Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Nghiên cứu đa dạng sinh học côn trùng nước tại xã nậm cang, huyện sa pa, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH – KTNN

-- -- -- oOo-- -- --

TRẦN THỊ PHƯƠNG ANH

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC
CÔN TRÙNG NƯỚC TẠI XÃ NẬM
CANG, HUYỆN SA PA, TỈNH LÀO CAI

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Động vật học
Người hướng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN VĂN HIẾU

HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Văn Hiếu,
người thầy đã định hướng và tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu khoa học và hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp của mình.
Đồng thời, qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm Khoa
cùng các thầy, cô giáo Khoa Sinh - Kỹ thuật nông nghiệp, Trường Đại học Sư Phạm
Hà Nội 2, những người đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của mình.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã động viên
và là chỗ dựa vững chắc cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2018
Sinh viên

Trần Thị Phương Anh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu, các số liệu trình bày trong khóa luận là do nghiên cứu, thực tiễn đảm
bảo tính trung thực và chưa được công bố trong bất cứ công trình khoa học, trong
các tạp chí chuyên ngành và các hội thảo khoa học, sách chuyên khảo,… nào khác.
Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2018
Sinh viên

Trần Thị Phương Anh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1
3. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 2
4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.......................................................... 2
4.1 Ý nghĩa khoa học .................................................................................... 2
4.2 Ý nghĩa thực tiễn ..................................................................................... 2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................... 3
1.1 Giới thiệu tổng quan về đối tượng, lĩnh vực nghiên cứu ..................... 3
1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước ......................... 3
1.2.1 Tình hình nghiên cứu côn trùng nước trên thế giới ......................... 3
1.2.2. Tình hình nghiên cứu côn trùng nước ở Việt Nam ......................... 8

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 12
2.1 Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 12
2.2 Thời gian, địa điểm nghiên cứu ........................................................... 12
2.2.1 Thời gian:....................................................................................... 12
2.2.2 Địa điểm nghiên cứu ...................................................................... 12
2.3 Nội dung nghiên cứu ............................................................................. 13
2.4 Điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu ......................................... 13
2.4.1 Vị trí địa lý ..................................................................................... 13
2.4.2 Địa hình.......................................................................................... 13
2.4.3 Địa chất và thổ nhưỡng.................................................................. 14
2.4.4 Khí hậu ........................................................................................... 14
2.4.5 Thủy văn ......................................................................................... 14
2.5 Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 15
2.5.1 Phương pháp nghiên cứu ngoài tự nhiên....................................... 15


2.5.2 Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm ........................ 16
2.6 Một số chỉ số Đa dạng sinh học ............................................................ 16
2.7 Xử lý số liệu .......................................................................................... 18
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN........................ 19
3.1. Thành phần loài côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu .................... 19
3.1.1. Thành phần loài Phù du (Ephemeroptera) ................................... 26
3.1.2. Thành phần loài Chuồn chuồn (Odonata) .................................... 27
3.1.3. Thành phần loài Cánh úp (Plecoptera) ........................................ 27
3.1.4. Thành phần loài Cánh nửa (Hemiptera) ...................................... 28
3.1.5. Thành phần loài Cánh cứng (Coleoptera).................................... 28
3.1.6. Thành phần loài Cánh rộng (Megaloptera).................................. 28
3.1.7. Thành phần loài Hai cánh (Diptera) ............................................ 28
3.1.8. Thành phần loài Cánh lông (Trichoptera).................................... 29
3.2. Tính tương đồng về thành phần loài giữa các điểm nghiên cứu.......... 29

3.3. Một số đặc điểm của quần xã côn trùng nước tại khu vực nghiên
cứu ............................................................................................................... 30
3.3.1. Mật độ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu ............................ 30
3.3.2. Loài ưu thế và một số chỉ số đa dạng ........................................... 32
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ............................................................................. 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 35
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH
BẢNG

Bảng 3.1. Số lượng các taxon thuộc các bậc phân loại của côn trùng nước tại
khu vực nghiên cứu..................................................................................19
Bảng 3.2. Thành phần loài côn trùng nước thu được ở các điểm nghiên cứu ..........21
Bảng 3.3. Chỉ số Jacca - Sorensen giữa các điểm nghiên cứu ..................................29
Bảng 3.4. Số lượng cá thể các bộ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu...............30
Bảng 3.5. Loài ưu thế, chỉ số loài ưu thế (DI) và chỉ số Đa dạng sinh học
Shannon – Weiner (H’)............................................................................32
HÌNH
Hình 3.1. Tỷ lệ % số loài theo từng bộ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu ......20
Hình 3.2. Sơ đồ Jacca - Sorensen thể hiện mối liên quan giữa các điểm nghiên
cứu ...........................................................................................................29
Hình 3. 3. Số cá thể thu được ở mỗi bộ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu .....31


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Côn trùng nước giữ vai trò hết sức quan trọng trong hệ sinh thái các thủy
vực cả nước đứng cũng như nước chảy. Mỗi một môi trường thủy vực, nhóm sinh

