Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

NGHIÊN cứu đặc điểm lâm SÀNG,CẬN lâm SÀNG và kết QUẢ điều TRỊ LAO PHỔI mới có HANG tại BỆNH VIỆN 71 TRUNG ƯƠNG THANH hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.1 KB, 111 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lao được biết đến rất sớm, bắt đầu ở các nước như Ấn Độ, Ai Cập,
Hi Lạp, thời kỳ này người ta xem bệnh lao là bệnh không thể chữa khỏi và là
bệnh có tính di truyền. Mãi đến năm 1882, Robert Koch tìm ra nguyên nhân
gây bệnh lao là vi khuẩn lao (Bacillus Koch) người ta mới hiểu rõ bệnh lao.
Đến những năm 40, năm 50 của thế kỷ trước, khi các thuốc chống lao được
phát minh thì bệnh lao đã được chữa khỏi, con người đã khống chế được bệnh
lao và người ta đã nghĩ đến việc thanh toán bệnh lao. Nhưng đến tháng 4/1993
theo báo cáo của WHO bệnh lao đã quay trở lại và đang là vấn đề cấp thiết
toàn cầu, với con số thống kê 2,2 tỉ người (bằng 1/3 dân số thế giới) bị nhiễm
lao, trong đó hơn 100 triệu người nhiễm vi khuẩn lao kháng thuốc, hơn 15
triệu người nhiễm lao - HIV. Theo thống kê toàn cầu hiện nay có khoảng 20
triệu người mắc lao. Hằng năm xuất hiện 8,7 triệu người mắc lao mới, tức cứ
4 giây có một người mắc lao, 10 giây có một người chết do lao, 5.000 người
chết mỗi ngày và 2-3 triệu người chết mỗi năm. Trên 95% số mắc và 98% số
chết do lao hàng năm thuộc các nước đang phát triển, thuộc vùng Nam Mỹ,
Châu Phi,Trung Cận Đông và Châu Á. Đặc biệt 80% số chết do lao ở lứa tuổi
lao động (15-60) tuổi là một ảnh hưởng rất lớn đến lao động xã hội [1], [17].
Lao phổi chiếm trên 80% các thể lao, mà nguyên nhân chủ yếu do trực
khuẩn lao người (Mycobacterium Tuberculoris) gây nên. Trong đó thể lao
phổi tìm thấy AFB trong đờm bằng phương pháp soi trực tiếp
Lao phổi mới có hang là vấn đề đặc biệt quan tâm vì đây là nguồn lây
chính, nguồn lây nguy hiểm trong cộng đồng, là nhân tố quyết định sự tồn tại
lâu dài của bệnh lao.
Thanh Hóa là một tỉnh vùng Bắc Trung Bộ với diện tích rộng dân số
đông, với đặc điểm địa lý là tỉnh có nhiều vùng sâu, vùng xa, nhiều đồng bào


2



dân tộc thiểu số sinh sống, tâm lý mặc cảm với bệnh lao, sợ sự xa lánh kì thị
của cộng đồng. Đi kèm với điều đó là kinh tế khó khăn, nên thường đi khám
và phát hiện bệnh lao muộn hoặc dấu bệnh, tự điều trị. Vì vậy khi được phát
hiện bệnh thường ở giai đoạn muộn. Bệnh nặng mất khả năng lao động trở
thành gánh nặng cho gia đình và xã hội và còn là nguồn lây truyền vi khuẩn
lao cho cộng đồng. Tại Thanh Hóa trong những năm gần đây phát hiện được
khoảng 3.400- 3.900 bệnh nhân lao phổi mỗi năm.
Nghiên cứu về lao phổi mới có hang tại Thanh Hóa còn ít đề cập. Vì vậy để
giúp cho công tác phát hiện nguồn lây cũng như chẩn đoán, quản lý và theo dõi,
đánh giá kết quả điều trị bệnh nhân lao phổi mới có hang hiệu quă tốt hơn tại
Thanh Hóa, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với hai mục tiêu:
1.

Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng lao phổi mới có hang tại
bệnh viện 71 Trung ương Thanh Hóa trong thời gian 2012- 2015.

2.

Nhận xét kết quả điều trị lao phổi mới có hang phác đồ
2SHRZ/6HE tại bệnh viện 71 Trung ương Thanh Hóa trong thời
gian (2012- 2015).


3

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình bệnh lao hiện nay

1.1.1. Tình hình bệnh lao trên thế giới
WHO đã xuất bản báo cáo bệnh lao toàn cầu hàng năm từ năm 1997.
Mục đích chính của các báo cáo đó là để cung cấp toàn diện và cập nhật đánh
giá về dịch tễ bệnh lao, và các tiến bộ trong phòng, chẩn đoán, và điều trị
bệnh trên toàn cầu, cũng như tại các khu vực, tại các nước trong các nội dung
khuyến cáo của chiến lược lao toàn cầu, đích hướng tới trong tương lai.
Bệnh lao và một vấn đề sức khỏe chính trên toàn cầu. Bệnh gây ốm yếu
cho hàng triệu người mỗi năm và xếp ở sát vị trí của đại dịch HIV/AIDS, một
nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu[102].
Trong năm 2014 đã có ước tính 9,6 triệu người mắc lao mới, trong đó 5,4
triệu người là nam giới, 3,2 triệu người là nữ giới, 1 triệu là trẻ em. Đã có 1,5
triệu trường hợp tử vong do lao trong đó 1,1 triệu HIV(-), 0,4 triệu HIV(+) mà
xấp xỉ 890.000 là nam giới, 480.000 là nữ giới, 140.000 là trẻ em. Số tử vong
do lao vẫn ở mức cao: với chẩn đoán kịp thời và điều trị chính xác, hầu hết tất
cả mọi người bị lao có thể chữa khỏi. Ước tính năm 2014 có khoảng 1,2 triệu
các trường hợp lao mới HIV(+), chiếm 12% tổng số các trường hợp lao, gần
3/4 các trường hợp đó là ở Châu Phi [105].
Số các trường hợp lao năm 2014 ở khu vực Đông nam á và Tây thái bình
dương chiếm 58% tổng số lao toàn cầu. Khu vực Châu Phi chiếm 28% tổng
số lao toàn cầu, nhưng tỷ lệ mắc trên dân số cao nhất, 281 trường
hợp/100.000 dân, gấp đôi tỷ lệ trung bình toàn cầu (133). Ấn Độ, Indonesia
và Trung Quốc có số các trường hợp lao lớn nhất: chiếm 23%, 10%, 10% tổng
số trên toàn cầu theo thứ tự [105]. Tỷ lệ mới mắc đã giảm xuống trung bình là
1,5% mỗi năm từ năm 2000[105] . Mục tiêu thiên niên kỷ vào năm 2015 đã


