Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào tự nhiên xã hội lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.49 KB, 23 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Mét sè kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả khi sö dông
Ph¬ng ph¸p Bµn tay nÆn bét ®Ó d¹y m«n Tự nhiên và xã hội lớp 3”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tự nhiên và xã hội lớp 3
3. Tác giả:
Họ và tên:

Nữ

Ngày tháng/năm sinh:
Trình độ chuyên môn:
Chức vụ, đơn vị công tác:
Điện thoại:
4. Đồng tác giả (nếu có)
Họ và tên;
Ngày tháng/năm sinh;
Trình độ chuyên môn:
Chức vụ, đơn vị công tác;
Điện thoại:
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tên đơn vị, địa chỉ, điện thoại
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): Tên đơn vị; địa chỉ; điện thoại
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu:

TÁC GIẢ
(ký, ghi rõ họ tên)

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP
DỤNG SÁNG KIẾN

1




THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Mét sè kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả khi sö dông
Ph¬ng ph¸p Bµn tay nÆn bét ®Ó d¹y m«n Tự nhiên và xã hội lớp 3”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tự nhiên và xã hội lớp 3
3. Tác giả:
Họ và tên: Lê Thị Phương Tâm

Nữ

Ngày tháng/năm sinh: 05 / 05 / 1989
Trình độ chuyên môn: Cao đăng Sư phạm
Chức vụ, đơn vị công tác: Trường Tiêủ học Tiền Tiến
Điện thoại: 01682147323
4. Đồng tác giả (nếu có)
Họ và tên;
Ngày tháng/năm sinh;
Trình độ chuyên môn:
Chức vụ, đơn vị công tác;
Điện thoại:
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tên đơn vị, địa chỉ, điện thoại
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): Tên đơn vị; địa chỉ; điện thoại
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu:

TÁC GIẢ
(ký, ghi rõ họ tên)

2


XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP
DỤNG SÁNG KIẾN


TOM TT SNG KIN
T nhiờn v xó hi l mt mụn hc cung cp cho hc sinh nhng hiu bit c bn
ban u v cỏc s vt, s kin, hin tng trong t nhiờn, xó hi vi mi quan h
trong i sng thc t ca con ngi. ng thi, nú gúp phn bi dng phm
cht, nhõn cỏch ton din ca con ngi.
Nh chỳng ta ó bit, phng phỏp Bn tay nn bt l mt phng phỏp mi
nhng nú tht s l mt phng phỏp hay. Bn tay nn bt chỳ trng n vic
hỡnh thnh kin thc cho HS bng cỏc thớ nghim, tỡm tũi, nghiờn cu chớnh cỏc
em tỡm ra cõu tr li cho cỏc vn c t ra trong cuc sng thụng qua tin
hnh thớ nghim, quan sỏt, nghiờn cu ti liu hay iu tra...Vi mt vn khoa
hc t ra, HS cú th t ra cỏc cõu hi, cỏc gi thuyt t nhng hiu bit ban u,
tin hnh cỏc thớ nghim nghiờn cu kim chng v a ra nhng kt lun phự
hp thụng qua tho lun, so sỏnh, phõn tớch, tng hp kin thc. Cng nh cỏc
phng phỏp dy hc tớch cc khỏc Bn tay nn bt luụn coi hc sinh l trung
tõm ca quỏ trỡnh nhn thc, chớnh cỏc em l ngi tỡm ra cõu tr li v lnh hi
kin thc di s giỳp ca giỏo viờn.
Tụi c phõn cụng ph trỏch lp 3.. Phng phỏp Bn tay nn bt l mt
phng phỏp hay cú th s dng trong quỏ trỡnh dy hc nhm khớch thớch tớnh
sỏng to, k nng t hc, t chim lnh kin thc cng nh k nng din t ca hc
sinh. Nhng s dng phng phỏp Bn tay nn bt thỡ thi gian cn cho mt
tit dy l tng i nhiu. Trong khi ú, thi lng cho mt tit dy mụn T nhiờn
v Xó hi ch khong 35 phỳt. Do ú, tụi ó tỡm hiu k chng trỡnh mụn TNXH 3,
phng phỏp BTNB v a raMột số kinh nghim nhm nõng cao hiu qu
khi sử dụng Phơng pháp Bàn tay nặn bột để dạy môn T
nhiờn v xó hi lp 3