vật này đều có những đặc tính thích nghi phù hợp. So với nhiều nhóm sinh vật khác,
côn trùng nước có nhiều đặc tính nổi trội như số lượng loài, số lượng cá thể
lớn…đặc biệt chúng là những mắt xích không thể thiếu trong chuỗi và lưới thức ăn.
Các loài côn trùng nước là những sinh vật tiêu thụ bậc 1, bậc 2 đồng thời lại là
nguồn thức ăn của nhiều loài động vật có xương sống. Nhiều loài côn trùng nước có
quan hệ mật thiết đối với con người. Một số loài côn trùng nước gây hại là tác
nhân truyền bệnh, tác nhân gây bệnh, tác nhân phá hoại sản phẩm công nghiệp,
nông nghiệp… Giai đoạn trưởng thành của các loài côn trùng này là những vector
truyền bệnh sốt rét, sốt vàng da cho người. Khác với nhóm côn trùng trên cạn, các
loài thuộc côn trùng nước tồn tại cả trong môi trường nước và trong môi trường
cạn. Do vậy, chúng là đối tượng lý tưởng dùng trong các nghiên cứu về sinh thái
học và sinh học tiến hóa. Trong giai đoạn hiện nay, hướng nghiên cứu về nhóm côn
trùng nước là dùng đối tượng này để chỉ thị chất lượng môi trường do có nhiều loài
rất nhạy cảm với sự biến đổi của môi trường nước. Trên thế giới đã có rất nhiều
thành tựu to lớn khi nghiên cứu trên đối tượng côn trùng nước, từ việc phân loại cho
đến những nghiên cứu về tập tính, sinh thái, sinh sản, di truyền, tiến hóa… Ở Việt
Nam, trong những năm gần đây côn trùng nước cũng đã được quan tâm nghiên cứu.
Ở các Vườn quốc gia và các Khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam có hệ thống
sông, suối phong phú, tiềm ẩn tính đa dạng côn trùng nước. Xã Nậm Cang, huyện
Sa Pa, tỉnh Lào Cai nơi có hệ thống suối phong phú, tiềm ẩn tính đa dạng côn trùng
nước, tuy nhiên việc nghiên cứu về nhóm sinh vật này vẫn chưa được quan tâm, vì
vậy chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đa dạng sinh học côn trùng
nước tại xã Nậm Cang, huyện Sa pa, tỉnh Lào Cai”.
2. Mục đích nghiên cứu

1


- Xác định thành phần loài của côn trùng nước tại một số suối thuộc xã Nậm
Cang, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.

- Nghiên cứu một số đặc điểm quần xã côn trùng nước tại khu vực nghiên
cứu như xã Nậm Cang, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Thủy vực dạng suối tại xã Nậm Cang, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
4.1 Ý nghĩa khoa học
- Đề tài cung cấp những dẫn liệu khoa học về thành phần loài thuộc
nhóm côn trùng nước ở xã Nậm Cang là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu
chuyên sâu về nhóm sinh vật này ở khu vực nghiên cứu.
4.2 Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả của đề tài góp phần cung cấp những tư liệu phục vụ cho việc
nghiên cứu, giảng dạy về côn trùng nước tại xã Nậm Cang, huyện Sa Pa, tỉnh Lào
Cai.

2


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Giới thiệu tổng quan về đối tượng, lĩnh vực nghiên cứu
Côn trùng nước là những mắt xích không thể thiếu trong chuỗi và lưới thức
ăn: vừa là những sinh vật tiêu thụ bậc 1, bậc 2 vừa là nguồn thức ăn của của cá và
nhiều loài động vật có xương sống khác.
Khác với nhóm côn trùng trên cạn, các loài thuộc côn trùng nước tồn tại cả
trong môi trường nước và trong môi trường cạn.
1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
1.2.1 Tình hình nghiên cứu côn trùng nước trên thế giới
Côn trùng nước đã được quan tâm nghiên cứu từ rất lâu trên thế giới, đặc biệt
ở những nước phát triển. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến từng
bộ của nhóm này, từ những nghiên cứu về phân loại học, tiến hóa đến những nghiên
cứu về ứng dụng. Trong đó đã có rất nhiều các công trình liên quan đến phân loại

học côn trùng nước đã được công bố. Đặc biệt đã có nhiều nghiên cứu về các nhóm
côn trùng nước gắn bó chặt chẽ với đời sống con người mà đa phần là tác nhân gây
bệnh hoặc tác nhân truyền bệnh cho người và động vật như: ruồi, muỗi,… Điển
hình là các nghiên cứu của Resh và Rosenberg, 1979; Merritt và Cummins, 1984;
Merritt và Newson, 1978, Wilhm, 1968, Tran, 2008 [32, 20, 35, 34].
Việc nghiên cứu sử dụng côn trùng nước làm sinh vật chỉ thị chất lượng
nước đã được bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX qua các công trình nghiên
cứu của Kuehne (1962), Bartsch và Ingram (1966), Wilhm và Dorris (1968) [35].
Đã từ lâu, các nhà khoa học sớm nhận ra vai trò quan trọng của côn trùng nước
trong các hệ sinh thái, do đó phạm vi nghiên cứu côn trùng nước ngày càng được
mở rộng, các hướng nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc mô tả, phân loại mà còn
đi sâu vào các cơ chế bên trong như: biến động quần thể côn trùng, các mối quan hệ
dinh dưỡng, đáp ứng yêu cầu của sinh thái học (Resh và Rosenberg, 1984;
Cummins, 1996) [32, 20].
Đến cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, nhiều nhà khoa học đã công bố hàng
loạt các công trình nghiên cứu về côn trùng nước như: McCafferty, 1983; Kawai,

3


1985; Morse et al, 1994; Yoon, 1995; Merritt và Cummins, 1996; … Các nghiên
cứu này đã bổ sung và cung cấp nhiều kiến thức về côn trùng nước bao gồm cả
phân loại học, sinh thái học, tiến hóa, ứng dụng...
Qua các công trình nghiên cứu, đến nay có thể xác định 9 bộ thuộc nhóm
Côn trùng ở nước: Phù du (Ephemeroptera), Chuồn chuồn (Odonata), Cánh lông
(Tricoptera), Cánh úp (Plecoptera), Cánh nửa (Hemiptera), Cánh cứng (Coleoptera),
Hai cánh (Diptera), Cánh rộng (Megaloptera), Cánh vảy (Lepidoptera).
* Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)
Bộ Phù du là côn trùng có cánh cổ sinh tương đối nguyên thủy, thậm chí còn
được xem như một trong những tổ tiên của côn trùng. Dựa vào những bằng chứng