4

giành được ở toàn cầu, với tất cả 6 khu vực của WHO và 16 trong 22 nước có
gánh nặng lao cao (nơi chiếm 80% tổng số các trường hợp lao của toàn cầu)

[105]. Tỷ lệ tử vong trong năm 2015 là 47%, thấp hơn năn 1990, đáp ứng với
đích đạt được là giảm 50%. Đích đạt được ở 4 khu vực của WHO và 11 nước
có gánh nặng cao (ngoại trừ khu vực Châu Phi và Châu Âu) [105]. Tỷ lệ hiện
mắc lao trong năm 2015 là 42%, thấp hơn so với năm 1990 và đạt được đích
là giảm 50% ở 3 khu vực của WHO và 9 nước có gánh nặng cao [105]. Cả 3
đích, năm 2015 đã giành được ở khu vực Châu Mỹ, Đông nam á và Tây thái
bình dương, và 9 nước có gánh nặng cao: Brazil, Campuchia, Trung Quốc,
Ethiopia, Ấn Độ, Myanmar, Phillippine, Uganda và Việt Nam [105].
Từ năm 2000- 2014, điều trị lao đã cứu sống 35 triệu người bị lao HIV(-)
và điều trị lao kết hợp với kháng virut đã cứu sống 8 triệu người bị lao
HIV(+) [105]. Bệnh lan tràn theo đường không khí, khi những người bị lao
phổi bài xuất ra trực khuẩn lao, ví dụ bởi ho. Nhìn chung một tỷ lệ nhỏ được
ước tính liên quan (5-15%) trong số 2-3 tỷ người đã nhiễm M. tuberculosis sẽ
phát triển thành bệnh lao trong cả cuộc đời của họ. Tuy nhiên tỷ lệ phát triển
thành bệnh lao cao hơn nhiều ở người nhiễm HIV [105].
Phương pháp chẩn đoán lao phổ biến nhất trên Thế giới vẫn được duy trì
là nhuộm soi đờm trực tiếp phát hiện AFB. Tuy nhiên trong một vài năm gần
đây, sử dụng các phương pháp sinh học phân tử nhanh để chẩn đoán lao và lao
kháng thuốc đang tăng và một số nước đang bỏ dần sử dụng phương pháp
nhuộm soi đờm trực tiếp cho mục đích chẩn đoán và kiểm soát điều trị. Ở các
nước với khả năng xét nghiệm phát triển, hầu hết các trường hợp lao cũng
được chẩn đoán bằng phương pháp nuôi cấy (tiêu chuẩn tham chiếu hiện nay)
[105],[91]. Không điều trị, tỷ lệ tử vong sẽ cao. Các nghiên cứu từ thời kỳ
trước khi có thuốc chống lao cho thấy khoảng 70% số bệnh nhân lao phổi
AFB(+) sẽ chết trong vòng 10 năm, trong đó có khoảng 20% những người lao
phổi AFB(-) nhưng nuôi cấy (+) [105],[97].


5


Bảng 1.1. Ước tính gánh nặng dịch tễ do lao năm 2014 (tỷ lệ/100.000 dân)

Dân số Tử vong Số hiện mắc Số mới mắc
1 Afghanistan
31628
44
340
189
2 Bangladesh
159078
51
404
227
3 Brazil
206078
2.6
52
44
4 Campuchia
15328
58
668
390
5 Trung Quốc
1369436
2.8
89
68
6 DR Congo
74877

69
532
325
7 Ethopia
96959
33
200
207
8 Ấn Độ
1295292
17
195
167
9 Indonesia
254455
41
647
399
10 Kenya
44864
21
266
246
11 Mozambique
27216
67
554
551
12 Myanmar
53437

53
457
369
13 Nigeria
177476
97
330
322
14 Pakistan
185044
26
341
270
15 Phillippine
99139
10
417
288
16 Nga
143429
11
109
84
17 Nam Phi
53969
44
696
834
18 Thái Lan
67726

11
236
171
19 Uganda
37783
12
159
161
20 UR Tazania
51823
58
528
327
21 Việt Nam
92423
18
198
140
22 Zimbabwe
15246
15
292
278
Các nước gánh nặng cao 4552704
21
227
176
1 Châu Phi
963361
46

330
281
2 Châu Mỹ
981613
1.7
36
28
3 Trung đông
635745
14
160
117
4 Châu Âu
907279
3.7
48
37
5 Đông Nam Á
1906087
24
286
211
6 Tây Thái bình dương 1845184
4.8
116
85
Toàn cầu
7239269
16
174

133
Nguồn: Báo cáo của WHO 2015 [105]
Bảng 1.2. Ước tính tỷ lệ % các trường hợp MDR trên toàn cầu, 27 nước và
6 khu vực có gánh nặng MDR


6

% MDR ở lao mới
Armenia
9.4
Azerbaijan
13
Bangladesh
1.4
Belarus
34
Bulgaria
2.3
Trung Quốc
5.7
DR Congo
2.2
Estonia
19
Ethiopia
1.6
Georgia
12
Ấn Độ

2.2
Indonesia
1.9
Kazakhstan
26
Kyrgyzstan
26
Latvia
8.2
Lithuania
14
Myanmar
5.0
Nigeria
2.9
Pakistan
3.7
Phillippine
2.0
Cộng hòa Moldova
24
Nga
19
Nam Phi
1.8
Tajikistan
8.1
Ukraine
22
Uzbekistan

23
Việt Nam
4.0
Châu Phi
2.1
Châu Mỹ
2.4
Trung đông
3.2
Châu Âu
15
Đông nam Á
2.2
Tây Thái bình dương
4.4
Toàn cầu
3.3
Nguồn: Báo cáo của WHO 2015 [105]
1.1.2. Tình hình bệnh lao ở Việt Nam

% MDR ở lao điều trị lại
43
28
29
69
23
26
11
62
12

39
15
12
58
55
30
49
27
14
18
21
62
49
6.7
52
56
62
23
11
11
18
48
16
22
20


7

Việt Nam hiện vẫn là nước có gánh nặng do bệnh lao cao, đứng thứ 12

trong số 22 nước có số BN lao cao, đồng thời là nước đứng thứ 14 trong số 27
nước có gánh nặng do bệnh lao kháng đa thuốc cao nhất trên Thế giới, tỷ ệ lao
đa kháng thuốc là 2,7% trong số bệnh nhân lao mới (khoảng 4800 bệnh nhân) và
chiếm 19% trong số bệnh nhân lao điều trị lại (khoảng 3400 bệnh nhân). [8].
Bảng 1.3. Tình hình dịch tễ bệnh lao tại Việt Nam năm 2014
Ước tính gánh nặng bệnh lao
năm 2014
Tử vong do lao (loại trừ HIV)

