Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ nghệ tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.25 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG CA DAO,
TỤC NGỮ NGHỆ TĨNH

TÓM TẮT
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.03.01

Đà Nẵng - Năm 2019


Công trình được hoàn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐHĐN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:TS. LÊ VĂN THAO

Phản biện 1: TS. Phạm Huy Thành
Phản biện 2: TS. Phạm Văn Giang

Luận văn đã được bảo vệ trước hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp
Thạc sĩ Triết học họp tại Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng vào
ngày 24 tháng 08 năm 2019

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

- Trung tâm thông tin – học liệu, Đại học Đà Nẵng


- Thư viện trường Đại học Kinh tế, ĐHĐN


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, khi mà xã hội loài người ngày
càng văn minh, sự phát triển của khoa học và kỹ thuật ngày càng lớn
mạnh thì thế giới có thiên hướng tập trung nhiều vào trung tâm của
vũ trụ, đó chính là “con người”. Những kinh nghiệm, những triết lý
xưa nay được nhìn nhận một cách đúng đắn và nghiêm túc bởi hiện
thực cuộc sống đã chứng minh rằng đó chính là “túi khôn” của dân
gian để lại, nó giống như những lời tiên tri báo trước cho con người
về quy luật của cuộc sống và tạo hóa. Triết lý nói chung, trong đó có
triết lý nhân sinh được đề cao, coi trọng hơn bao giờ hết. Triết lý
nhân sinh đó chính là những quan điểm, quan niệm về sự sống của
con người được rút ra từ trong thực tiễn cuộc sống. Triết lý nhân sinh
được xem như là kim chỉ nam định hướng, chỉ dẫn cho cách đối nhân
xử thế, cho hành động hay lối sống của con người.
Nghệ Tĩnh là một vùng đất có nền văn hóa lâu đời, có những
đặc điểm riêng về vị trí địa lí, tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội đã
hình thành nên triết lý nhân sinh mang nét đặc trưng riêng của xứ
Nghệ. Triết lý nhân sinh được thể hiện trên nhiều lĩnh vực về: kiến
trúc, văn hóa, nghệ thuật… Trong đó ca dao, tục ngữ được xem là thể
loại ổn định, độc đáo phản ánh rõ nét những triết lý nhân sinh sâu sắc
của con người xứ Nghệ. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và bảo tồn các
giá trị về ca dao, tục ngữ nói chung và triết lý nhân sinh nói riêng vẫn
còn những hạn chế nhất định. Do đó, nghiên cứu triết lý nhân sinh
trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh là vấn đề thiết yếu và có ý nghĩa

quan trọng, giúp chúng ta hiểu rõ hơn quan niệm của cha ông ta về lẽ
sống, về đạo làm người, về cách ứng xử của con người với thế giới tự
nhiên và giữa con người với con người trong xã hội. Qua đó, làm rõ


2
những giá trị để bảo tồn và phát huy trong giai đoạn hiện nay, góp
phần khẳng định giá trị văn hóa dân gian của Nghệ Tĩnh, củng cố
niềm tin, lý tưởng sống cho những người con vùng đất Nghệ Tĩnh nói
riêng và thế hệ trẻ của Việt Nam nói chung.
Nhận thức được tầm quan trọng đó nên tôi chọn đề tài: “Triết
lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh” làm đề tài luận văn
thạc sĩ Triết học của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản của triết lý nhân
sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh; luận văn đánh giá về giá trị,
hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm gìn giữ và phát huy giá trị triết
lý nhân sinh của ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh.
2.2 Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận văn thực hiện các
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ lý luận chung về triết lý nhân sinh và ca
dao, tục ngữ.
Thứ hai, phân tích nội dung triết lý nhân sinh trong cao ca
dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh.
Thứ ba, làm rõ giá trị, hạn chế và đề xuất giải pháp gìn giữ
và phát huy các giá trị triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ
Tĩnh.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nội dung triết lý nhân sinh
trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số
nội dung triết lý nhân sinh trong kho tàng ca dao, tục ngữ vùng Nghệ


3
Tĩnh: Quan niệm về bản chất con người và ý nghĩa cuộc sống, quan
niệm về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, quan niệm về mối
quan hệ giữa con người với cộng đồng, con người với con người
trong xã hội.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của triết học Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
vấn đề triết lý nhân sinh.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn kết hợp các phương
pháp: phương pháp logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp
và diễn dịch, thống kê, so sánh và đối chiếu.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn gồm có 3 chương và 9 tiết.
6. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về triết lý nhân
sinh nói chung.
Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu về triết lý nhân
sinh trong ca dao, tục ngữ.
7. Đóng góp mới của đề tài

Luận văn làm rõ được những nội dung cơ bản, những nét độc
đáo, góp phần khẳng định giá trị của triết lý nhân sinh trong tục ngữ,
ca dao Nghệ Tĩnh; Đồng thời đề xuất một số giải pháp có tính khả thi
cho việc gìn giữ và phát huy các giá trị triết lý nhân sinh trong ca
dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh hiện nay.


4
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
8.1. Ý nghĩa lý luận
Hệ thống hóa những nội dung triết lý nhân sinh trong ca dao,
tục ngữ Nghệ Tĩnh, đồng thời khẳng định những giá trị nhân văn, tiến
bộ trong triết lý nhân sinh của ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn có giá trị làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập về hình thái ý thức văn hóa, nghệ thuật,
triết học.
- Là cơ sở khoa học cho các cơ quan quản lý và bảo tồn
nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa vùng Nghệ Tĩnh
trong giai đoạn hiện nay.