hóa thạch, chúng có thể đã phát sinh vào giai đoạn cuối của kỷ Cacbon và đầu kỷ
Pecmơ trong đại Cổ sinh, cách đây khoảng 290 triệu năm (Edmund, 1982) [13]. Các
loài thuộc bộ Phù du được mô tả từ rất sớm. Công trình nghiên cứu đầu tiên về phân
loại học Phù du là của nhà tự nhiên học nổi tiếng Lineaus (1758). Ông đã mô tả 6
loài Phù du tìm thấy ở châu Âu và xếp chúng vào một nhóm là Ephemera [14].
Nghiên cứu về Phù du thực sự phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XX, điển hình
là các công trình nghiên cứu của Ulmer (1920, 1924, 1925, 1932, 1933), Navás
(1920, 1930), Lestage (1921, 1924, 1927, 1930), Needham và cộng sự (1935).
Edmunds (1963) đã xây dựng hệ thống phân loại tới họ thuộc bộ Phù du trên toàn
thế giới. Ông đã đưa ra một bức tranh tổng thể về khóa phân loại bậc cao cũng như
nguồn gốc phát sinh của phù du [12].
Odgen and Michael (2005) đã tổng hợp những nghiên cứu về phân loại học
của McCafferty và Edmunds đồng thời đưa ra giả thuyết mới về nguồn gốc phát
sinh của Phù du dựa trên những nghiên cứu về sinh học phân tử [32].
Đến năm 2008, toàn thế giới đã xác định được khoảng 3000 loài Phù du thuộc
375 giống và 37 họ trong đó ở Châu Âu có khoảng 350 loài và Bắc Mỹ là 670 loài
(Hubbard, 2008) [17]. Các nghiên cứu về Phù du, đặc biệt là phân loại học vẫn đang
phát triển, vẫn còn nhiều loài chưa được mô tả, nhất là ở các khu vực nhiệt đới.

4


* Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)
Chuồn chuồn thuộc nhóm côn trùng ăn thịt ngay từ giai đoạn thiếu trùng
sống trong nước cho đến giai đoạn trưởng thành. Vòng đời của chúng trải qua 3 giai
đoạn: trứng, thiếu trùng, con trưởng thành. Thiếu trùng thường sống trong nước,
chủ yếu ở vùng nhiệt đới hoặc vùng khí hậu ấm, con trưởng thành sống trên cạn. Bộ
Chuồn chuồn được chia thành 3 phân bộ là: phân bộ Anisozygoptera, phân bộ
Zygoptera (Chuồn chuồn kim) và phân bộ Anisoptera (Chuồn chuồn ngô). Phân bộ
Anisozygoptera chỉ có 1 giống là Epiophlebia, giống này có một số loài chỉ phân bố

ở độ cao khoảng 2.000m ở những con suối thuộc Nhật Bản và vùng núi cao
Himalaya (Tani & Miyatake, 1979; Kumar & Khanna, 1983). Hai phân bộ còn lại
phân bố rộng cả ở nơi nước đứng cũng như nước chảy với số lượng loài vô cùng
phong phú [22].
Ngoài các công trình nghiên cứu về phân loại học còn có những công trình
nghiên cứu về Sinh học, Sinh thái học và Tập tính sinh học của Corbet (1999),
Silsby (2001). Các công trình nghiên cứu này chủ yếu dựa vào giai đoạn trưởng
thành.
* Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)
Cho đến năm 2007 trên thế giới đã xác định được khoảng 3500 loài cánh úp
trong đó: khu vực Bắc Mỹ có khoảng 650 loài (Stark & Baumann, 2005), Khu vực
Trung Mỹ 95 loài, khu vực Nam Mỹ 378 loài (Heckman, 2003), khu vực Châu Âu
426 loài (Fochetti & Tierno de Figueroa, 2004), khu vực Châu Phi 126 loài; Châu Á
là khu vực có số lượng loài phong phú nhất với số loài đã xác định được lên tới 1527
loài trong đó: Cao ( 2002) [10] khu vực Đông Á và Nam Á có khoảng 784 loài,
Trung quốc đứng đầu với 350 loài (Yuzhou & Junhua, 2001), tiếp đó là Nhật Bản với
306 loài (Sivec & Yang 2001); Tây Á có 114 loài và Bắc Á với 279 loài. Khu vực
Australia có 191 loài (Michaelis & Yule, 1988) và New Zealand với 104
loài.
Morse (1994), Yang Lianfang & Tian Lixin (1994); Merritt & Cummins
(1996) khi nghiên cứu khu hệ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ, các tác giả đã xây
dựng khóa định loại tới giống thiếu trùng của bộ này, đó là cơ sở cho việc định loại
các loài thuộc bộ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ sau này [20,21].
5


* Nghiên cứu về bộ Cánh lông (Trichoptera)
Cánh lông là một trong những bộ có số lượng loài phong phú. Những nghiên
cứu về hệ thống phân loại bậc cao của bộ Cánh lông được thực hiện bởi Ross (1956,
1967) và sau đó tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện bởi Morse (1997) [23].

