Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Nghiên cứu nguyên nhân và thái độ xử trí thai chết lưu quý 3 thai kỳ tại bệnh viện phụ sản trung ương trong 2 năm 2013 và 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.71 KB, 100 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong suốt thời gian sống trong tử cung mặc dù được người mẹ bảo vệ
nhưng thai vẫn có thể bị chết ở bất kỳ tuổi thai nào và ở bất kỳ thai phụ nào
với nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy thai chết lưu (TCL) luôn là nỗi ám
ảnh đối với nhiều bà mẹ, nhất là khi đã có tiền sử TCL.
Thai chết lưu trong tử cung (TCLTTC) là một bệnh lý sản khoa, còn gặp
với tỷ lệ khá cao ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Hậu quả (TCLTTC) không chỉ là một sang chấn tâm lý tình cảm đối với
người mẹ và gia đình mà còn gây ra nhiều nguy cơ lớn đe dọa đến tính mạng
bà mẹ như:
- Chảy máu do rối loạn đông máu vì có hiện tượng đông máu rải rác
trong lòng mạch.
- Nhiễm khuẩn nhanh và nặng đối với các trường hợp thai phụ bị vỡ ối lâu.
Trước kia những hiểu biết về TCL còn gặp nhiều hạn chế, việc chẩn
đoán nhanh, chính xác, xử trí TCL gặp nhiều khó khăn, các tai biến xảy ra còn
nặng nề đã không ít các trường hợp bà mẹ bị tử vong. Ngày nay với sự tiến bộ
trong khoa học kỹ thuật, sự phát triển đồng đều của các ngành y học: lâm
sàng, cận lâm sàng, chẩn đoán trước sinh, dược lý học lâm sàng, di truyền
học, y sinh học phân tử… Một số nguyên nhân của TCL được sáng tỏ, tháo gỡ
được một số khó khăn trong quá trình xử trí cũng như dự phòng tai biến có
thể xảy ra cho bà mẹ.
Tuy nhiên TCLTTC cho đến nay vẫn là một thách thức lớn đối với các
thầy thuốc sản phụ khoa trong quá trình quản lý thai nghén hay tư vấn trước
sinh vì theo nhiều nghiên cứu có tới 20% – 50% các trường hợp thai chết lưu


2
không rõ nguyên nhân [1]. Mặt khác trong quá trình điều trị một câu hỏi luôn


được đặt ra làm thế nào để thai lưu ra khỏi TC nhanh, hạn chế đến mức thấp
nhất biến chứng xảy ra cho người mẹ mà vẫn đảm bảo được một tương lai sản
khoa tốt.
Để góp phần tìm hiểu thêm về nguyên nhân và thái độ xử trí thai chết lưu
trong tử cung chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu nguyên
nhân và thái độ xử trí thai chết lưu quý 3 thai kỳ tại Bệnh viện Phụ sản
Trung ương trong 2 năm 2013 và 2014”.
Mục tiêu của đề tài:
1. Mô tả một số nguyên nhân thai chết lưu trong quý 3 thai kỳ.
2. Nhận xét thái độ xử trí thai chết lưu quý 3 thai kỳ.


3
Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Định nghĩa thai chết lưu
Hiện nay chưa có một tiêu chuẩn thống nhất giữa các quốc gia khác nhau
về thai chết lưu:
- Ở Việt Nam quy định thai chết lưu là tất cả các trường hợp thai bị chết
ở bất cứ giai đoạn nào của thai nghén mà còn lưu lại trong tử cung ≥ 48
giờ[1],[2],[3].
- Theo tổ chức y tế thế giới thai chết lưu bao gồm tất cả các trường hợp
thai chết trong quá trình thai nghén trước khi sổ thai ra ngoài tử cung không
tính đến tuổi thai [4].
- Một số nước còn quy định rõ thêm về cân nặng của thai chết phải từ
300 – 500 gam trở lên. Còn ở một số nước đang phát triển quy định thai chết
lưu kể từ tuần thứ 28 trở đi[4].
- Ở nước Pháp quy định TCLTTC bao gồm tất cả các trường hợp thai
chết trong tử cung từ 22 tuần đến trước chuyển dạ[4].

- Hiện nay theo hướng dẫn Quốc gia Việt Nam về các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe sinh sản – 2009, Bộ y tế Việt Nam quy định TCL là thai chết khi tuổi thai
từ 22 tuần trở lên cho đến trước khi chuyển dạ[5].
- Người ta có thể chia TCLTTC làm 3 giai đoạn: 3 tháng đầu, 3 tháng giữa,
3 tháng cuối theo 3 giai đoạn của thai kỳ bình thường. Hoặc có thể chia làm 2
giai đoạn thai kỳ nếu lấy mốc là 20 tuần (kể từ ngày đầu kỳ kinh cuối cùng).


4
1.2. Tỉ lệ thai chết lưu
1.2.1. Các tài liệu nước ngoài
Bảng 1.1. Các tài liệu nước ngoài [6]
Stt

Tác giả

1
Brochier
2
Verow
3
Merget
4
Arnaud
5
J Melihior (Paris 1993)
1.2.2. Các nghiên cứu trong nước

Tỉ lệ thai chết lưu
trong tử cung so với tổng số đẻ (%)

1
3
7,6
0,8
0,76

Bảng 1.2. Các nghiên cứu trong nước
STT
1
2
3
4
5
6

Nhóm nghiên cứu
Nguyễn Đức Hinh, Phan Trường
Duyệt, Trần Hán Chúc [7]
Nguyễn Đức Hinh, Phan Thanh Nga[8]
Phan Xuân Khôi [6]
Nguyễn Thanh Xuân [9]
Nguyễn Thị Huệ [10]
Trần Ngọc Kính [11]

Năm
nghiên
cứu

Địa điểm
nghiên cứu


Tỉ lệ
TCL
(%)

1992-1993

VBVBMTSS

3,8

1994-1995
1999-2000
2003
2006–2007
1980–1984

VBVBMTSS
VBVBMTSS
BVPSTW
BVPSTW
PSHN

4,4
7,1
8,24
1,22
1,5

Sự chênh lệch rõ rệt về tỷ lệ thai chết lưu giữa các tác giả là do những

quy định về tiêu chuẩn thai chết lưu của các nước không thống nhất. Ngoài ra
tỷ lệ này còn bị chi phối bởi những nguyên nhân khác như: Trình độ dân trí,
chế độ dinh dưỡng, chủng tộc…
1.3. Lịch sử nghiên cứu và xử trí thai chết lưu.
- Năm 1927 Stein đã nghiên cứu tình trạng thai chết lưu trong tử cung
sau khi bơm hơi ổ bụng kết hợp với chụp tử cung có cản quang, ông là người
nêu ra phương pháp Stein để xử trí thai chết trong tử cung.