5

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT LÝ NHÂN
SINH VÀ CA DAO, TỤC NGỮ NGHỆ TĨNH
1.1. Triết lý và triết lý nhân sinh
1.1.1. Khái niệm triết lý
Triết lý là cái ý sâu xa, cái lẽ huyền diệu của một học thuyết

hay một sinh hoạt, một hiện tượng, một cử chỉ. Khác với triết học,
triết lý mang đậm dấu ấn của cộng đồng người, triết lý được rút ra từ
những trải nghiệm trong cuộc sống.
Theo chúng tôi, triết lý trước hết đó là những quan niệm
đúng đắn, được con người rút ra, đúc kết từ trong thực tiễn cuộc
sống. Khác với triết học, triết lý gần gũi hơn với cuộc sống, là bài
học mà cá nhân nào cũng có thể tự đưa ra được triết lý sống cho riêng
mình. Trong giới hạn của đề tài chỉ đề cập đến triết lý nhân sinh được
thể hiện trong ca dao, tục ngữ tỉnh Nghệ Tĩnh.
1.1.2. Triết lý nhân sinh
Triết lý nhân sinh theo từ điển Từ và ngữ Việt Nam: “Nhân”
là người, “sinh” là cuộc sống, triết lý nhân sinh là triết lý về sự sống
con người.
Triết lý nhân sinh cũng chính là những quan điểm, quan
niệm, những kinh nghiệm về sự sống được con người rút ra từ trong
thực tiễn cuộc sống.
1.2. Khái quát về ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh
1.2.1. Khái niệm, nguồn gốc ra đời của ca dao, tục ngữ
Nghệ Tĩnh
Khái niệm ca dao theo từ điển Bách Khoa Việt Nam: Ca dao
thường là những câu thơ, bài hát dân gian có ý nghĩa khái quát, phản


6
ánh đời sống, phong tục, đạo đức hoặc mang tính chất trữ tình, đặc
biệt là tình yêu nam nữ.
Tục ngữ theo tác giả Vũ Ngọc Phan: đó là một câu tự nó diễn
trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lý, một
công lý, có khi là một sự phê phán [48, tr.6].
Nguồn gốc của ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh có thể là do những

lính thú lưu động, những dân tứ chiếng, những đợt sóng người
chuyển cư, những người buôn bán, những ông đồ Nghệ đầu năm đeo
cái tay nái đỏ trong đó có cái tráp đen đi khắp bốn phương tìm nơi
dạy học mang về, nhưng những câu tục ngữ từ nơi khác du nhập vào
đều có ít nhiều “chất Nghệ Tĩnh”.
1.2.2. Những nội dung của ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh
Những bài ca dao được lưu truyền ở Nghệ Tĩnh đều phản ánh
các mặt sinh hoạt và tính cách của những con người đã bao năm sinh
sống, chiến đấu và sáng tạo trên đất Hồng Lam. Đó là một cuộc sống
vật lộn gian khổ, bền bỉ giữa con người và thiên nhiên.
Không chỉ dừng lại ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước,
xóm làng, ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh còn là bản tình ca thấm đẫm
tình yêu thương chan chứa của tình yêu lứa đôi và tình cảm gia đình.
1.2.3. Vài nét nghệ thuật nổi bật trong ca dao, tục ngữ
Nghệ Tĩnh
- Tính bộc trực thẳng thắn
Ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh phần nhiều bộc trực, thẳng thắn,
có phần cứng rắn. Điều này cũng thật sự dễ hiểu, cuộc sống nơi đây
thường xuyên phải vật lộn chống chọi với thiên nhiên khô cằn, khắc
nghiệt, chế độ phong kiến kéo dài dai dẳng, tàn nhẫn, xảo quyệt,
chiến tranh liên miên với giặc ngoại xâm trường kỳ, gian khổ. Cuộc
sống đói nghèo, túng quẫn luôn dày vò, đeo đẳng.


7
- Tính trí tuệ bác học
Ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh mang đặc trưng riêng, đó là tính
trí tuệ và bác học. Tính trí tuệ và bác học này không chỉ có tác giả là
các nhà nho, khoa bảng mà nó còn xuất hiện trong những bài ca dao,
tục ngữ của tầng lớp bình dân. Những cách vận dụng tài tình đã làm

nên những bài ca dao, những câu tục ngữ dí dỏm, tinh nghịch nhưng
cũng đầy tính trí tuệ và bác học.
- Tính trạng
Tính Trạng: “Trạng” ở đây không phải là nói phét, nói láo.
“Trạng” ở đây thể hiện tính vui vẻ, thông minh nhanh trí song dí dỏm
của người xứ Nghệ. Tiếng cười khi sổ sàng, phóng khoáng, thường
sử dụng biểu tượng hai mặt để trêu cợt lẳng lơ, song cái nhìn thì bình
dị, lạc quan. Những bài ca dao, những câu tục ngữ mang tính „Trạng”
đã phần nào làm vơi bớt đi cuộc sống ngột ngạt, nghèo khổ nơi đây.
- Một số nét nghệ thuật khác
Ngoài ra, hình thức đối trong thể lục bát và song thất lục bát
của ca dao Nghệ Tĩnh cũng là một nét nghệ thuật độc đáo. Không chỉ
đối ngẫu mà còn đối câu, đối bài, hiện tượng gieo vần, về ngôn từ,
nhất là các từ địa phương, các dạng kết cấu, thời gian và không gian
nghệ thuật…cũng rất sáng tạo và độc đáo.
Về tục ngữ, nghệ thuật chủ yếu là kết cấu ngôn từ, câu chữ
và cách gieo vần. Chính vì lẽ đó, tục ngữ rất dễ thuộc, dễ nhớ và có
khả năng lưu truyền rộng rãi trong quần chúng nhân dân.
1.3. Những điều kiện, tiền đề ra đời triết lý nhân sinh trong ca
dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh
1.3.1. Điều kiện địa lý, tự nhiên
- Về vị trí địa lý


8

Xét về vị trí địa lý, Nghệ An và Hà Tĩnh nằm ở vị trí có tầm
quan trọng chiến lược của cả nước về quốc phòng, an ninh, tâm điểm
của vùng Trung Bộ.
- Địa hình sông, núi