3


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
A. §Æt vÊn ®Ò
B. néi dung
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1.1. Lịch sử của phương pháp “Bàn tay nặn bột” và hành động quốc tế của
phương pháp này.
1.2. Phương pháp "Bàn tay nặn bột" tại Việt Nam
1.3. Khái niệm:
1.4. Một số đặc điểm của phương pháp “ Bàn tay nặn bột”.
1.5. Một số nguyên tắc khi sử dụng phương pháp“ Bàn tay nặn bột” vào quá
trình dạy học.
1.6. Bản chất của việc dạy – học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
1.7. Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học.
2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG:
2.1. Thuận lợi, khó khăn
2.1.1 Thuận lợi
2.1.2. Khó khăn
2.2. Nguyªn nh©n
3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
3.1. Biện pháp 1: Tìm hiểu nội dung chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 3 có
những bài nào có thể áp dụng phương pháp BTNB.
3.2. Biện pháp 2: Hiểu rõ nguyên lí từng bước dạy trong phương pháp BTNB.
3.3. Biện pháp 3: Vận dụng các bước dạy trong phương pháp BTNB phù hợp
với nội dung từng bài dạy.
3.4. Biện pháp 4. Sử dụng đồ dùng dạy học phù hợp và hiệu quả
3.5. Biện pháp 5. Tăng cường bồi dưỡng vốn kiến thức có liên quan đến bộ

môn Tự nhiên và Xã hội 3
3.6. Áp dụng đối chứng
c. KÕt luËn

4


A. Đặt vấn đề
Chúng ta vững bớc tiến vào thế kỉ XXI, thế kỉ của khoa học
tiên tiến và hiện đại. Vì vậy đòi hỏi con ngời có tri thức đáp ứng
kịp thời những đũi hỏi ngày càng cao của đất nớc nhằm công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc theo đúng định hớng của Đảng
ta: Tiếp tục nâng cao chất lợng giáo dục toàn diện, đổi mới nội
dung... phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học
sinh, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn nâng cao
chất lợng giáo dục, tạo sự chuyển biến vững chắc của giáo dục đa giáo dục nớc nhà vững bớc tiến vào thế kỉ XXI.
T nhiờn v xó hi l mt mụn hc cung cp cho hc sinh nhng hiu bit c
bn ban u v cỏc s vt, s kin, hin tng trong t nhiờn, xó hi vi mi quan
h trong i sng thc t ca con ngi. ng thi, nú gúp phn bi dng phm
cht, nhõn cỏch ton din ca con ngi. thc hin tt mc tiờu i mi ca
mụn T nhiờn v Xó hi, giỏo viờn phi thc hin i mi cỏc phng phỏp dy
hc sao cho hc sinh l ngi ch ng, nm bt kin thc ca mụn hc mt cỏch
tớch cc, sỏng to gúp phn hỡnh thnh nhu cu t hc, t phỏt hin, t gii quyt
cỏc tỡnh hung cú vn t ra trong bi hc t ú chim lnh tri thc.
Chơng trình môn T nhiờn xó hi không chỉ dừng lại ở nhiệm
vụ cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản ban đầu về
thế giới tự nhiên mà còn giúp học sinh vận dụng những kiến thức
đó vào thực tế hàng ngày. Để đạt đợc những điều đó, đòi hỏi
mỗi giáo viên phải biết lựa chọn cho mình những phơng pháp
giảng dạy thích hợp với từng nội dung bài dạy, từng đối tợng học

