Tải bản đầy đủ (.docx) (104 trang)

Thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.13 KB, 104 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

ĐỀ TÀI NCKH CẤP HỌC VIỆN

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

NĂM 2018
1


BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP HỌC VIỆN

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

Chủ nhiệm:

PGS.TS Nguyễn Văn Dần
ThS. Nguyễn Tiến Đức

Tham gia:

ThS. Đàm Thị Diệu Thúy
ThS. Đậu Thị Ngọc Trang


Nguyễn Mỹ Linh (CQ53/61.02)
Lê Thị Hồng Nhung (CQ53/61.02)

Hà Nội 2018
2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC VIẾT TẮT
ASEAN

:

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

HQSXKD

:

Hiệu quả sản xuất kinh doanh

DN

:

Doanh nghiệp


DNNVV

:

DNNVV

DT

:

Doanh thu

NHTM

:

Ngân hàng thương mại

NSNN

:

Ngân sách Nhà nước

VCSH

:

Vốn chủ sở hữu


VCĐ

:

Vốn cố định

VLĐ

:

Vốn lưu động

VKD

:

Vốn kinh doanh

TNHH

:

Trách nhiệm hữu hạn

TSCĐ

:

Tài sản cố định


CSTT

:

Chính sách tiền tệ

HTK

:

Hàng tồn kho

KPT

:

Khoản phải thu

WTO

:

Tổ chức Thương mại thế giới

4


DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÊN BẢNG


TRANG

Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại DNNVV của World Bank

17

Bảng 1.2: Tiêu chí xác định DNNVV ở một số quốc gia trên thế giới

17

Bảng 1.3: Tiêu chí phân loại DNNVV theo công văn 681/1998/CP-KTN

19

Bảng 1.4: Phân loại DNNVV tại Việt Nam theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP

20

Bảng 1.5: Phân loại DNNVV tại Việt Nam theo Nghị định 39/2018/NĐ-CP

21

Bảng 2.1: Phân bổ DN theo quy mô lao động và hình thức sở hữu năm 2015

50

Bảng 2.2: Thu nhập bình quân của người lao động trong các DNNVV

54


Bảng 2.3: Trình độ học vấn của chủ DNNVV năm 2012 và năm 2016

55

Bảng 2.4: Một số chỉ tiêu HQSXKD của các DNNVV giai đoạn 2012 – 2016

59

Bảng 2.5: Hiệu suất sinh lời trên doanh thu của DNNVV năm 2012 và 2016

61

Bảng 2.6: Chỉ số vòng quay vốn của DNNVV năm 2012 - 2016

63

Bảng 2.7: Hiệu suất sử dụng lao động của DNNVV năm 2012 - 2016

65

5


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
TÊN SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

TRANG

Sơ đồ 2.1: Số lượng DN thành lập mới và ngừng hoạt động giai

đoạn 2012 – 2016

47

Sơ đồ 2.2: Tổng VKD đăng ký và bình quân giai đoạn 2012 – 2016

48

Sơ đồ 2.3: Số lượng DN hoạt động giai đoạn 2012 – 2016

48

Sơ đồ 2.4: Doanh thu và lợi nhuận trước thuế của DNNVV

56

Sơ đồ 2.5: Giá trị gia tăng của DNNVV giai đoạn 2012 – 2016

56

Sơ đồ 2.6: Mức nộp NSNN của DNNVV giai đoạn 2012 – 2016

57

Sơ đồ 2.7: Năng suất lao động và sức sinh lời bình quân của lao
động của DNNVV giai đoạn 2012 - 2016

64

6



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
HQSXKD là một vấn đề hết sức quan trọng đối với các DN. Đặc biệt trong
bối cảnh kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt thì nâng cao HQSXKD của DN là
biện pháp sống còn giúp DN có thể tồn tại và phát triển. Mặc dù vậy, trên thực tế
không phải ngành nghề, lĩnh vực, DN nào cũng có thể thực hiện thành công mục
tiêu nâng cao QHSXKD. Do những biến động kinh tế vĩ mô, sự đổi mới liên tục
của cơ chế, chính sách mà hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
trong nền kinh tế có nhiều thay đổi. Có những doanh nghiệp trong quá khứ có
thể có HQSXKD tốt, duy trì được tốc độ tăng trưởng, thị phần và các chỉ tiêu
sinh lời ở mức cao nhưng khi nền kinh tế thay đổi chậm chuyển biến, chậm thích
nghi, không đổi mới nên HQSXKD giảm dần thậm chí rơi vào tình trạng phá
sản. Đặc biệt đối với các DNNVV trong nền kinh tế Việt Nam. Đây là các DN
có vị trí hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước, chiếm tỷ trọng
lớn trong nền kinh tế quốc dân, tạo ra nhiều công ăn việc làm, ổn định kinh tế xã
hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các DNNVV gặp không
ít khó khăn và thách thức nhằm đảm bảo quá trình tồn tại và phát triển của mình.
Có thể thấy, nâng cao hiệu suất hoạt động, cải thiện các chỉ tiêu sinh lời, lành
mạnh hóa tình hình tài chính cũng như khơi thông dòng tiền từ đó nâng cao
HQSXKD của DNNVV là mục tiêu quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Xuất
phát từ những cách tiếp cận trên, nhóm tác giả lựa chọn đề tài: “Đánh giá hiệu
quả sản xuất kinh doanh của DNNVV ở Việt Nam và một số khuyến nghị
chính sách” là cần thiết và có tính thời sự nhằm mục tiêu giúp cho các DNNVV
nâng cao được HQSXKD.
2. Những kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến HQSXKD
của DNNVV
Thứ nhất, các nghiên cứu về nâng cao HQSXKD của DN.
Nâng cao HQSXKD từ lâu đã trở thành đề tài quan trọng không chỉ của các

nhà nghiên cứu mà còn là mối quan tâm của các doanh nghiệp, các nhà hoạch
định chính sách, các nhà đầu tư. Trên thế giới cũng như tại Việt Nam có nhiều đề
7