5
- Năm 1928 Ascheim và Zorder định lượng Gonadotropin nước tiểu ở
người mang thai bình thường và người mang thai chết trong tử cung.
- Năm 1940 Hertig và Edmon đã nêu lên thai chết trong tử cung 2 tuần đầu.
- Năm 1946, Robertin và Gallimanini 1947 đã nêu phản ứng sinh vật
trên ếch đực để xác định thai sống và thai chết trong tử cung.
- Năm 1950 Weinmer là người đầu tiên đề cập đến vấn đề rối loạn đông
máu trong thai chết lưu trong tử cung.
- Năm 1955 Prichard và Ratnoff so sánh rau bong non và thai chết trong
tử cung.
- Năm 1957 Triconi và Kohn đưa ra phương pháp chăm sóc thai phụ có
thai chết trong tử cung và theo dõi sinh sợi huyết trong 3 tháng đầu kể từ khi
thai nhi chết.
- Năm 1966 Koniza và Beslev nêu nguyên nhân của thai chết lưu trong
tử cung là do các bệnh của mẹ, chủ yếu là tiền sản giật chiếm phần lớn trong
nguyên nhân của thai chết lưu trong tử cung. Bên cạnh đó các dị dạng của thai
chủ yếu là dị dạng của hệ thống thần kinh trung ương là nguyên nhân của thai
chết lưu trong tử cung.
-

Năm 1968 Mukherjee nêu phương pháp gây chuyển dạ và gây sẩy


cho các trường hợp thai chết lưu trong tử cung bằng truyền quinine tĩnh
mạch .
- Năm 1976 Moc. N, truyền Prostaglandin F2 (PGF2) gây chuyển dạ
TCL trong tử cung
- Năm 1977 Ruitland dùng phương pháp đặt Prostaglandin E2 vào âm
đạo để gây đẻ cho các trường hợp thai chết lưu trong tử cung.


6
- Năm 1994 Antonio Bugalho, C. Bique, F Machingo, A Faaundes ở
Mozambic đã dùng Misoprostol đặt âm đạo gây sẩy thai chết lưu từ 18-40 tuần
[6],[12].
 Ở Việt Nam:
- Lê Văn Điển và Nguyễn Huy Cận (1961) bàn về thai chết lưu trong tử
cung [13].
- Năm 1962 Đinh Văn Thắng nêu kết quả định lượng sinh sợi huyết
trong một số trường hợp sản thường và sản bệnh [14].
- Năm 1963 Lê Văn Điển tổng kết kinh nghiệm áp dụng phương pháp
dùng Estrogen kết hợp với Oxytocin hoặc phương pháp truyền Oxytocin đơn
thuần [15].
- Năm 1996 Trần Bá Tín đánh giá phương pháp điều trị thai chết lưu
bằng cách đặt sonde Nelaton vào buồng tử cung ngoài màng ối [16].
- Năm 1997 Nguyễn Đức Hinh so sánh 2 phương pháp dùng Estrogen
kết hợp với Oxytocin với phương pháp truyền Oxytocin đơn thuần [17].
- Năm 1998 Ngô Văn Tài tổng kết bước đầu sử dụng Cytotec xử trí thai
chết lưu trong tử cung [18].
- Năm 1998 Nguyễn Văn Lộ và Nguyễn Huy Hợp dùng Cytotec uống
và đặt trong ống cổ tử cung để gây sẩy thai chết trong tử cung [19].
- Năm 2012 Nguyễn Thị Tuyết đánh giá kết quả gây chuyển dạ thai chết

lưu trong tử cung quý II, III bằng Cerviprim tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội [20].
1.4. Nguyên nhân gây ra thai chết lưu
Nguyên nhân của TCLTTC rất phức tạp có nhiều công trình nghiên cứu
tìm hiểu về nguyên nhân gây ra thai chết lưu giúp cho việc chẩn đoán sớm,
điều trị và phòng bệnh. Nhưng cho đến nay việc tìm ra nguyên nhân thai chết


7
lưu vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Người ta thấy rằng có từ 20  50% các
trường hợp TCL mà không tìm ra được nguyên nhân mặc dù có đầy đủ các
phương tiện thăm dò hiện đại [1],[21]. Theo Lê Thiện Thái nghiên cứu 204
trường hợp TCL tại viện BVBMTSS từ năm 1982 – 1984 thấy: Tỷ lệ TCL do
mẹ bị bệnh là 8,4%, do dị tật của thai là 8,9%, do phần phụ của thai là 10,7%,
còn lại các trường hợp TCL không rõ nguyên nhân [22]. Theo Nguyễn Huy
Bạo nghiên cứu 198 trường hợp TCLTTC tại viện BMTSS từ năm 1990 -1991
cho thấy 8% TCL do bệnh bà mẹ, 12,6% do bệnh của con, còn lại không tìm
thấy nguyên nhân [12].
Các nguyên nhân có thể tổng kết theo 3 nhóm:
1. Nguyên nhân do mẹ
2. Nguyên nhân do thai
3. Nguyên nhân do phần phụ của thai, tử cung
1.4.1. Nhóm nguyên nhân do mẹ .
- Mẹ bị các bệnh lý mãn tính: Viêm thận, suy gan, thiếu máu, lao phổi,
bệnh tim mạch, bệnh tăng huyết áp…
- Mẹ bị các bệnh nội tiết: Basedow, thiểu năng giáp, bệnh đái tháo đường,
thiểu năng hay cường thượng thận….Tăng huyết áp và đái tháo đường là 2 bệnh
lý gây TCL nhiều nhất từ 5-8% tổng số thai chết lưu.
- Mẹ bị tiền sản giật từ thể nhẹ đến thể nặng đều có thể gây ra TCLTC,
đặc biệt là sản giật. Tỷ lệ TCLTC càng cao nếu tiền sản giật càng nặng và
không được điều trị hoặc điều trị không đúng cách. Bệnh kéo dài nhiều ngày

làm cho thai nhi bị suy dinh dưỡng và bị chết. Tỷ lệ thai chết rất cao khi tiền
sản giật có biến chứng thành sản giật, rau bong non.Theo nghiên cứu của
Smulian và cộng sự đã so sánh tỷ lệ TCL ở nhóm thai nghén nguy cơ thấp với
các nhóm thai nghén có biến chứng (tăng huyết áp, ĐTĐTK, thai suy dinh