sinh. Đối với môn T nhiờn xó hi trong chơng trình tiểu học ngoài
những phơng pháp dạy học đợc đề cập đến ở các sách giáo viên
nh quan sát, hỏi đáp, thảo luận, điều tra... thì sử dụng phơng
pháp Bàn tay nặn bột trong dạy kiểu bài thí nghiệm là phơng
5


ph¸p mang l¹i hiÖu qu¶ rÊt cao. Như chúng ta đã biết, phương pháp “Bàn
tay nặn bột” là một phương pháp mới nhưng nó thật sự là một phương pháp hay.
“Bàn tay nặn bột” chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho HS bằng các thí
nghiệm, tìm tòi, nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được
đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu
hay điều tra...Với một vấn đề khoa học đặt ra, HS có thể đặt ra các câu hỏi, các giả
thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm
chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích,
tổng hợp kiến thức. Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác “Bàn tay nặn
bột” luôn coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người
tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.
B. néi dung
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1.1. Lịch sử của phương pháp “Bàn tay nặn bột” và hành động quốc tế của
phương pháp này.
- BTNB được sáng lập vào năm 1995 bởi Giáo sư Georges Charpak (đạt giải
Nobel Vật lý năm1992).
- Năm 1998, Viện hàn lâm khoa học Pháp soạn thảo và công bố 10 nguyên tắc
của BTNB, được coi là hiến chương của phương pháp dạy học tích cực này.
- Năm 2001, được sự bảo trợ của Viện hàn lâm khoa học Pháp, một mạng lưới
các chuyên gia nghiên cứu về BTNB được thành lập với mục đích trao đổi kinh
nghiệm, củng cố và phát triển BTNB.
- BTNB đã có mặt nhiều nơi trên thế giới từ các nước đang phát triển đến các

nước phát triển có nền giáo dục tiên tiến: Mỹ, Pháp, Đức, Canada, Mexico, Brazil,
Trung Quốc, Philipin, Iran, Việt Nam…
1.2. Phương pháp "Bàn tay nặn bột" tại Việt Nam:
- 1998-1999: 2 giáo viên đầu tiên của Việt Nam (GS Trần Thanh Vân, chủ tịch
hội “Gặp gỡ Việt Nam” ở Pháp, cùng vợ là GS Lê Kim Ngọc) đã được Hội Gặp gỡ
Việt Nam tạo điều kiện sang Pháp học tập và nghiên cứu về BTNB.
- 1999: NXB Giáo dục đã xuất bản lần đầu tiên cuốn sách "Bàn tay nặn bột"
nguyên bản tiếng Pháp của G. Charpak được dịch ra tiếng Việt bởi Đinh Ngọc Lân.
- 2001: BTNB đã được phổ biến cho sinh viên khoa Sư phạm Tiểu học-ĐHSP
Hà Nội I và được áp dụng thí điểm tại trường tiểu học Đoàn Thị Điểm (Hà Nội), và
trường thực hành Nguyễn Tất Thành (thuộc ĐHSP Hà Nội I )
- Từ đó đến nay, dưới sự giúp đỡ của Hội Gặp gỡ Việt Nam các lớp tập huấn hè
6


về BTNB đã được triển khai cho các giáo viên cốt cán và các cán bộ quản lý tại
nhiều địa phương trong toàn quốc. Đây là một chương trình trong quan hệ hợp tác
văn hoá-giáo dục song phương Pháp-Việt.
Năm 2011 Bộ GD-ĐT có quyết định phê duyệt đề án “Triển khai phương pháp
Bàn tay nặn bột ở trường phổ thông giai đoạn 2011-2015” với hai giai đoạn: từ
2011-2013 thực hiện thí điểm, từ 2014-2015 thực hiện đại trà trên toàn quốc.
1.3. Khái niệm:
Bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm,
nghiên cứu, áp dụng giảng dạy cho các môn học tự nhiên. Phương pháp này chú
trọng tới việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên
cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống
thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hoặc điều tra. Với một
vấn đề khoa học, học sinh có thể đặt ra câu hỏi, giả thiết từ hiểu biết ban đầu, tiến
hành thí nghiệm, nghiên cứu, kiểm chứng, so sánh, phân tích, thảo luận và đưa ra
kết luận phù hợp. Phương pháp này kích thích sự tò mò, ham mê khám phá của học