Nhìn chung địa hình của cả hai vùng Nghệ An và Hà Tĩnh vô
cùng phức tạp, hiểm trở, chủ yếu là núi cao, sông sâu, gây khó khăn
cho phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp, công nghiệp.
Chính vì vậy, đời sống của nhân dân hai Tỉnh này gặp rất nhiều khó
khăn, nghèo nàn và lạc hậu. Điều này được thể hiện rõ trong những
bài ca dao nói về những khó khăn khi lên rừng, xuống biển lao động
sản xuất.
- Khí hậu
Khí hậu hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh đều vô cùng khắc nghiệt,
mùa hè ảnh hưởng của gió Lào nắng bỏng lửa, mùa đông thì rét cắt
da cắt thịt, mưa bão, lũ lụt triền miên. Sống ở miền đất khí hậu khắc
nghiệt đã ảnh hưởng rất nhiều đến tư duy, cách sống và tính cách của
người dân nơi đây: Tư duy bó hẹp, cục bộ, ít thay đổi hay tự đổi mới;
tính cách bộc trực, thẳng thắn, rắn rỏi đầy nội lực mạnh mẽ, có khi
nóng nảy, cục cằn và cách sống hay lo xa, tiết kiệm.
- Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên cả hai vùng nhìn chung đa dạng,
phong phú, có nhiều sản vật quý hiếm. Tuy nhiên do địa hình hiểm
trở, núi cao, sông sâu, giao thông đi lại khó khăn nên người dân
không thể nào khai thác hết được những thế mạnh này. Cuộc sống
vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và ngư
nghiệp.
1.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội


9
- Về điều kiện kinh tế
Xét về điều kiện kinh tế, nhìn chung cả hai vùng Nghệ An và
Hà Tĩnh chủ yếu vẫn dựa vào nông, lâm, ngư nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp, kinh tế chậm phát triển, đời sống của bà con hai Tỉnh còn gặp

rất nhiều khó khăn. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến tư duy, quan
niệm của người dân xứ Nghệ: Lối tư duy cục bộ nông nghiệp chậm
chạp, ít đổi mới, chủ yếu dựa vào trời, phụ thuộc tự nhiên, thụ động
trong đấu tranh đòi quyền lợi, chậm đổi mới phương thức sản xuất.
- Điều kiện xã hội
Điều kiện xã hội cả hai vùng còn nhiều mặt hạn chế. Do kinh
tế chậm phát triển, đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn nên
điều kiện về an sinh, xã hội còn nghèo nàn, tồn tại nhiều hủ tục xưa
chưa được xóa bỏ. Tình trạng mất công bằng, dân chủ còn khá phổ
biến. Điều này được bộc bạch rất thẳng thắn trong ca dao, tục ngữ.
1.3.3. Tiền đề văn hóa, tƣ tƣởng
Có thể thấy rằng, Nghệ An và Hà Tĩnh là hai vùng đất có nền
văn hóa lâu đời, đậm đà bản sắc địa phương, có nền tảng tư tưởng
vững chắc từ ngàn xưa để lại, được xem là vùng “địa linh nhân kiệt”.
Ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh rất phong phú và đa dạng, vừa tiếp thu và
ảnh hưởng từ địa phương khác đến vừa tiếp biến chúng thành những
bài ca dao, những câu tục ngữ đậm chất xứ Nghệ.
Tiểu kết Chƣơng 1
Chương 1 cho chúng ta cái nhìn khái quát nhất về tiền đề lý
luận, về nội dung của triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ
Tĩnh, những điều kiện, tiền đề về tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội đã
ít nhiều ảnh hưởng đến việc ra đời và hình thành ca dao, tục ngữ
Nghệ Tĩnh.


10

CHƢƠNG 2. NỘI DUNG TRIẾT LÝ NHÂN SINH
TRONG CA DAO, TỤC NGỮ NGHỆ TĨNH
2.1. Quan niệm về bản chất con ngƣời, đời sống nội tâm và ý

nghĩa của cuộc sống
2.1.1. Bản chất con ngƣời và số phận
Triết lý nhân sinh về bản chất con người và số phận con
người trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh cho chúng ta cái nhìn đúng
đắn, khách quan: Bản chất con người là lương thiện “Nhân chi sơ
tính bản thiện”, tuy nhiên do hoàn cảnh xã hội, cuộc đời xô đẩy đã
khiến họ có khi bị sa ngã, bản chất bị biến hóa: Đất tốt trồng cây xum
xoa (um tùm)/ Những người lịch sự nói ra mĩ miều; Đất xấu trồng
cây ngẳng nghiu/ Những người thô tục nói điều phàm phu [20,
tr.651].
Số phận con người xét cho cùng là do chính bản thân con
người quyết định và do hoàn cảnh xã hội chi phối chứ không phải do
tự nhiên sinh ra hay do lực lượng siêu nhiên nào quyết định: Ai ơi
đừng nghĩ đói giàu/ Bạc vàng đang để hai đầu ngón tay [20, tr.637].
Số phận con người là vô thường và không phải là bất biến mà nó sẽ
thay đổi theo chiều lên, xuống tùy thuộc vào khả năng của mỗi
người: Làm người ai có dại chi/ Khúc sông eo hẹp phải tùy khúc sông
[20, tr.660]. Chính vì vậy, muốn thay đổi được số phận, con người
phải tự mình vươn lên, thay đổi bản thân, đấu tranh để cải tạo xã hội.
2.1.2. Đời sống tâm tƣ tình cảm và ý nghĩa cuộc sống
Có thể thấy rằng, đời sống tâm tư tình cảm của con người
Nghệ Tĩnh đong đầy cảm xúc buồn, vui: Khi vui vui cả một bè/ Khi
buồn cây nứa, cây tre cũng buồn. Họ Yêu, ghét rạch ròi: Thương
nhau cơm giấu, gấu (gạo) cho/ Ghét nhau một mảnh quạt mo cũng
đòi. Nhưng chúng ta nhận thấy rằng đằng sau những cảm xúc ấy là