8
dưỡng, rau bong non). Tỷ lệ TCL trong nhóm thai nghén nguy cơ thấp 0,16%,
nhóm tăng huyết áp mạn là 0,76%, nhóm ĐTĐTK là 0,39%, nhóm rau bong
non 6,14%, nhóm thai suy dinh dưỡng là 0,96% [23].
- Mẹ bị nhiễm các bệnh ký sinh trùng: Toxoplasma gondii, sốt rét đặc
biệt sốt rét ác tính thai chết lưu gần như 100%, nhiễm khuẩn giang mai,
leptospira…. Nhiễm virus: HIV, HbsAg, Rubella, Cúm … các trường hợp này
thai có thể bị chết do tác động trực tiếp của nguyên nhân gây lên các giai đoạn
phát triển của thai nhi và bánh rau. Đồng thời khi người mẹ bị sốt do bất kỳ
nguyên nhân gì cũng dễ bị TCLTTC do khả năng thải nhiệt của thai nhi là rất
kém, hệ thống điều nhiệt của thai nhi chưa hoạt động.
- Mẹ bị nhiễm độc cấp hoặc mãn hoặc do đang dùng thuốc chữa ung thư,
hóa chất xạ trị… ở giai đoạn đầu thai kỳ.
- Ngoài ra người mẹ có thể mắc một số bệnh lý khác: Hội chứng kháng
phospholipid gây biến chứng ở thành mạch máu của màng rụng gây tắc mạch
rau là nguyên nhân gây sẩy thai liên tiếp và thai chết. Bệnh lý ưa huyết khối
thường liên quan đến rau bong non, thai chậm phát triển trong tử cung và thai
chết [1],[2],[3],[4],[23],[24].


9
* Một số yếu tố thuận lợi gây TCLTTC:
- Tuổi của người mẹ: Tỷ lệ TCL tăng cao ở những người mẹ > 40 tuổi, ở
tuổi này nguy cơ thai chết lưu cao gấp 5 lần so với nhóm phụ nữ trẻ[3].

Theo Lê Văn Thương và các cộng sự thai phụ ở nhóm tuổi 26 - 30 chiếm
1/3 trong tổng số thai phụ bị TCL. Dưới 20 tuổi TCL là 1,5% nhưng trên 40
tuổi tỷ lệ này là 7,6% [25]. Theo Trần Thị Thanh Hiền tỷ lệ sẩy thai, thai chết
lưu cao hơn khi tuổi của phụ nữ lúc mang thai >35 tuổi [26]. Điều này chứng
tỏ mang thai quá sớm hoặc quá muộn tỷ lệ TCL đều cao.
- Nghề nghiệp của thai phụ: Những người phụ nữ phải lao động vất vả
đời sống khó khăn, chế độ dinh dưỡng, trình độ văn hóa thấp nguy cơ
TCLTTC cao hơn nhóm phụ nữ là cán bộ công nhân viên. Tác giả Ngô Văn
Tài nghiên cứu 750 trường hợp TCL thấy 33% trường hợp sản phụ là công
nhân viên còn lại 67% là nông dân [18].
- Tiền sử sản khoa: TCL thường gặp ở những người phụ nữ có tiền sử
sản khoa nặng nề như thai chết lưu nhiều lần hoặc sẩy hay nạo phá thai...
Theo tài liệu nghiên cứu của tác giả Nguyễn Huy Bạo trong số 45 bệnh nhân
TCLTTC đã có tiền sử sẩy thai, đẻ non số bị TCLTTC chiếm 22,7% trong
tổng số tương đương với tác giả Nguyễn Thiện Thái[12], [22].
- Số lần mang thai, số lần đẻ: Một số tác giả quan tâm đến mối liên quan
giữa TCL và số lần mang thai, số lần đẻ. Các tác giả đều nhận thấy tỷ lệ đẻ
nhiều lần làm tăng nguy cơ thai chết lưu. Nguyễn Huy Cận tỷ lệ TCL ở các
lần mang thai 2,3 là: 27,72% trong đó tỷ lệ thai chết lưu ở lần mang thai đầu
là 11,24%[13]. Nguyễn Huy Bạo tỷ lệ TCLTTC ở người sinh con rạ cao gấp 2
lần ở người sinh con so[12]. Phan Xuân Khôi cũng thấy tỷ lệ TCLTTC ở
người con rạ là 67,5%, người con so là 32,5%[6]. Điều này cũng phù hợp với
hiểu biết về nguyên nhân TCLTTC do bất đồng nhóm máu mẹ và con, do


10
hồng cầu trong máu con qua hàng rào rau thai sang tuần hoàn mẹ đặc biệt khi
nạo hút thai hoặc sinh đẻ, nên hiệu giá kháng thể ở các lần mang thai sau tăng
hơn những lần mang thai trước và dẫn đến TCLTTC lần này.
1.4.2. Nhóm nguyên nhân do thai.

- Rối loạn NST là nguyên nhân chủ yếu của TCL 3 tháng đầu có thể do
di truyền từ bố mẹ hoặc quá trình đột biến NST trong quá trình phát triển phôi
thai. Trong giai đoạn hợp tử nếu bị chết sớm thường do bất thường về trứng
và tinh trùng [1],[4].
Bất thường về trứng: Khi tuổi mẹ trên 40 tuổi thì nguy cơ phân ly NST ở
giai đoạn phân bào giảm nhiễm càng tăng ở trứng càng tăng. Theo Lê Văn
Thương đã xác định môi trường làm việc tiếp xúc với thuốc trừ sâu gây TCL
chiếm 43% trong tổng số TCL được nghiên cứu[25].
Năm 2000 tác giả Vanroose – G; Dekruif –A đã nghiên cứu sự chết phôi
sớm có thể là 70% do nguyên nhân không nhiễm trùng trong đó chủ yếu là do
nhiễm sắc thể [27].
- Thai dị dạng: Từ khi hợp tử hình thành cho tới khi một đứa trẻ ra đời
trải qua nhiều giai đoạn. Ở mỗi thời điểm, ở mỗi giai đoạn những hợp tử, phôi
thai bất thường sẽ bị chết. Điều đó lý giải rằng cho đến khi hình thành một cá thể
các bất thường đã được loại bỏ và tỷ lệ bất thường ngày càng ít đi (vì bất thường
lớn thì thai đã chết). Thai dị dạng chết lưu chiếm tỷ lệ 8,9% TCLTTC theo Lê
Thiện Thái [22]. Nghiên cứu tại BV PSHN 1980 – 1984 Trần Ngọc Kính và Bùi
Xuân Quyền cho rằng thai dị dạng chết lưu chủ yếu là do: Phù rau thai, vô sọ và
đa dị dạng [11]. Theo Nguyễn Huy Bạo tỷ lệ TCL do đa dị dạng và phù rau thai
7,4%, hội chứng Down 0,5%, thoát vị rốn 0,5%, sứt môi 0,5%[12].
Những loại dị dạng hay dẫn đến TCLTTC:
+ Hệ thần kinh: Não úng thủy, vô sọ, thoát vị não.


