Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ và thái độ xử trí thai trên 37 tuần thiểu ối tại bệnh viện phụ sản hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.27 KB, 65 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Thai nhi có thể tồn tại được trong tử cung của sản phụ là nhờ một túi chứa
đầy dung dịch, và dung dịch đó được gọi là nước ối. Nước ối là môi trường giàu
chất dinh dưỡng, có khả năng tái tạo và trao đổi chất, đặc biệt có vai trò quan trọng
đối với sự sống và phát triển của thai nhi trong tử cung. Nó là môi trường gồm 97%
là nước, còn lại là các khoáng chất (NaCl, KCl, muối Ca, Mg, …) và các chất hữu
cơ khác. Bình thường thể tích nước ối khoảng 30ml ở thai 10 tuần, 1.000ml ở thai
34 - 36 tuần, sau đó có khuynh hướng giảm dần còn 600 - 800ml vào tuần thứ 40
hoặc khi chuyển dạ sinh [1].
Ngay từ đầu thai kỳ, nước ối đã có chức năng nuôi dưỡng phôi thai, cân bằng
dịch nội và ngoại bào. Nước ối còn có chức năng bảo vệ, che chở cho thai tránh
những va chạm, sang chấn, đặc biệt là bảo đảm môi trường vô trùng cho thai nhi
trong bọc ối. Trong lúc chuyển dạ, nước ối tiếp tục bảo vệ thai nhi khỏi những sang
chấn của cơn co tử cung và nhiễm khuẩn. Sau khi vỡ ối, tính nhờn của nước ối bôi
trơn đường sinh dục của mẹ giúp thai nhi được sinh ra dễ hơn. Do vậy mọi bất
thường về nước ối đều làm tăng cao tỷ lệ tử vong và tỷ lệ mắc bệnh chu sinh [2].
Trong suốt thai kỳ, có nhiều biến chứng có thể xảy ra liên qua đến nước ối
như: đa ối, thiểu ối, rỉ ối... Trong đó, tình trạng thiểu ối rất hay gặp. Thiểu ối xảy ra
trong giai đoạn sớm của thai kỳ thường có tiên lượng xấu, trong khi thiểu ối ở thai
quá ngày sinh thường có tiên lượng tốt hơn. Thiểu ối ở giai đoạn ba tháng đầu có
nhiều nguy cơ sảy thai, thiểu ối trong ba tháng giữa nguy cơ dị tật thai chiếm tỷ lệ
cao, thiểu ối trong ba tháng cuối của thai kỳ khả năng thai nhi suy dinh dưỡng.
Ngoài ra thiểu ối làm tăng nguy cơ suy thai và đẻ khó vì chèn ép dây rốn và thai khó
bình chỉnh tốt trong khi chuyển dạ. Để đánh giá lượng nước ối, các thầy thuốc sản
khoa đã áp dụng nhiều kỹ thuật khác nhau nhưng ngày nay siêu âm là phương pháp
thông dụng và dễ dàng nhất được lựa chọn bởi vì sử dụng phương pháp này không
gây nguy hại cho các mô, không gây chảy máu, cho phép nhìn thấy rõ thai và các
phần phụ của thai, không đau và có thể thực hiện nhiều lần trên một người…



2

Một số nghiên cứu thấy rằng tỷ lệ tử vong chu sinh tăng là do hậu quả của
thiểu ối dẫn đến cuống rốn bị chèn ép gây suy thai trước hay trong chuyển dạ làm
giảm sự trao đổi chất dinh dưỡng, oxy giữa mẹ và thai gây suy thai [3], [4]. TTNO
giảm dần đi khi thai đủ tháng, đặc biệt giảm nhiều khi thai già tháng [5]. Charles và
cộng sự đã chứng minh TTNO giảm trung bình 35% khi thai 40- 41 tuần. Beischer
và cộng sự đã báo cáo TTNO giảm 31% (150ml) giữa tuần 42-43, giảm 51%
(170ml) giữa tuần 43-44 [6].
Chính vì những nguy cơ có thể xảy ra cho thai do tình trạng thiểu ối gây nên,
đề tài tiến hành “Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ và thái độ xử trí thai trên 37
tuần thiểu ối tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội” được tiến hành với mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ thiểu ối và một số yếu tố nguy cơ gây thiểu ối ở thai
trên 37 tuần tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội từ tháng 01/2015 đến
06/2015.
2. Nhận xét thái độ xử trí với thai trên 37 tuần thiểu ối tại Bệnh viện
Phụ Sản Hà Nội.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. SINH LÝ NƯỚC ỐI
1.1.1. Nguồn gốc nước ối
Buồng ối là khoang đầu tiên xuất hiện trong phôi [7]. Phelan cho rằng buồng
ối xuất hiện ở ngày thứ 11 hay 12 sau khi thụ tinh [8]. Lúc này phôi là một đĩa tròn
dẹt gồm hai lớp và được gọi là đĩa phôi lưỡng bì [9]. Khi hình thành, buồng ối chứa

đầy dịch trong mà nguồn gốc có thể là từ huyết thanh người mẹ, đó là nước ối [8].
1.1.2. Sự luân chuyển nước ối
Nước ối luôn luôn có sự luân chuyển đi vào và đi ra khỏi buồng ối [10].
Tham gia tạo nước ối có hai nguồn chính là nước tiểu của thai và dịch tiết của phổi
thai, ngoài ra có một phần từ da thai nhi. Nước ối tiêu đi theo hai con đường chính
là thai nuốt nước ối và hấp thụ qua màng ối. Ngoài ra một phần nước ối thoát qua
màng ối và dây rốn. Nguồn gốc tạo nước ối và tiêu nước ối thay đổi theo tuổi thai.
1.1.2.1. Các con đường tạo nước ối
Nguồn gốc từ thai nhi
 Thận thai nhi
Nước tiểu được nhận thấy ở bàng quang của thai nhi vào đầu tuần thứ 11, tốc
độ sản xuất nước tiểu hàng giờ của thai nhi tăng dần theo tuổi thai. Theo
Abramovich, hiện tượng tạo nước tiểu có từ sớm, khi thai 10 tuần mỗi giờ đã sinh ra
0,6ml đến 0,7ml nước tiểu [11]. Khi thai được 30 tuần, mỗi giờ sinh 9,6ml nước
tiểu. Khi thai 40 tuần lượng nước tiểu tăng lên 27,3ml/giờ với tổng lượng là
470ml/24 giờ và giảm xuống một chút khi thai 42 tuần (24ml/giờ). Tóm lại ở nửa
sau thời kỳ thai nghén, mỗi ngày thai sản xuất lượng nước tiểu bằng khoảng từ 20%
đến 30% trọng lượng của thai [12].
Nồng độ urê, acid uric, creatinin trong nước ối tăng dần theo sự trưởng thành
của thận thai khiến nước ối có thành phần tương tự như dịch gian bào [12].