11
một nội lực sống đầy lạc quan, mạnh mẽ, ý chí, khát vọng vươn lên
khắc phục mọi hoàn cảnh, vươn cao, vươn xa: Cây cao đứng giữa đại

ngàn/ Gió rung không sợ, sợ chi tàn lửa rơm; Ai giàu ba họ, ai khó
ba đời. Người dân Nghệ Tĩnh hướng tới một cuộc sống no đủ về vật
chất và cuộc sống tinh thần vui vẻ, an nhàn, tự do, tự tại chốn quê
hương: Thú chi bằng thú chiều chiều/ Ra đứng đầu ngõ, ngắm diều
làng Nghi [20, tr183]; Còn trời, còn nước, còn đây/ Còn ao rau
muống còn đầy chum tương [20, tr. 568]. Và họ có lý tưởng sống cao
đẹp, nhân văn: Người trồng cây hạnh để chơi/ Ta trồng cây đức để
đời về sau [20, tr. 665].
2.2. Quan niệm về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên và
với cộng đồng
2.2.1. Mối quan hệ giữa con ngƣời với thiên nhiên
Người dân xứ Nghệ sống không thể tách rời với thiên nhiên.
Mặc dù cần cù, chịu khó, tiết kiệm người dân nơi đây đã nỗ lực hết
sức, song thành bại hay không còn phụ thuộc vào thiên nhiên. Thiên
nhiên hay chính xác đó chính là thế lực huyền bí, siêu nhiên - Trời
quyết định. Mọi việc trông mong vào “trời”: “nhờ trời”, “lạy trời”,
“trông trời”, “chờ trời” và “xin trời” cho mưa thuận, gió hòa và còn
phải chờ vào “thời”: Có thời gối phượng chăn loan/ Không thời gối
gỗ cho nhàn cái thân. Vì vậy, con người phải sống hợp lẽ với trời,
trời sẽ phù trì cho được an khang: Ở ăn phải cho có nghì/ Mênh mông
thiên địa phù trì an khang.
Người dân biết lo xa, tiết kiệm, đúc rút ra những kinh
nghiệm, tìm ra được những quy luật của tự nhiên, vận dụng vào đời
sống sản xuất, phòng rủi ro, hạn chế các tác động xấu và phát huy lợi
thế của nó. Họ biết vận dụng quy luật của tự nhiên vào sản xuất mùa
màng, mang lại kết quả tốt: Lúa về lẫm trước kho sau/ Đầu cày nắm


12
chặt đuôi trâu giữ bền; Lúa mùa thì cấy cho sâu/ Lúa chiêm thì gãy

cành dâu mới vừa; Ra đi mẹ có dặn dò/ Ruộng sâu cấy sớm, ruộng
gò cấy trưa;… Tục ngữ có câu: Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa; Nhất
nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
2.2.2. Mối quan hệ giữa con ngƣời với cộng đồng
Cộng đồng đó chính là các mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ về
tình cảm, cảm xúc của những cá nhân và tập thể. Với người dân xứ
Nghệ, cộng đồng là nơi họ chia sẻ với nhau những công việc nặng
nhọc, hiểm nguy, ngày trái gió trở trời, những khi vui buồn, no đói,
thành công hay thất bại: Khi mô chiêm ngã màu vàng/ Tin cho nhau
biết ta sang gặt giùm; Ai đi đường rậm xa xa/ Chờ em đi với hai ta đi
cùng; Nhớ ngày cháo đậu một lung/ Nguồn cơn khi ấy ai đừng quên
ai. Tục ngữ có câu: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Sức mạnh
đoàn kết đã giúp cho người dân xứ Nghệ luôn mạnh mẽ, vượt qua
những khó khăn, trở ngại cùng nhau chinh phục thiên nhiên.
Họ vui thú với ruộng vườn, sông nước gái trai đua nhau làm
ăn, không khí vui vẻ, nhộn nhịp: Đua nhau ta cấy ta cày/ Cho cao cốt
thóc cho đầy bồ khoai [20, tr.584]. Cuộc sống dù nghèo đói nhưng
đầy cảm vợ chồng, cha mẹ, con cái, tình làng, nghĩa xóm gắn bó keo
sơn: Sáng chiều nghe tiếng nói cười/ Công ai việc nấy chớ nặng lời
với nhau. Khi mùa màng bội thu, người dân cùng nhau hưởng chung
thành quả lao động mà mọi người đã cùng nhau góp sức. Lợi ích cá
nhân và lợi ích cộng đồng được gắn kết: Đua nhau chăm việc cấy
cày/ Mùa màng phong nẫm ta rày hưởng chung [20, tr.584].
Không chỉ trong làng, trong xóm người dân sống thân thiết,
gắn bó chan hòa với nhau mà giữa làng này, làng khác mối quan hệ
cộng đồng được gắn kết: Cưỡi trâu mà lội qua sông/ Trâu sang bên
đó chung đồng với nhau/ Hai làng xa cách gì đâu/ Dẫu cho không có