tài, công trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu đề cập tới nôi dung này. Trong
đó, có thể kể tới một số công trình, đề tài tiêu biểu như sau:
Luận án “Các giải pháp nâng cao HQSXKD của các doanh nghiệp sản xuất
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” [24] của tác giả Đoàn Thục
Quyên (2015) thực hiện tại Học viện Tài chính đã hệ thống toàn bộ những lý
luận chung về doanh nghiệp sản xuất niêm yết như: Khái niệm, phân biệt, đặc
điểm... cũng như tác giả hệ thống hóa các lý luận và quan điểm về HQSXKD
của doanh nghiệp từ các khía cạnh khác nhau. Từ đó, tác giả đã tiến hành phân
tích HQSXKD của tất cả các doanh nghiệp sản xuất niêm yết tại nhiều ngành
nghề: hóa chất, xây dựng, dược phẩm... từ đó rút ra những kết quả đạt được,
những tồn tại cần khắc phục và nguyên nhân của nó. Thông qua đó, tác giả đã
đưa ra một loạt kiến nghị và đề xuất nhằm nâng cao hơn nữa HQSXKD. Đây là
một luận án có kết cấu chặt chẽ, văn phong rõ ràng và có ý nghĩa thực tiễn cao.
Tuy nhiên, doanh nghiệp sản xuất niêm yết là một phạm vi nghiên cứu rất rộng
với nhiều ngành nghề khác nhau như công nghiệp, xây dựng, chế biến... Với các
DNNY là doanh nghiệp kinh doanh có tính chất đặc thù do đó những đặc điểm
về ngành nghề kinh doanh cũng ảnh hưởng không ít tới HQSXKD của doanh
nghiệp. Do đó luận án của tác giả chưa thể làm sâu sắc những đặc điểm riêng
biệt có ảnh hưởng lớn của DN ảnh hưởng tới HQSXKD cũng như phân tích và
có giải pháp phù hợp với DN hiện nay.
Luận án Tiến sỹ kinh tế, trường Đại học Kinh tế quốc dân “Hoàn thiện hệ
thống chỉ tiêu đánh giá HQSXKD trong các DNNVV công trình giao thông
thuộc bộ giao thông vận tải” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hải (2013) [12] là
một công trình nghiên cứu khoa học công phu. Bên cạnh việc tác giả xây dựng
và hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu đánh giá HQSXKD nói chung thì tác giả

cũng nêu ra tác động từ đặc điểm riêng biệt của DN ảnh hưởng tới HQSXKD.
Tuy nhiên, luận án mới nghiên cứu HQSXKD trong phạm vi các DN công trình
giao thông thuộc Bộ Giao thông vận tải (hiện nhiều doanh nghiệp đã cổ phần
hóa và chuyển phần vốn Nhà nước về Tổng công ty Kinh doanh vốn Nhà nước SCIC quản lý). Số lượng DN mà luận án nghiên cứu chưa nhiều bên cạnh đó lại
8


có điểm chung là xây dựng công trình giao thông cũng như thuộc Bộ Giao thông
vận tải quản lý do đó phạm vi nghiên cứu cũng như tính thời sự của luận án
không phù hợp với tình hình hiện nay.
Luận án Tiến sỹ kinh tế, trường Đại học Kinh tế quốc dân “Những giải pháp
chủ yếu nhằm nâng cao HQSXKD của Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Minh An (2003) [1] đã đề cập đến hiệu quả sản
xuất tại Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam là một doanh nghiệp cụ
thể hoạt động trong lĩnh vực bưu chính và viễn thông. Luận án đã đưa ra những
lý luận và thực tiễn về HQSXKD của doanh nghiệp bưu chính viễn thông mà cụ
thể ở đây là Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam, thông qua việc
nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước Châu Á, Châu Đại Dương, Châu Âu
tác giả đã rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Tuy nhiên việc nghiên cứu
HQSXKD mà tác giả theo đuổi thiên nhiều về khía cạnh quản lý như: cơ cấu tổ
chức, mạng lưới, nhân lực, maketing, giá cước dịch vụ chứ ít quan tâm đến
HQSXKD dưới góc độ tài chính. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu tại một doanh
nghiệp bưu chính viễn thông là tương đối khác so với DNNVV. Đồng thời việc
phân tích của tác giả về HQSXKD còn thiếu tính thuyết phục khi chưa được
kiểm chứng bằng các mô hình kinh tế lượng để thấy tác động của các nhân tố
riêng biệt tới HQSXKD của DN.
Luận án Tiến sỹ kinh tế, Đại học Ngoại thương “Các giải pháp nhằm nâng
cao HQSXKD vận tải Hàng không của Hãng hàng không quốc gia Việt Nam
(VietNam Airlines)” của tác giả Nguyễn Thu Sơn (2000) [27] đã đi vào nghiên
cứu HQSXKD tại một ngành nghề đặc thù là hàng không dân dụng tại một

doanh nghiệp cụ thể là Hãng hàng không quốc gia Việt Nam. Đây là doanh
nghiệp kinh doanh vận tải hàng không tiêu biểu và giữ thị phần lớn nhất Việt
Nam hiện nay. Với một hệ thống chi tiêu đánh giá HQSXKD liên quan tới lĩnh
vực vận tải hàng không như doanh thu bình quân một hành khách vận chuyển
hay một kg hàng hóa vận tải; doanh thu bình quân một hành khách/km hay một
tấn hàng hóa/km; lợi nhuận, thời hạn hoàn vốn... có thể thấy các chỉ tiêu phân
tích của tác giả đưa ra phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh tuyệt đối mà chưa
9