Bộ Cánh lông được nghiên cứu ở Đông Nam Á từ rất sớm bởi Ulmer (1911,
1915, 1925, 1927, 1930, 1932) và Navás (1913, 1917, 1922, 1930, 1932). Trong khi
đó các hướng nghiên cứu chủ yếu dựa vào giai đoạn trưởng thành thì Ulmer (1955,
1957) đã mở ra hướng nghiên cứu dựa vào giai đoạn ấu trùng.
Bên cạnh những nghiên cứu về phân loại học, những nghiên cứu về sinh thái
và đặc điểm sinh học của bộ cánh lông cũng được đặc biệt chú ý tiêu biểu là các
công trình của Haris, Mackay và Wiggins vào những năm 70 của thế kỉ trước. Một
số công trình khá đồ sộ liên quan đến giai đoạn ấu trùng côn trùng của Wiggins
(1969, 1978, 1985, 1986) trong đó có ấu trùng cánh lông (1977, 1982, 1984). Năm
2009, Morse đã công bố một danh sách đầy đủ các loài cũng như phân bố địa lý
sinh vật của bộ Cánh lông trên toàn thế giới và tiếp tục được cập nhật cho tới hiện
nay [23].
* Nghiên cứu về bộ Cánh rộng (Megaloptera)
Bộ Cánh rộng được xem là nhóm côn trùng nguyên thủy trong nhóm côn
trùng biến thái hoàn toàn. Hiện nay, bộ Cánh rộng có khoảng 300 loài được biết trên
thế giới và chia thành hai họ là: Corydalidae và Sialidae. Giai đoạn trưởng thành ở
cạn và ăn thịt, thường hoạt động vào ban đêm. Tuy nhiên, giai đoạn ấu trùng lại
sống dưới nước và ăn thịt các loài động vật [21].
Số lượng loài thuộc họ Sialidae rất phong phú ở các thủy vực nước ngọt như:
sông, suối, hồ nơi có nhiều mùn, các mảnh vụn, cát hoặc sỏi nhỏ. Chúng trải qua 5
lần lột xác và sống được khoảng 1 năm trong vòng đời của mình. Ấu trùng rời khỏi
các thủy vực nước ngọt và hóa nhộng. Các loài thuộc họ này lại phân bố rất hẹp. Ở
châu Á, họ này mới chỉ phân bố ở vùng ôn đới thuộc Hàn Quốc, Nhật Bản và một
số nơi ở Trung Quốc (Bank, 1940) [21].

6


* Nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera)
Bộ Cánh cứng là bộ lớn nhất trong giới Động vật. Hiện nay, số loài thuộc bộ

côn trùng này vào khoảng 277.000 đến 350.000 loài và khoảng 18.000 thuộc nhóm
côn trùng nước [17]. Theo các kết quả nghiên cứu nhóm sống dưới nước được xem
là đa dạng nhất ở khu hệ suối vùng nhiệt đới. Hiện nay, các công trình nghiên cứu
về bộ Cánh cứng tập trung vào phân loại học, sinh thái học, tiến hóa như: các
nghiên cứu của Feng (1932, 1933), Gschwendtner (1932), Fernando (1962, 1969),
Nertrand (1973), Jach (1984). Heinrich & Balke (1997), Gentuli (1995), Jach & Ji
(1995, 1998, 2003) đã cung cấp khá đầy đủ những dẫn liệu về phân loại học của bộ
Cánh cứng ở châu Á.
Wu và cộng sự đã xác định ở Trung Quốc có 601 loài, Sato (1988) đã định
loại được 311 loài ở Nhật Bản, Britton (1970) xác định ở Úc có khoảng 510 loài và
White (1984) đã phân loại được 1.143 loài ở khu vực Bắc Mỹ thuộc bộ Cánh cứng.
* Nghiên cứu về bộ Hai cánh (Diptera)
Các nghiên cứu về bộ Hai cánh đã được rất nhiều các nhà khoa học công bố,
đặc biệt là các công trình nghiên cứu của Alexander (1931), Mayer (1934), Zwich
& Hortle (1989). Đối với khu vực châu Á, Delfinado & Hardy (1973, 1975, 1977)
đã tổng hợp một danh lục khá đầy đủ về thành phần loài của bộ Hai cánh ở miền Ấn
Độ - Mã Lai. Khóa định loại tới họ và giống hiện nay chủ yếu thực hiện theo khóa
định loại được xây dựng bởi Harris (1990).
* Nghiên cứu về bộ Cánh nửa (Hemiptera)
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu bộ Hemiptera ở nước về
hình thái, sinh học, sinh thái, phân loại và chủng loại phát sinh như: Cheng và
Fernando (1969), Menke (1979), Andersen (1985), Schuh và Slater (1995),
Hilsenworf (1991).
Các công trình nghiên cứu về bộ Cánh nửa ở châu Á được bắt đầu khá sớm
bằng các nghiên cứu của Lundblad (1933), La Rivers (1970), Lansbury (1972,
1973) [19].

7



* Nghiên cứu về bộ Cánh vảy (Lepidoptera)
Trong bộ Cánh vảy chỉ có một số loài thuộc họ Pyralidae, Pyraustidae và
Crambidae sống ở nước. Ở châu Á, các nghiên cứu về Lepidoptera chủ yếu là về
phân loại học trong đó có các nghiên cứu của Rose & Pajni (1987), Habeck & Solis
(1994) và Munroe (1995). Trong các nghiên cứu này, các tác giả cũng đã thành lập
khóa định loại cụ thể tới loài.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu côn trùng nước ở Việt Nam
* Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)
Ở Việt Nam, trong những năm đầu của thế kỷ 20, các mô tả về
Ephemeroptera cũng được đề cập và quan tâm nghiên cứu. Mở đầu cho những
nghiên cứu về Ephemeroptera ở Việt Nam, nhà côn trùng học Lestage (1921, 1924),
đã mô tả một loài mới của bộ Phù du cho khoa học, dựa vào mẫu vật được lưu giữ ở
bảo tàng Paris. Ông đặt tên loài là Ephemeraduporti, do các loài thuộc giống
Ephemera có kích thước lớn, phân bố khá rộng và dễ thu thập nên nó được tiếp tục
nghiên cứu ở giai đoạn này. Sau đó, Navas (1922, 1925) đã công bố hai loài
Ephemera longiventris và Ephemera innotata, cũng dựa trên các mẫu vật thu được
ở miền Bắc Việt Nam. Cho đến nay, hai loài này cũng chưa tìm thấy ở các khu vực
phân bố khác, nên có thể xem chúng như là loài đặc hữu cho khu hệ Ephemeroptera
ở Việt Nam.
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khoá định loại các
nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã đưa ra
khoá định loại tới họ ấu trùng Phù du [5].
Nguyen Van Vinh and Yeon Jae Bae (2004, 2008) ở một số Vườn quốc gia
của Việt Nam. Những nghiên cứu này, đã công bố hàng loạt các kết quả về các loài
Ephemeroptera ở Việt Nam, và đã bổ sung danh sách thành phần loài, mô tả các loài
mới, cũng như xây dựng các khóa định loại tới loài [21] [22] [24] [25][26].
Nguyễn Văn Vịnh (2003), đã xác định được 102 loài thuộc 50 giống và 14 họ
Phù du ở Việt Nam. Trong nghiên cứu này, tác giả đã xây dựng khóa định loại và mô
tả đặc điểm hình dạng ngoài của các loài thuộc bộ Phù du ở Việt Nam, nghiên cứu
này là cơ sở để phục vụ cho các hướng nghiên cứu tiếp theo về bộ Phù du ở nước ta.