13

nhịp cầu bắc ngang [20, tr.575]. Họ đã phá vỡ quan niệm xưa nay
cho rằng: “Trâu ta ăn cỏ làng ta” hay “Ta về ta tắm ao ta” là tốt hơn
để đi đến một bước ngoặt mới trong quan hệ xóm làng, cộng đồng
nói chung “chung đồng với nhau”. Người dân không tránh khỏi tranh
chấp trong quan hệ lợi ích: Một miếng giữa làng, hơn một sàng xó
bếp; Của mình thì giữ bo bo/ Của người thì muốn một mo cho đầy.
Rộng hơn trong quan hệ với cộng đồng, đó là tình yêu quê
hương, đất nước: Đường vô xứ Nghệ quanh quanh/ Non xanh nước
biếc như tranh họa đồ; Non Hồng ai đắp mà cao/ Sông Lam ai bới ai
đào mà sâu; Bao giờ Hồng Lĩnh nên (thành) cồn/ Sông Lam hết nước
mới hết nguồn đấu tranh [20, tr.743].
2.3. Quan niệm về mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời
2.3.1. Tình yêu đôi lứa
Tình yêu của trai gái xứ Nghệ cũng mãnh liệt, tha thiết và
chân thực lắm. Tình yêu được bắt nguồn từ tình thương giữa con
người với con người: Thương em anh mãi đời đời thương em; Thấy
em đứng đó lỡ chiều anh thương. Tình yêu của trai gái xứ Nghệ cũng
trải qua nhiều cung bậc cảm xúc: thương, nhớ, giận hờn đến đa sầu,
đa cảm: Nhớ mình sớm ngẩn chiều ngơ; Nhớ bạn lòng những u sầu.
Tình yêu đến với nhau bởi chữ “Duyên”, xa nhau cũng do “Duyên
số”: Duyên ta chính thực duyên trời; Trước ơn cha mẹ, sau nhờ phận
duyên; Dù xa nhau đi nữa cũng tại ông trời mới xa.
Tình yêu của người con trai, con gái xứ Nghệ có nét đẹp
riêng đặc biệt. Đó cũng chính là cái làm nên bản sắc riêng trong tình
yêu của con người nơi đây - tình yêu thuận theo quy luật của tự
nhiên, với chân lý, triết lý rất sâu sắc: “Yêu không thể đói no”. Triết
lý đó ở vào thời điểm hiện tại, khi mà phần lớn cho rằng chỉ cần:
“Một mái nhà tranh, hai trái tim vàng” là có thể hạnh phúc, thì người



14
dân xứ Nghệ lại nhận thức được hiện thực hoàn toàn ngược lại:
Trăng khi mờ khi tỏ/ Nước khi nhỏ khi to/ Anh yêu không thể đói no/
Thu đông xuân hạ biết chừng mô mà lường [20, tr.456].
Dựa vào quy luật của tự nhiên mà họ biết cách để ứng biến
trong tình yêu: Trăng lên khỏi núi trăng mờ/ Biết anh bao tuổi mà
chờ đợi anh [20, tr.457]; Trăng tắt đã có mặt trời/ Em không thương
anh nữa đã có người khác thương [20, tr.458]. Người con trai, con
gái xứ Nghệ đã vượt qua được cái tôi cá nhân ích kỷ, nhu nhược, có
lối sống tích cực và tìm cách ứng xử khác hẳn bởi họ đã hiểu được
quy luật của đất trời, của tạo hóa và quy luật của cuộc sống.
2.3.2. Tình cảm vợ chồng
Tình cảm vợ chồng hay đó chính là đạo nghĩa phu thê là một
trong những tình cảm cao quý, đáng trân trọng của người dân xứ
Nghệ: Đạo chồng vợ nghĩa là đức cù lao; Dặn rằng một chữ vuông
tròn phu thê; Vợ chồng là nghĩa tao khang,… Ngay từ khi lấy vợ, gả
chồng ông bà xưa đã rất quan tâm đến việc chọn dâu, chọn rể: Chọn
lợn thì chọn thịt mông/ Lấy vợ thì chọn con ông cháu bà. Tuy nhiên,
dù có cố tình “chọn lựa” thì việc vợ chồng lấy được nhau cũng là do
duyên phận, do ông trời sắp đặt: Ông trời kia đã định em phải kêu
anh bằng chồng/ Đói no là phận, lạnh lùng có đôi.
Tình cảm vợ chồng không phải lúc nào cũng “Trong ấm
ngoài êm”. Định kiến xã hội thời bấy giờ hết sức khắc nghiệt, nhưng
với người dân xứ Nghệ thì không có gì là không thể. Tư tưởng giải
phóng, tư tưởng cất cánh đã được hình thành từ xa xưa, họ chịu khổ,
chịu khó thì không ai bằng, đã yêu thương thì không ai sánh được,
nhưng khi đã đến bước đường cùng họ sẽ không cam chịu: Xấu đất
vắt chẳng nên nồi/ Cho anh lấy vợ, cho tôi lấy chồng.



15
Với người dân xứ Nghệ, chiều chồng, theo chồng được xem
như là đạo nghĩa bắt buộc của người vợ: Lấy chồng thì phải chiều
chồng; Dù em con ông chi bà chi/ Lấy chồng cũng cứ phải đi theo
chồng… Tình nghĩa vợ chồng phải nói đến sự đồng thuận, chung sức
chung lòng, cùng nhau san sẻ để gánh vác công việc gia đình: Chồng
cày thì vợ gánh phân/ Chồng buôn vợ bán kiếm ăn luân hồi; Ra về
dặn nước thề non/ Đồng tâm đồng chí ta còn dài lâu. Người dân nơi
đây luôn coi trọng tình nghĩa vợ chồng, khi nghèo thì cùng nhau gánh
vác, còn khi giàu thì cũng phải hiểu rằng “Của chồng công vợ”: Nước
lên con cá lên theo/ Chồng giàu có của, vợ nghèo có công [20,
tr.537]. Bên cạnh ca ngợi tình vợ chồng son sắt, gắn bó, ca dao tục
ngữ Nghệ Tĩnh cũng mỉa mai, lên án những kẻ ham chồng, vợ người,
làm trái đạo nghĩa: Ngọt ngào chi chuối mùa đông/ Khôn ngoan chi
gái lộn chồng mà khen [20, tr.535].
2.3.3. Tình cảm cha mẹ và con cái
Tình phụ tử, đó là một thứ tình cảm thiêng liêng và cao quý.
Như tất cả các bà mẹ Việt Nam, bà mẹ đất Nghệ Tĩnh thương yêu
con bằng tất cả tình yêu thương: Nuôi con chẳng quản đến thân/
Chiếu rách mẹ chịu, áo khăn con nằm; Chim trời ai nỡ đếm
lông/Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày.
Tình cảm của cha mẹ với con cái của người dân xứ Nghệ
cũng thật đặc biệt, mang nét riêng độc đáo đậm chất Nghệ Tĩnh. Họ
thương con nhưng không phải ủy mị, chiều chuộng con cái, mà dùng
tình yêu cứng cỏi, mạnh mẽ để nuôi dạy con nên người, có chí khí, có
khát vọng. Cha mẹ gửi gắm ước mơ trong những bài học đầu đời: Ru
con con ngủ à ơi/ Trông cho con lớn nên người khôn ngoan/ Làm trai
gánh vác giang san/ Mẹ cha trông xuống, thế gian trông vào.