11
+ Hệ tiêu hóa: Phù rau thai, tắc tá tràng, tắc ruột …
+ Hệ tiết niệu: Thận đa nang, thiểu sản thận, bất sản thận…
Kozina và Beslev (1966) thấy rằng: Trong số TCLTTC do dị dạng thì
chủ yếu là dị dạng hệ thống thần kinh trung ương[12].
Năm 2000 các tác giả Azaneot –A, Eydoux –P, Vuillard –E cũng đã nêu

ra những khuyết tật hệ tuần hoàn đặc biệt tứ chứng Fallot gây TCL[28].
Ở Việt Nam, tỷ lệ thai chết do dị dạng lớn là 11% (Lê Văn Điển 1960);
8,9% (Lê Thiện Thái) và 2,23% (Phan Xuân Khôi 2002). Tỷ lệ này khác nhau
tùy từng tác giả có thể do khả năng phát hiện dị tật bẩm sinh lúc mang thai,
lúc sẩy, lúc sau đẻ TCL có được mổ tử thi không và trình độ phát hiện của
người mổ tử thi, hoặc dị tật bẩm sinh ở mức độ gen không phát hiện được.
Cho đến nay không dễ dàng xác định được nguyên nhân cụ thể. Bên
cạnh các yếu tố di truyền còn có các yếu tố khác như môi trường, các yếu tố
liên quan đến sự trao đổi chất giữa mẹ và con. Những cơ chế của sự phát triển
bào thai mà con người vẫn chưa hiểu rõ.
- Bất đồng miễn dịch do yếu tố Rh (kháng nguyên trên bề mặt hồng cầu)
và các bệnh gây huyết tán [4].Yếu tố Rh do Landsteiner phát hiện năm 1941
trong loài khỉ Maccaucus Rhesus. Nếu người mẹ có nhóm máu không mang
yếu tố Rh và người bố có nhóm máu Rh(+). Khi mang thai nếu con mang
Rh(+) thì một số lượng hồng cầu có yếu tố Rh(+) vào tuần hoàn mẹ sẽ hình
thành như một kháng nguyên kích thích hệ thống miễn dịch của mẹ nhận
định, nhớ và tạo nên kháng thể kháng lại yếu tố Rh của con. Kháng thể này có
thể qua hàng rào rau thai sang hệ tuần hoàn con và gây nên hiện tượng bất
đồng miễn dịch gây tan máu con và chết. Kháng thể nhiều hay ít do số lượng
Rh của con vào tuần hoàn mẹ và do sự đáp ứng miễn dịch của cơ thể mẹ vì
vậy thai lần đầu có thể sống sót, những thai lần sau có tỷ lệ chết rất cao vì


12
kháng thể chống Rh ở tuần hoàn mẹ tăng gấp bội vì hệ thống miễn dịch dịch
thể khởi phát đồng loạt qua hệ thống tế bào nhớ miễn dịch.Tỷ lệ TCL do bất
đồng yếu tố Rh mẹ và còn phụ thuộc vào chủng tộc. Người da vàng hầu như
đều mang yếu tố Rh(+) nên tỷ lệ TCL do nguyên nhân này ít. Người da trắng
mang yếu tố Rh(+) 85%, Rh(-) là 15%.Tỷ lệ thai chết lưu do yếu tố Rh thay
đổi như sau: 8,8% (Grandin 1953) 9,8% (Laccome B), 12,6% (Barmer)[4].

- Thai bị nhiễm khuẩn: Chiếm tỷ lệ 5,6% tổng số thai chết (Carbidge +cs
1995; Copper RL + cs 1992…). Hình thái hay gặp là nhiễm khuẩn ối và một
số nhiễm khuẩn thai trong tử cung như khuẩn giang mai chiếm tỷ lệ cao thay
đổi theo từng địa phương, từng thời điểm. Tỷ lệ này là 6,3% tổng số thai chết
tại bệnh viện Parkland 1998 [4]. Các tác nhân khác gây thai chết bao gồm:
Cytomegalovirus, ParrovirusB19, Rubella, Viracella, Listerriosis… [29],[30],
[31].
- Thai bị tổn thương: Khi mẹ bị chấn thương nặng ở vùng bụng và vùng
hố chậu thai có thể bị chấn thương nặng do va đập đầu vào thành hố chậu của
mẹ hoặc do xương chậu của mẹ bị gẫy tác động vào đầu thai nhi. Đồng thời
trong trường hợp này thai phụ bị shock chấn thương làm cho thai nhi bị thiếu
oxy dẫn đến làm thai chết trong tử cung (Kisinger và cs 1991, Palmer+cs 1994)
.Thai bị tổn thương sau khi mẹ bị bỏng nặng thường kèm theo giảm khối lượng
tuần hoàn máu, thiếu oxy, nhiễm khuẩn làm thai nhi chết hoặc bị sẩy [4].
- Song thai, đa thai: Một số biến chứng xảy ra khi mang đa thai như kém
phát triển, chèn ép do nguyên nhân cơ học, đặc biệt hội chứng truyền máu từ
thai này sang thai kia làm 1 trong 2 thai chết hoặc cả 2 thai cùng chết với tỷ lệ
5,85% (tác giả Lê Văn Điển, Nguyễn Huy Cận)[13]. Hội chứng này thường
xảy ra trong thai đôi 1 trứng, thai truyền máu sẽ chậm phát triển trong tử cung
và thai được nhận máu bị phù, tỷ lệ tử vong do hội chứng này trong thai đôi
chiếm tỷ lệ 0,6% tổng số.Tỷ lệ tử vong trong nhó m thai phụ đa thai 15,5%