8


Nguyễn Văn Vịnh (2004), khi nghiên cứu về Phù du ở Vườn quốc gia Tam
Đảo đã xác định được 32 loài thuộc 24 giống và 8 họ. Trong đó, có 10 loài lần đầu
tiên ghi nhận cho Vườn Quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc [6].
Nguyễn Văn Vịnh (2005), khi nghiên cứu về Phù du ở Vườn Quốc gia Ba
Vì, Hà Tây đã thu được 27 loài thuộc 22 giống và 9 họ. Trong đó có một loài mới
cho khoa học là Polyplocia orientalis [7].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2014) đã xác định được 49 loài thuộc 34
giống 12 họ của bộ Phù du tại VQG Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Kết quả phân tích cho
thấy họ Baetidae có số lượng giống và loài cao nhất với 8 giống và 11 loài; họ
Heptageniidae có 8 giống và 10 loài; họ Ephemerellidae có 5 giống, 7 loài; họ
Leptophlebiidae với 4 giống, 9 loài; họ Potamanthidae có 2 giống, 2 loài; họ
Ephemeridae có 1 giống, 3 loài; họ Caenidae với 1 giống, 2 loài. Các họ
Teloganodidae,

Polymitarcyidae,

Neoephemeridae,

Isonychiidae



Austremerellidae mỗi họ chỉ có 1 giống, 1 loài. Bên cạnh nghiên cứu đa dạng về
loài, các tác giả còn nghiên cứu về phân bố của Phù du theo tính chất của dòng chảy
ở khu vực nghiên cứu [9].
Bên cạnh nghiên cứu về khu hệ, các nhà khoa học còn đi sâu nghiên cứu về

phân loại học của bộ Phù du. Đặc biệt từ năm 2000 trở lại đây hàng loạt các loài
mới cho khoa học và loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu hệ Phù du ở nước ta được
các nhà khoa học trong và ngoài nước công bố.
* Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)
Nghiên cứu về khu hệ thiếu trùng Chuồn chuồn ở Việt Nam còn tản mạn và
chưa thành hệ thống. Chủ yếu các nghiên cứu tập trung vào giai đoạn trưởng thành.
Bộ Chuồn chuồn ở Việt Nam được nghiên cứu lần đầu tiên vào những năm đầu thập
niên 90 của thế kỷ XX dưới thời Pháp thuộc bởi một số nhà nghiên cứu người Pháp:
Martin trong báo cáo được công bố năm 1902 khi điều tra khu hệ động vật Đông
Dương. Trong báo cáo này, ông công bố 139 loài thuộc 3 họ: Libellulidae,
Aeshnidae và Agrionidae. Trong 139 loài, Martin đã mô tả 9 loài mới và một giống
mới là Merogomphus [1].

9


Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khóa định loại các
nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã xây dựng
khóa định loại tới họ của bộ Chuồn chuồn [5].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001), trong nghiên cứu khu hệ côn trùng
nước ở Vườn Quốc gia Tam Đảo đã xác định được 26 loài thuộc 12 họ của bộ
Chuồn chuồn ở khu vực này. Tuy nhiên, do những nghiên cứu về phân loại thiếu
trùng chuồn chuồn ở Việt Nam còn ít. Do đó, những mẫu vật thu được mới chỉ phân
loại đến bậc giống [23].
* Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về bộ Cánh úp đã được quan tâm nghiên cứu
trong thơi gian gần đây. Một vài loài đã được mô tả bởi Kawai (1968, 1969), Zwick
(1988), Stark và cộng sự (1999), nhưng tất cả các mẫu vật đều ở giai đoạn trưởng
thành [8]. Mục đích của những nghiên cứu là nhằm xác định lại và mô tả một số
loài mới thuộc bộ Cánh úp dựa trên những nghiên cứu trước đó và những điều tra về

sau của cả giai đoạn trưởng thành và ấu trùng được thu thập ở Việt Nam. Thêm vào
đó là việc xác định khóa định loại tới loài của bộ Cánh úp ở cả giai đoạn trưởng
thành và ấu trùng ở Việt Nam cũng như sinh thái, nơi ở của chúng. Cao Thị Kim
Thu (2002), đã xây dựng khóa định loại tới loài Cánh úp ở Việt Nam. Công trình là
cơ sở khoa học cho các nghiên cứu về bộ Cánh úp ở nước ta [8].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001), khi nghiên cứu về nhóm côn trùng
nước ở Vườn quốc gia Tam Đảo đã tiến định loại các loài thuộc bộ Cánh úp. Kết
quả cho thấy số loài Cánh úp ở Vườn quốc gia Tam Đảo là 12 loài thuộc 3 họ [23].
Cao Thị Kim Thu (2009) nghiên cứu thành phần loài họ Perlidae thuộc bộ
Cánh úp ở khu vực miền Trung Việt Nam đã xác định được 22 loài thuộc 10 giống,
trong đó có 4 loài mới cho khoa học là Neoperla tamdao, Tyloperla trui, Acroneuria
bachma, Chinoperla rhododendrona đã công bố từ năm 2007 và 4 loài lần đầu ghi
nhận cho khu hệ Việt Nam [10].
Nguyen et al (2012) nghiên cứu đa dạng của nhóm côn trùng nước tại VQG
Ba Vì, Hà Nội đã ghi nhận được 13 loài thuộc bộ Cánh úp (chiếm 7,8% tổng số loài
thu được) [30].