Số lượng

Tỷ lệ

(nghìn người) (trên 100.000 dân)
17(11-23)

18(12-25)

Lao hiện mắc các thể

180(76-330)

198(83-362)

Lao mới mắc các thể

130(110-150)

140(116-167)


Lao/HIV (+) mới mắc

7(5,7-8,5)

7,6(6,1-9,2)

Tỷ lệ phát hiện các thể (%)

77(65-94)

Tỷ lệ MDR trong lao mới (%)

4(2,5-5,4)

Tỷ lệ MDR trong lao điều trị lại (%)

23(17-30)

Theo báo cáo của tổ chưc y tế thế giới thì bệnh lao ở nước ta vẫn còn
nặng nề, đứng thứ 11 trong 20 nước có gánh nặng bệnh lao đa kháng thuốc
cao nhất thế giới. Trong 6 tháng đầu năm 2015, DAPCL đã phát hiện được
52.283 bệnh nhân lao các thể chiếm tỷ lệ 57,5/100.000 dân, đạt 50,52% và tỷ
lệ AFB (+) mới được phát hiện là 26.065.549 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ
25,7/100.000 dân [7].


8

1.1.3. Tình hình bệnh lao ở Thanh Hóa:
Diện tích

11.130,2 km²
Dân số (2013)
Tổng cộng
3.412.600 người
Mật độ
312 người/km²
Dân tộc
Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, H'Mông, Khơ-mú
Vị trí Thanh Hóa trên bản đồ Việt Nam

Hành chính
Thanh Hóa là một tỉnh vùng bắc trung bộ, có diện tích 11.130,2 km²,địa
hình phức tạp với dân số (2013) 3.412.600 người, là tỉnh đông dân sau Hà Nội
và TP Hồ Chí Minh, mật độ 312 người/km². Có các dân tộc: Việt, Mường,
Thái, Thổ, Dao, H'Mông, Khơ-mú cùng sinh sống, ước tính mỗi năm có
khoảng 5.800 bệnh nhân lao mới các thể trong đó có khoảng 2.600 bệnh nhân
lao phổi AFB(+). Tuy vậy những năm gần đây Thanh Hóa mới chỉ phát hiện
được khoảng 3.400 - 3.900 bệnh nhân mỗi năm, chỉ đạt 59 - 65% so với ước
tính. Như vậy còn tồn tại một lượng lớn bệnh nhân trong cộng đồng chưa


9

được phát hiện và điều trị, hoặc điều trị ngoài chương trình không đúng cách
làm tồn tại nguồn lây nguy hiểm cho cộng đồng.
Thực hiện bằng chiến lược của CTCLQG, phát hiện bằng phương pháp
thụ động là chính, ưu tiên phát hiện nguồn lây bằng phương pháp soi trực
tiếp, kết hợp phương pháp phát hiện chủ động đối với các trại tạm giam, trung
tâm 05-06, trung tâm bảo trợ xã hội, vùng sâu, vùng xa.
Trong 5 năm từ 2007 - 2011 đã phát hiện được 3.390 - 3.896 BN lao các

thể mỗi năm, tỷ lệ phát hiện đạt 100 - 115 bệnh nhân lao các thể /10.000 dân,
số bệnh nhân lao phổi mới AFB(+) phát hiện được từ 1.928 - 2.282 đạt tỷ lệ
58 - 67 bệnh nhân lao phổi AFB(+)/100.000 dân.[31]
Bảng 1.4. Tình hình phát lao ở Thanh Hóa 2007-2011
(theo báo cáo của CTCLQG tỉnh Thanh Hóa) [31]
Năm

Laophổi

Tái phát.

Lao phổi

Lao ngoài

mới AFB(+) Điều trị lại mới AFB(+)
2007
2.208
169
1.148
%
56,7
4,4
29,5
2008
2.078
208
1.135
%
55,3

5,5
30,2
2009
1.958
267
1.070
%
52,5
7,2
28,7
2010
1.928
238
873
%
56,9
7,0
24,7
2011
1.931
223
1.091
%
54,3
6,3
30,7
Cộng
10.103
1.105
5.316

%
55,1
6,0
29,0
Theo điều tra nguy cơ nhiễm lao lần hai tại Thanh

phổi
Cộng
367
3.892
9,4
100
340
3.761
9,0
100
424
3.729
11,6
100
351
3.390
10,4
100
310
3.555
8,7
100
1.803
18.327

9,9
100
Hóa năm 2002 ước

tính mỗi năm có khoảng 5.800 bệnh nhân lao mới các thể trong đó có khoảng
2.600 bệnh nhân lao phổi AFB(+) [31]. Như vậy còn một lượng lớn bệnh
nhân chưa được phát hiện và điều trị, hoặc điều trị không đúng theo chương
trình trong cộng đồng, đây là nguồn lây trực tiếp trong cộng đồng.


10

1.2. Bệnh lao phổi mới có hang
1.2.1. Sinh bệnh học, nguyên nhân, các yếu tố nguy cơ của lao phổi
Sinh bệnh học: Nhiễm trùng với AFB chủ yếu theo con đường không
khí, hít phải AFB do những người bị lao phổi hoạt động bài xuất ra trong khi
ho, hắt hơi. Những giọt đờm, nhầy với đường kính từ 1- 5 μm, một cái ho đơn
giản có thể sinh ra 3000 giọt nhiễm trùng và cần khoảng 10 BK để gây ra
nhiễm trùng ban đầu [100],[97]. Khi hít phải AFB trong các giọt bài tiết hô
hấp bắn ra. AFB sẽ nhân lên ở khoang chứa khí tận cùng của phổi, sinh sôi
trong 2-12 tuần, đến khi chúng đạt được số lượng từ 1000-10.000 sẽ đủ để
kích thích đáp ứng miễn dịch mà có thể phát hiện bằng test da tuberculin
[100],[97]. AFB có tính kháng nguyên cao và chúng thúc đẩy mạnh các đáp
ứng miễn dịch không đặc hiệu của cơ thể. Kháng nguyên của chúng gồm
nhiều thành phần chứa trong vách tế bào gồm các glycoprotein, phospholipid,
và chất sáp D, có vai trò hoạt hóa các tế bào Langerhan, lymphocyte, và bạch
cầu đa nhân. Khi một người bị nhiễm AFB trong phổi, nhiễm trùng có thể trải
qua một trong nhiều con đường và hầu hết là không dẫn đến bệnh lao thực sự.
Nhiễm trùng có thể bị tiêu diệt hoàn toàn bởi hệ thông miễn dịch cơ thể hoặc
ngăn chặn thành một mẫu không hoạt động được gọi là nhiễm trùng lao tiềm

