quốc gia duy

nhất trong khu vực đạt tốc độ giảm SDD nhanh theo tiến độ của tổ chức y tế
thế giới (WHO) và UNICEF. Theo kết quả của tổng điều tra dinh dưỡng năm


15
2009, có khoảng 1,54 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị SDD nhẹ cân và khoảng 2,59
triệu trẻ em bị SDD thấp còi, bên cạnh đó, thừa cân/ béo phì đang có xu hướng
gia tăng nhanh chóng ở một số đô thị và thành phố lớn.
Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đạt
được mục tiêu thiên niên kỷ cũng như chỉ số phát triển con người và gần đây
thì mức độ giảm SDD có chiều hướng chậm lại.

Biểu đồ 1.3. Diễn biến SDD trẻ em dưới 5 tuổi qua các năm (2007-2014).
Tỷ lệ trẻ em SDD ở nước ta vẫn còn cao. Dựa vào chỉ tiêu CC/T và phân
loại quốc tế: Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi thấp còi năm 2000 là 36,5%; năm 2005 là
29,6% và năm 2012 là 26,7% đến năm 2014 là 24,9%. Tình hình SDD theo
nhóm tuổi tăng cao, nhất là ở nhóm từ 6-12 tháng tuổi đến 24 tháng tuổi và tỷ lệ
này cao nhất ở trẻ em 2 tuổi. Tình hình SDD trẻ em theo các vùng sinh thái: tỷ lệ
trẻ em SDD có sự khác nhau theo các vùng sinh thái. Trung du và miền núi phía
Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên là những vùng có tỷ lệ SDD cao nhất cả
nước vì đây là vùng nghèo, còn nhiều khó khăn, mùa màng thường xuyên chịu


16
tác động nặng nề bởi thiên tai, lũ lụt. Tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi thấp
nhất là vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long.
Bảng 1.2. Tình hình SDD trẻ em theo các vùng sinh thái năm 2014.
SDD
CN/T (%)


CC/T (%)

CN/CC (%)

Đồng bằng sông Hồng

10,2

20,3

5,2

Trung du và miền núi phía Bắc

19,8

30,7

8,2

17,0

28,1

6,7

Tây Nguyên

22,6


34,9

7,8

Đông Nam Bộ

8,4

18,3

5,4

Đồng bằng sông Cửu Long

13

24,0

6,8

14,5

24,9

6,8

Vùng sinh thái

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền
Trung


Toàn quốc

Ngoài ra, tỷ lệ SDD còn thay đổi tùy theo từng vùng. Ở vùng núi, nơi có
người dân tộc thiểu số sinh sống, thì tỷ lệ này vẫn còn khá cao khi so sánh chung
với khu vực thành thị. Nếu như tỷ lệ SDD chung ở thành phố Hồ Chí Minh và
Hà Nội năm 2009 đã xuống tới mức lần lượt là 7,8% và 9,1% và vào năm 2014
lần lượt là 4,9% và 6,1% , thì nhiều khu vực miền núi như Bắc Kạn vẫn là
18,5%, Yên Bái 18,4 % Quảng Bình 18,9%, Kon Tum 23,9% và Đắc Nông
22,1% . Sự chênh lệch này cho thấy mức độ cần thiết để có những can thiệp kịp
thời nhằm cải thiện TTDD của trẻ ở khu vực này.
Một số nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng của trẻ như:
Nghiên cứu tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan đến tình
trạng SDD của trẻ em dưới 5 tuổi tỉnh Lào Cai năm 2005 cho thấy tỷ lệ SDD
trẻ em dưới 5 tuổi của tỉnh Lào Cai còn nằm ở mức rất cao so với phân loại
của WHO, có sự khác biệt rõ rệt về tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi ở các khu
vực khác nhau. Các yếu tố liên quan đến SDD của trẻ em dưới 24 tháng tuổi


17
là: Yếu tố khu vực, dân tộc thiểu số, mẹ không uống viên sắt khi mang thai,
ăn bổ sung không hợp lý. Các yếu tố trẻ mắc tiêu chảy, gia đình thiếu ăn, kiến
thức dinh dưỡng của mẹ không đạt, trẻ không được tẩy giun trong 6 tháng qua
là các yếu tố liên quan đến SDD của trẻ trên 24 tháng tuổi.
Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Anh Vũ và Lê Thị Hương tại
Huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên năm 2011 cho thấy tỷ lệ trẻ SDD nhẹ cân và
thấp còi lần lượt là 18,5%, và 31,8% cao hơn so với tỷ lệ năm 2010 chung của
toàn quốc (29,3%), gầy còm là 9,8% cũng cao hơn so với tỷ lệ chung của toàn
quốc là 7,1%,.
Nghiên cứu của Phạm Văn Hoan và cộng sự về thực trạng suy dinh

dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi, kiến thức thực hành nuôi con của bà mẹ ở xã Phù
Linh, Sóc Sơn, Hà Nội 2008 cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5
tuổi thể nhẹ cân là 18,5%, thể còi cọc 29,9% và gầy còm 5%. Tỷ lệ trẻ được
bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu chiếm 67,4%, từ 1-6 giờ là 16,2%. Tỷ lệ trẻ được
cho ăn/uống trước khi bú mẹ chiếm 20,9%. Không có trẻ nào được cho ăn bổ
sung khi mới 1 tháng tuổi, có 4,1% được ăn bổ sung sau 2-3 tháng, 31,0% và
17,1% sau 4 và 5 tháng theo thứ tự. Chỉ có 28,7% trẻ được ăn bổ sung vào
tháng thứ 6. Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến TTDD của trẻ, trong đó cân nặng sơ
sinh liên quan có ý nghĩa (p<0,05) với SDD thấp còi.
Nghiên cứu của Vũ Phương Hà và cộng sự tại hai huyện Hướng Hóa và
Đăkrong của tỉnh Quảng trị trong năm 2010 cho thấy tỷ lệ SDD của nghiên
cứu này cao hơn nhiều so với tỷ lệ SDD chung toàn quốc, cụ thể là SDD nhẹ
cân: 42,1% (CN/T); SDD thấp còi: 48,2% (CC/T); và SDD gầy còm là 13,9%
(CN/CC). Kiến thức của bà mẹ về nuôi con bú và ăn bổ sung còn nhiều hạn
chế. Có tới 27,0% bà mẹ không biết cho bú lần đầu vào thời gian nào và bú
hoàn toàn trong bao nhiêu tháng là phù hợp. Chỉ có 46,8% bà mẹ biết nên cho
bú hoàn toàn đến 6 tháng. Trên 50% các bà mẹ cho rằng phải cho con ăn bổ
sung trước 6 tháng hoặc không biết nên bắt đầu cho ăn vào thời điểm nào[3].


18
1.3. Các yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng.
1.3.1. Kiến thức, thực hành về chăm sóc bà mẹ khi có thai và cho con bú.
Chăm sóc bà mẹ khi mang thai là chiến lược phòng chống SDD sớm khi
trẻ còn nằm trong bụng mẹ, bà mẹ khi có thai tăng được từ 10-12 kg, và thực
hiện chế độ dinh dưỡng và chế độ nghỉ ngơi tốt, thói quen dinh dưỡng tốt sẽ
cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho thời kỳ mang thai, cho sự
phát triển và lớn lên của thai nhi, Những trường hợp người mẹ bị thiếu ăn
hoặc ăn uống kiêng khem không hợp lý chính là nguyên nhân của suy dinh
dưỡng trong bào thai, trẻ đẻ ra có cân nặng sơ sinh thấp dưới 2500g. Nhiều

nghiên cứu thấy rằng các yếu tố nguy cơ dẫn đến trẻ sơ sinh có cân nặng thấp
trước tiên là tình trạng dinh dưỡng kém của người mẹ trước khi có thai và chế
độ ăn không cân đối, không đủ năng lượng, dinh dưỡng khi mang thai .
Chế độ lao động, nghỉ ngơi hợp lý, tinh thần thoải mái của người mẹ ảnh
hưởng trực tiếp đến thai nhi, vì vậy nên lao động chân tay và trí óc một cách
điều độ, tránh lao động mệt nhọc quá sức.
Để phòng tránh thiếu máu dinh dưỡng do thiếu sắt hay gặp ở phụ nữ có
thai, người mẹ nên có chế độ ăn uống hợp lý, bổ sung viên sắt-acid folic ngay
từ khi phát hiện có thai để phòng chống thiếu máu thiếu sắt. Để tăng quá trình
chuyển hóa và hấp thu sắt, cần tăng cường vitamin C, do đó cần ăn đủ rau
xanh và quả chín.
1.3.2. Kiến thức, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ
Theo khuyến cáo của WHO sau khi sinh, trẻ cần được cho bú mẹ càng
sớm càng tốt thậm chí ngay trong 1 giờ đầu sau sinh và bú mẹ hoàn toàn cho
tới tận 6 tháng, vì bú sớm có lợi ích cho cả mẹ và con:
- Bú sớm giúp trẻ tận dụng được sữa non, là loại sữa tốt, hoàn hảo về
dinh dưỡng và các chất sinh học thích ứng với cơ thể non nớt của trẻ.