phản ánh được mối quan hệ giữa kết quả đầu ra với chi phí đầu vào. Bên cạnh
đó, những phân tích của tác giả về HQSXKD tương đối rời rạc, phân tích từng
yếu tố, từng chỉ tiêu mà chưa có một mô hình đầy đủ nhằm chỉ ra những nhân tố
tác động và tác động bao nhiêu tới HQSXKD của doanh nghiệp.
Luận án Tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân “Phân tích HQSXKD
trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị
Mai Hương (2008) [15] đã nghiên cứu những đặc điểm, HQSXKD của các
doanh nghiệp khoáng sản ở Việt Nam. Qua đó, tác giả đề xuất một số giải pháp
để nâng cao HQSXKD của các doanh nghiệp này. Mặc dù doanh nghiệp khoáng
sản và DN có khá nhiều điểm giống nhau như: nơi sản xuất, khai thác cố định và
khác trụ sở công ty; bị tác động nhiều bởi yếu tố tự nhiên,… nhưng DN và
doanh nghiệp khai thác khoáng sản vẫn có rất nhiều điểm khác biệt. Đồng thời
HQSXKD mà tác giả nghiên cứu chỉ là HQSXKD bên trong của doanh nghiệp,
nó chỉ phán ánh được khả năng sinh lời phục vụ mục tiêu lợi nhuận mà chưa
phản ánh được giá trị thị trường của doanh nghiệp, chưa phân tích được
HQSXKD dưới góc nhìn giá trị doanh nghiệp mà hiện nay chủ sở hữu đang theo
đuổi.
Luận án Tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân “Hoàn thiện phân tích
HQSXKD trong các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt
Nam” của tác giả Trần Thị Thu Phong (2013) [21], thông qua việc trình bày hệ

thống chỉ tiêu đo lường kết quả đầu ra với yếu tố đầu vào tác giả đã đi vào phân
tích HQSXKD của các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam. Do đề tài là hoàn thiện phân tích nên các giải pháp mà tác giả đề xuất
thiên nhiều về việc nâng cao kỹ thuật phân tích HQSXKD chứ không đi sâu vào
các giải pháp để nâng cao HQSXKD. Ngoài ra, các chỉ tiêu phân tích của tác giả
chưa đánh giá được các nhân tố khách quan: thuế, lãi vay, khấu hao... hay các
nhân tố chủ quan: lợi nhuận gộp, hiệu suất hoạt động... tới HQSXKD của doanh
nghiệp đặc biệt là HQSXKD của DN.
Ngoài ra, một số luận án khác cũng được nghiên cứu về HQSXKD có thể kể
tới như: “Những giải pháp chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất- kinh
10


doanh ngành may mặc Việt Nam” của Phạm Thị Thu Phương (1999) [23]; Trần
Văn Ất (2002), “Nghiên cứu các lĩnh vực và phương pháp áp dụng hai chỉ tiêu
“Khả năng tài chính” và “Khả năng bồi hoàn định phí có lãi” nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng” [2]; Luận án Tiến sỹ
kinh tế, Đại học Xây dựng, Nguyễn Đăng Liêm (1994), “Cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nước: Một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao HQSXKD
của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường” [19]; Luận án Tiến sỹ kinh
tế, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Dương Văn Chung (2003),
“Nghiên cứu về HQSXKD và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp Nhà nước xây dựng giao thông” [5]; Luận án Tiến sỹ
kinh tế, Đại học Nông nghiệp I, Lê Thanh Bình (1996), “Một số giải pháp nâng
cao HQSXKD của các doanh nghiệp quốc phòng thuộc tổng cục CNQP và KT
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [3]; Luận án Tiến sỹ kinh tế, Đại học
Thương mại, Nguyễn Thanh Hải (2011), “Nâng cao HQSXKD của các doanh
nghiệp thương mại bán lẻ hiện đại trên địa bàn Hà Nội” [11] ...
Thứ hai, các nghiên cứu về DNNVV.

Luận án Tiến sỹ kinh tế, Học viện Ngân hàng, “Tăng trưởng tín dụng ngân
hàng đối với DNNVV ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn” của tác
giả Nguyễn Văn Lê (2014) đã tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống về
những vấn đề lý luận và thực tiễn về tăng trưởng tín dụng ngân hàng đối với
DNNVV tại Việt Nam trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn. Luận án đã kết hợp
nghiên cứu định tính và định lượng thực trạng tăng trưởng tín dụng đối với
DNNVV ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn. Theo đó, đã nghiên
cứu thực nghiệm, đưa ra các giả thuyết, xây dựng mô hình đo lường các nhân tố
ảnh hưởng đến tỷ trọng vay vốn ngân hàng của DNNVV, sử dụng phương pháp
hồi quy bình phương nhỏ nhất thông thường và xác định kết quả hồi quy, từ đó
cho thấy hệ thống DNNVV phải đối mặt với rủi ro tài chính khá lớn trong bối
cảnh kinh tế vĩ mô bất ổn, khi lợi nhuận tạo ra giảm sút và chi phí lãi vay tăng
cao. Để đảm bảo tăng trưởng tín dụng đối với DNNVV ở Việt Nam trong điều
11


kiện kinh tế vĩ mô bất ổn, tác giả đã đề xuất 03 nhóm giải pháp: (i) Xây dựng
quy trình tăng trưởng tín dụng và sử dụng các công cụ để thực hiện chiến lược
tăng trưởng; (ii) Xây dựng quy trình tín dụng chuẩn cho DNNVV; (iii) Tiếp tục
lộ trình giảm lãi suất một cách tích cực, sớm thành lập tổ chức đánh giá xếp
hạng và bảo lãnh các DNNVV Việt Nam tiếp cận vốn ngân hàng theo mô hình
của tổ chức KOTEC đã thành công tại Hàn Quốc.
Luận án Tiến sỹ kinh tế, Đại học Mỏ - Địa chất, “Năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp nhỏ và vừa, nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hà Nội” của tác
giả Phạm Thu Hương (2017). Luận án đã đưa ra quan điểm về năng lực cạnh
tranh của DNNVV theo hướng tiếp cận lý thuyết năng lực. Theo quan điểm của
tác giả thì cách tiếp cận năng lực cạnh tranh theo lý thuyết năng lực là phù hợp
với đặc điểm của các DNNVV và các điều kiện về môi trường kinh doanh hiện
nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, bằng việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu
phù hợp, luận án đã xác định được 6 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh

tranh phù hợp với đặc điểm của DNNVV Việt Nam đồng thời đã xây dựng được
các chỉ tiêu đo lường của từng thang đo các nhân tố này, bao gồm: (1) Năng lực
tổ chức quản lý doanh nghiệp; (2) Năng lực Marketing; (3) Năng lực tài chính;
(4) Năng lực tiếp cận và đổi mới công nghệ; (5) Năng lực tổ chức dịch vụ và (6)
Năng lực thiết lập các mối quan hệ. Luận án đã đánh giá được mức độ tác động
của các nhân tố đến năng lực cạnh tranh của DNNVV theo từng lĩnh vực hoạt
động của DN (lĩnh vực thương mại và dịch vụ, lĩnh vực công nghiệp).
Một số tác phẩm viết thành sách như: PGS.TS Nguyễn Cúc, Chính sách
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 1997;
Vương Liêm, Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nxb Giao thông vận tải, 2000; Vũ
Quốc Tuấn - Hoàng Thu Hà, Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm
nước ngoài và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, Nxb Thống kê,
2001.
Bên cạnh các công trình đã xuất bản thành sách có một số công trình nghiên
cứu khoa học đáng chú ý như: Hồ Tiến Dũng, Giải pháp phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở TP Hồ Chí Minh, luận án Tiến sĩ kinh tế, 1998. Phạm Văn
12


Hồng, Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế, luận án Tiến sĩ kinh tế, 2007. Lê Việt Đông, Doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay, luận án Thạc sỹ kinh tế, 2006.
Các công trình trên đều tập trung nghiên cứu đặc điểm, vai trò, thực trạng phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, từ đó đưa ra các giải pháp, chính sách phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Ngoài ra, trên các báo, tạp chí còn rất nhiều tác giả viết về các vấn đề doanh
nghiệp vừa và nhỏ như: tạo vốn, đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ công nghệ thông
tin ... cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Qua các bài viết các tác giả đã làm rõ những
vấn đề cơ bản như: khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ, ưu thế và hạn chế của
doanh nghiệp vừa và nhỏ, đưa ra những khuyến nghị chính sách hỗ trợ các

doanh nghiệp này.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học liên quan tới HQSXKD của
DN đã công bố có những điểm chung như sau:
Thứ nhất, các nghiên cứu về HQSXKD thường nghiên cứu tại một doanh
nghiệp cụ thể hoặc một nhóm doanh nghiệp trong cùng một tổng công ty, có
cùng bộ chủ quản... hoặc là những doanh nghiệp tại các ngành nghề kinh doanh
trong nền kinh tế quốc dân mà chưa có một công trình nào nghiên cứu
HQSXKD tại DNNVV.
Thứ hai, các nghiên cứu về DNNVV đã công bố thường tập trung đến các
khía cạnh tiếp cận các nguồn lực tài chính, nâng cao năng lực quản trị… mà
chưa có các nghiên cứu về việc nâng cao HQSXKD cho đối tượng này.
Thứ ba, nghiên cứu về HQSXKD của DNNVV ở mỗi giai đoạn khác nhau
chịu sự chi phối bởi chính sách và tình hình kinh tế vĩ mô ở giai đoạn đó. Trong
giai đoạn 2012 - 2016, việc nghiên cứu về HQSXKD của DNNVV là hết sức
cần thiết do sự biến động khó lường của kinh tế toàn cầu cũng như những khó
khăn nội tại của nền kinh tế.
Thứ tư, hệ thống giải pháp nhằm nâng cao HQSXKD phải đảm bảo tính thời
sự cũng như thực tiễn. Những thay đổi quan trọng về chính sách, pháp luật trong
13


thời gian qua đưa đến cho người nghiên cứu những hướng đi mới phù hợp hơn
nhằm nâng cao HQSXKD của DNNVV.
Từ những phân tích ở trên có thể thấy: hiện nay chưa có công trình nghiên
cứu nào đã công bố liên quan tới HQSXKD của DNNVV tại Việt Nam đảm bảo
tính đầy đủ và thời sự. Do đó, những khoảng trống về nghiên cứu được nhắc tới
ở trên là hướng đi mới trên nền tảng đã có nhằm đánh giá hiệu quả sản xuất kinh
doanh của DNNVV ở Việt Nam một cách khoa học và thực tiễn và đề xuất một
số khuyến nghị chính sách hiệu quả cho các chủ thể trong nền kinh tế
3. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố
đến HQSXKD của các DNNVV, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần
nâng cao HQSXKD của DNNVV ở Việt Nam.
Từ mục đích nghiên cứu trên, đề tài sẽ đi theo những mục tiêu cụ thể như
sau:
Thứ nhất: Hệ thống hóa các lý luận về DNNVV và HQSXKD của DNNVV.
Thứ hai: Đề tài nghiên cứu những vấn đề thực tiễn về HQSXKD của
DNNVV ở Việt Nam. Từ đó rút ra những kết quả đạt được, những tồn tại và
nguyên nhân trong hoạt động SXKD của các DNNVV tại Việt Nam.
Thứ ba: Đề tài đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm gia tăng khả năng
hoạt động, cải thiện tình hình tài chính… từ đó nâng cao hơn nữa HQSXKD của
DN Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là HQSXKD của DNNVV.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu DNNVV của Việt Nam.
- Về thời gian: Sử dụng số liệu, dữ liệu báo cáo tài chính và các báo cáo
khác trong giai đoạn từ năm 2012 tới năm 2016.

14


- Về nội dung: Đề tài nghiên cứu những vấn đề về HQSXKD, những lý luận
chung về HQSXKD, thực tiễn cũng như các giải pháp nâng cao HQSXKD tại
các DNNVV của Việt Nam.
5. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống lý luận về hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNVV.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNVV ở Việt
Nam thời gian qua.

- Đề xuất một số khuyến nghị về chính sách nhằm nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các DNNVV ở Việt Nam trong thời gian tới.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu và các mục tiêu nghiên cứu đặt ra,
đề tài sẽ sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu như sau: Phương pháp
luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp thu thập số liệu, phương
pháp thống kê, phương pháp tính toán và phân tích số liệu
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần tổng quan, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các
phụ lục đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số lý luận về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nhỏ và vừa.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNVV của Việt
Nam thời gian qua.
Chương 3: Một số khuyến nghị về chính sách nhằm nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các DNNVV của Việt Nam trong thời gian tới.