4

 Phổi thai nhi
Khái niệm phổi thai chế tiết dịch mới được biết và còn nhiều ý kiến chưa
thống nhất giữa các nhà khoa học [13]. Thực nghiệm buộc khí quản thai động vật có
vú dẫn đến hiện tượng phổi thai bị giãn to quá mức. Phổi có hoạt động chế tiết
mạnh hơn nhiều so với hấp thu, như vậy phổi đã tham gia vào quá trình tạo nước ối.
Phổi thai chỉ tham gia tạo nước ối từ sau 20 tuần. Mỗi ngày phổi thai chế tiết một

lượng dịch bằng khoảng 10% trọng lượng của thai. Dưới 1% lượng dịch chế tiết của
phổi cần thiết cho quá trình giãn nở phổi [13]. Phần dịch phổi còn lại bị đẩy ra khỏi
phổi hoặc tham gia tạo thành nước ối hoặc bị thai nuốt vào dịch dạ dày. Năm 1994,
Brace và cộng sự nghiên cứu trên cừu thấy 50% thể tích dịch tiết của phổi (tương
đương 5% trọng lượng của thai) được thai nuốt vào dạ dày, phần còn lại tham gia
tạo nước ối. Phổi vừa tham gia vào tạo nước ối vừa hấp thu nước ối. Hiện nay chưa
có khả năng đánh giá TTNO được hấp thu qua phổi [14].
 Da thai nhi
- 20 tuần đầu tiên: Trong giai đoạn sớm thai kỳ, da thai nhi có liên quan đến sự
tạo thành nước ối và khi chất gây xuất hiện từ tuần thứ 20-28 thai kỳ thì đường tạo
ối này mới chấm dứt. Da thai có cấu trúc đơn giản chỉ có 4 lớp tế bào. Trên thực
nghiệm, Abramovich và cộng sự đã phát hiện thấy da thai hoàn toàn cho nước, natri,
chlo, urê và creatinin tự do đi qua. Sự vận chuyển này diễn ra theo cơ chế thụ động
[11].
- 20 tuần tiếp theo: da thai sừng hoá và dày lên đã làm tắc tất cả hệ thống này.
Tính thấm của da thai hoàn toàn biến mất. Người ta không xác định được lượng
dịch trao đổi qua da thai. Lúc này tuyến mồ hôi tham gia tạo nước ối với một lượng
đáng kể [11].
Nguồn gốc từ màng ối
Màng ối bao phủ bánh nhau dây rốn, cũng tiết ra nước ối.
Nguồn gốc từ máu mẹ
Có sự trao đổi qua màng ối của các chất giữa máu mẹ và nước ối.


5

1.1.2.2. Các con đường tiêu nước ối
 Cơ quan tiêu hoá
Hiện tượng thai uống nước ối vào dạ dày xuất hiện từ sau tuần thứ 14 được
Pritchard mô tả từ năm 1965 [15]. Theo ông quan sát mỗi ngày thai uống 155ml/kg

trọng lượng của thai (72 – 262ml/kg), như vậy mỗi ngày thai uống từ 210 đến
760ml nước ối (trung bình là 450ml). Theo Abramovich nghiên cứu thấy mỗi ngày
thai uống 18-50ml/kg trọng lượng của thai ở tuần thứ 18, đến khi đủ tháng uống
68ml/kg trọng lượng thai [11]. Mann và cộng sự đã chứng minh TTNO được thai
uống vào tăng dần theo tuổi thai, đạt mức tối đa là 1006ml/ngày khi thai 40 tuần
[54]. Năm 1994, Brace và cộng sự nghiên cứu thấy rằng mức độ uống nước ối khác
nhau tuỳ theo từng điều kiện [14]:
+ Thai bình thường uống 264 ± 43 ml/24h/kg trọng lượng thai.
+ Thai thiếu oxy uống 92 ± 23ml/24h/kg.
+ Thai thiếu oxy đã hồi phục uống 271 ± 24ml/24h/kg.
Tóm lại mỗi ngày thai uống lượng nước ối nằng khoảng 20% đến 25% trọng
lượng của thai, ít hơn so với lượng nước tiểu do thai bài tiết ra [13].
 Màng ối
Màng ối là màng xốp có tính chất bán thấm đối với nước, các chất điện giải,
urê, glucose, creatinin, protein. Nước ối đi qua màng ối theo cơ chế thụ động, với
chiều từ buồng ối vào cơ thể mẹ lưu lượng khoảng 100ml/24giờ [16].
 Dây rốn
Bao phủ dây rốn là một lớp tế bào biểu mô có ít nhung mao ở cực ngọn, liên
kết với nhau bởi các cầu nối chắc. Đến nửa sau của thời kỳ thai nghén, số lượng vi
nhung mao của tế bào tăng dần lên, các cầu nối gian bào không đều, đôi khi không
còn. Abramovich chứng minh hiện tượng thấm nước và các chất sinh học của dây
rốn chỉ thực sự bắt đầu diễn ra từ tuần thứ 18 [11]. Có tác giả nghiên cứu chứng
minh thai đủ tháng có 50ml nước được trao đổi qua dây rốn trong 24 giờ. Hiện
tượng trao đổi nước và chất diễn ra ở đoạn dây rốn gần thai nhiều hơn ở đoạn dây
rốn gần bánh rau [17].
Mann và cộng sự chứng minh con đường trao đổi nước ối qua da thai, dây
rốn, màng ối phần bánh rau tăng dần theo tuổi thai và đạt 393ml/ngày khi thai 40
tuần [18].



6

1.1.3. Thể tích nước ối
Thể tích nước ối tăng một cách nhanh chóng từ thể tích trung bình 60ml ở
tuần thứ 12 lên đến 980ml ở tuần thứ 36 [1]. Sau đó nước ối giảm dần khi gần đến
ngày sinh [19]. Ở tuần 40 lượng nước ối trung bình 800ml, sau tuần 40 lượng nước
ối là 250ml [20], [9], [21].

Hình 1.1. Thể tích nước ối qua các thời kỳ
Theo Queenan J.T, Whitfielf C.R(1972), lượng nước ối thay đổi theo tuổi
thai như sau [1]:
Tuổi thai (tuần)
7
10
12
14
16
20
25 – 26
32 – 36
40
42
1.1.4. Tính chất nước ối [3], [22]
1.1.4.1. Lý tính

TTNO (ml)
20
30
60
100

140
350
670
980
840
540
(Trích từ tài liệu tham khảo số [1])


7

-

Màu sắc: nước ối màu trắng trong những tháng đầu, vào gần cuối của thời kỳ
thai nghén trở nên hơi đục do lẫn chất gây, tế bào thượng bì, long, chất bã, tế
bào đường tiết niệu, tế bào âm đạo.