19
- Bú sớm sẽ kích thích sữa mẹ tiết sớm hơn và nhiều hơn qua cung phản
xạ prolactin.
- Bú sớm cũng giúp cho sự co hồi tử cung tốt hơn ngay sau đẻ, hạn chế
mất máu.
- Bú sớm ngay sau đẻ tạo sự bền chặt tình cảm mẹ con trong suốt cuộc
đời sau này,,.
- Bú mẹ hoàn toàn (BMHT): Là thực hành trong đó đứa trẻ chỉ được ăn
sữa mẹ qua bú trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua vắt sữa mẹ hoặc bú trực tiếp
người khác, ngoài ra không ăn bất cứ loại thức ăn đồ uống nào khác. Các thứ
khác ngoại lệ được chấp nhận là các dạng giọt dung dịch có chứa vitamin,

khoáng chất hoặc thuốc.
- Cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu mà không ăn thêm thức ăn
gì khác kể cả nước uống vì bản thân người mẹ có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu
dinh dưỡng mà đứa trẻ cần, mọi thức ăn thêm khác trong giai đoạn này đều có
thể mang đến cho trẻ các rủi ro về sức khỏe,,. Trẻ cần được bú mẹ thường
xuyên, bú kéo dài tới 18-24 tháng hoặc lâu hơn,,.
1.3.3. Kiến thức, thực hành cho trẻ ăn bổ sung.
Ăn bổ sung (ABS) hay còn gọi là ăn sam, ăn thêm ở miền Bắc hay ăn
dặm ở miền Nam. Theo khuyến cáo của WHO cần cho trẻ bú mẹ hoàn toàn
trong 6 tháng đầu tiên của cuộc đời. Trẻ cần được ABS đúng độ tuổi (khi trẻ
tròn 6 tháng tuổi).
Kết quả nghiên cứu của WHO tại 9 nước đang phát triển chỉ ra rằng sữa
mẹ chỉ có xu hướng thỏa mãn nhu cầu của trẻ trong vòng 6 tháng đầu. Do vậy
để đáp ứng nhu cầu ngày một tăng lên của trẻ về thể chất, đến một giai đoạn
nhất định trẻ cần được ăn thêm các thức ăn khác ngoài sữa mẹ để đảm bảo
nhu cầu.
Theo WHO và UNICEF thì: ABS là quá trình nuôi trẻ, tập cho trẻ thích
ứng với sự chuyển đổi chế độ ăn từ một khẩu phần hoàn toàn dựa vào sữa mẹ


20
(hay chế độ sữa đơn thuần với bà mẹ mất sữa) sang chế độ ăn sử dụng đều
đặn các thực phẩm sẵn có trong bữa ăn gia đình,,.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ từ sáu tháng tuổi trở lên, cần cho
trẻ ăn bổ sung trong khi trẻ tiếp tục được bú mẹ. Các thực phẩm cho trẻ ăn bổ
sung có thể được chuẩn bị riêng hoặc từ chính bữa ăn gia đình. Theo WHO,
không nên cho trẻ giảm bú khi bắt đầu cho ăn bổ sung; thức ăn bổ sung nên
được cho ăn bằng thìa hay cốc, không nên cho vào bình sữa; thực phẩm phải
sạch, an toàn và sẵn có ở địa phương; cần nhiều thời gian để trẻ nhỏ học cách
ăn thức ăn đặc.

Các thực phẩm sử dụng với mục đích bổ sung sữa mẹ để thỏa mãn nhu
cầu dinh dưỡng của trẻ gọi là thực phẩm bổ sung. Các thực phẩm này được
xếp vào 4 nhóm chính:
- Nhóm giàu Glucid: Các loại ngũ cốc như: gạo, ngô, lúa mì...
- Nhóm giàu Protid: Thịt gia súc, gia cầm, cá và các loại thủy sản...
- Nhóm giàu Lipid: Mỡ động vật, dầu thực vật...
- Nhóm cung cấp Vitamin và muối khoáng: rau, quả chín đặc biệt các
loại rau có màu xanh thẫm như: Rau ngót, rau muống, rau giền, rau cải,...và
các loại quả màu vàng như chuối, cam, đu đủ...
Trong đó một bữa ABS hợp lý cho trẻ phải có sự phối trộn đầy đủ giữa 4
nhóm thực phẩm đã nêu trên,.
Số bữa ăn cần bổ sung trong ngày phải phù hợp với từng tháng tuổi: Với
trẻ từ 6-7 tháng tuổi bú mẹ là chính và thêm 1-2 bữa bột từ loãng đến đặc và
nước quả, trẻ 8 - 9 tháng tuổi ngoài sữa mẹ cần ABS 2-3 bữa bột đặc (10%)
và nước hoa quả nghiền; Trẻ 10 - 12 tháng ngoài sữa mẹ cần thêm 3-4 bữa bột
đặc (15%) và hoa quả nghiền; Trẻ 13 - 24 tháng ngoài sữa mẹ cần 3 bữa cháo
và quả. Trên 24 tháng tuổi: ăn 3 bữa cùng gia đình với ưu tiên các thức ăn
giàu chất dinh dưỡng, như 1 chén cơm với thịt, cá, rau xanh với 2 - 3 bữa phụ
(sữa, sữa chua, bánh, cháo, bột), trẻ từ 2-3 tuổi vẫn cần được ăn 4-5 bữa/ngày