tàng, với sự kiểm soát của cơ thể chống lại sự phát triển của AFB tại ổ bệnh
trước sự phát triển thành bệnh lao hoạt động. BN nhiễm trùng lao tiềm tàng
không thể lây lan bệnh [5],[100],[105]. Phổi là vị trí hay gặp nhất cho phát
triển bệnh lao, 85% số BN lao là biểu hiện bệnh ở phổi [100],[5].
Các tổn thương mô bệnh của lao [100],[97]: Tổn thương điển hình của
lao là một u hạt dạng biểu mô với hoại tử bã đậu ở trung tâm. Hầu hết vị trí
của tổn thương ban đầu là ở trong đại thực bào phế nang, khu vực sát dưới
màng phổi của phổi. AFB sẽ tăng nhanh và lan tràn tới hệ thống hạch bạch
huyết (hạch rốn phổi), tạo thành một phức hợp “Ghon”.U lao sớm có hình


11

cầu, các nốt từ 0.5- 3mm với hoặc 4 khu vực tế bào với các đặc điểm sau: Một
hoại tử bã ở trung tâm. Một khu vực tế bào dạng biểu mô ở phía trong các đại
thực bào và các tế bào khổng lồ Langerhan trộn lẫn với lymphocyte. Một khu
vực tế bào ở phía ngoài các lymphocyte, các tế bào huyết tương và các đại
thực bào non. Một vành xơ (trong tổn thương lành).
Tổn thương ban đầu có thể lành lại và trở thành nhiễm trùng tiềm tàng.
Các u lao nhỏ hơn có thể được giải quyết hoàn toàn. Xơ xuất hiện khi các
enzyme thủy phân phân hủy các u lao và các tổn thương lớn được bao quanh
bởi một vỏ xơ. Do vậy các nốt hoại tử xơ thường chứa AFB sống và là ổ bệnh
tiềm tàng suốt cuộc đời bởi sự tái hoạt động trở lại hoặc sự tạo hang. Một số
nốt can xi hóa được phát hiện dễ dàng trên phim XQ ngực [100],[81]. Mô
trong những vùng hoại tử bã đậu có mức độ axit béo cao, pH thấp và áp lực
oxy thấp do đó ức chế sự phát triển của AFB trong u hạt lao [100],[81].
Nếu cơ thể không có khả năng ngăn chặn nhiễm trùng ban đầu, bệnh sẽ
tiến triển thành lao tiên phát với viêm phổi lao ở thùy thấp và thùy giữa . Xuất
tiết mủ với số lượng lớn AFB có thể thấy ở đờm và mô. Các u hạt sát dưới
màng phổi có thể vỡ vào trong khoang màng phổi, màng ngoài tim tạo nên

viêm, và tràn dịch các màng [100],[81].
Với sự phản ứng của đáp ứng miễn dịch cơ thể, các tổn thương mà phát
triển xung quanh ổ AFB có thể sinh sôi về số lượng và viêm xuất tiết. Cả hai
loại tổn thương phát triển ở cùng một người, từ mức độ lan tràn và miễn dịch
cục bộ thay đổi mỗi vị trí khác nhau. Các tổn thương sinh sôi về số lượng vi
khuẩn, nhưng lượng vi khuẩn nhỏ và đáp ứng miễn dịch tế bào cơ thể trội
hơn. Các u lao đó được kết đặc lại với các đại thực bào hoạt hóa và được bao
bọc xung quanh bởi các lymphocyte tăng trưởng, các tế bào huyết tương và
một vành xơ ở phía ngoài. Sự giết chết AFB trong tế bào có hiệu quả, số
lượng vi khuẩn tồn dư thấp [100],[80]. Tổn thương viêm xuất tiết chiếm ưu


12

thế khi có số lượng lớn AFB có mặt và hàng rào bảo vệ cơ thể yếu, làm giảm
khả năng tập hợp của các đại thực bào non, bạch cầu đa nhân, fibrin và hoại
tử bã đậu ở các vị trí AFB sinh trưởng. Nếu không điều trị tổn thương đó sẽ
tiến triển và nhiễm trùng lan tràn [100],[80].
Nguyên nhân: Bệnh lao gây nên bởi AFB , một vi sinh vật ưa khí, sinh
sản chậm và ký sinh trong tế bào. AFB phát triển tạo thành các nhóm tương
đương gọi là các thừng được thấy khi soi kính hiển vi. Giữ màu sau khi tẩy
màu bằng axit-cồn, mà là nền tảng của nhuộm phát hiện AFB [4],[100],[84].
Phơi nhiễm với AFB thường đưa đến kết quả một nhiễm trùng tiềm tàng,
chỉ khoảng 5% số người đó có bằng chứng phát triển thành bệnh trên lâm
sàng. Sự thay đổi hệ thống miễn dịch cơ thể mà dẫn đến giảm hiệu quả miễn
dịch có thể cho phép AFB hoạt động trở lại, với bệnh lao, kết quả từ một sự
kết hợp các ảnh hưởng trực tiếp từ AFB tái hoạt động trở lại và sau đó là đáp
ứng miễn dịch cơ thể không thích hợp với các kháng nguyên của AFB [4],
[99].
Yếu tố nguy cơ [100],[73]: Các yếu tố nguy cơ sau giúp để xác định

xem một nhiễm trùng lao là dễ lây truyền: Số lượng AFB bài xuất ra, nồng độ
của AFB, kéo dài thời gian phơi nhiễm với không khí bị nhiễm AFB, tình
trạng miễn dịch của người bị phơi nhiễm. Người truyền bệnh sống ở môi
trường đông đúc, kín là yếu tố nguy cơ đặc biệt truyền bệnh cho người khác.
Xấp xỉ 20% những người tiếp xúc trong hộ gia đình phát triển nhiễm lao (test
tuberculin dương tính). Dịch tễ vi mô xảy ra ở môi trường kín như là ở dưới
biển và khoang máy bay. Những người có nguy cơ cao cho nhiễm lao bao
gồm người làm công ở bệnh viện, BN chăm sóc tại nhà, tù nhân…
Các yếu tố sau tăng nguy cơ mắc phải lao hoạt động ở những người
riêng: Nhiễm HIV, lạm dụng chất gây nghiên tĩnh mạch, nghiện rượu, đái tháo
đường (tăng nguy cơ gấp 3 lần), bụi phổi silicosis, điều trị thuốc giảm miễn