-

Hơi nhớt.

-

Mùi tanh nồng.

-

Tỷ trọng 1001.

-


Hơi kiềm: pH từ 7,1 – 7,3.

1.1.4.2. Hoá tính
-

97% là nước, 2-3% là muối khoáng và chất hoà tan.

-

Chất vô cơ: Na+, K+, Mg++, Ca++.

-

Chất hữu cơ: Protein, glucose, lipid, các hormone và các chất màu.

1.2. THIỂU ỐI VÀ TỶ LỆ THIỂU ỐI
1.2.1. Thiểu ối
Định nghĩa thiểu ối chưa hoàn toàn được thống nhất, nhiều giới hạn thiểu ối
khác nhau tuỳ theo từng tác giả. Theo Phan Trường Duyệt và Nguyễn Đức Hinh,
thiểu ối là lượng nước ối giảm so với lượng nước ối bình thường tính theo tuổi thai
và ở dưới đường percentile thứ 5 [23], [24]. Theo tác giả Nguyễn Đức Hinh, CSNO
theo nhóm tuổi thai (mm) như sau [23]:
Tuổi thai

5%

10%

50%


90%

95%

Thai 38 – 42 tuần

68

81

113

142

148

Thai 28 – 42 tuần

80

88

125

169

175

Theo Phelan (1987), thiểu ối là khi CSNO đo được dưới 50mm [25]. Theo

Magann, thiểu ối là khi TTNO dưới 500ml [26]. Với thai từ 37 – 41 tuần, thiểu ối là
khi CSNO dưới đường percentile thứ 5, các giá trị mà Magann đưa ra cho tuổi thai
này lần lượt 5%, 50%, 90% là: 42mm, 94mm và 149mm [27]. Theo Poissonnier
thiểu ối là khi TTNO dưới 200ml [26].


8

1.2.2. Tỷ lệ thiểu ối
Tỷ lệ thiểu ối thay đổi tuỳ theo từng tác giả, tiêu chuẩn chẩn đoán, đối tượng
nghiên cứu, phương pháp xác định thăm dò.
Theo Hill và cộng sự (1983) thăm dò cho 1408 thai phụ thấy tỷ lệ thiểu ối là
0,43% [28].
Theo Shaw và cộng sự (1997) thì tỷ lệ này là 10% [83]. Theo Divon (1995)
khám cho 139 thai phụ có tuổi thai trên 41 tuần, với tiêu chuẩn chẩn đoán thiểu ối
khi đo CSNO ≤ 50mm, thì tỷ lệ này cũng là 10% [29].
Theo Phan Trường Duyệt (1999) và Richard (1991), tỷ lệ thiểu ối từ 0,4 –
3,9% [20], [9]. Theo Triệu Thuý Hường (2002), tỷ lệ thiểu ối là 4,07% [30].
1.3. CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY THIỂU ỐI
1.3.1. Nguyên nhân do thai
Ở mọi giai đoạn của thai kỳ, nguyên nhân thường gặp nhất của thiểu ối là vỡ
ối sớm. Thường có một số bất thường bẩm sinh của thai kỳ kèm theo thiểu ối. Các
bất thường của thai kết hợp với thiểu ối hay gặp là:
1.3.1.1. Hệ thần kinh
Mặc dù các bất thường chính của hệ thần kinh có thể có liên quan tới lượng
nước ối bình thường và sự tăng lượng nước ối, nhưng chỉ trong một số trường hợp
là có liên quan tới thiểu ối.
-

Thai vô sọ.


-

Não úng thuỷ.

-

Thoát vị não màng não.

1.3.1.2. Hệ tiêu hoá
Hiếm gặp, thường thì tắc nghẽn đường tiêu hoá là nguyên nhân gây đa ối.
-

Thoát vị rốn.

-

Dò thực quản - khí quản.

-

Teo hành tá tràng

1.3.1.3. Hệ hô hấp
-

Giảm sản phổi.


9


1.3.1.4. Hệ tiết niệu
-

Tắc nghẽn đường tiết niệu hoặc không có thận. Các bệnh lý thường gặp là
bất sản thận, nghịch sản thận, thận đa nang.

-

Bất thường về bộ nhiễm sắc thể: thường có bất thường về hệ tiết niệu kèm
theo thai kém phát triển trong tử cung và có thể có bất thường khác về mặt
hình thái của thai nhi. Thường gặp là ba nhiễm sắc thể 13, 18, 21 hay hội
chứng Turner [31].

1.3.1.5. Suy thai trường diễn
Nguyên nhân đầu tiên phải nghĩ đến là suy tuần hoàn tử cung rau. Trong
trường hợp thai bị thiếu máu sẽ dẫn đến hiện tượng phân phối lại tuần hoàn của
thai: não và tim được ưu tiên cung cấp máu, các cơ quan khác bị giảm tưới máu (da,
phổi…) và sự bài niệu bị giảm mạnh [31].
Trong suy thai trường diễn, biểu hiện kèm theo thiểu ối là thai kém phát triển
trong tử cung. Nguyên nhân của thai kém phát triển trong tử cung kèm theo thiểu ối
là [31]:
-

Suy tuần hoàn tử cung rau: trong trường hợp mẹ bị tăng huyết áp hay tiền sản
giật nặng, dị dạng hoặc thiểu sản tử cung, u mạch màng đệm rau.

-

Đa dị tật, bất thường bộ nhiễm sắc thể của thai, nhiễm khuẩn mẹ và thai.


-

Hội chứng cho nhận trong song thai.