16
Những người cha, người mẹ vùng đất Nghệ Tĩnh có cách
nuôi dạy con chữ hiếu, chữ đức theo một phương pháp rất riêng và
độc đáo mang tính triết lý nhân sinh sâu sắc. Chỉ khi những người
con đứng vào vị trí của bố mẹ, làm cha, làm mẹ thật sự thì mới thấu
hiểu được những nỗi lòng, những công lao mà cha mẹ mình gánh
chịu: Thức lâu mới biết đêm trường/ Nuôi con, ta mới biết thương mẹ
già; Soi gương mới biết mặt mình/ Nuôi con mới biết công trình mẹ
cha.
Bên cạnh tình cảm cha mẹ dành cho con ruột, ca dao tục ngữ
Nghệ Tĩnh cũng đã nhắc đến các tình cảm xoay quanh tình cảm của
cha mẹ như tình cảm mẹ chồng - nàng dâu, mẹ vợ - con rể, dì ghẻ con chồng: Có phúc được dâu hiền rể thảo/ Vô phúc phải dâu cáo, rể
chồn; Con đẻ như trứng trên bông/ Đối với con chồng như sắt trên
đe;… Gặp phải dâu hiền, rể thảo hay rể chồn, dâu cáo là do sống “có
phúc” hay “vô phúc”. Tuy nhiên, người dân Nghệ Tĩnh không phải
hoàn toàn suy nghĩ đổ lỗi cho phúc phận, mà họ nhận ra được các
mối quan hệ tình cảm đó là do một phần ở con người. Người dân xứ
Nghệ tin rằng con người có thể thay đổi được, dung hòa được các
mối quan hệ: Năng mưa thì giếng năng đầy/ Anh năng đi lại, mẹ thầy
năng thương [20, tr.533].
2.3.4. Một số mối quan hệ tình cảm khác
Tình cảm anh em có nhiều bài ca dao, những câu tục ngữ hết
sức xúc động, triết lý: Anh em trai như khoai chấm mật; Chị em gái
như trái cau non. Lấy những hình ảnh giản dị, đơn sơ, mộc mạc có
trong đời sống hàng ngày, người dân xứ Nghệ đã làm đẹp thêm cho
tình cảm anh chị em thêm ấm nồng, thắm thiết. Trong tình cảm chị
em, yêu thương nhau vẫn là chưa đủ mà còn phải nâng đỡ lẫn nhau,
cùng nhau tiến bước, đó mới là tình yêu thương đích thực: Chị em



17
một ruột cắt ra/ Chị có em có mới là thân nhau. Ngoài tình cảm anh
chị em ruột thịt, còn có tình cảm chị em dâu cũng được ca dao, tục
ngữ Nghệ Tĩnh đề cập đến, tuy có thể đó là cách nhìn phiến diện: Chị
em dâu như bầu nước lạnh; Em chồng ở với chị dâu/ Coi chừng
chúng nó giết nhau có ngày.
Tình bạn bè cũng là một tình cảm đáng quý và được người
dân xứ Nghệ coi trọng và có những bài học kinh nghiệm sâu sắc về
tình cảm bạn bè: Dẫu mà chức trọng quyền cao/ Cũng phải hạ võng
mà chào bạn quen; Ai ơi thương lấy bạn nghèo/ Buồm rách, lái gãy
cũng chèo bạn sang.

Tiểu kết chƣơng 2
Chương 2 là một bức tranh toàn cảnh và chân thực khái quát
lên toàn bộ nội dung chủ yếu về triết lý nhân sinh trong ca dao, tục
ngữ Nghệ Tĩnh. Bên cạnh những quan niệm về triết lý nhân sinh
quen thuộc trong tục ngữ, ca dao Việt Nam nói chung, ca dao, tục
ngữ Nghệ Tĩnh đã điểm tô thêm những nét độc đáo, mới mẻ về
những quan niệm về triết lý nhân sinh sâu sắc, đậm dấu ấn địa
phương và đậm chất của người xứ Nghệ. Có thể xem quan niệm về
triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh là một bản nhạc đa
cung bậc, có những nốt rất trầm lắng, sâu đậm, thấm sâu trong tâm
hồn nhưng cũng có những nốt cao đầy mạnh mẽ, cứng cỏi, đầy nội
lực của một ý chí kiên cường, vươn cao, cất cánh không dễ bị khuất
phục trước mọi hoàn cảnh.


18

CHƢƠNG 3. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA

TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG CA DAO, TỤC NGỮ
NGHỆ TĨNH
3.1. Về mặt giá trị
3.1.1. Giá trị thực tiễn
Đặc sắc của thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh là ở chỗ thể hiện rất
rõ chất người Nghệ Tĩnh, chân dung tinh thần của con người vùng
văn hóa Hồng Lam: bản lĩnh cứng cỏi, bền bỉ gân guốc, trọng nghĩa
khinh tài, điềm tĩnh sâu sắc, giàu khát vọng và nhiều lúc thiết tha tinh
tế. Người xứ Nghệ không chỉ truyền cho con trẻ lòng biết ơn công
cha nghĩa mẹ mà còn dưỡng dục con về chí khí làm người. Cùng với
tình cảm gia đình, sống cho tròn chữ hiếu, người Nghệ Tĩnh nêu cao
tình cảm cộng đồng và trách nhiệm xã hội.
Đối mặt với điều kiện tự nhiên không thuận lợi là điều quen
thuộc với người dân Nghệ Tĩnh ngàn đời nay. Trước thiên nhiên khắc
nghiệt, họ thể hiện ý chí phi thường: Trèo truông những ước truông
cao/ Đã đi đò dọc ước ao sông dài [20, tr.676]. Đó còn là niềm tin,
hy vọng vào ngày mai tươi sáng, luôn lạc quan, kiên trì và nhẫn nại
để thành công: “Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”. Sống giữ trong
sạch, để đức cho con cháu mai sau: “Đói cho sạch, rách cho thơm”.
Với cộng đồng, ca dao, tục ngữ xứ Nghệ đề cao tinh thần
đoàn kết, gắn bó, yêu thương lẫn nhau: “Bán anh em xa, mua láng
giềng gần”. Tình cảm gia đình với những giá trị đáng được trân
trọng, giữ gìn và phát huy như: “Chị ngã, em nâng”; “Anh em chín
bỏ làm mười”; “Sảy cha còn chú, sảy mẹ bú gì”; “Chồng giận thì vợ
bớt lời, cơm khê nhỏ lửa một đời không khê”; “Xấu chàng, hổ
ai”…Trong quan hệ ứng xử, có nhiều lời khuyên bổ ích: “Bớt mồm,
bớt miệng”; “Liệu cơm, gắp mắm”; “Ăn chắc, mặc bền”.