13

dịch, thuốc đối kháng với TNF-α, cocticoit [81], ung thư đầu, cổ, bệnh máu ác
tính, bệnh thận giai đoạn cuối, phẫu thuật cắt ruột hoặc phẫu thuật dạ dày, hội
chứng rối loạn hấp thu, cân nặng cơ thể thấp, ngược lại béo phì ở người già
liên quan với nguy cơ thấp của lao phổi hoạt động [84]. Hút thuốc lá, các yếu
tố gen liên quan bao gồm: NRAMP1, SP110,CISH, IRGM, IFNG,
IFNGR,TIRAP,CD209[4],[96],[100].
Giới tính và độ tuổi: nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nam bị lao nhiều
hơn nữ, tỷ lệ là 2:1 [100]. Báo cáo của WHO 2015[105] cho thấy trong năm
2014 đã có ước tính 9,6 triệu người mắc lao mới, trong đó 5,4 triệu người là
nam giới, 3,2 triệu người là nữ giới, 1 triệu là trẻ em.

Tỷ lệ /100.000
dân/năm

30

0
20
0
10
0
0

Đông nam á

Châu phi

Châu Mỹ
0-14

Trung
đông

15-24 25-34 35-44 4554

Tây thái bình
dương
Châu âu
5564

65

Biểu đồ 1.1. Tỷ lệ lao các khu vực theo tuổi[102]
Ở Mỹ > 60% các trường hợp lao xảy ra ở người từ 25- 64 tuổi, tuy nhiên
độ tuổi > 65 có nguy cơ bị lao cao nhất.
1.2.2. Khái niệm lao phổi mới có hang [36]

- Lao phổi mới: Là những bệnh nhân chưa bao giờ dùng thuốc lao hoặc
dùng thuốc lao dưới một tháng.
- Hang: Trên phim là một hình sáng, bờ khép kín. Kích thước hang có
thể to, nhỏ khác nhau. khi hang có phế quản thông trên phim có thể thấy hình


14

của phế quản là hai đường mờ song song nối hang với vùng cuống phổi.
Những hang mới có thành dày, những hang cũ có thành mỏng và đậm độ cản
quang đậm.
Các tổn thương trên đây có xen kẽ nhau: xung quanh hang có thể có
thâm nhiễm và nốt.
Ngoài 3 loại tổn thương cơ bản trên đây có thể có các tổn thương xơ hình
dạng phức tạp, có khi là những đám xơ rộng co kéo cả một thùy hoặc một
phổi ảnh hưởng đến chức năng hô hấp của phổi. [49]
1.2.3. Phân loại bệnh lao phổi
1.2.3.1. Dựa vào xét nghiệm vi khuẩn lao
* Chẩn đoán lao phổi AFB(+) khi thỏa mãn những tiêu chuẩn sau
- Tối thiểu có 2 tiêu bản đờm AFB (+) từ 2 mẫu đờm khác nhau.
- Một tiêu bản đờm AFB (+) và nuôi cấy (+)
- Riêng đối với người bệnh HIV(+) chỉ cần một mẫu đờm AFB (+) tính
Được coi là lao phổi AFB (+)
*Chẩn đoán lao phổi AFB(-) khi thỏa mãn 1 trong 2 tiêu chuẩn sau:
- Kết quả xét nghiệm đờm AFB(-) ít nhất 6 mẫu đờm khác nhau qua 2
lần thăm khám, mỗi lần xét nghiệm 3 mẫu đờm cách nhau tối thiểu 2 tuần và
có tổn thương nghi lao tiến triển trên phim X-quang phổi và được hội chẩn
với bác sĩ chuyên khoa.
- Kết quả xét nghiệm đờm AFB(-) nhưng nuôi cấy(+).
- Riêng đối với người bệnh HIV(+) chỉ cần ≥ 2 mẫu đờm AFB(-), điều trị

kháng sinh phổ rộng không thuyên giảm, có hình ảnh X-quang phổi nghi lao
và bác sĩ chuyên khoa quyết định là lao phổi AFB(-)
1.2.3.2. Dựa vào X Quang
Chụp X quang phổi là cách kiểm tra có độ nhạy tuy nhiên không đặc
hiệu để phát hiện lao, nhưng nó có giá trị định hướng phát trong việc phát


15

hiện bệnh lao. X quang phổi giúp xác định vị trí, tính chất và mức độ tổn
thương, theo dõi và đánh giá kết quả điều trị.
1.2.3.3. Dựa vào tiền sử điều trị lao
- Lao phổi mới là: những bệnh nhân chưa bao giờ dùng thuốc lao hoặc
dùng thuốc lao dưới một tháng.
- Lao phổi tái phát là: những bệnh nhân lao phổi đã được điều trị và được
xác định là khỏi bệnh sau 3 tháng nay mắc bệnh trở lại có xét nghiệm đờm
AFB(+).
- Lao phổi thất bại là: những bệnh nhân lao phổi còn vi khuẩn lao trong
đờm sau 5 tháng trở đi của liệu trình điều trị.
- Lao phổi bỏ trị là: những bệnh nhân lao phổi không dùng thuốc lao trên
2 tháng trong quá trình điều trị, sau đó quay trở lại điều trị với AFB(+).
- Lao phổi mạn tính là: những bệnh nhân lao phổi vẫn còn vi khuẩn lao trong
đờm sau khi đã dùng công thức tái trị có giám sát chặt chẽ việc dùng thuốc.
- Chuyển đến: Người bệnh được chuyển từ nơi khác đến để tiếp tục điều trị.
1.3. Nghiên cứu về lâm sàng
1.3.1. Tuổi giới và các yếu tố liên quan
- Bogdanovic N.A và cộng sự (1994), nhận xét: Các điều kiện về đời sống
kèm theo chiến tranh đã làm cho bệnh lao phát triển ở người trẻ tuổi [69].
- Notari N.O (1994), nghiên cứu về lao phỏi mới Buenos Aires thấy ở lứa
tuổi 15 - 45 chiếm tỷ lệ 87% nguyên nhân gia tăng mắc lao ở lứa tuổi này là

do gia tăng của đại dịch HIV/AIDS đang phát triển mạnh ở châu Mỹ [88].
- Theo WHO (1995), 75% bệnh nhân lao ở các nước đang phát triển gặp
ở lứa tuổi 15 - 50 [100]
- Borikic D.J (1996) nghiên cứu lao phổi mới ở Belgrade cho thấy tỷ lệ
nam mắc gấp 1,5 lần nữ.