13
tổng số đẻ cao hơn 5,46 lần so với thai thường. Thai chết lưu ở thai phụ đa
thai tỷ lệ chênh lệch trọng lượng 2 thai > 20% và có hội chứng truyền máu thì
tỉ lệ TCL là 48,3%, nếu chênh lệch trọng lượng >30% tỷ lệ này còn tăng hơn
nhiều [4].
- Thai quá ngày sinh: Một số tài liệu giải thích rằng thai già tháng bánh
rau sẽ bị thoái hóa dần sẽ làm giảm lượng cung cấp oxy và chất dinh dưỡng

cho thai nhi trong đó nhu cầu của thai nhi ngày càng tăng. Hậu quả thai nhi
suy dinh dưỡng trường diễn, sụt cân…đặc biệt làm giảm lượng mỡ dưới da và
khối lượng cơ gây suy thai nặng cuối cùng chết trong tử cung.Theo Phan
Trường Duyệt hội chứng Clifford chiếm tỷ lệ 29,3% trong tổng số thai quá
ngày sinh, hội chứng Clifford độ 3 sẽ bị chết lưu 2%[4].
- Thai chậm phát triển trong tử cung: Là một nguyên nhân hay gặp gây
thai chết lưu trong tử cung. Tỷ lệ tử vong 12,1%, gấp 5,5 lần so với thai
thường [4],[24].
1.4.3. Nguyên nhân do phần phụ của thai, tử cung
Nguyên nhân thai chết do phần phụ của thai rau thai, dây rốn, màng ối
chiếm tỷ lệ 15 -25% (theo Alessandri + cs 1992)[4].
- Bánh rau:
 Bánh rau bị xơ hóa (thai già tháng).
 Rau bong non. Rau bong non là nguyên nhân thường gặp và xảy ra ở
bệnh lý rối loạn cao huyết áp trong thai kỳ chiếm 14% (Fretts + Usher 1997).
 U mạch máu màng đệm của bánh rau.
 Nhiễm khuẩn rau.
 Nhồi máu rau (huyết khối mạch máu gai rau).


14
 Rau tiền đạo. Trong rau tiền đạo TCL là 1,7% gấp 2,88 lần so với thai
thường (tác giả Nguyễn Hồng Phương + Phan Trường Duyệt 2001).
 Sự mất cân bằng tuần hoàn tại bánh rau trong thai đôi.
 Cháy máu thai qua mẹ  trường hợp này rau bị rách, nứt và chảy máu
của con vào hồ huyết.
 Bánh rau bị phù
- Dây rau: Tất cả các bất thường của dây rau đều có thể gây TCLTTC:



Dây rau thắt nút.



Dây rau ngắn tuyệt đối.



Dây rau quấn cổ, quấn quanh thân, quấn quanh chi.



Dây rau bị chèn ép đặc biệt trong các trường hợp bị

thiểu ối hoặc dây rau bị xoắn quá mức.


Khối u dây rau, loét dây rốn, tụ máu dây rau…



Phồng động mạch rốn.

Theo Lê Thiện Thái nghiên cứu tại viện BVBMTSS 1982 – 1984 đã xác
định TCL do dây rau 11,2% (dây rau quấn cổ: 16 trường hợp 7,8%, dây rau
xoắn: 6 trường hợp 2,9%, thoát vị rốn: 1 trường hợp 0,5%)[22]. Theo nghiên
cứu của Nguyễn Huy Bạo tại BVBMTSS trong 2 năm 1990 - 1991 đã ghi
nhận 8 trường hợp thai chết lưu do dây rau quấn cổ, 4 trường hợp dây rau thắt
nút [12].
- Nước ối:

+ Thiểu ối gặp trong thận đa nang, thai già tháng. Thiểu ối, cạn ối gây
cản trở tuần hoàn dây rau gây thai chết.


15
+ Đa ối cấp, đa ối mạn hay gặp trong trường hợp mẹ bị đái tháo đường
hoặc thai bị dị dạng đường tiêu hóa.
Theo Đặng Hữu Hiếu nguyên nhân có thể dẫn đến TCL do: Tiểu
đường thai kỳ là 35%, thai dị dạng là 50%, đa thai trong song thai 10-20%,
teo thực quản 100%, các bệnh lý khác không rõ 50% [6].
Theo Nguyễn Huy Cận thống kê tỷ lệ TCL do đa ối chiếm 3,38% và
theo ông nếu gộp TCL do đa ối và TCL do dị dạng thì có tỷ lệ 7,2%. Trong
đó theo tác giả Grandin có tỷ lệ 11% [13].
- Tử cung dị dạng, tử cung nhi tính, tử cung đôi, tử cung kém phát
triển: làm ảnh hưởng đến dinh dưỡng cho thai dẫn đến TCLTTC [3],[4].
1.5. Đặc điểm giải phẫu bệnh của TCLTTC.
Tùy theo thai chết ở giai đoạn nào của bào thai (giai đoạn sắp xếp tổ
chức hay giai đoạn hình thành tổ chức), tùy theo ối vỡ hay còn mà có thể thấy
các hình thái sau:
1.5.1. Thai bị tiêu
Trong 3 tháng đầu thai chứa rất nhiều nước, ít muối khoáng nên khi thai
chết sẽ bị tiêu đi chỉ còn một bọc nước màu trong hoặc hơi vàng.
1.5.2. Thai bị teo đét
Các tổ chức đông đặc chắc lại, da xám nhăn nheo bọc lấy xương, nước ối
sánh lại, vẩn đục và cùng khô đi để lại một lớp sáp trắng bệch xung quanh
thai teo đét do sự co bóp và chèn ép của tử cung.
1.5.3. Thai bị ủng mục (chết lột)
Sau 5 tháng thai bị lưu lớp ngoại bì bị lột dần từ bàn chân, mắt cá chân,
chi dưới, bụng, lưng, chi trên và mặt đầu.
Ngày thứ 3: Lột da bàn chân.

Ngày thứ 4: Lột da chi dưới.