sinh.
1.4. Một số đặc điểm của phương pháp “ Bàn tay nặn bột”.
- Mục tiêu hàng đầu của phương pháp là giúp học sinh tiếp cận dần các khái niệm
khoa học và kỹ thuật thực hành, kèm theo sự vững vàng trong diễn đạt, trong nói và
viết.
- Phương pháp “Bàn tay nặn bột” đưa ra một tiến trình ưu tiên cho việc xây dựng
tri thức bằng hoạt động, thí nghiệm và thảo luận.
- Đó là sự thực hành khoa học bằng hành động hỏi đáp, tìm tòi, thực nghiệm, xây
dựng một tập thể tốt và thu được kiến thức cơ bản để hiểu biết thế giới tự nhiên và
kĩ thuật.
- Phương pháp này đặt học sinh vào vị trí của một nhà nghiên cứu khoa học. Các
em tự mình tìm tòi, khám phá ra kiến thức của bài học thông qua việc tiến hành các
thí nghiệm khoa học, trao đổi, thảo luận nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Học sinh học tập nhờ hành động. Các em học tập tiến bộ dần bằng cách tự nghi
vấn. Bạn bè trao đổi, quan niệm về một vấn đề khoa học nào đó với nhau và được
kiểm tra (sự đúng sai) bằng cách tiến hành làm các thí nghiệm.
- Trong phương pháp “Bàn tay nặn bột”, học sinh được thoải mái đưa ra quan điểm
của mình về sự vật, hiện tượng. Đó là những hiểu biết ban đầu của học sinh. Những
hiểu biết này có thể đúng, chưa đầy đủ, hoặc có thể sai, đôi khi là ngây thơ, ngờ
nghệch nhưng vẫn được tôn trọng, động viên và khích lệ. Khi học sinh đưa ra biểu
tượng ban đầu của mình về vấn đề đặt ra, giáo viên không đưa ra lời nhận xét đúng,
sai mà để các em tự nhận thấy được trong quá trình kiểm tra giả thuyết.
* Đối với học sinh: Khi tồn tại quan niệm sai hoặc không thích hợp, các em sẽ
được tự mình nhận thức lại, sửa chữa lại ở cuối tiết học hoặc trong quá trình diễn
7


biến của tiết học. Do có sự khác nhau về quan niệm nên gây ra sự tranh luận, thắc
mắc mà muốn được tháo gỡ thì phải đi tìm câu trả lời chính xác (tìm ra chân lý
khoa học). Vậy muốn có câu trả lời thì buộc phải suy nghĩ, mày mò để tìm một