21
ngoài cháo, mì, súp trẻ có thể ăn được cơm nát.Trẻ 3-5 tuổi thì số bữa ăn
trong ngày giống trẻ 2-3 tuổi nhưng số lượng ăn trong 1 bữa cần phải tăng
hơn,.
1.3.4. Kiến thức, thực hành chăm sóc trẻ NKHH và tiêu chảy
Tiêu chảy và nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là hai nguyên nhân hàng đầu
gây tử vong ở trẻ em. Tiêu chảy là đi ngoài phân lỏng trên 3 lần một ngày. Ở
các nước đang phát triển, người ta ước tính trên thế giới hàng năm có 500
triệu trẻ em dưới 5 tuổi mắc ít nhất một đợt tiêu chảy và 4 triệu trẻ em dưới 5

tuổi hàng năm chết vì bệnh tiêu chảy 80% tử vong do tiêu chảy xảy ra ở trẻ
em dưới 2 tuổi. Mỗi năm có thể bị đến 10 đợt tiêu chảy/1 trẻ/1 năm. Trung
bình 3-4 đợt /trẻ/ năm. Có 70-80% những đợt tiêu chảy xảy ra dưới 7 ngày có
thể bồi phụ dễ dàng bằng bồi phụ nước, điện giải đường uống và tiếp tục dinh
dưỡng. Ở trẻ SDD, thời gian trung bình một đợt tiêu chảy lâu hơn trẻ bình
thường. Chỉ số mới mắc ở trẻ SDD cao hơn rõ rệt so với trẻ bình thường.
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp (NKHHC) là bệnh thường gặp ở trẻ em. Ở nhiều
quốc gia, NKHHC là một trong hai nguyên nhân chính gây tử vong, chiếm trên
30% tử vong chung ở trẻ dưới 5 tuổi. Suy dinh dưỡng cũng là yếu tố dễ mắc
nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính hơn ở trẻ bình thường và khi bị nhiễm khuẩn hô
hấp cấp tính thì thời gian điều trị kéo dài hơn, tiên lượng xấu hơn.
Trẻ không được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ: Nguy cơ tử vong do viêm
phổi ở trẻ không được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ cao hơn so với trẻ được nuôi
dưỡng bằng sữa mẹ. Một nghiên cứu ở Brazin (1985) cho thấy: Nếu nguy cơ
tương đối (RR) của tử vong do viêm phổi ở trẻ được nuôi bằng sữa mẹ là 1,
thì ở trẻ được nuôi bằng sữa mẹ và sữa bò là 1,2 và trẻ chỉ được nuôi bằng sữa
bò là 3,3.


22
1.3.5. Một số yếu tố khác.
- Điều kiện kinh tế gia đình,tình trạng thiếu ăn,tình trạng văn hóa của bà
mẹ ảnh hưởng đến TTDD của trẻ.
- Vấn đề chăm sóc sức khỏe bà mẹ trước, trong và sau khi sinh còn yếu,
tỷ lệ nạo hút thai cao, một số bệnh máu, bệnh mạn tính của bà mẹ có ảnh
hưởng đến sức khỏe và dinh dưỡng đứa con sau này.
- Môi trường sống không đảm bảo vệ sinh, hố xí không đạt tiêu chuẩn
cao, tập quán sử dụng phân tươi để tưới rau gây ô nhiễm môi trường, tăng tỷ
lệ mắc bệnh giun sán.
- Các bệnh được xếp hàng đầu thường gặp ở trẻ em đó là ỉa chảy và

nhiễm khuẩn hô hấp cấp. Số lần mắc trung bình bệnh ỉa chảy và viêm phổi
của trẻ em trong 1 năm là 2,2 lần và 1,6 lần.