16
Ngày thứ 8: Lột da toàn toàn thân.
Các tổ chức hủy hoại máu tan dần da lớp nội bì bị lột trần thấm
hemoglobin nên có mầu đỏ tím. Các phủ tạng nát rữa gan mủn, óc nhão nát,
các xương sọ chồng lên nhau, da đầu bong, ngực xẹp, bụng ỏng, toàn thân
thai nhũn nát, rau phù mọng xám lại, các màng thai xé nát, dây rau xẹp nhỏ.
Nước ối sánh đặc nâu vẩn đục, các gai rau thoái hóa dần.
1.5.4. Thai bị thối rữa
Nếu ối bị vỡ, tử cung là môi trường vô cùng thuận lợi nên vi khuẩn phát
triển nhanh, các loại vi khuẩn kị khí có thể gây ra hoại thư sinh hơi ở tử cung,
nhiễm khuẩn lan rất nhanh và gây nguy hiểm cho người mẹ [1],[2],[3].
1.6. Chẩn đoán thai chết lưu quý 3 thai kỳ
Triệu chứng lâm sàng của thai chết lưu trong tử cung ở quý 3 của thai kỳ
thường rõ ràng, làm cho bệnh nhân đi khám bệnh ngay và vấn đề chẩn đoán
phân biệt không đặt ra.
1.6.1. Đã có dấu hiệu có thai rõ ràng
- Thấy bụng to lên, thấy hình dáng tử cung.
- Thai máy(cử động), người mẹ đã có thể nhận biết được cử động của
thai.
- Tim thai (+), đã xác định được bằng ống nghe ghỗ hay qua Doppler
hoặc qua siêu âm.
- Đã đi khám xác định có thai, biết được tuổi thai, dự kiến sinh, có lịch
khám thai.
1.6.2. Các triệu chứng thai chết
- Thai hết máy(hết cử động) là triệu chứng chủ quan làm cho người mẹ
chủ động đi khám thai.



17
- Tử cung nhỏ dần, chiều cao tử cung giảm đi do không có sự phát triển
của thai và không có sự sản sinh nước ối do thai chết trong tử cung.
- Vú tiết sữa non.
- Ra máu âm đạo (ít gặp hơn so với thai dưới 20 tuần).
- Tim thai (-), khám lâm sàng xác định bằng ghe tim thai bằng ống nghe
ghỗ hoặc Doppler, hoặc xem Monitoring sản khoa đường ghi tim thai là một
đường thẳng.
- Soi ối: Nước ối màu đen hoặc màu hồng như có mầu máu do thấm
hemoglobin.
- Sinh sợi huyết giảm thường gặp sau khi thai chết 4-6 tuần.
- Siêu âm: Làm với tất cả các thai phụ và nó là tiêu chuẩn vàng để chuẩn
đoán xác định và tiên lượng thai chết lưu. Trên siêu âm ngoài không thấy hoạt
động tim thai còn có thể thấy một số dấu hiệu sau:
+) Dấu hiệu Spalding I (hiện tượng chồng khớp).
+) Dấu hiệu Hallo (2 vòng đầu).
+) Dấu hiệu Robertson (trong tim thai hoặc trong động mạch lớn của thai
có chứa hơi tạo phản xạ đậm âm và không có âm vang phía dưới).
+) Nhìn thấy buồng tim nhưng không thấy tim hoạt động.
+) Nước ối giảm so với tuổi thai [1],[2],[3],[4].
1.7. Tiến triển, biến chứng và xử trí thai chết lưu quý 3 thai kỳ.
1.7.1. Tiến triển
a. Chờ xuất hiện chuyển dạ tự nhiên:
Theo Triconi và Kohn sau khi thai chết từ 2-6 tuần thai được tống ra khỏi
buồng tử cung một cách tự nhiên [32]. Năm 1962 P. Guithem, G. GrynfoGel,
Aprotonnie G [15] cũng có thái độ xử trí TCLTTC là chờ sẩy, đẻ tự nhiên với
2 lý do:



18
+) TCLTTC không gây nhiễm khuẩn cho người mẹ, khi màng ối còn và
nút nhầy cổ tử cung còn nguyên vẹn.
+) Các thủ thuật dễ gây nhiễm khuẩn và có thể gây tổn thương tử cung
(thủng, dính).
Các tác giả: Trần Hán Chúc và Nguyễn Đức Hinh cũng ủng hộ việc chờ
đợi thai chết lưu chuyển dạ tự nhiên [7]. Tác giả Dương Thị Cương cho rằng
phần lớn TCL đều có khả năng chuyển dạ tự nhiên trong 4-5 tuần sau khi chết
[33]. Tỷ lệ sẩy đẻ tự nhiên theo một số tác giả : Lê Văn Điển và Nguyễn Huy
Cận: 33,3%, Lê Thiện Thái: 54,4%, Phan Xuân Khôi:17,6%, Đỗ Thị Huệ:
23,1%.
Năm 1957 nghiên cứu của Triconi và Kohn phần lớn các thai đều sẩy hoặc
đẻ tự nhiên sau khi thai chết trong buồng tử cung. Khoảng 75% TCLTTC sẽ sẩy,
đẻ tự nhiên vào cuối tuần thứ 2 sau khi thai chết và hơn 90% TCLTTC sẩy đẻ tự
nhiên vào cuối tuần thứ 3.Tuổi thai càng lớn thì tỷ lệ chuyển dạ tự nhiên càng
cao. Nhưng mặt khác TCL lưu lại trong tử cung kéo dài có nguy cơ làm giảm
nồng độ sinh sợi huyết trong máu và tăng nguy cơ biến chứng rối loạn đông máu
cho thai phụ đặc biệt khi sẩy đẻ và can thiệp thủ thuật.
Đẻ TCLTTC quý 3 thai kỳ có thể ra với những đặc điểm:
- Cơn co tử cung yếu.
- Đầu ối quả lê thõng trong âm đạo.
- Ngôi thai bình chỉnh không tốt.
- Cổ tử cung xóa mở chậm vì không có áp lực tỳ vào của đầu ối ( đầu ối
quả lê thõng trong âm đạo).
+) Nếu là ngôi dọc thì thai có thể ra như bình thường.


19
+) Nếu là ngôi ngang trường hợp thai nhỏ cũng có thể gập đôi sổ ra
ngoài được, nhưng thai lưu to phải mổ lấy thai.