1.3.1.6. Thai quá ngày sinh
Hậu quả của thai quá ngày sinh (> 42 tuần) là tỉ lệ mắc bệnh và tỉ lệ tử vong
chu sinh cao 20% các trường hợp.
Thiểu ối thường xuất hiện trong thai già tháng (khoảng 82% trường hợp) cần
phải theo dõi sát [32]. Phelan cho rằng TTNO giảm 10% mỗi tuần khi tuổi thai từ
37 đến 41 tuần và giảm 33% khi thai già [9].
Hầu hết các tác giả đều đồng ý hiện tượng giảm TTNO trong thai già tháng
có liên quan đến sản xuất nước tiểu của thai. Trong thai già thiểu ối được giải thích
là do bánh rau có hiện tượng lão hoá làm giảm khả năng cung cấp oxy và chất dinh
dưỡng cho thai trong khi nhu cầu của thai ngày càng tăng, thai buộc phải thích nghi


10

với tình trạng thiếu oxy bằng cách phân bố lại tuần hoàn, ưu tiên cung cấp máu cho
tim và não, giảm cấp máu đến các cơ quan khác trong đó có hai thận dẫn đến giảm
TTNO, các cơ quan khác như da, các phủ tạng khác cũng thiếu oxy và chất dinh
dưỡng [33]. Hậu quả là suy thai trường diễn, giảm cân, đặc biệt là giảm lượng mỡ
dưới da và khối lượng cơ. Vì vậy thai sinh ra có biểu hiện của hội chứng thai già
tháng - Hội chứng Clifford. Trường hợp nặng thai có thể chết trong tử cung trước
hoặc trong chuyển dạ hoặc khi sinh ra bị ngạt với điểm số Apgar thấp, hệ thần kinh
trung ương bị tổn thương [3], [4], [34], [35].
1.3.2. Do mẹ dùng một số thuốc điều trị trong quá trình mang thai
Hai nhóm thuốc chính được xác định là có liên quan đến giảm thể tích dịch ối
là nhóm thuốc ức chế men chuyển (ACE) và nhóm ức chế tăng tổng hợp

prostaglandin. Indomethacin (thuộc nhóm ức chế tổng hợp prostaglandin được sử
dụng trong điều trị doạ đẻ non, đa ối, viêm đa khớp, bệnh tự miễn làm giảm thể tích
dịch ối dẫn đến thiểu ối [36].
Một số tác giả khác nghiên cứu nhóm thuốc ức chế men chuyển trong điều trị
cao huyết áp đơn thuần hay trong tiền sản giật thì thấy có nhiều biến chứng trong đó
có rối loạn chức năng thận thai và thiểu ối [37].
1.3.3. Do vỡ màng ối hoặc rỉ ối
1.3.4. Không rõ nguyên nhân
Chiếm khoảng 30% các trường hợp thiểu ối [31].
1.4. HẬU QUẢ CỦA THIỂU ỐI
Thiểu ối gây biến chứng từ 0,5 – 5% và cũng liên quan đến tăng tỷ lệ bệnh
tật, tỷ lệ tử vong chu sinh, tăng tỷ lệ đẻ ngôi ngược và mổ lấy thai cho mẹ [38].
Theo Stoll (1990) tỷ lệ biến chứng của thiểu ối là 1,9% và tỷ lệ này ở Casey
(2000) là 2,3% và Chandra (1999) là 4 – 5% [16],[39], [40].
1.4.1. Với con
1.4.1.1. Phân xu trong nước ối


11

Khi thể tích ối giảm dây rốn sẽ bị chèn ép, hoặc giảm chức năng bánh rau và
làm giảm cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho thai, khi oxy trong cung cấp cho
thai giảm kéo dài hoặc giảm quá mức dẫn đến tình trạng phân bố lại tuần hoàn thai
nhi nhằm cung cấp oxy cho các cơ quan của thai: tim và não là các cơ quan trọng
yếu cần được ưu tiên cung cấp oxy, do đó giảm cung cấp cho da, ruột dẫn đến tăng
nhu động ruột gây tống phân xu ra buồng ối và nhuộm xanh nước ối.
Tỷ lệ phân xu trong nước ối ở thai phụ thiểu ối có tỷ lệ khá cao qua nghiên
cứu của một số tác giả. Theo Mercer và cộng sự (1984) thấy 17% thai phụ thiểu ối
đã có phân xu trong nước ối và Lin và cộng sự (1990) tỷ lệ phân xu trong nước ối ở
thai phụ thiểu ối là 25% [41], [42]. Golan và cộng sự (1994) có 29,1% thai phụ

thiểu ối có phân xu trong nước ối [43].
Theo Nguyễn Duy Tài nghiên cứu 100 thai phụ thiểu ối tại bệnh viện Hùng
Vương từ 3/2001 đến tháng 8/2001 thấy tỷ lệ phân xu trong nước ối là 12 % [44].
Curdy (1993) đã tổng kết kết quả nghiên cứu của một số tác giả và tỷ lệ phân xu
trong nước ối của thai phụ thiểu ối như sau [36]:
Sarno

28%

Robson

36%

Phelan

71%

Rutherford

56%.

1.4.1.2. Sự giảm nhịp tim thai xuất hiện từ 10 – 20% số thai phụ bị thiểu ối [31].
1.4.1.3. Hội chứng Clifford
Khi thể tích ối giảm kéo dài dẫn đến tình trạng phân phối lại tuần hoàn như
đã trình bày ở trên da, ruột và các cơ quan khác giảm tưới máu, các chất dinh dưỡng
và oxy được cung cấp không đầy đủ nên da có hiện tượng bong, teo lớp mỡ dưới da,
giảm khối lượng cơ [3], [4], [34], [35],[45].
Năm 1954 Clifford đã miêu tả thai già tháng như sau [45]:
-


Da sơ sinh mất lớp chất gây, lông tơ. Da khô tựa như bằng giấy.

-

Lớp mỡ dưới da giảm làm da mặt, da bụng, mông nhăn nheo.

-

Bong da hay chợt da.


12

-

Tóc dài, móng dài.

-

Xương sọ và bộ xương chắc.

-

Vẻ mặt ông cụ non, mắt mở to.

-

Da, móng tay, màng rau, bánh rau, cuống rốn nhuộm phân su.
Clifford đã chia Hội chứng thai già tháng thành 3 mức độ [45]:


 Độ 1:
-

Chưa biểu hiện các triệu chứng suy hô hấp và tuần hoàn, nhịp thở và nhịp
tim bình thường, nước ối có màu xanh.

 Độ 2:
-

Thai có biểu hiện các triệu chứng của Clifford độ 1 kèm theo với mức ối,
cuống rốn nhuốm màu xanh bẩn của phân su.

-

Có dấu hiệu suy thai, rối loạn hô hấp, nhịp tim thai xuất hiện Dip II.

 Độ 3:
-

Có các triệu chứng của Clifford độ 2 nhưng nặng hơn.

-

Màng ối, cuống rốn, da thai vàng úa.

-

Suy hô hấp nặng.

-


Nhịp thai chậm, xuất hiện Dip II liên tục.

-

Cứng khớp, co giật và có thể chết sau đẻ.