15


Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DNNVV
1.1.1. Khái niệm và tiêu chí xác định DNNVV
Trong nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng,
thuật ngữ “DNNVV” được sử dụng tương đối phổ biến. Thông thường, trên thế
giới việc xác định một DN là DNNVV chủ yếu căn cứ vào hai nhóm tiêu chí
phổ biến là tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng.
Tiêu chí định tính được xây dựng dựa trên các đặc trưng cơ bản của các

DNNVV như trình độ chuyên môn hóa thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức
tạp của quản lý thấp... Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của
vấn đề nhưng trên thực tế thường khó xác định. Do đó, chúng chỉ được sử dụng
để tham khảo, kiểm chứng mà ít được sử dụng để xác định quy mô DN.
Tiêu chí định lượng được xây dựng dựa trên các chỉ tiêu như số lượng lao
động, tổng giá trị tài sản (hay tổng vốn), doanh thu hoặc lợi nhuận của DN. Số
lao động có thể là số lao động trung bình trong danh sách hoặc số lao động
thường xuyên thực tế của DN. Tài sản hoặc vốn có thể bao gồm tổng giá trị tài
sản (hay vốn) cố định hoặc giá trị tài sản (hay vốn) còn lại của DN.
Khi đề cập đến khái niệm của DNNVV, các quốc gia thường nhắc tới cách
phân loại DN dựa trên quy mô. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay vẫn chưa có
khái niệm chuẩn mực cho thuật ngữ “DNNVV” do sự bất đồng trong việc lựa
chọn các tiêu chí đánh giá quy mô DN cũng như việc lượng hóa các tiêu chí
thông qua các chỉ tiêu cụ thể ở từng quốc gia. Trên thực tế, tùy thuộc vào điều
kiện cụ thể của mỗi nước, đồng thời tùy thuộc vào đặc điểm từng ngành, nghề
kinh doanh mà mỗi nước có thể sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp các tiêu chí: tổng
số lao động, tổng vốn kinh doanh, doanh thu.
Theo tiêu chí phân loại của Ngân hàng thế giới (World Bank), căn cứ vào
quy mô có thể chia DNNVV thành ba loại: DN siêu nhỏ, DN nhỏ và DN vừa.
16


Các tiêu chí để phân loại DNNVV của World Bank chủ yếu dựa vào số lượng
lao động bình quân, tài sản và doanh thu hàng năm của DN.
Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại DNNVV của World Bank
Quy mô
Siêu nhỏ
Nhỏ
Vừa


Số lao động
<10
<50
<300

VKD
Doanh thu hàng năm
< $100,000
< $100,000
< $3 triệu
< $3 triệu
< $15 triệu
< $15 triệu
Nguồn: Tổng hợp từ World Bank

Ngoài ra, tại mỗi quốc gia có nền kinh khác nhau, theo từng giai đoạn phát
triển kinh tế thì quan niệm về DNNVV cũng khác nhau. Chẳng hạn tại các quốc
gia thuộc khối Liên minh Châu Âu, DNNVV là những doanh nghiệp có số lượng
nhân viên dưới 250 người và doanh thu hàng năm là nhỏ hơn 50 triệu euro. Còn
tại Châu Mĩ, cụ thể là nước Mĩ thì DNNVV là những doanh nghiệp có số lượng
người lao động dưới 500 người và có doanh thu hàng năm là dưới 7 triệu đô la.
Bảng 1.2: Tiêu chí xác định DNNVV ở một số quốc gia trên thế giới
Quốc gia
1. Mỹ

Tiêu chí
Số lao động

Tổng VKD


Doanh thu

<500

-

-

- Bán lẻ

< 50

< 10 triệu Yên

-

- Bán buôn

< 100

< 100 triệu Yên

-

- Dịch vụ

< 100

< 50 triệu Yên


-

- Các ngành sản xuất

< 300

< 300 triệu Yên

-

3. EU

< 250

< 27 triệu Euro

<50 triệu Euro

- Công nghiệp và dịch vụ < 500

-

-

- Các ngành khác

< 300

-


-

5. Canada

< 500

-

< 20 triệu đô la
Canada

2. Nhật Bản

4. Australia

17


6. Hàn Quốc
< 1,4
USD

- Công nghiệp xây dựng

< 300

< 0,6 triệu USD

- Thương mại dịch vụ


< 50

< 0,25 triệu USD

7. Indonesia

-

< 100.000 USD

8. Philippines

10 – 199

1,5 – 60 triệu peso -

- Sản xuất

-

< 200 triệu baht

-

-Bán buôn

-

< 100 triệu baht


-

- Bán lẻ

-

< 60 triệu baht

-

triệu

< 500.000 USD

9. Thái Lan

(Nguồn: [28])
Như vậy, có thể khái quát khái niệm về DNNVV ở các nước như sau:
DNNVV là doanh nghiệp có quy mô được giới hạn bởi các tiêu thức số lượng
lao động, vốn và/hoặc doanh thu tùy theo quy định của từng quốc gia. Như vậy,
khái niệm về DNNVV này mang tính tương đối, thay đổi theo từng giai đoạn
phát triển cũng như trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước và đồng
thời phụ thuộc vào đặc điểm của các ngành nghề kinh doanh.
Ở Việt Nam, việc hình thành quan niệm và các cách xác định DNNVV có sự
khác nhau giữa các thời kỳ:
-

Trước năm 1998, Việt Nam chưa có văn bản pháp luật chính thức nào quy định
tiêu chí cụ thể của DNNVV. Do đó, mỗi địa phương, mỗi tổ chức đưa ra một
quan niệm riêng về DNNVV nhằm định hướng mục tiêu và đối tượng hỗ trợ của


-

địa phương, tổ chức đó.
Ngày 20/6/1998, Chính phủ ban hành Công văn số 681/1998/CP-KTN về việc
định hướng chiến lược và chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV ở Việt Nam. Đây
là cột mốc đánh dấu bước khởi đầu trong quá trình thống nhất quan niệm về
DNNVV ở Việt Nam. Tiêu thức phân loại theo Công văn số 681/1998/CP-KTN
không tính đến hình thức sở hữu, không phân biệt DN nhà nước hay DN tư
nhân.
Bảng 1.3: Tiêu chí phân loại DNNVV theo công văn 681/1998/CP-KTN
18