16

1.3.2. Triệu lâm sàng chứng: Crofton J [74] so sánh giá trị quan trọng của
các triệu chứng trong chẩn đoán lao phổi nói chung như sau
Bảng 1.5. Dấu + chỉ mức độ quan trọng của các triệu chứng
Triệu chứng hô hấp
Ho khạc đờm kéo dài +++

Triệu chứng toàn thân
Sốt và mồ hôi rộm ++

Ho ra máu ++

Sút cân ++

Đau ngực +

Mệt mỏi +

Khó thở +

Kém ăn +


Có ran ở phổi +

Hay bị cảm cúm +

Onozaki T (1994) nghiên cứu ở Nepal cho thấy 50% bệnh nhân lao phổi
mới được phát hiện trong vòng 1,5 tháng từ khi có triệu chứng lâm sàng hay gặp
là ho chiếm tỷ lệ 92%, sốt 77%, đau ngực 72%, ho ra máu lẫn đờm 45% [89].
Theo Bogdanovic N.A (1994) nghiên cứu bệnh lao ở người trẻ tuổi nhận
xét: Các triệu chứng nổi bật là hội chứng hô hấp chiếm tỷ lệ 73%, ho ra máu
43%, và gầy sút cân 37% [69].
Bùi Đức Dương, Hồ Sỹ Dưỡng và cộng sự (1994) [20], nghiên cứu 693 bệnh
nhân lao phổi mới ở Hà Nội cho thấy tỷ lệ mắc lao phổi ở lứa tuổi 25-44 3%.
Nguyễn Văm Tiêm và CS (1989), cũng nhận xét bệnh nhân lao ở lứa tuổi
15-50 chiếm tỷ lệ 69% [60].
Lê Ngọc Hưng 1988), nghiên cứu về lao bệnh phổi thấy tỷ lệ bệnh nhân
>50 tuổi là 26,73% [33].
Nguyễn Ngọc Nhuận và CS(1996), nghiên cứu lao phổi mới ở Ninh Bình
gặp lứa tuổi mắc lao ở lứa tuổi 55-64 là 28,8% [46].
1.4. Nghiên cứu về cận lâm sàng
1.4.1. Soi đờm trực tiếp tìm AFB
Phan Thị Quế Nghiên cứu 400 bệnh nhân lao phổi mới


17

AFB(+) điều trị tại bệnh viện lao và một số huyện Thái Bình từ tháng 10
2004 đến tháng 6-2005 thấy xét nghiệm đờm AFB(+) với mức độ:
(1+) chiếm tỷ lệ cao nhất 45,7%, (2+) chiếm 40,5%, 3(+) chiếm tỷ lệ
thấp nhất 12,5%, [56].
Theo Bùi Xuân Tám (1989), ở quận Hai Bà Trưng Hà Nội, bằng soi trực

tiếp tìm được 57,2% AFB(+). lao phổi ở người cao tuổi, soi trực tiếp cho kết
quả AFB (+) là 44%c [57].
Trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Lan và cộng sự, 183 bệnh nhân
lao phổi nghiên cứu, soi trực tiếp cho kết quả dương tính là 27% [35]
1.4.2. Hình ảnh X Quang lao phổi chuẩn
1.4.2.1. Tổn thương X quang lao phổi thường gặp
+ Hay gặp ở 1/2 trên của hai phổi
+ Tổn thương có đặc tính cả hai bên
Đối xứng nếu tổn thương lan tràn theo đường máu, tổn thương chéo nhau
giữa phổi nếu lan tràn theo đường phế quản.
+ Tổn thương xen kẽ giữa xuất tiết, tăng sinh, và xơ hóa (xen kẽ giữa tổn
thương ổn định và tiến triền).
+ Đáp ứng thuốc lao ngoài 1 tháng điều trị.
1.4.2.2. Tổn thương cơ bản trong lao phổi
+ Thâm nhiềm: Là đám mờ thuần nhất hoặc không thuần nhất đường
kính từ 10mm trở lên, giới hạn không rõ ràng.
+ Nốt: Kích thước khác nhau, trung bình 5-10 mm, có thể tập trung ở
một vùng của phổi, hoặc rải rác hai phổi.


18

+ Hang: Là một hình sáng, bờ khép kín, kích thước to nhỏ khác nhau,
những hang mới thành dày, hang cũ thành mỏng mật độ cản quang đậm.
Các tổn thương trên hay xen kẽ nhau.
Ngoài 3 loại tổn thương trên còn có tổn thương xơ, vôi.
1.4.2.3. Phân loại mức độ tổn thương trên X-quang theo hội lồng ngực Hoa
Kỳ (ATS, 1980)[4]
+ Tổn thương diện rộng (độ I): Là các tổn thương không có hang, ở một
hay hai bên phổi, nhưng bề rộng tổn thương gộp lại không vượt quá diện tích

phổi nằm trên đường ngang qua khớp ức sườn số 2.
+ Tổn thương vừa (độII): Có thể có 1 hay 2 bên phổi tổng diện tích tổn
thương không vượt quá giới hạn một phổi. Nếu tổn thương liên kết với nhau
thì cũng không quá 1/3 một phổi. Khi có hang thì tổng đường kính các hang
cộng lại không vượt quá 4cm.
+ Tổn thương diện rộng (độ III): Có thể có 1 hay 2 bên phổi tổng diện
tích tổn thương vượt quá giới hạn một phổi. Nếu tổn thương liên kết với nhau
thì cũng quá 1/3 một phổi. Khi có hang thì tổng đường kính các hang cộng lại
vượt quá 4cm.