- Sau khi sổ thai, rau dễ bị sót do rau mủn nát và nhiễm khuẩn nên nhất
thiết phải kiểm soát tử cung đảm bảo buồng tử cung sạch và cho sản phụ dùng
kháng sinh phổ rộng [1],[2].
Các tác giả cũng thông báo nếu thai chết trong tử cung bị lưu lại trong
buồng tử cung lâu quá 5 tuần thì người mẹ có thể bị rối loạn đông máu. Theo
Nguyễn Đức Hinh thời gian thai chết lưu trong tử cung lưu lại dưới 1 tháng
hầu như không có nguy cơ rối loạn đông máu [17].
b. Nếu thai không sẩy hoặc đẻ tự nhiên phải can thiệp để lấy thai ra khỏi
buồng tử cung bằng cách:
+) Gây chuyển dạ bằng sử dụng thuốc.
+) Thậm chí là mổ lấy thai.
1.7.2. Biến chứng
a) Biến chứng rối loạn đông máu: Rối loạn đông máu là một biến chứng
nặng của thai chết lưu trong tử cung.
Khi thai chết bị giữ lại trong tử cung lâu thì người mẹ có thể bị RLĐM.
Do Thromboplastin có trong nước ối, màng ối, tổ chức rau, thai, đi vào tuần
hoàn của người mẹ với liều nhỏ và liên tiếp đặc biệt ồ ạt khi tử cung có cơn
co hoặc có can thiệp thủ thuật vào buồng tử cung dẫn đến sự hoạt hóa quá
trình đông máu gây ra đông máu rải rác trong lòng mạch. ĐMRRTLM có đặc
điểm là quá trình tiêu sinh sợi huyết chiếm ưu thế dẫn đến lâm sàng là chảy
máu, Fibrinogen trong máu tụt thấp hoặc không có. Thông thường quá trình
ĐMRRTLM có thể diễn ra từ từ sau một khoảng thời gian nhiều ngày đến
nhiều tuần. Người ta thấy rằng thời gian lưu lại trong tử cung trên 4 tuần và
thai càng lớn thì nguy cơ rối loạn đông máu càng cao. Biểu hiện lâm sàng là


20
chảy máu từ tử cung, máu không đông. Chảy máu thường xẩy ra sau can thiệp
thủ thuật vài giờ, định lượng Fibrinogen trong máu tụt thấp hoặc không có,
các sản phẩm phân hủy Fibrin tăng cao, plasminogen giảm, giảm hoạt tính

yếu tố Antithrombin III, đôi khi giảm tiểu cầu. Trong thập niên 60 các thầy
thuốc lâm sàng và huyết học “ Hardanway – Koller – Reid – Mackay ” đã
thống nhất về cơ chế rối loạn đông máu trong thai chết lưu trong tử cung làm
2 hội chứng [34]:
- Hội chứng đông máu rải rác trong lòng mạch.
- Hội chứng tiêu sinh sợi huyết nguyên phát.
Cơ chế RLĐM được tóm tắt theo sơ đồ sau [34],[35],[36].
Prothrombin
Thromboplastin

Fibrinogen
Thrombin

Fibrin monomer
Ca++
Fibrin  ĐMRRTLM

Plasminogen (profibrinolysin)
Co cục máu

Hoạt hóa
Kinaza
Plasminogen (fibrinolysin)  TSH thứ phát


21
* Một số yếu tố liên quan đến biến chứng chảy máu ở thai chết lưu
trong tử cung:
- Yếu tố về phía mẹ:
+ Tuổi mẹ: Tuổi mẹ càng lớn nguy cơ chảy máu càng cao. Điều này có

thể phối hợp với một số yếu tố khác như nạo, sẩy, đẻ TCLTTC, con rạ, mổ lấy
thai, áp lực công việc do làm việc căng thẳng.
+ Nghề nghiệp của mẹ: nơi ở, môi trường làm việc bị ô nhiễm và những
thói quen xấu: thuốc lá, cà phê, rượu…ảnh hưởng trực tiếp đến chế độ dinh
dưỡng dẫn đến giảm sức đề kháng -> rối loạn chức năng cơ thể -> tăng nguy
cơ chảy máu.
+ Bệnh của mẹ: Các bệnh của mẹ như tiền sản giật, sản giật, nhiễm
khuẩn, nhiễm virus, thiếu máu, dùng thuốc đều làm rối loạn chức năng cơ thể
dẫn đến quá trình chảy máu nặng nề hơn.
+ Tiền sử sản khoa: Số lần nạo thai, sẩy thai, vết mổ cũ ở tử cung…. đều
có thể liên quan đến rối loạn đông máu và chảy máu vì đều làm tử cung bị tổn
thương. Các quá trình làm thủ thuật có những tai biến như nhiễm khuẩn,
thủng tử cung, dính buồng tử cung…đều làm cơ chế cầm máu ở tử cung bị
ảnh hưởng có thể gây chảy máu nghiêm trọng.
- Yếu tố phía thai: Tuổi thai càng nhỏ, được chẩn đoán sớm ít bị rối loạn
đông máu. Tuổi thai càng lớn phát hiện muộn lưu trong tử cung lâu càng có
nguy cơ RLĐM.
- Chảy máu liên quan đến thời gian thai bị lưu lại trong tử cung:
Nhiều nghiên cứu đều cho thấy thời gian TCL lưu lại trong tử cung liên quan
đến rối loạn đông máu như càng dài nguy cơ rối loạn đông máu càng cao. Tuy
nhiên việc xác định thời gian TCL lưu lại trong tử cung là vô cùng khó khăn
vì không thể phát hiện thời điểm thai chết, mà phần nhiều phát hiện vô tình đi


22
khám thai. Với tuổi thai lớn dựa vào đánh giá chủ quan của thai phụ như
không thấy thai máy hay cử động, tử cung nhỏ đi… không chính xác. Những
trường hợp xác định được thời gian TCL lưu ở tử cung đó là các bệnh nhân
đang được điều trị nội trú: dọa đẻ non, dọa sẩy, bệnh lý của mẹ như tiền sản
giật, sản giật…RLĐM chỉ gặp 25% trong tổng số TCL lưu lại trong tử cung