Chỉ số Apgar của trẻ sơ sinh ở phút thứ 5 sau đẻ < 7 điểm
Tình trạng trẻ sơ sinh ngạt khi đẻ ở thai phụ thiểu ối cao hơn so với nhóm
chứng một cách có ý nghĩa, theo Chauhan và cộng sự (1999) chỉ số Apgar ở phút
thứ 5 < 7 điểm của những trẻ được sinh ra từ người mẹ có thiểu ối là 5,2%, còn theo
Lin và cộng sự (1990) thì tỷ lệ này là 13% và Golan và cộng sự (1994) là 11,5%
[42], [43],[46]. Theo Bastid và cộng sự (1984) chỉ số Apgar ở phút thứ 5 < 7 của
những trẻ được sinh ra từ người mẹ thiểu ối cao hơn nhiều so với nhóm chứng
(15,2% và 4%) [47].
Mercer và cộng sự (1990) nghiên cứu chỉ số Apgar ở phút nhất và ở phút thứ
5 của những trẻ sinh ra từ người mẹ thiểu ối thu được kết quả sau [41]:


13

Mức độ
thiểu ối
Trung bình
Nặng

Chỉ số Apgar
Ở phút thứ nhất
0-3
4-6

7 - 10
7%
10,2%
62%
3,2%
5,1%
12,6%

Ở phút thứ 5
0-3
4-6
7 - 10
1,85%
3,26%
74,4%
2,8%
0,46%
17,7%

Curdy (1993) tổng kết nghiên cứu của một số tác giả thấy [36]:
Tác giả
Sarno
Robson
Phelan
Rutherford

Chỉ số Apgar < 7 điểm
Ở phút thứ nhất
Ở phút thứ 5
13%

1%
36%
0%
86%
29%
30%
11%

1.4.1.4. Trẻ sơ sinh bị bệnh
Chamberlin và cộng sự (1984) đã báo cáo tỷ lệ trẻ sơ sinh bị bệnh ở nhóm
thiểu ối cao hơn nhóm chứng một cách có ý nghĩa [38].
Thiểu ối trung bình tỷ lệ trẻ sơ sinh bị bệnh là 2,5%, thiểu ối nặng là 9,4%,
trong khi đó nhóm chứng tỷ lệ trẻ sơ sinh bị bệnh chỉ chiếm 0,54% [38].
Mercer và cộng sự (1984) thấy 7% thiểu ối có thai bất thường và Golan và
cộng sự (1994) 11% thai bất thường ở thai phụ thiểu ối [41], [43].
Trong một số nghiên cứu gần đây của các tác giả Casey (2000) thì tỷ lệ trẻ sơ
sinh bị bệnh của nhóm thiểu ối là 7%, trong khi đó nhóm chứng chỉ là 2%, sự khác
biệt này có ý nghĩa với p<0,001 [40].
Theo Fournet trong các biến chứng của trẻ sơ sinh thì thiểu sản phổi là nặng
nhất. Sinh lý bệnh học rất phức tạp và sự thiểu sản phổi liên quan đến nhiều hiện
tượng: áp lực ngoài lồng ngực, cử động hô hấp của thai kém và gradient giữa áp lực
trong lòng các phế nang và khoang ối. Khả năng xảy ra thiểu sản phổi phụ thuộc
nhiều yếu tố [31]:
-

Thời điểm xuất hiện thiểu ối : nguy hiểm nhất là vào giai đoạn từ 17 đến 26
tuần vì giai đoạn này là giai đoạn hình thành và phát triển các phế nang.

-


Thời gian kéo dài của thiểu ối: nhất là kéo dài trên 1 tuần.

-

Mức độ của trầm trọng của thiểu ối.


14

Tiên lượng cho các trường hợp này thường rất xấu mặc dù đứa trẻ sống và
thường để lại di chứng.
Ngoài ra có thể gặp các bất thường do sự nén cơ học: khoèo chân, tay, cứng
khớp...
1.4.1.5. Tử vong chu sinh
Tỷ lệ tử vong chu sinh ở những trẻ sinh ra từ thai phụ thiểu ối cao hơn so với
nhóm chứng một cách có ý nghĩa, theo Bastid và cộng sự (1986) tỷ lệ tử vong chu
sinh ở nhóm thiểu ối là 132,7/1000 và ở nhóm chứng là 14,2/1000 [47]. Theo
Fournet, tỷ lệ này là 10% [31].
Theo nghiên cứu của Casey (2000) tỷ lệ tử vong ngay sau đẻ của nhóm thiểu
ối là 1,4%, của nhóm chứng là 0,3% với p< 0,03, tỷ lệ tử vong chu sinh của nhóm
thiểu ối là 5 %, nhóm chứng là 3% với p < 0,001 [40].
Chamberlain và cộng sự (1984) nghiên cứu thấy tỷ lệ tử vong ngay sau đẻ và
tử vong chu sinh cũng cao hơn nhóm chứng nhiều [38].
Mức độ thiểu ối
Trung bình
Nặng
Nhóm ối bình thường
Tử vong chu sinh

Tử vong ngay sau đẻ

25,2/1000
93,8/1000
0,85/1000

Mức độ thiểu ối
Trung bình
Nặng
Nhóm ối bình thường

Tử vong chu sinh
56,6/1000
178,5/1000
4,65/1000

Curdy (1993) tỷ lệ tử vong chu sinh ở nhóm trẻ sinh ra từ thai phụ thiểu ối là
4 – 14% [36].
Mercer và cộng sự (1984) nghiên cứu thấy tỷ lệ tử vong chu sinh ở nhóm
bệnh cao gấp 6 lần so với nhóm chứng [60]. Theo Wolff (1994) 7,2% tử vong chu
sinh ở thai phụ thiểu ối, còn theo Golan (1994) là 10,7% [43], [48].
Christianson (1999) nghiên cứu biến chứng của thiểu ối mãn tính, ông thấy
ngoài các biến chứng với thai nhi có chỉ số Apgar thấp, sơ sinh bị bệnh, tử vong chu
sinh cao, còn một số biến chứng khác tuy không phải là quan trọng nhất nhưng lại


15

thường gặp, đó là thiểu ối làm cho buồng tử cung bị hẹp lại, tử cung co lại gây ra
chèn ép và biến dạng chi, ông thấy rằng nếu thiểu ối kéo dài 2 tuần thì 57% thai nhi
bị chèn ép, các biến dạng xảy ra ở tay và chân gây ra tay và chân bị khoèo sau khi
sinh [49].