19

1.4.3. Phản ứng với tuberculin (phản ứng Mantoux)
Là một phản ứng sinh hóa miễn dịch nhằm chứng minh sự có mặt của vi
khuẩn lao. Phương pháp này dùng tubeculin tinh chế (PPD) tiêm trong da mặt
trước, giữa 1/3 trên cẳng tay trái 0,1ml tubeculin PPD-RT23 (puified protein
derivative) chứa 54-10 đơn vị, tạo nên một nốt phồng da cam, đọc kết quả sau
72 giờ, tại nơi tiêm nốt phồng (nốt sẩn).
Phản ứng Mantoux thường dương tính mức độ trung bình trong bệnh lao
phổi, tùy từng bệnh nhân.
Bảng 1.6. Đánh giá kết quả
Đường kính nốt sần
<5mm, hoặc không có nốt sần

Kết quả
Âm tính

Từ 5-9mm


Nghi ngờ

Từ 10-15mm

Dương tính nhẹ

Trên 15mm

Dương tính mạnh

Phản ứng Mantoux có giá trị gián tiếp trong chẩn đoán nhiễm trùng lao
với độ nhạy >80%.[23]
Tuy nhiên theo Pensati E.L (1994), một số bệnh nhân lao phổi cũng có
thể test Mantoux vẫn âm tính gặp trong bệnh nhân suy giảm miễn dịch, dùng
thuốc ức chế miễn dịch [92]
1.4.4. Huyết học, Sinh hóa máu
Trong nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Tuấn (2001) [62], số lượng hộng
cầu >4 (triệu) chiếm tỷ lệ 61,9%, dưới 3 (triệu) chiếm 3,2%. Số lượng bạch
cầu thấp dưới 10 nghìn chiếm 46%, từ 10-15 nghìn chiếm 38,1%.
Theo Hoàng Văn Huấn và cộng sự, ở đa số trường hợp, hồng cầu trong
giới hạn bình thường [26]. Nghiên cứu của Bayer R.S và cộng sự lao phổi
thiếu máu chỉ gặp từ 16-22%, thường chỉ thiếu máu nhẹ [72].


20

1.5. Nghiên cứu về điều trị lao
1.5.1. Cơ sở khoa học của hóa trị liệu
1.5.1.1. Sự kháng thuốc của vi khuẩn lao
- Số lượng vi khuẩn

Hang lao kích thước 2cm thông với phế quản có khoảng 108 vi khuẩn lao,
một số nốt lao có kích thước tương tự chỉ có 10 2 vi khuẩn. Trong 1cm2 vách
hang lao có từ 1010 - 10 12 vi khuẩn. Khi vi khuẩn lao phát triển tới một số nhất
định thì xuất hiện một số vi khuẩn đột biến kháng thuốc, tỉ lệ này tùy thuộc
từng loại thuốc.
- Sự kháng thuốc chéo
Do một số thuốc có cấu tạo giống nhau. Các thuốc isoniazid, etambutol
có gốc cấu tạo chung là NH-NH2, kháng lại steptomycin thường kháng lại
hiện tượng này cũng xảy ra tương tự giữa kanamycin và capreomycin [34]
1.5.1.2. Tác dụng của thuốc dược lý của thuốc chống lao
- Liều lượng và nồng độ thuốc
Tác dụng của thuốc phụ thuộc vào nồng độ của thuốc trong huyết thanh
và tổn thương. Nồng độ của thuốc liên quan đến liều dùng.
Trong huyết thanh thì quan trọng là:
+ Nồng độ ức chế tối thiểu (CMI: Concentration Minima Inhibirce) độ
thấp nhất của từng loại thuốc có khả năng ức chế sự phát triển của vi khuẩn
+ Nồng độ đỉnh (CSM: Concentration Serique Maximum) là nồng độ đạt
cao nhất trong huyết thanh sau khi dùng thuốc, nó phụ thuộc vào từng loại
thuốc và liều lượng dùng. Để đạt nồng độ cao nhất trong huyết thanh nên
dùng thuốc một lần vào lúc đói và uống các thứ thuốc cùng một lúc để hạn
chế các thuốc gắn vào protein trong máu.
Một thuốc tốt là thuốc có hệ số vượt (CSM/CMI) cao, muốn đạt được tác
dụng diệt khuẩn thì hệ số vượt tối thiểu phải là 20.
Nồng độ thuốc đạt trong tổn thương rất quan trọng vì nó tác động trực
tiếp đến vi khuẩn đang sống, nồng độ này tùy thuộc vào từng loại thuốc và
đặc điểm của tổn thương [2], [55], [26].


21


- Thời gian tiềm tàng của thuốc chống lao
Là thời gian vi khuẩn lao phát triển trở lại ở môi trường không có thuốc
sau khi bị tác động của một số thuốc chống lao trong một khoảng thời gian
nhất định. Thời gian tiềm tàng thay đổi tùy theo từng loại thuốc, nồng độ
thuốc và thời gian tiếp xúc của vi khuẩn lao với thuốc. Các thuốc chống lao
có thời gian tiềm tàng tương đối dài (R, E, H, S, Z), đây là cơ sở để dùng
thuốc cách quãng trong điều trị. Các thuốc không có thời gian tiềm tàng
không sử dụng các phác đồ ngắt quãng.
- Vấn đề cơ địa:Trước đây khi chưa có thuốc chống lao đặc hiệu, các yếu
tố cơ địa người bệnh và các yếu tố khác như tuổi, giới, nghề nghiệp, tình trạng
làm việc quá sức, rối loạn thần kinh, nội tiết... Rất được quan tâm, vì các yếu
tố đó tác động đến quá trình chuyển hóa của cơ thể với thuốc. Ngày nay nhờ
có thuốc chống lao đặc hiệu và hiệu quả của các công thức thì các yếu tố trên
chỉ còn đóng vai trò thiết yếu. [2].
- Hiệu lực của các thuốc chống lao
Hiệu lực của các thuốc chống lao được tính theo mức độ sinh sản của vi khuẩn.
Bảng 1.7. Hiệu lực của thuốc chống lao theo Groset (1995)[4]
Tác dụng diệt vi khuẩn
Sinh sản
Sinh sản chậm
Vi khuẩn ngủ
chống lao
PH acid
PH trung tính
man
Streptomixin
+++
0
0
0

Isoniazid
++
+
0
0
Rifampyxin
++
+
+
±
Pyrazinamid
±
±
0
0
Ethambutol
0
++
0
0
Ghi chú : Hiệu lực (+) diệt khuẩn nhẹ; (++)vừa; (+++) mạnh
Thuốc

(±) Hiệu lực kìm khuẩn; (0) không có tác dụng
Qua bảng trên cho thấy trong một phác đồ điều trị cần phối hợp nhiều
thuốc chống lao và phải có các thuốc có tác dụng diệt khuẩn mạnh.