-

Tổng nguồn vốn

Số lao động

I. Công nghiệp

< 5 tỷ đồng

< 300 lao động

II. Thương mại và dịch vụ

< 3 tỷ đồng
< 200 lao động

(Nguồn: Công văn số 681/1998/CP-KTN)

Năm 1999, Luật Doanh nghiệp ra đời, cùng với việc thông qua các luật thuế, các
chính sách hỗ trợ, ưu đãi DN, sự cải thiện của môi trường kinh doanh, số lượng
DNNVV ở Việt Nam có sự gia tăng đáng kể. Để phù hợp với xu thế mới, ngày
23/11/2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP nhằm trợ giúp
phát triển DNNVV. Theo đó khái niệm DNNVV được hiểu là: “DNNVV là các
cơ sở sản xuất - kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện
hành, có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc có số lao động trung bình
hàng năm không quá 300 lao động” . Như vậy tiêu chí để xác định DNNVV theo
Nghị định số 90 là:
+ Có số vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng, hoặc
+ Có số lượng lao động dưới 300 người.
Mặc dù cách xác định DNNVV trong Nghị định trên đã tương đối phù hợp
với điều hiện kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời gian này, đồng thời cũng
đảm bảo sự bình đẳng giữa các DN trong nền kinh tế. Tuy nhiên, cách xác định
này vẫn còn chưa rõ ràng, chưa thực sự phù hợp với nhiều ngành nghề kinh
doanh cụ thể. Chẳng hạn qua thực tiễn áp dụng, khái niệm DNNVV của Nghị
định 90 đã bộc lộ những điểm chưa hợp lý “có những DN có số lao động vượt
xa con số 300 (có trường hợp 500 - 600 lao động), nhưng vì vốn đăng ký dưới
10 tỷ đồng nên vẫn được coi DNNVV. Ngược lại, có DN có mức vốn đăng ký
hàng trăm tỷ đồng, nhưng số lao động thường xuyên thấp hơn 300 cũng được
xếp vào nhóm DNNVV” . Mặt khác, khái niệm DNNVV không phân theo lĩnh
vực sản xuất cũng có hạn chế, vì “lĩnh vực sản xuất thì 10 tỷ đồng là ít, nhưng
trong một số lĩnh vực dịch vụ thì lại nhiều”. Hơn nữa, tiêu chí phân loại DN theo
vốn đăng ký do DN tự khai thường “mang tính chủ quan, không chính xác và
khó kiểm soát”. Điều này sẽ làm việc vận dụng chính sách hỗ trợ cụ thể cho
DNNVV gặp nhiều khó khăn.
19



-

Ngày 30/6/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp
phát triển DNNVV thay thế cho Nghị định số 90/2001/NĐ-CP, trong đó khái
niệm về DNNVV đã được đề cập cụ thể và chi tiết hơn. Vì vậy, từ tháng 8/2009,
khái niệm về DNNVV ở Việt Nam được áp dụng thống nhất như sau: DNNVV là
cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia
thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ và vừa dựa trên quy mô tổng nguồn vốn hoặc số lao
động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên).
Theo Nghị định trên, DNNVV phải đáp ứng các tiêu chí sau:
+ Về mặt pháp lý: phải là cơ sở kinh doanh đã kinh doanh theo quy định của
+
+
+

pháp luật.
Về quy mô: được phân thành 3 cấp : siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng
nguồn vốn.
Về vốn đăng ký: phụ thuộc vào quy mô và loại hình doanh nghiệp.
Về số lượng lao động trung bình hàng năm: phụ thuộc vào quy mô và loại
hình doanh nghiệp.

Bảng 1.4: Phân loại DNNVV tại Việt Nam theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP
Doanh

I. Nông, lâm nghiệp
và thủy sản
II.Công nghiệp và xây
dựng

III. Thương mại và
dịch vụ

Doanh nghiệp nhỏ

Doanh nghiệp vừa

nghiệp siêu

Tổng

Số lao

Tổng

nhỏ
<10 lao

VKD
<20 tỷ

động
10 – 200

VKD
20 - 100

200 – 300 lao

động


đồng

lao động

tỷ đồng

động

<10 lao

<20 tỷ

10 – 200

20 - 100

200 – 300 lao

động

đồng

lao động

tỷ đồng

động

<10 lao


< 10 tỷ

10 – 50 lao

10 -50 tỷ

50 – 100 lao

động

đồng

động

đồng

động

Số lao động

Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ- CP
- Ngày 11/03/2018, Chính phủ ban hành Nghị định 39/2018/NĐ-CP hướng
dẫn Luật Hỗ trợ DNNVV thay thế Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày
30/6/2009.Theo đó, Nghị định quy định chi tiết các tiêu chí xác định DNNVV
dựa trên các yếu tố: lĩnh vực hoạt động, số lượng lao động (tham gia BHXH bình
quân năm) và tổng doanh thu hoặc tổng nguồn vốn. Cụ thể, trong lĩnh vực
thương mại, dịch vụ; DNNVV được phân theo quy mô bao gồm:
20



Bảng 1.5: Phân loại DNNVV tại Việt Nam theo Nghị định 39/2018/NĐ-CP
DN siêu nhỏ
Tổng doanh thu

Số lao

Tổng doanh thu

Số lao

Tổng doanh thu

động

(hoặc Tổng VKD)

động

(hoặc Tổng VKD)

động

(hoặc Tổng VKD)

≤ 10

sản
II.Công nghiệp
và xây dựng

III. Thương mại
và dịch vụ

DN vừa

Số lao
I. Nông, lâm
nghiệp và thủy

DN nhỏ

≤ 10

≤ 10

DT ≤ 3 tỷ đồng (hoặc
VKD ≤ 3 tỷ đồng)
DT ≤ 3 tỷ đồng (hoặc
VKD ≤ 3 tỷ đồng)
DT ≤ 10 tỷ đồng (hoặc
VKD ≤ 3 tỷ đồng)