hướng đi hiệu quả và tiến hành hành động để đi đến đích cuối cùng. Tóm lai, đối
với học sinh, biểu tượng ban đầu là điểm xuất phát, là nền tảng mà trên đó kiến
thức sẽ được thành lập.
* Đối với giáo viên: Giáo viên biết được sự hiểu biết của học sinh về vấn đề sắp
học đạt ở mức độ nào để tính đến những chướng ngại ẩn ngầm, nhận thức được con
đường còn phải trải qua giữa các quan niệm của người học với mục đích của giáo
viên để tìm cách xử lý thích hợp như: xác định một cách thực tế về trình độ bắt
buộc phải đạt được, lựa chọn những tình huống sư phạm, các kiểu can thiệp và
những công cụ so với kiến thức hoa học được coi là chuẩn thích đáng nhất. và cuối
cùng để có sự đánh giá chuẩn mực, sát thực nhất.
1.5. Một số nguyên tắc khi sử dụng phương pháp“ Bàn tay nặn bột” vào quá
trình dạy học.
Trong quá trình sử dụng phương pháp“ Bàn tay nặn bột” để thực sự có hiệu
quả đòi hỏi người giáo viên và học sinh cần tuân thủ theo các nguyên tắc sau:
- Các em cần được quan sát một số sự vật, hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi,
dễ cảm nhận và tiến hành thực nghiệm về chúng.
- Trong quá trình học tập, các em tự lập luận và đưa ra các lý lẽ, thảo luận những ý
nghĩ và các kết quả đạt được trên cơ sở xây dựng kiến thức cho mình. Một hoạt
động mà hoàn toàn chỉ dựa trên sách vở là không đủ.
- Các hoạt động giáo viên đề ra cho học sinh được tổ chức trong các giờ học nhằm
đến một sự tiến bộ trong học tập. Các hoạt động này gắn với chương trình và dành
phần lớn quyền tự chủ cho học sinh.
- Mỗi học sinh có một quyển vở ghi chép thí nghiệm và các em trình bày trong đó
bằng ngôn ngữ của riêng mình.
- Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kĩ thuật được
thực hành, kèm theo sự vững vàng trong diễn đạt nói và viết.
1.6. Bản chất của việc dạy – học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
Dạy học theo phương pháp “ Bàn tay năn bột”, các em có thể tiến hành
những nghiên cứu dẫn đến sự hiểu biết. Nhưng các em cần được hướng dẫn và giúp
đỡ bởi các câu hỏi của thầy giáo và hoạt động trong khuôn khổ một đề tài đã được

xây dựng chứ không phải chỉ lựa chọn theo các “cơ hội”. Trong quá trình nghiên
cứu, học sinh phải sử dụng tất cả các giác quan để tìm ra tri thức mới. Các em cần
có vở ghi chép cá nhân để ghi lại những ý tưởng của mình, những điều đã được sửa
chữa lại, cho phép giữ lại vết tích của những thử nghiệm liên tiếp, đánh dấu được
8


tiến trình nghiên cứu. Vở ghi chép được học sinh giữ suốt trong thời gian học Tiểu
học và cuối cấp học sẽ hình thành một tập vở ghi nhớ đặc biệt.
Như vậy bản chất của “ Bàn tay nặn bột” không phải là phương thức mới cho
phép các em hội nhập tốt hơn vào đời sống tự nhiên mà tạo cho các em một cách
xử lý độc lập, có phần nào giống như một nhà nghiên cứu. Khi xử lý độc lập, học
sinh sử dụng giác quan và một số dụng cụ hỗ trợ cho các thao tác trí tuệ.
Dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” không đòi hỏi phải sử dụng những
dụng cụ thí nghiệm phức tạp, hiện đại, đắt tiền mà các dụng cụ ở đây không quá tốn
kém, đa số là các vật dụng dễ kiếm và dễ sử dụng, không nặng nề. Nó được sử
dụng hàng ngày với vài vật liệu đơn giản là đủ. Các thao tác trên những dụng cụ thí
nghiệm cũng hết sức đơn giản và không cần có hiểu biết kĩ thuật gì đặc biệt. Các
em có thể thử nghiệm nhu cầu của cây trồng bằng cách thay đổi các thông số : đất,
nước, ánh sáng, nhiệt độ, không khí, bằng cách so sánh và phân tích kết quả thực
nghiệm. Các em sẽ phát hiện ra rằng: chỉ cần thay đổi mỗi lần một thông số là có
thể có những kết luận khác nhau.Và trong quá trình ấy, học sinh sẽ đặt ra những câu
hỏi thắc mắc: Tại sao có những loại cây sống bám trên cây khác mà không cần đến
yếu tố đất? Tại sao sự nảy mầm không chỉ xảy ra trong đất mà còn cả trên nhựa, tờ
giấy?... Như vậy trong hạt có gì? Cây trồng có ăn đất không? Tại sao lại bón phân
cho cây ?....
1.7. Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học.
- Trong quá trình HS thực hành, GV phải khéo léo theo dõi, quan sát học sinh xem
các em đang nghĩ gì về vấn đề mà mình đặt ra để nắm được tình hình. Nếu có điều
gì không khớp với dự định ban đầu thì cần phải có sự điều chỉnh cho phù hợp.