Triệu Thuý Hường (2002) nghiên cứu thấy tỷ lệ tử vong sau đẻ ở những thai
phụ bị thiểu ối có tuổi thai từ 28 tuần trở lên là 8,4%o, trong đó 3,72%o tử vong sau
đẻ không phải do thai bị dị dạng [30].
1.4.2. Với mẹ
1.4.2.1. Tăng tỷ lệ đẻ ngôi ngược do thiểu ối làm cho ngôi bình chỉnh không tốt
Mercer và cộng sự (1984) thiểu ối tăng tỷ lệ đẻ ngôi ngược từ 8 – 13% [41].
Golan và cộng sự (1994) 17% thai phụ thiểu ối đẻ ngôi ngược [43].
1.4.2.2. Tăng tỷ lệ mổ lấy thai
Conway và cộng sự (1998) thấy tỷ lệ mổ lấy thai ở nhóm thiểu ối cao hơn so
với nhóm chứng một cách có ý nghĩa (15,8% và 6,6%) [50]. Golan và cộng sự
(1994) là 32,5% [43].
Corosu và cộng sự (1999) tỷ lệ mổ lấy thai ở nhóm thiểu ối vì thai có nguy
cơ suy là 66% [51]. Casey (1998) tỷ lệ mổ lấy thai vì thai suy là 6% [40].
Triệu Thuý Hường cũng nghiên cứu thấy tỷ lệ mổ lấy thai của nhóm thai thiểu
ối cao hơn so với nhóm không thiểu ối một cách có ý nghĩa (75,7% và 28,7%) [30].
Trong nghiên cứu của Nguyễn Duy Tài về thai thiểu ối thì tỷ lệ mổ lấy thai là
45%, trong đó mổ vì thai suy chiếm 89% [44].
Nghiên cứu của Huỳnh Thị Bích Ngọc (2001) trên các TQNS thấy tỷ lệ mổ
lấy thai do thiểu ối là 20,5% [52].
1.5. CHẨN ĐOÁN THIỂU ỐI
1.5.1. Lâm sàng [9], [23]
-

Chiều cao tử cung thường nhỏ hơn so với tuổi thai rõ, số đo thường thấp và
có chiều hướng đi xuống so với đường chuẩn.

-

Thai cử động kém.



16

-

Khám dễ sờ thấy các phần thai, khi thực hiện 4 thủ thuật của Leopol có cảm
giác thấy rõ các phần thai nằm sát dưới bàn tay mà không cảm thấy có nước
ối, khó làm động tác di động đầu thai nhi.

1.5.2. Phương pháp siêu âm để đánh giá thể tích nước ối
Khi siêu âm ra đời, chẩn đoán siêu âm đánh giá TTNO đã thay thế cho mọi
kỹ thuật trước đó. Có nhiều phương pháp đo TTNO.
1.5.3. Phương pháp đo độ sâu tối đa nước ối
Năm 1981, tác giả Hill, Manning và Platt đã đề xuất phương pháp đo
ĐSTĐNO [53]. Ban đầu ĐSTĐNO được sử dụng như là một trong nhiều thông số
để đánh giá sinh lực của thai, để phát hiện nguy cơ thai nghén cao. Độ sâu tối đa
nước ối là bề dày tối đa của vùng nước ối lớn nhất. Trong chỉ số sinh lực thai,
Manning coi tiêu chuẩn của thiểu ối là khi đo ĐSTĐNO dưới 1cm (quy tắc 1cm).
Hầu hết thường đo ở khu vực chi của thai hay gáy của thai [53].
Năm 1984, Chamberlain và Manning xác định ĐSTĐNO cho 7562 thai phụ
có nguy cơ cao và đã tìm ĐSTĐNO bình thường từ 2cm – 8cm, dưới 1cm là thiểu
ối, từ 1cm đến 2cm là thiểu ối ở mức giới hạn nhưng cũng có tác giả khác lại đưa ra
tiêu chuẩn 2cm hay 3cm (Sabbagha) [38], [54], [55]. Phương pháp đánh giá này
không tính đến biến đổi sinh lý của TTNO theo tuổi thai.
1.5.4. Phương pháp đo chỉ số nước ối (CSNO)
Năm 1987, Phelan và cộng sự đã mô tả lần đầu tiên kỹ thuật đo CSNO
[25]. CSNO là tổng ĐSTĐNO ở 4 góc của tử cung (còn gọi là kỹ thuật đo 4 góc).
Theo các tác giả này CSNO bình thường là từ 50mm đến 200mm, dưới 50mm là
thiểu ối [25].
Từ nhiều năm nay, tác giả Phan Trường Duyệt ở Bệnh viện Phụ sản Trung

ương đã sử dụng phương pháp đo các túi ối rộng nhất tại 4 vùng thăm dò trên rốn
phải, trái, dưới rốn phải, trái, rồi chia 4 để có số đo trung bình [34].
-

Số trung bình dưới 7mm (tương đương CSNO dưới 28mm) là nước ối quá ít
thì phải đình chỉ thai nghén ngay bằng mổ lấy thai trong vòng 6h.


17

-

Số trung bình từ 7mm đến 10mm (tương đương CSNO từ 28mm đến 40mm)
là nước ối giảm, cần theo dõi và đo lại sau 6 giờ. Nếu giảm thì nên đình chỉ
thai nghén nếu thai đã đủ tháng.

-

Số trung bình từ 10mm đến 15mm (tương đương CSNO trên 40mm đến dưới
60mm) là ối trong giới hạn cho phép nhưng phải theo dõi sát.

-

Số trung bình trên 15mm (tương đương CSNO trên 60mm) là ối bình thường.
Phương pháp đo hai kích thước nước ối do Mangann và cộng sự đề xuất năm

1992 [56]. HKTNO là tích số của ĐSTĐNO với chiều ngang tối đa. Cả hai kích
thước này đều cùng đo ở một vùng nước ối rộng nhất. Các giới hạn bình thường của
HKTNO là:
-


Nước ối bình thường: 15,1cm2 đến 50cm2

-

Thiểu ối: dưới 15cm2

-

Đa ối: trên 50cm2
Về độ tin cậy của các kỹ thuật, Magann và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu

so sánh mức độ chính xác của cả ba phương pháp ĐSTĐNO, CSNO và HKTNO
thấy rằng cả ba kỹ thuật siêu âm đều có độ chính xác vừa phải trong trường hợp
nước ối bình thường, đa ối hay thiểu ối [56]. Halperin và cộng sự thấy các phương
pháp đánh giá TTNO bằng siêu âm có sai lệch trong một người đo giữa nhiều người
đo rất ít, đều là những phương pháp tốt [57].
Magann và cộng sự tiến hành nghiên cứu áp dụng qui tắc 2 x 2cm (phương
pháp HKTNO) để chẩn đoán thiểu ối [27]. Nghiên cứu dựa trên so sánh đối chiếu
với TTNO cùng thời điểm xác định bằng phương pháp pha loãng chất màu. Tác giả
thấy rằng qui tắc 2 x 2cm đã để lọt 90% số trường hợp thiểu ối.
Năm 1990, Moore chứng minh ưu thế của CSNO so với ĐSTĐNO trong việc
xác định nước ối bất thường [58]. Độ nhạy của chẩn đoán thiểu ối trong ĐSTĐNO
chỉ là 58% so với CSNO.
Năm 2004, Moore nghiên cứu trên 1584 thai phụ thấy 7,9% có CSNO dưới
5cm trong khi đó đo ĐSTĐNO chỉ có 1,4% dưới 2cm [59].