DT ≤ 50 tỷ đồng (hoặc

≤ 100

VKD ≤ 20 tỷ đồng)
DT ≤ 50 tỷ đồng (hoặc

≤ 100


VKD ≤ 20 tỷ đồng)

DT ≤ 200 tỷ đồng
≤ 200

đồng)
DT ≤ 200 tỷ đồng
≤ 200

(hoặc VKD ≤ 50 tỷ
đồng)

(hoặc VKD ≤ 100 tỷ
đồng)
DT ≤ 300 tỷ đồng

DT ≤ 100 tỷ đồng
≤ 50

(hoặc VKD ≤ 100 tỷ

≤ 100

(hoặc VKD ≤ 100 tỷ
đồng)

(Nguồn: Nghị định số 39/2018/NĐ-CP)
Tóm lại, tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể trong quá trình phát triển của
mỗi quốc gia, quan điểm về DNNVV sẽ có sự thay đổi. Với phạm vi nghiên cứu

của đề tài là các DNNVV ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đề tài sử dụng
quan điểm của các Chính phủ theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về các tiêu chí
cũng như cách xác định DNNVV để đảm bảo tính thống nhất trong giai đoạn
nghiên cứu từ năm 2012 đến năm 2016.
1.1.2. Đặc điểm của DNNVV
Cũng như các loại hình DN khác, DNNVV có một số đặc điểm cơ bản nhất
định trong quá trình hình thành và phát triển, cụ thể như:
Thứ nhất, DNNVV có quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh và tiềm lực tài
chính nhỏ.
Với lượng vốn đầu tư giới hạn và số lượng lao động tối đa là 300 người thì
quy mô của doanh nghiệp là tương đối nhỏ. Điều này mang lại một số lợi thế
cho DNNVV như khả năng dễ thành lập, dễ gia nhập thị trường, khả năng thu
hồi vốn nhanh. Những lợi thế này đã tạo điều kiện cho các DNNVV phát triển
trong nhiều ngành nghề, trên nhiều địa bàn, lấp vào các khoảng trống mà các
doanh nghiệp lớn để lại.
Tuy nhiên, do không có lợi thế kinh tế theo quy mô nên các DNNVV thường
bị yếu thế trong các mối quan hệ với các cơ quan công quyền và ngân hàng.
21


DNNVV gặp nhiều khó khăn trong mối quan hệ với các cơ quan quản lý nhà
nước, các trung tâm nghiên cứu khoa học, thông tin. Bên cạnh đó, các DNNVV
thường bị phụ thuộc vào các DN lớn trong quá trình phát triển, đặc biệt là phụ
thuộc về thị trường, công nghệ, tài chính, thương hiệu hàng hóa…
Ngoài ra, quy mô nhỏ và vấn đề minh bạch thông tin hạn chế cũng khiến cho
các doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận với các nhà đầu tư để huy động
vốn từ các ngân hàng cũng như từ thị trường chứng khoán. Vì vậy, các DNNVV
phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn phi chính thức, chiếm dụng từ đối tác và lợi
nhuận giữ lại. Đối với các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân
hàng, nguồn tài trợ này cũng không phải lúc nào cũng đáp ứng được nhu cầu của

doanh nghiệp do hạn chế về thủ tục vay vốn đối với ngân hàng, phương án sản
xuất kinh doanh chưa hoàn thiện, tài sản bảo đảm chưa đáp ứng được các tiêu
chuẩn của ngân hàng.
Tuy nhiên, DNNVV có khả năng huy động tốt các nguồn lực tài chính vi mô
và đầu tư mạo hiểm. Khi so sánh với các loại hình DN khác, DNNVV có thể tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh với những điều kiện giản đơn như vốn ít, số
lượng lao động không nhiều, diện tích mặt bằng kinh doanh không lớn và các
điều kiện, phương tiện làm việc đơn giản. Ngoài ra, DNNVV thường có vòng
quay chu kỳ sản phẩm nhanh, nên có thể sử dụng được các nguồn tài chính như:
vốn tự có, vốn của bạn bè, người thân. DNNVV cũng có thể sẵn sàng đầu tư vào
các lĩnh vực mới, lĩnh vực có rủi ro cao. Bởi vì, các doanh nghiệp này sử dụng
vốn đầu tư không lớn, chấp nhận trường hợp thua lỗ, phá sản; sử dụng ít lao
động; dễ đổi mới trang thiết bị và công nghệ; hoạt động hiệu quả với chi phí vốn
cố định thấp.
Thứ hai, loại hình doanh nghiệp và ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh phong
phú.
DNNVV hoạt động dưới nhiều loại hình doanh nghiệp như hộ kinh doanh cá
thể, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần… trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Điểm lợi của các DNNVV
được thể hiện thông qua khả năng thỏa mãn nhu cầu có hạn trong những thị
22


trường chuyên môn hóa, khuynh hướng sử dụng trình độ lao động kỹ thuật thấp.
DNNVV gia nhập thị trường sẵn sàng phục vụ nhu cầu ở các địa điểm xa,
khoảng trống mà các doanh nghiệp lớn không với tới hoặc không muốn với tới.
DNNVV là loại hình sản xuất có địa điểm phân tán, tổ chức bộ máy gọn nhẹ nên
dễ khởi động, năng động, nhạy bén với những thay đổi của thị trường. Nhờ quy
mô nhỏ, có khả năng tận dụng được nguồn lao động và nguyên vật liệu tại địa
phương, dễ dàng đáp ứng được những thay đổi trong nhu cầu của thị trường nên