10


Như vậy, các nghiên cứu về Cánh úp ở nước ta chủ yếu tập trung vào các thủy
vực dạng suối ở các VQG và các Khu Bảo tồn thiên nhiên. Các nghiên cứu này chủ
yếu là các nghiên cứu đa dạng về loài và phân loại học. Các nghiên cứu về phân bố
của Cánh úp đã được quan tâm nhưng còn ít và tản mạn, đặc biệt là các nghiên cứu
phân bố của các loài Cánh úp theo mùa và theo cấp độ suối vẫn chưa được quan tâm
nhiều.
* Nghiên cứu về bộ Cánh lông (Trichoptera)
Ở Việt Nam, bộ Cánh lông được nghiên cứu từ rất sớm. Những tài liệu về
Cánh lông đã được xuất bản bởi các nhà phân loại học đến từ các nước châu Âu
như: Đức (Ulmer, 1907), Tây Ban Nha (Navás, 1913). Sau những nghiên cứu đầu

tiên của Ulmer về 2 loài Hydromanicus buenningi và Paraphlegopteryx tonkinensis,
ông đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu về Cánh lông ở Việt Nam. Tiếp theo,
Navás (1913, 1917, 1921, 1922, 1930, 1932, 1933) đã mô tả một số loài thuộc các
tổng họ của Hydropsychoidae, Philopotamoidae (Stenopsychidae), Leptoceroidae,
Limnephiloidae và Rhyacophiloidae. Nguyễn Xuân Quýnh, Clive Pinder, Steve
Tilling (2001) [5], đã xây dựng khóa định loại tới họ của bộ Cánh lông thường gặp
ở nước ta. Hoàng Đức Huy (2005) mô tả đặc điểm hình dạng, cấu tạo ngoài của các
loài Cánh lông ở Việt Nam dựa vào giai đoạn ấu trùng.
* Nghiên cứu về các bộ Cánh cứng, bộ Hai cánh, bộ Cánh nửa, bộ Cánh
vảy và bộ Cánh rộng
Ở nước ta, các công trình nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera), Hai
cánh (Diptera), bộ Cánh vảy (Lepidoptera) và bộ Cánh rộng (Megaloptera) còn tản
mạn. Các nghiên cứu thường không tập trung vào một bộ cụ thể mà thường đi cùng
với các công trình nghiên cứu về khu hệ côn trùng nước nói chung như: Nguyễn
Văn Vịnh (2001) nghiên cứu ở Vườn quốc gia Tam Đảo; Cao Thị Kim Thu,
Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2008) nghiên cứu ở Vườn quốc gia Bạch Mã,
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001) khi định loại các nhóm động vật không
xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam [5].
Những nghiên cứu đầu tiên về khu hệ Cánh nửa ở Việt Nam được bắt đầu
vào những năm đầu của thế kỷ XX. Loài đầu tiên thuộc họ Gerridae (Hemiptera)
được mô tả ở Việt Nam là Ptilomera hylactor Breddin, 1903 thuộc Bắc Việt Nam.

11


CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
- Các mẫu côn trùng nước thu được tại một số thuỷ vực dạng suối thuộc xã
Nậm Cang, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
2.2 Thời gian, địa điểm nghiên cứu

2.2.1 Thời gian:
- Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 12/2016 đến tháng 04/2018. Mẫu vật
sử dụng trong nghiên cứu được thu ngoài thực địa từ ngày 06/01/2017 đến ngày
15/01/2017.
- Toàn bộ mẫu vật thu ngoài tự nhiên được bảo quản và lưu trữ tại Phòng thí
nghiệm Động vật, Khoa Sinh - Kỹ thuật nông nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2.
2.2.2 Địa điểm nghiên cứu
- Nghiên cứu được tiến hành ở 3 điểm P1, P2, P3 khác nhau thuộc xã Nậm
Cang, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
Trước khi tiến hành thu mẫu, tiến hành ghi lại một số đặc điểm, sinh cảnh
chính của các điểm nghiên cứu.
Điểm 1 (kí hiệu P1) độ cao 870m.
0



0

Tọa độ N: 22 12,430 E: 104 02,439



Điểm thu mẫu 1 bên là đường mòn, 1 bên là đường rẫy. Phía dưới điểm thu
là trạm nuôi cá hồi. Nền đáy hỗn hợp, chủ yếu là đá tảng lớn, đá trung bình và sỏi
nhỏ không có nhiều. Độ che phủ từ 0-20%. Có các dạng sinh cảnh như nước chảy,
nước đứng. Trời nắng, quang mây và lặng gió.
Điểm 2 (kí hiệu P2) độ cao 712m.
0




0

Tọa độ N: 22 13,039 E: 104 01,819



Hai bên bờ là ruộng bậc thang. Xung quanh có nhiều cây bụi, ít cây gỗ nhỏ.
Độ che phủ từ 0-5%, suối tạo nhiều chỗ nước sâu hơn 1m. Nền đáy chủ yếu là đá
tảng lớn rất ít cát, bùn, lá thực vật. Trời nắng, ít mây.

12


Điểm 3 (kí hiệu P3) độ cao 580m.
0



0

Tọa độ N: 22 13,085 E: 103 01,659



Trời nắng, ít mây. Hai bên bờ có nhiều cây gỗ, dây leo và cây bụi. Suối dốc,
lòng suối sâu, đá tảng lớn chiếm ưu thế, tạo nhiều vùng nước sâu hơn 1m. Độ che
phủ từ 0-5%. Có các dạng sinh cảnh như nước đứng, nước chảy được xác định theo
tài liệu của Hauer và Lamberti (1996) [14].