23

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian, địa điểm, đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Thời gian
Từ tháng 6/2015-12/2015
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Trấn Yên là một huyện miền núi vùng thấp của tỉnh Yên Bái. Phía Bắc
giáp với huyện Văn Yên, phía Nam giáp huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ, phía
Đông giáp huyện Yên Bình và thành phố Yên Bái, phía Tây giáp với huyện
Văn Chấn.
Tổng diện tích tự nhiên là 62.859,54 ha, chiếm 9,13 diện tích toàn tỉnh
Yên Bái. Trung tâm huyện cách thành phố Yên Bái 13,5 km, cách thủ đô Hà
Nội gần 200km. Có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ
thuận lợi cho việc đi lại và trao đổi hàng hoá giữa các địa phương trong và
ngoài huyện. Toàn huyện được chia thành 22 đơn vị hành chính xã, thị trấn,
trong đó có 7 xã vùng cao, 1 xã đặc biệt khó khăn, 12 xã khu vực II có thôn
bản đặc biệt khó khăn.
Huyện có 6 dân tộc sinh sống, trong đó: Dân tộc Kinh chiếm 66,5%,
dân tộc Tày chiếm 20,5%, dân tộc Dao chiếm 7,2%; dân tộc Mường chiếm
2,3%, dân tộc Cao Lan chiếm 1,2%, dân tộc H’Mông chiếm 1,9%, dân tộc
khác chiếm 0,4%


24

2.1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Trẻ em từ 0-59 tháng tuổi tại huyện Trấn Yên - Yên Bái
- Bà mẹ của các trẻ tham gia nghiên cứu.
- Cán bộ Y tế huyện, xã: Là những người đại diện cho Y tế tại huyện
(Trung tâm Y tế huyện, Phòng Y tế huyện, Dân số huyện), cán bộ Y tế của 3
xã (trạm trưởng, nữ hộ sinh)
- Nhân viên y tế thôn bản tại địa bàn nghiên cứu.
* Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Trẻ: từ 0-59 tháng tuổi có mặt trên địa bàn tại thời điểm nghiên cứu.
Trẻ không bị mắc các bệnh bẩm sinh, các bệnh mạn tính.
- Bà mẹ của những trẻ đã được chọn, không mắc các bệnh rối loạn trí
nhớ, tâm thần và đồng ý tham gia nghiên cứu
- Cán bộ y tế huyện, xã, y tế thôn bản có mặt tại địa bàn nghiên cứu và
đồng ý tham gia nghiên cứu.
* Tiêu chuẩn loại trừ
- Trẻ: Mắc các bệnh bẩm sinh, mạn tính
- Bà mẹ: Bị bệnh tâm thần, rối loạn trí nhớ, không hợp tác...
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu.
Sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
2.2.2.1. Đối với nghiên cứu định lượng
Cỡ mẫu được tính theo phương pháp tính cỡ mẫu cho một cuộc điều tra
cắt ngang:


25

Trong đó:
 n = Cỡ mẫu

 Z1-α/2= là giá trị tương ứng của hệ số giới hạn tin cậy đòi hỏi, với độ tin
cậy là 95% thì Z= 1,96
 p = 0,376 là tỷ lệ SDD thể thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Lạc
Sơn - Tỉnh Hòa Bình.
 d = sai số mong muốn 5% (0,05)
 Cỡ mẫu tính được là 360, làm tròn cỡ mẫu là 400 trẻ.
Cách chọn mẫu
 Bước 1: Chọn chủ đích 3 xã của huyện Trấn Yên với tiêu chí gồm xã
nghèo, xã trung bình và xã khá về kinh tế trong huyện.
 Bước 2: Tại 3 xã đã được chọn, lập danh sách trẻ dưới 5 tuổi, chọn mẫu
ngẫu nhiên hệ thống 400 trẻ em từ 0 đến 59 tháng tuổi.
2.2.2.2. Đối với nghiên cứu định tính.
Mẫu nghiên cứu định tính được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu
có chủ đích.
- Cán bộ huyện, xã: 01 cuộc thảo luận nhóm 06 người gồm cán bộ
trung tâm y tế và trưởng trạm y tế xã.
- Bà mẹ (các bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại địa bàn nghiên cứu): 01 cuộc
thảo luận nhóm với 10 bà mẹ tại 1 xã.
- Nhân viên y tế thôn bản: 01 cuộc thảo luận nhóm có trọng tâm với 5
nhân viên y tế thôn bản trong 1 xã.


×