18


Theo Nguyễn Đức Hinh cũng thấy rằng CSNO có tính ưu việt hơn hẳn so với
ĐSTĐNO vì [60]:
-

Sai lệch của phép đo CSNO thấp hơn với sai lệch của phép đo ĐSTĐNO.

-

Trong phát hiện thai già, CSNO có độ nhạy 82,7%, độ đặc hiệu 38,8% và tỷ
suất chênh là 3,0 cao hơn hẳn so với ĐSTĐNO có độ nhạy 71,2%, độ đặc
hiệu 48,7% và tỷ suất chênh là 2,3.
Các tác giả khác tiến hành nghiên cứu so sánh CSNO với ĐSTĐNO đều đưa

ra nhận định tương tự. Trong đánh giá TTNO bằng siêu âm thì kỹ thuật CSNO được
đề nghị sử dụng rộng rãi [13], [60].
1.6. XỬ TRÍ THIỂU ỐI
Cần phải chẩn đoán phân biệt thiểu ối với ối vỡ non. Cho đến nay chưa có
phương pháp điều trị và phòng ngừa thiểu ối nào thật sự hữu hiệu. Do đó cần
khuyên các thai phụ đi khám thai định kỳ, làm các xét nghiệm để phát hiện sớm các
bệnh lý của người mẹ và các bất thường của thai nhi để có hướng điều trị kịp thời
và theo dõi cẩn thận.
Khi thể tích ối giảm ở bất kỳ tuổi thai nào cũng cần siêu âm kiểm tra để tìm
các bất thường về thai một cách hệ thống, đặc biệt là bất thường về hệ thống tiết
niệu của thai. Nếu phát hiện có bất thường hoặc thai kém phát triển trong tử cung
thì cần làm xét nghiệm về bộ nhiễm sắc thể của thai. Đồng thời tiến hành khám xét
phát hiên các bệnh của thai phụ có liên quan như: cao huyết áp, tiền sản giật hay các
bệnh mạn tính khác. Tuỳ theo mức độ thiểu ối và tuổi thai và nguyên nhân mà có
các xử trí khác nhau.
Theo Phan Trường Duyệt đưa ra hướng xử trí như sau [23]:



19

 Thiểu ối do dị dạng
Không điều trị gì, nếu dị dạng mà tiên lượng không nuôi được sẽ gây chuyển
dạ ở bất kỳ tuổi thai nào [23].
 Thiểu ối do bệnh lý người mẹ
Điều trị bệnh lý người mẹ theo phác đồ của từng loại bệnh, đồng thời theo
dõi thai để phát hiện suy thai.
 Thiểu ối không rõ nguyên nhân [23]
-

Nghỉ ngơi.

-

Chống cơn co tử cung.

-

Truyền đạm, truyền dung dịch Glucose.

-

Theo dõi thai bằng Monitor sản khoa, nếu thai có biểu hiện suy, thai có nguy
cơ chết trong tử cung phải đình chỉ thai nghén.

 Thiểu ối ở thai quá ngày sinh [34]
-


Nếu CSNO ≤ 28mm tiên lượng kém, mổ lấy thai trong vòng 6 giờ.

-

Nếu 28mm < CSNO ≤ 40mm: nên đình chỉ thai nghén bằng cách gây chuyển
dạ, theo dõi bằng Monitor, nếu thấy thai có dấu hiệu suy thì mổ lấy thai.

-

Nếu 40mm < CSNO ≤ 60mm: phải theo dõi sát hàng ngày bằng siêu âm để
phát hiện TTNO giảm để xử trí kịp thời.

1.6.1. Siêu âm để đánh giá thể tích nước ối
Có thể áp dụng phương pháp đo ĐSTĐNO là đo bề dày tối đa của vùng nước
ối lớn nhất, thường là đo ở khu vực chi của thai hay gáy của thai [53].
Hiện nay phương pháp đo CSNO (đo tổng ĐSTĐNO ở 4 góc của tử cung
gồm trên rốn phải, trái, dưới rốn phải, trái) được áp dụng nhiều hơn do độ nhạy, độ
đặc hiệu cao hơn phương pháp đo ĐSTĐNO trong việc đánh giá TTNO [23], [58].
1.6.2. Theo dõi nhịp tim thai bằng Monitor sản khoa [22]
Monitoring sản khoa hay EFM (Electronic fetal heart rate monitoring) là theo
dõi thai (nhịp tim thai và CCTC) bằng điện, đường biểu diễn thu được gọi là CTG
(Cardiotocography).


20

Các test thăm dò [3]:
 Test không đả kích (Non – StressTest): Ghi nhịp tim thai khi chưa có CCTC,
trong suy thai mãn có thể có các dấu hiệu sau:
-


Biên độ dao động giảm.

-

Giảm về biên độ và thời gian của các nhịp tăng.

-

Có thể xuất hiện nhịp giảm.

-

Tăng hoặc giảm tần số tim thai cơ bản.

 Test đả kích (StressTest): Thử nghiệm oxytoxin hay test vê núm vú để khảo
sát sức chịu đựng của thai nhi trong tử cung khi có CCTC.
-

Test dương tính: khi có nhịp giảm muộn trong ít nhất là 50% số
CCTC và xuất hiện liên tục trên 3 CCTC.

-

Test âm tính: không có nhịp giảm.