2.3 Nội dung nghiên cứu
- Đa dạng loài côn trùng nước tại một số thủy vực dạng suối xã Nậm Cang,
huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
- Một số đặc điểm quần xã côn trùng nước tại xã Nậm Cang, huyện Sa Pa,
tỉnh Lào Cai.
2.4 Điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu
2.4.1 Vị trí địa lý
Vườn Quốc gia Hoàng Liên nằm trong khu vực Tây Bắc Việt nam, có vị trí
địa lý từ 22° 09’- 23°30’ độ vĩ Bắc và 103°00’ - 103°59’ độ kinh Đông, về địa giới
hành chính gồm 6 xã: San Sả Hồ, Lao Chải, Tả Van, Bản Hồ, Mường Khoa, Thân
Thuộc thuộc huyện Sa pa và huyện Than Uyên, tỉnh Lào Cai. Diện tích Vườn Quốc
gia

là 51,800 ha. Trong đó vùng lõi là 29,845 ha, là phần cuối cùng của dãy

Himalaya chạy dọc sông Hồng theo hướng Tây Bắc - Đông Nam.
2.4.2 Địa hình
Hoàng Liên là một hệ thống các đỉnh núi cao trên 2000 m chạy theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam. Đặc biệt ở Vườn Quốc gia có đỉnh núi Phansipan cao 3,143
m so với mặt nưóc biển. Các hệ chính của dãy núi thoải dần theo hướng Đông Bắc
và Tây Nam tạo thành hai sườn chính của dãy Hoàng Liên trong đó sườn Đông Bắc
thuộc huyện Sa pa và sườn Tây Nam thuộc huyện Than Uyên. Các dạng địa hình
chủ yếu của Vườn Quốc Gia Hoàng Liên gồm núi cao, thung lũng, sườn núi đồi.
Mức độ chia cắt theo chiều ngang và chiều thẳng đứng rất mạnh tạo ra sự phức
tạp của địa hình và độ dốc lớn. Độ dốc trung bình phổ biến từ 20 - 30°, có nơi 40°
và dốc đứng.

13



2.4.3 Địa chất và thổ nhưỡng
Hoàng Liên được cấu tạo từ các loại đá nguồn gốc mắc-ma như granit,
amphibolit, filit, đá vôi, trong đó đá granit là phổ biến nhất (Vũ Tự Lập, 1999). Địa
chất và địa hình, kết hợp với khí hậu làm nên thổ nhưỡng, quy luật phân bố các
loại đất đai ở VQG Hoàng Liên theo đai độ cao được thể hiện khá rõ. Nhìn chung,
các loại đất ở đây có hàm lượng mùn cao, phần lớn là dạng viên nhỏ, quá trình xói
mòn và rửa trôi yếu, độ tơi xốp cao, độ ẩm lớn, độ dầy tầng đất phổ biến là ở mức
trung bình (từ 50-120 cm), thành phần cơ giới thịt nhẹ, thịt trung bình, thịt nặng.
Tính chất đất rừng còn thể hiện rõ, thuận lợi cho việc trồng rừng và phục hổi rừng.
Trên địa hình dốc đất dễ bị rửa trôi và bào mòn, kết hợp với quá trình hoạt động địa
chất lâu dài, những hoạt động 10 xâm thực, phong hóa, bồi tụ đã hình thành nên các
thung lũng phủ đầy phù sa màu mỡ nằm rải rác trong VQG Hoàng Liên.
2.4.4 Khí hậu
Do ở phía Đông của dãy Hoàng Liên, có địa hình phức tạp nên khí hậu ở
Vườn Quốc gia Hoàng Liên cũng bị phân hóa mạnh mẽ theo độ cao và hướng địa
hình. Một đặc trưng của khí hậu Hoàng Liên là hầu như quanh năm duy trì tình
trạng ẩm ướt. Độ ẩm tương đối trung bình năm khoảng trên 85%, tháng mưa ít nhất
trung bình cũng đạt 20 - 30 mm. Đặc biệt hiện tượng mưa phùn cuối mùa đông diễn
ra mạnh mẽ vì các thung lũng mở rộng về phía đồng bằng đã tạo điều kiện tích tụ
các luồng gió nồm ấm thổi từ biển tới.
Ngoài những yếu tố thời tiết chung, Vườn Quốc gia Hoàng Liên còn có
những hiện tượng thời tiết đặc biệt như: sương mù, băng giá, sương muối, mưa đá.
2.4.5 Thủy văn
Do đặc điểm địa hình của khu vực, Vườn Quốc gia Hoàng Liên được tạo
thành từ hai sườn chính: sườn Đông Bắc dốc thoải về phía sông Hồng và sườn Tây
Nam dốc thoải về phía sông Đà, vì vậy trong khu vực cũng tạo nên hai hệ suối
chính:
- Hệ thống suối thuộc khu vực Đông Bắc gồm 3 suối chính: Mường Hoa Hồ
bắt nguồn từ Phansipan, Séo Trung Hồ bắt nguồn từ Tả Van, Tả Trung Hó bắt
nguồn từ Bản Hồ. Ba suối này gặp nhau tại khu vực Bản Dền tạo thành ngòi Bốt đổ


14


ra sông Hồng. Vì địa hình dốc, chia cắt mạnh, nên về mùa đông chúng chỉ là suối
cạn song về mùa mưa, đặc biệt là vào các tháng có lượng mưa tập trung (7, 8, 9)
thường có lũ và lũ quét.
-