DNNVV phát triển nhanh chóng, là nhân tố đóng góp vào ổn định đời sống xã
hội, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy, các DNNVV được hình
thành và hoạt động phù hợp với nhu cầu thực tế trên mỗi địa bàn.
Thứ ba, bộ máy điều hành gọn nhẹ, có tính linh hoạt cao những năng lực
quản trị chưa cao.
Với số lượng lao động không nhiều, cơ cấu tổ chức sản xuất cũng như bộ
máy quản lý trong các DNNVV tương đối gọn, không có quá nhiều các khâu
trung gian. Điều này làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; các quyết
định, các chỉ tiêu... đến với người lao động một cách nhanh chóng, tiết kiệm chi
phí quản lý DN. Áp dụng mô hình quản lý trực tiếp nên các quyết định thường
đựa được đưa ra nhanh chóng, nhạy bén với những thay đổi trong môi trường
kinh doanh.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực của các DNNVV còn nhiều hạn chế về trình độ
chuyên môn và năng lực quản trị. Ngoài ra, DNNVV thường gặp thiếu hụt về
nguồn lực quản lý, đội ngũ nhân viên và năng lực tổng thể. Thông thường các
DNNVV được điều hành bởi người sáng lập, trong khi các hãng kinh doanh lớn
là các chuyên gia, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động SXKD của DN,
khiến cho hàng hóa của DNNVV ít tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Bên cạnh đó, việc đưa ra các quyết định nhanh chóng kết hợp với việc thiếu
nghiên cứu tình hình thị trường thường dẫn tới rủi ro cho doanh nghiệp khi các
quyết định đưa ra thiếu tính chuẩn xác. Đây là hạn chế xuất phát từ thực tế một
bộ phận ban lãnh đạo DNNVV ít được đào tạo qua các trường lớp chính quy,
thiếu những kiến thức cơ bản về tài chính, luật pháp, quản trị kinh doanh…
23


Thứ tư, hoạt động của DNNVV phụ thuộc vào biến động của môi trường
kinh doanh.
Quy mô vốn thấp, hoạt động sản xuất kinh doanh mang nặng tính thời vụ,
thiếu chiến lược kinh doanh dài hạn, nguồn vốn thiếu phong phú dẫn đến mức

độ đa dạng hóa hoạt động kinh doanh và tính ổn định của DNNVV tương đối
thấp. Chính vì vậy, những thay đổi trong môi trường kinh tế vĩ mô và môi
trường kinh doanh thường có những ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của
DNNVV. Tuy vậy, với quy mô nhỏ, DNNVV cũng có những lợi thế nhất định
khi có tính linh hoạt, năng động cao, dễ thích nghi với các nhu cầu thay đổi của
thị trường, chẳng hạn như dễ dàng chuyển hướng kinh doanh sản xuất, tăng
giảm lao động, thậm chí di chuyển địa điểm sản xuất dễ dàng hơn các doanh
nghiệp lớn…
Thứ năm, chiến lược sản xuất kinh doanh, trình độ khoa học kỹ thuật và
năng lực cạnh tranh hạn chế.
Nhiều DNNVV thiếu một chiến lược kinh doanh rõ ràng, phù hợp với sứ
mệnh, mục tiêu của doanh nghiệp mà đa phần chỉ xây dựng các kế hoạch sản
xuất kinh doanh mang tính tạm thời, ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu biến động của
thị trường. Do đó, DNNVV thường có xu hướng đi chệnh ra sứ mệnh và mục
tiêu đề ra ban đầu và thiếu sự điều chỉnh kịp thời và hợp lý.
Trong thời đại khoa học kỹ thuật thay đổi nhanh chóng, đầu tư vào khoa học
kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, tiết kiệm chi phí trở thành
điều kiện cốt lõi để giúp bất kỳ một doanh nghiệp nào nâng cao năng lực cạnh
tranh. Đối với DNNVV, do quy mô vốn bị hạn chế nên việc đầu tư nâng cấp, đổi
mới các máy móc thiết bị, quy trình sản xuất thường không được thường xuyên
nên dẫn tới xu hướng rơi vào tình trạng công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý yếu
kém. Hệ quả là các DNNVV thường sử dụng công nghệ lạc hậu, chi phí sản xuất
cao, thiếu kinh nghiệm và trình độ trong nắm bắt thông tin thị trường cũng như
marketing sản phẩm, dịch vụ.
Thứ sáu, các DNNVV phải chịu nhiều rủi ro trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh hơn các DN có quy mô lớn.
24


Do hạn chế về nguồn vốn và lao động, các DNNVV khó tiếp cận và thực

hiện được các cơ hội đầu tư lớn. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh,
nếu các DNNVV đối mặt với những cú sốc tiêu cực trong nền kinh tế như sự
mất ổn định về chính trị - kinh tế, sự biến động bất thường của thị trường tài
chính… sẽ không tránh khỏi những tổn thất nhất định, thậm chí có thể phá sản
nhanh chóng.
1.1.3. Vai trò của DNNVV đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Sự phát triển của các DNNVV ở các quốc gia thời gian qua cho thấy loại
hình DN này có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, trong mạng lưới sản xuất toàn cầu và chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ.
Vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế được thể hiện thông qua các nội dung:
có khả năng tạo nhiều việc làm với chi phí thấp, cung cấp cho xã hội khối lượng
đáng kể hàng hóa và dịch vụ, qua đó góp phần làm tăng GDP cho nền kinh tế,
tăng cường kỹ năng quản lý và đổi mới công nghệ, kỹ thuật sản xuất, góp phần
làm giảm bớt chênh lệch về thu nhập trong xã hội, tăng nguồn đầu tư và tiết
kiệm của dân cư địa phương, góp phần làm cho nền kinh tế năng động và hiệu
quả hơn, cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau… Mức độ
đóng góp của DNNVV vào sự phát triển kinh tế của các nước thường được đo
lường thông qua các chỉ tiêu như mức độ thu hút lao động, vốn đầu tư, giá trị gia
tăng tạo ra trong nền kinh tế.
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các DNNVV có thể giữ những vai
trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò tương đồng như
sau:
- Các DNNVV giải quyết một số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, làm
tăng thu nhập cho người lao động.
Do các DNNVV tham gia kinh doanh ở tất cả các ngành nghề, lĩnh vực của
nền kinh tế với đa dạng các sản phẩm nên có thể đảm bảo cơ hội việc làm cho
nhiều đối tượng lao động ở nhiều vùng miền khác nhau. Mặt khác, do đặc điểm
sản xuất kinh doanh không yêu cầu trình độ cao nên có thể sử dụng được cả lao
động ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế chưa phát triển. Đặc biệt khi nền
25



×