 Ý nghĩa của test không đả kích và test đả kích:

Các test này nhằm ước định những khả năng của thai nhi chống lại tình trạng
giảm tưới máu tử cung – rau do cơn co tử cung gây ra, cũng như để tiên lượng khả

năng chịu đựng một cuộc chuyển dạ đẻ đường âm đạo. Test không đả kích có đáp
ứng chứng tỏ thai không suy với độ tin cậy khá cao, ngược lại kết quả không đáp
ứng chưa khẳng định được thai suy.
1.7. CÁC PHƯƠNG PHÁP KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ
1.7.1. Khái niệm
* Khởi phát chuyển dạ: là tạo ra những CCTC nhằm gây xóa mở CTC, sổ
thai, với mong muốn sinh thai qua đường âm đạo và có khả năng nuôi sống.
(WHO 2010).
1.7.2. Khởi phát chuyển dạ cơ học
1.7.2.1. Tách màng ối
Phương pháp lóc màng ối ra khỏi đoạn dưới bằng ngón tay để gây khởi phát
chuyển dạ đã được Hamilton giới thiệu từ năm 1810. Ngày nay phương pháp này
rất hiếm khi được sử dụng, nó chỉ có kết quả tốt khi cổ tử cung thuận lợi. Các cơn


21

co tử cung sẽ xuất hiện đều đặn nhờ giải phóng các prostaglandin nội sinh sau khi
làm thủ thuật tách màng ối [65].
1.7.2.2. Bấm ối
Phương pháp này được Thomas Denman mô tả cách đây khoảng 200 năm.
Bấm ối đơn thuần cho kết quả sinh đường âm đạo rất cao ở các trường hợp CTC
thuận lợi. Tuy nhiên, bất lợi của phương pháp này là thời gian từ khi làm thủ thuật
đến khi CCTC có hiệu quả kéo dài dễ đưa đến nguy cơ nhiễm khuẩn.
Từ năm 1971, Patterson đã thấy rằng có 15% con rạ, 22% con so không khởi
phát chuyển dạ sau bấm ối 24 giờ, vì vậy ngày nay bấm ối thường kết hợp với
truyền oxytocin tĩnh mạch [66].
1.7.2.3. Làm tăng thể tích buồng ối
Các phương pháp cơ học chủ yếu dùng cho việc phá thai có tuổi thai lớn.
Phương pháp Aburel: chuyển dạ được kích thích bằng cách bơm 200 ml

huyết thanh mặn 20% vào buồng ối. Phương pháp này ngày nay đã bỏ vì nguy hiểm
của nó và hiệu quả gây chuyển dạ không cao [65].
Phương pháp Kovac’s: bơm huyết thanh mặn vào khoang ngoài màng ối, kết
quả thai ra chậm, tỷ lệ phải can thiệp để lấy thai ra cao.
Phương pháp đặt túi nước (còn gọi là phương pháp Kovac’s cải tiến): dùng
một túi cao su quấn vào ống thông Nelaton đặt vào khoang ngoài màng ối. Sau đó
bơm căng bóng cao su bằng một lượng từ 30 đến 50ml dung dịch huyết thanh mặn,
túi nước được rút ra sau 12 giờ. Đây là phương pháp được sử dụng ở Việt Nam và
nhiều nước trên thế giới tỷ lệ thành công cao nhưng vẫn có nguy cơ nhiễm khuẩn.
Hiện nay phương pháp này ít sử dụng [65],[67].


22

1.7.3. Khởi phát chuyển dạ bằng thuốc
1.7.3.1. Oxytocin

Hình 1.2. Oxytocin
Được Du Vigneaud phát hiện năm 1953, đoạt giải Nobel hóa học 1955,
oxytocin nguồn gốc tổng hợp hoạt động như hormon tự nhiên được sản xuất tại thùy


23

sau tuyến yên. Trong cơ thể, oxytoxin dễ bị phá hủy bởi enzym peptidase, thời gian
tác dụng ngắn, thuốc thải trừ nhanh qua nước tiểu. oxytocin tác dụng tăng co bóp tử
cung, tăng trương lực cơ, đây là thuốc được dùng phổ biến để gây chuyển dạ.
1.7.3.2. Prostaglandin
Được phát hiện từ năm 1913. Hiện nay chỉ có PG tự nhiên như PGE2
(dinoprostone), PGF2α (dinoprost) được RCOG, ACOG công nhận để gây khởi

phát chuyển dạ bằng đặt thuốc ở âm đạo, bơm trong ống cổ tử cung, đặt ngoài màng
ối là hay sử dụng nhất. Trong các chế phẩm tổng hợp tương tự PG gần đây, PG E2
(dinoprostone) được sử dụng để gây chuyển dạ, tuy nhiên hiệu quả của nó đang
được tiếp tục nghiên cứu [68],[69].
1.7.3.3. Đối kháng Receptor
-

RU486 (Mifepristone).

-

SK98299 (Onapristone).
Tác dụng của mifepristone và onapristone như là một chất kháng

progesteron bằng cách cạnh tranh với progesteron nội sinh trên sự gắn kết
receptor. Nó có ái lực gắn kết rất cao với những receptor này (gấp khoảng từ 2-10
lần so với progesteron) [70].
1.7.4. Mổ lấy thai
Phẫu thuật để lấy thai, rau và màng ối qua một vết mổ ở thành tử cung đang
nguyên vẹn. Thực hiện khi:
-

CSNO ≤ 28mm.

-

Có chống chỉ định khởi phát chuyển dạ (có vết mổ lấy thai cũ, ngôi vai, ngôi
mông).

-


Khởi phát chuyển dạ bằng thuốc không kết quả.

-

Thai suy trong chuyển dạ.

-

Test đả kích dương tính.
Xuất phát từ tổng hợp của chương tổng quan, nghiên cứu yếu tố nguy cơ và

hướng xử trí thiểu ối ở thai ≥ 37 tuần tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội được tiến hành.


24


25

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện cho nhóm đối tượng là những thai phụ có tuổi
thai ≥ 37 tuần đến khám thai tại bệnh viện Phụ Sản Hà Nội trong nhóm thiểu ối phù
hợp tiêu chuẩn lựa chọn.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
-

Tuổi thai ≥ 37 tuần. (Tính tuổi thai dựa vào ngày đầu kinh cuối cùng nếu

kinh đều 28 -30 ngày hoặc/và có dự kiến sinh theo siêu âm đúng tiêu chuẩn
tại tuổi thai 9 – 11 tuần).

-

Thai sống, đơn thai.

-

Siêu âm CSNO ≤ 60mm.

-

Đồng ý tham gia nghiên cứu.

-

Có đầy đủ các thông tin cá nhân cần thiết theo yêu cầu nghiên cứu.

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
-

Tuổi thai < 37 tuần hoặc không xác định được tuổi thai.

-

Đa thai.

-


Rỉ ối, vỡ ối.

-

Thai phụ mắc các bệnh lý toàn thân.

-

Không đồng ý tham gia nghiên cứu.

-

Thông tin không đầy đủ.

2.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu viên xin được lựa chọn Bệnh viện Phụ sản Hà nội để triển khai
nghiên cứu vì:
- Là cơ sở đào tạo lâu năm trong lĩnh vực sản phụ khoa của trường đại học Y
Hà nội và là bệnh viện hạng 1 với đầy đủ trang thiết bị cần thiết cho nghiên
cứu cũng như các bác sỹ được đào tạo và có kinh nghiệm trong chuyên
ngành Sản khoa.
- Có nguồn bệnh nhân phong phú.


×