- Các biểu tượng HS đưa ra có thể đúng, có thể sai nhưng giáo viên không đánh giá
và cũng không đưa ra câu trả lời. GV chỉ gợi ý hay đặt thêm những câu hỏi dẫn dắt
HS đi tìm câu trả lời cho câu hỏi của chính các em chứ không làm thay. Ví dụ; “
Theo em, nó sẽ như thế nào”? “ Em nghĩ (làm) thử xem”? “Em tìm cách làm nào
đó để xem có đúng không”?..... Ví dụ khi các em lọc nước mà kết quả vẫn đục Gv
chỉ gợi ý “ Các em thử xem thiết bị thí nghiệm có vấn đề gì không”? “ Xem lại các
bước tiến hành lọc nước của các em”.....Trong trường hợp thí nghiệm cần đến các
điều kiện, GV phải giúp các em xác định được điều kiện của thí nghiệm (Ví dụ: Về
mặt thời gian, môi trường, nhiệt độ...). Điều này, bước đầu HS có thể gặp khó khăn
nhưng thực hiện nhiều lần các em sẽ quen dần trong việc đặt điều kiện cho thí
nghiệm để đảm bảo độ chính xác cao.
* Tình huống xuất phát từ câu hỏi phải đảm bảo các yêu cầu sau :
- Câu hỏi thường mang tính chất mở hoặc nửa mở phù hợp với mục tiêu bài học và
phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh sao cho các em có khả năng giải quyết.
- Có tác dụng khêu gợi trí tò mò và ham hiểu biết khoa học, kích thích các em suy
nghĩ và tiến hành giải quyết để đem lại những hiểu biết.
9


- Câu hỏi phải gọn, rõ ràng, dễ hiểu, hạn chế những từ ngữ mang khái niệm mà các
em chưa biết. Nếu có, GV nên tìm những từ ngữ thay thế sao cho vừa đảm bảo HS
hiểu được vừa vẫn giữ nguyên được ý nghĩa của nó.
- Khi nêu câu hỏi phải đảm bảo cho tất cả học sinh nghe và biết được mình cần phải
làm gì.
- Việc chuẩn bị các vật liệu, đồ dùng dạy học có ý nghĩa quan trọng. Đối với
phương pháp Bàn tay nặn bột nếu không có đồ dùng dạy học thì không thể tiến
hành được.
- Đối với phương pháp Bàn tay nặn bột nếu chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả
học tập thì chưa đủ mà cần phải phối hợp đánh giá về năng lực quan sát, năng lực
tư duy, khả năng suy luận và phán đoán, kỹ năng làm thí nghiệm, cách sử dụng

ngôn ngữ để biểu đạt (kể cả trong khi nói và viết), sự hứng thú tìm tòi, sự tò mò
ham hiểu biết, sự tham gia tích cực trong giờ học...Tất cả những điều đó nhằm kích
thích, lôi kéo các em khám phá thế giới không ngừng, tạo ra sự cân đối ở các em
giữa kiến thức và kỹ năng, giữa lý thuyết và thực hành.
- Không chia nhóm HS quá đông, mỗi nhóm chỉ từ 2, 4 đến 6 em và từ hai bàn
ghép lại.
- Không nên cho HS biết trước kiến thức của bài học một cách tiêu cực mà phải để
cho các em tự khám phá ra chúng. Không để các em sử dụng sách giáo khoa để trả
lời câu hỏi mà giáo viên đưa ra vì như vậy sẽ làm cho HS có thói quen ỷ lại không
chịu suy nghĩ, tìm tòi trong học tập. Sách giáo khoa có thể chỉ được sử dụng làm tài
liệu quy chiếu với các kết quả nghiên cứu của HS ở cuối tiết học.
- Không nêu tên bài học trước khi học (với những bài thể hiện nội dung bài học ở
đề bài).
- Lựa chọn hoạt động phù hợp với phương pháp Bàn tay nặn bột để áp dụng, không
nhất thiết hoạt động nào cũng áp dụng phương pháp này.
Đó là những lưu ý đối với Gv khi sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào
giảng dạy môn Khoa học ở Tiểu học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn học
này đạt hiệu quả hơn.
2.PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG:
2.1. Thuận lợi, khó khăn
2.1.1 Thuận lợi
+ Nhà trường thường mở các chuyên đề để giáo viên dự giờ, trao đổi kinh nghiệm
lẫn nhau. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn trường, đều tạo điều kiện cho giáo
viên trao đổi tháo gỡ những vướng mắc trong chuyên môn.
+ Một số tranh ảnh trực quan để phục vụ cho các bài Tự nhiên và Xã hội ở lớp 3 đã
có sẵn ở thư viện.
10