Hệ thống suối thuộc khu vực Tây Nam dãy Hoàng Liên gồm hai suối

chính: suối Nậm Bé bắt nguồn từ Phansipan và suối Nậm Pao, Nậm Chăng. Cả hai
suối này đều chảy ra con ngòi lớn Nậm Mu và đổ ra sông Đà. Ngoài hai hệ thống
suối chính thuộc hai sườn của dãy Hoàng Liên, còn một con suối bắt nguồn từ
lưu vực thuộc xã Sa Pả và một phần từ Sa Pa, chảy theo hướng Đông Bắc đổ vào
sông Hồng tại thị xã Lào Cai.
2.5 Phương pháp nghiên cứu
2.5.1 Phương pháp nghiên cứu ngoài tự nhiên
- Thu mẫu định tính
Quá trình thu mẫu định tính bằng vợt ao (Pond net) và vợt cầm tay (Hand
net). Tiến hành thu mẫu theo phương pháp của Edmunds (1982) [13],
McCafferty
(1983) [19], Nguyen (2003) [24], Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2004) [6].
Tôi tiến hành thu mẫu bằng cách: đặt miệng vợt ngược dòng nước, dùng
chân đạp phía trước vợt trong vòng vài phút (thu mẫu đạp nước). Ở nơi có nhiều bụi
cây dùng vợt tay để thu mẫu. Ở những nơi đáy có đá lớn không thu mẫu đạp nước
được thì nhấc đá và thu mẫu bám ở dưới bằng panh mềm để tránh làm nát mẫu. Ở
nhiều nơi có cây bụi thủy sinh dùng vợt sục vào các cây bụi đó và các rễ cây ven bờ
suối, ở những vùng nước nhỏ hoặc dòng chảy hẹp việc thu mẫu được tiến hành bằng
vợt cầm tay.

- Thu mẫu định lượng
Thu mẫu định lượng bằng cách sử dụng lưới Surber Sample với 5 lần lại tại
mỗi điểm nghiên cứu. Sử dụng lưới Surber Sample (diện tích thu mẫu là 0,1
kích thước mắt lưới 250m) lấy 5 mẫu. Mẫu sau khi thu được loại bỏ rác, làm sạch
bùn đất. Do các cá thể côn trùng nước có cơ thể mềm, dễ nát nên thu mẫu phải nhẹ
nhàng và nhặt qua mẫu ngay tại thực địa.

15

,


- Phương pháp xử lí mẫu
Mẫu sau khi thu được loại bỏ rác, làm sạch bùn đất. Nhặt qua mẫu ngay tại
thực địa. Sử dụng panh, thìa và khay nhôm để nhặt vật mẫu. Mẫu thu ngoài thực địa
0

được bảo quản trong cồn 80 , ghi etiket đầy đủ và đem về lưu trữ, bảo quản, phân
tích và định loại tại Phòng thí nghiệm Động vật, Khoa Sinh – Kĩ Thuật Nông
Nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
2.5.2 Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
- Phương pháp nhặt mẫu: mẫu được rửa sạch cho ra khay. Dùng panh nhặt các
đại diện của ấu trùng và thiếu trùng côn trùng nước ở trong đó, mẫu sau khi nhặt
0

cho vào lọ và bảo quản trong cồn 80 .
- Phương pháp phân tích
+ Dụng cụ phân tích gồm: kính soi nổi, đĩa petri, kim nhọn, panh.
+ Phân loại mẫu vật: mẫu vật được phân loại theo các khóa định loại được công
bố trong và ngoài nước của Nguyễn Văn Vịnh (2004) [25], Nguyễn Xuân Quýnh và

cộng sự (2001) [5], Meritt và Cummins (1996) [20], Morse et al (1994) [21].
2.6 Một số chỉ số Đa dạng sinh học
- Các chỉ số Đa dạng sinh học (ĐDSH) được sử dụng trong nghiên cứu gồm:
chỉ số Shannon - Weiner (chỉ số H’), chỉ số Margalef (chỉ số d), Chỉ số tương đồng
(chỉ số Jacca - Sorensen), Chỉ số loài ưu thế.
Chỉ số Shannon - Weiner (chỉ số H’) nhằm xác định lượng thông tin hay
tổng lượng trật tự (hay bất trật tự) có trong một hệ thống. Chỉ số Shannon – Weiner
được tính bằng cách lấy số lượng cá thể của một đơn vị phân loại chia cho tổng số
cá thể trong mẫu, sau đó nhân với logarit của tỷ số đó. Tổng các đơn vị phân loại
cho chỉ số đa dạng. Công thức để tính chỉ số này là:

16


ni
n
log 2 i
i =1 N
N
s

H =-
'

Với H’: chỉ số đa dạng loài
s: số lượng loài
N: số lượng cá thể trong toàn bộ mẫu
ni : số lượng cá thể của loài i

17



Hai thành phần của sự đa dạng được kết hợp trong hàm Shannon - Weiner là
số lượng loài và tính bình quân của sự phân bố các cá thể giữa các loài. Do vậy, số
lượng loài càng cao thì chỉ số H’ càng lớn và sự phân bố các cá thể giữa các loài
càng ngang bằng nhau thì cũng gia tăng chỉ số đa dạng loài được xác định thông
qua hàm số Shannon - Weiner. [1]:
Từ kết quả tính toán, có thể nhận xét về mức độ đa dạng theo các cấp sau


đây:
- Nếu chỉ số đa dạng > 3: ĐDSH tốt và rất tốt
- Nếu chỉ số đa dạng từ 1 - 3: ĐDSH khá
- Nếu chỉ số đa dạng < 1: ĐDSH kém và rất kém
Chỉ số Margalef (chỉ số d) là chỉ số được sử dụng rộng rãi để xác định tính
đa dạng hay độ phong phú về loài, chỉ số Margalef được xác định khi biết số loài và
số lượng cá thể trong mẫu đại diện của quần xã. Chỉ số Margalef được tính bằng
cách lấy số loài của đợt thu mẫu trừ đi 1 rồi chia cho logarit cơ số 10 của tổng số cá
thể thu được. Công thức:

S
d  1
log N

Trong đó:

d: chỉ số đa dạng Margalef
S: số loài trong mẫu
N: tổng số cá thể
Ngoài ưu điểm là dễ sử dụng để xác định tính đa dạng cho các nhóm sinh vật

khác nhau của quần xã, chỉ số Margalef (chỉ số số d) còn được áp dụng để phân loại
mức độ ô nhiễm của các thủy vực.
Chỉ số tương đồng (chỉ số Jacca - Sorensen) được chúng tôi sử dụng để
đánh giá mức độ giống nhau về thành phần loài của các điểm nghiên cứu. Chỉ số
này được tính theo công thức:

K

2c
ab


×