22


Bảng 1.8. Tác dụng của các thuốc chống lao chủ yếu
Thuốc chống lao chủ yếu Tác dụng của thuốc chống lao
Ioniazi(H)
Diệt khuẩn

Hiệu quả
Mạnh

Rifampicin(R)

Diệt khuẩn

Mạnh

Pyrazinamide(P)

Diệt khuẩn

Yếu

Streptomycin(S)
Ethambutol(E)

Diệt khuẩn
Kìm khuẩn

Yếu
Yếu

Thiacetazone(T)


Kìm khuẩn

Yếu

Có thể sơ đồ hóa các thuốc chống lao này như sau
Khả năng diệt khuẩn
Mạnh
R
H
Z
S
E
T
Yếu
1.5.1.3. Nguyên tắc điều trị bệnh lao
Có 6 nguyên tắc cơ bản trong điều trị lao[12]
- Phối hợp các loại thuốc chống lao: Ít nhất là 3 thuốc trong giai đoạn
đầu, 2 đến 3 loại thuốc trong giai đoạn tiếp theo.
- Đủ liều với từng loại thuốc: Để có tác dụng và trách kháng thuốc.
- Dùng thuốc đều đặn: Các thuốc cần uống cùng một lúc, xa bữa ăn để
hấp thụ tối đa.
- Dùng đủ thời gian: Để khỏi bệnh, tránh tái phát.
- Điều trị theo 2 giai đoạn: Tấn công và duy trì.


23

+ Giai đoạn tất công: 2 - 3 tháng, mục đích làm giảm nhanh số lượng vi
khuẩn tại nơi tổn thương tránh lan tràn và đột biến kháng thuốc.

+ Giai đoạn duy trì: 4 - 6 tháng, mục đích diệt hết AFB trong tổn thương tránh
tái phát. Các thuốc dùng trong giai đoạn này phải có ít nhất 1 thuốc diệt khuẩn.
- Điều trị có kiểm soát: Nhằm theo dõi việc dùng thuốc của bệnh nhân,
xử trí kịp thời các biến chứng và các tác dụng phụ của thuốc.
1.5.1.4. Các phác đồ lưu hành hiện nay ở Việt Nam
* Các thuốc chống lao thiết yếu
Bộ Y Tế Việt Nam quy định 5 thuốc chống lao thiết yếu là:
CTCLQG Việt Nam hiện đang sử dụng 5 loại thuốc chống lao thiết yếu
Streptomyxin (S), Isonniazid (H), Rifampyxin (R), Pyrzinamid (Z),
Ethambutol (E).
Bảng 1.9. Các thuốc chống lao
Loại thuốc

Isoniazid(H)
Rifampicin(R)
Pyrainamid(Z)
Ethambutol(E)

Hàng ngày
Liều lượng

Mỗi tuần 3 lần
Liều lượng

(khoảng cách liều)

(khoảng cách liều)

tính theo mg/kg cân nặng
5(4-6)

10(8-12)
25(20-30)
Trẻ em 20(15-25)

tính theo mg/kg cân nặng
10(8-12)
10(8-12)
35(30-40)
30(25-35)

Người lớn 15(15-20)
Streptomycin(S) 15(12-18)

15(12-18)

 Các phác đồ điều trị và chỉ định
Phác đồ I: 2S(E)HRZ/6HE hoặc 2S(E)HRZ/4RH Hoặc 2S(E)HRZ/4HRE
Chỉ định: cho các trường hợp người bệnh lao mới (chưa điều trị lao bao
giờ hoặc đã từng điều trị lao dưới 1 tháng).
Hướng dẫn:


24

Giai đoạn tấn công kéo dài 2 tháng, gồm 4 loại thuốc dùng hàng ngày, E
có thể thay thế S.
Giai đoạn duy trì kéo dài 6 tháng, gồm 2 loại thuốc là H và E dùng hàng
ngày hoặc 4 tháng gồm 2 loại (RH) hoặc 3 loại (RHE) hàng ngày.
Phác đồ II: 2S(E)HRZE/1EHRZE/5R3H3E3 hoặc 2S(E)HRZE/1EHRZE/5RHE
Chỉ định:

Cho các trường hợp người bệnh lao tái phát, thất bại phác đồ, điều trị lại
sau bỏ trị, một số thể lao nặng (lao màng não, lao kê, lao xương khớp hoặc lao
phổi diện rộng, phá hủy hang > 4cm).
Hướng dẫn:
Giai đoạn tấn công kéo dài 3 tháng, 2 tháng đầu tiên với 5 loại thuốc
chống lao thiết yếu (SHRZE) dùng hàng ngày, 1 tháng tiếp theo dùng 4 loại
thuốc (HRZE) dùng hàng ngày.
Giai đoạn duy trì kéo dài 5 tháng, gồm 3 loại thuốc là H,R và E dùng 3
lần trong tuần hoặc dùng hàng ngày.
Phác đồ III: 2HRZE/4HR Hoặc 2HRZ/4RH
Chỉ định: cho các trường hợp lao trẻ em, Trong trường hợp trẻ em thể
nặng có cân nhắc dùng phối hợp với S.
Hướng dẫn:
Giai đoạn tấn công kéo dài 2 tháng, gồm 4 loại thuốc (HRZE) hoặc 3
loại (HRZ) dùng hàng ngày, điều trị cho tất cả các thể lao trẻ em.
Giai đoạn duy trì: kéo dài 4 tháng, gồm 2 loại thuốc là H và R dùng hàng
ngày [8].


25

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 172 bệnh nhân được chẩn đoán là lao phổi mới có hang theo quy
định của TCYTTG và CTCLQG và điều trị tại bệnh viện 71 Trung ương từ
năm 2012 - 2015 đủ tiêu chuẩn nghiên cứu.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu này được tiến hành trên các bệnh nhân lao phổi mới có hang
thỏa mãn những tiêu chuẩn sau

2.1.1.1. Tuổi và giới
- Tuổi từ 15 trở lên
- Giới cả nam và nữ
2.1.1.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán lao phổi mới có hang
Theo IUATLD và CTCLQG [13], [15], Là những bệnh nhân thỏa mãn
các yêu cầu sau:
Là những bệnh nhân chưa bao giờ dùng thuốc lao hoặc dùng thuốc lao
dưới một tháng.
2.1.1.3. Tổn thương hang trên X quang phổi chuẩn
Hang: Về mặt XQ là một hình sáng được giới hạn rõ rệt bởi một bờ cản
quang liên tục, khép kín. Kích thước hang có đường kính trên 4cm có thể rất
to, chiếm 1/2 phế trường. Thông thường hang có kích thước nhỏ, đường kính
khoảng vài mi-li - mét. Nếu nhiều hang nhỏ tập trung sẽ có hình "tổ ong" hay
ruột "bánh mì" tương ứng với tổn thương nốt loét của giải phẫu bệnh. Số
lượng hang có thể nhiều hoặc chỉ có một hang duy nhất. Bờ hang lao có độ
dày thay đổi.Thường bờ mỏng có độ dày khoảng 1-3mm, hơi đậm (đậm độ
thấp hơn xương sườn). Bên trong hang lao không phải luôn chứa toàn khí.


×