[1],[2],[3].
-

Chảy máu liên quan đến chỉ số sinh sợi huyết:
Theo Nguyễn Đức Hinh và Ngô Văn Tài sinh sợi huyết dưới 2g/l có nguy

cơ bị chảy máu. Định lượng Fibrinogen là một yếu tố để tiên lượng nguy cơ này.
Đặc biệt nguy cơ này sẽ rất trầm trọng nếu bệnh nhân có bất đồng miễn dịch Rh,
và thời gian TCL lưu lại trong tử cung trên 1 tháng [17],[18].
b) Biến chứng nhiễm khuẩn
Sự ra máu âm đạo ở TCLTTC tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm
nhập, đặc biệt là khi ối vỡ nhiễm khuẩn xuất hiện nhanh gây nên tình trạng
nặng nề cho sản phụ. Thường do các vi khuẩn như: tụ cầu, trực khuẩn,
Ecoli… thậm chí có thể gặp vi khuẩn yếm khí Clostridium perfingens gây
nên. Do vậy trong thai chết lưu khi xử trí phải luôn chú ý không làm ối vỡ
sớm. Sự nhiễm khuẩn còn do can thiệp thủ thuật không tôn trọng nguyên tắc
vô khuẩn, làm sót rau sót màng, cuối cùng là do dùng kháng sinh không đúng
cách. Ngoài ra còn do yếu tố môi trường, thói quen vệ sinh của bệnh nhân
không sạch sẽ.
c) Vỡ tử cung
Xử trí thai chết lưu thai to trên 22 tuần, ngôi thai bất thường, mẹ có vết
mổ ở tử cung hoặc do can thiệp thủ thuật không đủ điều kiện, do dùng thuốc
không đúng quy định và bệnh nhân không được theo dõi sát có thể vỡ tử cung
gây hậu quả nặng nề.


23
d) Tử vong
Bệnh nhân có thể chết do mất máu hoặc do rối loạn đông máu không
được xử trí kịp thời hoặc do nhiễm khuẩn nặng [1],[2],[8],[14],[34].

1.7.3. Xử trí thai chết lưu trong tử cung.
a) Bắt buộc phải điều chỉnh rối loạn đông máu (nếu có):
* Các xét nghiệm bắt buộc phải làm đối với bất kể thai phụ TCL nào:
- Phân tích công thức máu toàn phần: số lượng hồng cầu, bạch cầu, tiểu
cầu….
- Các xét nghiệm đông máu cơ bản: Fibrinogen, Prothrombin, thời gian
PT, ATPP, nhóm máu ABO, Rh.
- Các xét nghiệm sinh hóa: ure, creatinin, glucose, acid uric, LDH,…
* Nếu Fibrinogen, Prothrombin, tiểu cầu bị giảm thấp, phải cung cấp cho
thai phụ bằng Fibrinogen, sản phẩm có Fibrin, máu tươi cùng nhóm, khối tiểu
cầu hoặc yếu tố đông máu, trước khi can thiệp lấy thai ra. Các thuốc có thể sử
dụng:
-

Fibrinogen truyền tĩnh mạch.

-

Máu tươi cùng nhóm.

-

Huyết tương tươi đông lạnh.

-

Các thuốc chống tiêu sinh sợi huyết như (Acid amino

caproic EAC, Transamine…) [1],[2],[3].
b) Các phương pháp xử trí sản khoa TCL trong tử cung ở 3 tháng

cuối.
Nguyên tắc nên cho thai ra càng sớm càng tốt để hạn chế biến chứng
nhưng cũng không nên quá gấp rút vì có thể gây tai biến do thuốc vì phần lớn
thai chết trong tử cung có xuất hiện chuyển dạ tự nhiên.


24
Các phương pháp sản khoa có thể là:
* Phương pháp Stein cải tiến:
- Chỉ định:
+) TCL tử cung có VMC, hoặc con to.
+) Chưa bị vỡ ối
- Phương pháp này hiện nay ít được sử dụng do có nhiều nghiên cứu cho
rằng hiệu quả không khác nhau giữa việc có sử dụng estrogen trước truyền
Oxytocin hay không sử dụng.
- Cách dùng: Thai phụ được uống Estrogen (progynova 2mg x 5
viên/24giờ) x 3 ngày. Từ ngày thứ 4 truyền Oxytocin tĩnh mạch x 3 ngày liên
tiếp (liều tối đa 30 UI/24 giờ, tốc độ truyền: đầu tiên 8 giọt/phút hay 1ml/giờ,
tăng gấp đôi nồng độ Oxytocin sau mỗi 20 phút để đạt 3 cơn cotử cung
trong10 phút). Nếu không có kết quả thì dừng, 7 ngày sau lại tiếp tục truyền
đợt 2 (tính từ lần truyền đầu tiên). Các cơn co tử cung phát động dưới tác
dụng của Oxytocin chậm hơn nhưng có khả năng kiểm soát tốt hơn là các cơn
co phát động bởi Prostaglandin [12],[17],[42].
* Phương pháp truyền oxytocin đơn thuần.
Phương pháp này được áp dụng từ những năm 40. Đây là phương pháp
được áp dụng phổ biến ở viện BVBMTSS trong những năm 90, truyền
Oxytocin mà không có sự chuẩn bị trước.
Cách thực hiện:
Pha 10 UI Oxytocin vào 500ml dung dịch đẳng trương truyền tĩnh mạch
nhỏ giọt, liều tối đa 30 UI/24 giờ. Tốc độ truyền: đầu tiên 8 giọt/phút hay

1ml/giờ, tăng gấp đôi nồng độ sau mỗi 20 phút để đạt 3 cơn co tử cung trong
10 phút. Mỗi đợt dùng 3 ngày liên tiếp, cách nhau 1 tuần cho tới khi thai ra.


25
Oxytocin nguồn gốc tổng hợp vào trong cơ thể hoạt động như hormon tự
nhiên, dễ bị phá hủy bởi enzym peptidase, thời gian tác dụng ngắn, thuốc thải
trừ nhanh qua nước tiểu. Ưu điểm của phương pháp này không phải dùng
estrogen trước truyền Oxytocin nên rút ngắn được thời gian nằm viện và
tương đối an toàn được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
Một tác dụng không mong muốn của Oxytocin hay xẩy ra là gây cơn co
cường tính, tăng trương lực cơ bản của tử cung dẫn đến vỡ tử cung, đờ tử
cung sau đẻ. Nguyên tắc cơ bản khi bắt đầu dùng thường phải dùng liều thấp (
tốc độ ban đầu 8 giọt/phút) sau đó tăng dần đến khi đủ liều gây cơn co tử
cung hữu hiệu có thể tống thai ra. Trong các nghiên cứu khác nhau tỷ lệ thành
công của phương pháp này đạt 80 – 90%, tỷ lệ sót rau, sót thai cần phải nạo
27%. Thời gian sẩy thai dao động từ 8 -13 giờ. Đây là phương pháp được sử
dụng phổ thông và tỏ ra tương đối an toàn do kiểm soát được nồng độ của
thuốc và theo dõi được cơn co tử cung. Chính vì vậy, thai phụ có vết mổ cũ
hoặc thai có trọng lượng to 100% được gây chuyển dạ bằng Oxytocin [6],
[10],[17],[40],[47].


×