19

Trong mối quan hệ với thiên nhiên, ca dao, tục ngữ Nghệ
Tĩnh đúc rút được nhiều kinh nghiệm quý báu về thời tiết, mùa màng
cho người đời sau: “Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa”; “Chuồn
chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”; “Đầu
năm sương muối, cuối năm gió nồm”; “Ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì
mưa”.
3.1.2. Giá trị thời đại
Thông qua các quan niệm về triết lý nhân sinh trong ca dao,
tục ngữ Nghệ Tĩnh chúng ta thấy được vai trò của nhân tố con người
trong mối quan hệ với nhân tố khách quan, nhưng không nên nôn
nóng, đốt cháy giai đoạn hoặc chần chừ làm mất đi cơ hội thành
công. Con người không thể bị động ngồi chờ thời mà phải luôn luôn
vận động, hội tụ các điều kiện cần và đủ để tạo ra thời thế, biết chớp
thời cơ đúng lúc thì sẽ thành công: “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”,
như Hồ Chí Minh từng nói: Lạc nước hai xe đành bỏ phí/ Gặp thời
một tốt cũng thành công.
3.2. Mặt hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế
3.2.1. Những hạn chế
Người xứ Nghệ nhiều lúc khô khan đến cứng nhắc, thẳng
thắn đến nóng nảy, tính cách át đi lý trí, không khôn khéo trong ứng
xử nên nhiều lúc không được việc. Người dân xứ Nghệ vẫn không
thoát ra được rào cản, tư tưởng cố hữu đó là đặt niềm tin vào thế lực
siêu nhiên “Ông Trời”: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Khi đánh giá bản
chất của một con người, không đặt trong tương quan với các điều
kiện khác nên có lúc đưa ra những nhận định phiếm diện, sai lầm về
bản chất của con người. Đâu đó vẫn còn tư tưởng phân biệt giàu nghèo, sang - hèn, ham giàu, chê kẻ nghèo hèn: Đứng thấp thì chẳng
ai nhìn/ Trèo lên cây quế ba nghìn người trông.


20

Trong mối quan hệ với cộng đồng, vẫn còn tư tưởng đặt lợi
ích cá nhân lên trên hết: “Ăn cây nào rào cây nấy”; “Ai lo phận nấy”.
Đâu đó vẫn có sự ganh đua, đố kỵ nhau không lành mạnh giữa những
người cùng láng giềng với nhau, không muốn ai hơn ai theo kiểu:
“Con gà tức nhau tiếng gáy”, mạnh ai người ấy được, cậy quyền, cậy
thế “Cá lớn nuốt cá bé” hoặc a dua, bênh vực nhau theo kiểu “Cá mè
một lứa” mà không có chính kiến riêng của cá nhân. Trong quan hệ
dòng tộc, họ hàng còn nhiều mối quan hệ chồng chéo, rườm rà “Dây
mơ, rể má”. Coi trọng máu mủ, ruột thịt nên có sự phân biệt trong đối
xử “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Người dân còn mang tư
tưởng cục bộ, địa phương, phân biệt trong đối xử với làng này, làng
khác, người làng này, người làng khác: “Ta về ta tắm ao ta, dù trong
dù đục ao nhà vẫn hơn”. Những lối suy nghĩ phiếm diện, tư duy hạn
hẹp này đã ảnh hưởng ít nhiều đến người dân các vùng có liên quan.
Bản tính cứng rắn, mạnh mẽ đến sắt đá là vậy nhưng nhiều
khi lý trí của người dân Nghệ Tĩnh vẫn bị chi phối bởi tình cảm, để
tình cảm điều khiển lý trí đến mức mê muội: Yêu nhau đem quách
nhau đi/ Công cha nghĩa mẹ sau này hãy hay. Một số quan điểm
không còn phù hợp với ngày nay như: Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy;
Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà, Cha mẹ sinh con trời sinh tính.
3.2.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan: Một phần do xã hội phong kiến
thời bấy giờ với những tư tưởng cổ hũ, lạc hậu đã ăn sâu vào trong
tâm trí của mọi người dân khiến họ có cách nghĩ tiêu cực. Bên cạnh
đó, chính tác động của hoàn cảnh sống, địa lý tự nhiên khắc nghiệt,
hiểm trở cộng với phương thức sản xuất canh tác thô sơ, lạc hậu,
chậm đổi mới và chậm phát triển đã ảnh hưởng rất lớn đến lối tư duy
và suy nghĩ, tư tưởng của người dân nơi đây.



21
Nguyên nhân chủ quan: Cuộc sống quanh quẩn trong đói
nghèo, người dân luôn phải vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt để
sinh tồn nên họ thường suy nghĩ cẩn thận, đi và làm theo những kinh
nghiệm có sẵn từ người xưa để lại chứ không dám làm khác “Ăn cổ
đi trước, lội nước theo sau”. Giáo dục thời bấy giờ cũng hạn chế,
người dân chủ yếu không biết chữ nên nhận thức còn hạn hẹp dẫn
đến những lối suy nghĩ còn ngây thơ, mộc mạc, chất phác theo bản
năng, bản tính chủ quan chứ chưa tư duy sâu sắc, logic.
3.3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy các
giá trị triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh hiện
nay
3.3.1. Thực trạng công tác bảo tồn ca dao, tục ngữ Nghệ
Tĩnh
Cùng với sự chuyển mình mạnh mẽ trên lĩnh vực bảo tồn di
sản văn hóa vật thể, những năm qua ngành văn hóa hai tỉnh Nghệ An
và Hà Tĩnh đã có nhiều nỗ lực nhằm tăng cường công tác bảo tồn văn
hóa phi vật thể, trong đó có ca dao và tục ngữ. Bên cạnh đó những ưu
điểm ở trên, để bảo tồn và phát huy giá trị ca dao, tục ngữ trong đời
sống đương đại gặp không ít khó khăn, trở ngại.
3.3.2. Một số giải pháp, kiến nghị
Cần chú trọng kết hợp giữa “bảo tồn tĩnh” với “bảo tồn
động”, đem lại sức sống mới ca dao, tục ngữ.
Có chính sách khuyến khích, đãi ngộ, tôn vinh các tác giả có
công lưu giữ và trao truyền ca dao, tục ngữ. Tạo mọi điều kiện thuận
lợi để các tác giả yên tâm, tích cực truyền dạy trong gia đình, nhà
trường và cộng đồng; Đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng các
thế hệ kế cận; Tiếp tục đẩy mạnh công tác kiểm kê, nhận diện, nghiên
cứu, tư liệu hóa kho tàng ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh. Điều tra, sưu



22
tầm vốn ca dao, tục ngữ còn tản mát trong dân gian. Phục hồi một số
bài ca dao, tục ngữ truyền thống đã bị mai một; Tăng cường công tác
tuyên truyền, quảng bá, nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị
của ca dao, tục ngữ; Tăng cường sự hỗ trợ về chuyên môn từ phía
các cơ quan quản lý nhà nước; Tổ chức định kỳ các cuộc thi về ca
dao, tục ngữ theo các quy mô khác nhau.

Tiểu kết Chƣơng 3
Với những nỗ lực trong thời gian qua, hai tỉnh Nghệ An và
Hà Tĩnh đã có những biện pháp, những bước đi và cách làm mới
nhằm nỗ lực giữ gìn và phát huy vai trò của văn hóa dân gian nói
chung, ca dao, tục ngữ nói riêng trong đời sống của nhân dân, góp
phần phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch của địa phương. Mặc dù vậy,
để cho văn hóa dân gian xứ Nghệ nói chung, ca dao, tục ngữ nói
riêng trong đó có giá trị về triết lý nhân sinh thực sự đi vào đời sống
hiện đại và có sức lan tỏa mạnh mẽ đến mọi người dân và du khách
trên thế giới đến tham quan, du lịch vẫn còn đó những hạn chế, trở
ngại. Cần những bước đi táo bạo hơn, cụ thể hơn và khác biệt hơn
nữa mới hy vọng có sự đột phá.
Hy vọng rằng với những giải pháp, kiến nghị chúng tôi đề
xuất ở trên có thể đóng góp phần nhỏ bé vào việc giữ gìn, bảo tồn và
phát huy ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh nói chung, trong đó có giá trị của
triết lý nhân sinh.


23
KẾT LUẬN
Ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh là bức tranh toàn cảnh phản ánh

điều kiện tự nhiên, văn hóa, lịch sử, tư tưởng của vùng đất Bắc Trung
bộ. Những đặc điểm riêng biệt của vùng đất này đã làm nên những
triết lý nhân sinh mang nét đặc trưng riêng của vùng đất Nghệ Tĩnh.
Vùng đất được xem là “địa linh nhân kiệt”, cuộc sống còn nhiều khó
khăn, nhọc nhằn nhưng thấm được tình quê hương xứ sở, sống trong
sạch, trọng đạo nghĩa. Chúng ta cảm nhận được rằng chốn làng quê
xứ Nghệ thật yên bình, tươi đẹp với những cảnh vật làng quê gần gũi
thân thương. Ở đó, tình người được gắn kết chặt chẽ, tình làng nghĩa
xóm ân tình, gắn bó, tình cảm dòng họ, gia đình thấm đượm tạo
thành nếp nhà vững chắc, kiên cố.
Có thể thấy rằng, ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh chứa đựng
nhiều triết lý nhân sinh sâu sắc. Hầu như đọc một câu ca dao, tục ngữ
nào chúng ta cũng tìm thấy tính triết lý nhân sinh ẩn chứa trong đó.
Qua việc đi sâu tìm hiểu Triết lý nhân sinh của ca dao, tục ngữ Nghệ
Tĩnh cho chúng ta cái nhìn khái quát và chân thực nhất đời sống, tính
cách, tâm tư tình cảm của những con người nơi đây. Đó là những
mảnh đời với cuộc sống đầy rẫy những khó khăn thử thách, sống trên
mảnh đất khô cằn sỏi đá, bị nhiều thế lực đàn áp bóc lột. Nhưng với
khí chất chất phác, đôn hậu, một bản lĩnh kiên cường đầy nội lực, con
người nơi đây luôn đấu tranh cho khát vọng và lẽ sống cao đẹp, ý chí
cất cánh, bay xa, bay cao hơn nữa. Họ dành niềm tin yêu vào cuộc
đời, vào một ngày mai tươi sáng hơn. Bởi chính vì lẽ đó, vùng đất
Nghệ Tĩnh đã sinh ra những người con anh kiệt, tài ba sẵn sàng vì
nước, vì dân. Đúng như lời nhận xét của nhà nghiên cứu Bùi Dương
Lịch: “Xứ này tuy đất xấu dân nghèo, nhưng dân đều vui vẻ công
việc, sẵn sàng vì nước, có lòng tôn quân thân thượng và biết lễ nghĩa
liêm sỉ…”. Tiềm năng của những con người xứ Nghệ còn ẩn chứa cần



×