+ Nh trng c s quan tõm h tr v giỳp v tinh thn v vt cht ca lónh

o cỏc cp, cỏc ban ngnh on th trong v ngoi a bn, Hi cha m HS... Hot
ng ca cỏc t chc on th trong nh trng m bo ỳng k hoch ca nh
trng v t hiu qu giỏo dc thit thc, gúp phn nõng cao cht lng cỏc hot
ng giỏo dc vn húa v k nng sng cho HS.
+Cỏc em hc sinh cú SGK, v bi tp, dựng hc tp phc v cho mụn hc.
2.1.2. Khú khn
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm môn tự nhiên và xã hội
trong trờng Tiểu học, qua dự giờ và học tập các kinh nghiệm của
các đồng nghiệp trong nhà trờng tôi thấy nhiều giáo viên do
không biết lựa chọn phơng pháp dạy học thích hợp, nhiều học
sinh còn lúng túng trong học tập nhất là không biết cách làm các
thí nghiệm nên nhiều tiết dạy đã không đạt đợc đích cuối cùng
là truyền thụ kiến thức trọng tâm cho học sinh, bài giảng không
sâu, dàn trải hoặc bị : cháy giáo án , nhiều tiết dạy không
đảm bảo đợc thời gian không gây đợc hứng thú học tập cho học
sinh. Dẫn đến tình trạng học sinh nắm bài máy móc , thụ động,
chất lợng học tập cha cao.
- Khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh còn hạn chế. Mt s em
cha hng thỳ, cha tớch cc tham gia vo gi hc t nhiờn v Xó hi.
- Việc áp dụng phơng pháp Bàn tay nặn bột trong phân môn T
nhiờn xó hi còn rất ít và cha thờng xuyên.
2.2. Nguyên nhân
Việc sử dụng các phơng tiện dạy học trực quan, các dụng cụ,
vật liệu, các điều kiện thí nghiệm... trong giờ giảng trên lớp đã
đợc một số giáo viên chú trọng song vẫn còn nhiều giáo viên coi
nhẹ việc sử dụng các phơng tiện trực qua này. Nhiều giáo viên sử
dụng phơng pháp Bàn tay nặn bột trong dạy kiểu bài thí nghiệm
chứng minh chỉ là giáo viên nói, học sinh không đợc thực hành
11



hoặc là học sinh chỉ đợc quan sát tranh ảnh, quan sát một số bạn
làm thí nghiệm....Nó chỉ là công cụ để minh hoạ cho bài giảng
và những vấn đề thầy đa ra mà cha chú ý đến việc khai thác
các kiến thức từ các phơng tiện này để phát triển t duy cho học
sinh cũng nh phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong
bài dạy và học môn T nhiờn v xó hi trong trờng Tiểu học.
Phơng pháp Bàn tay nặn bột là một phơng pháp mới đòi hỏi
sự chuẩn bị kĩ lỡng của cả thầy và trò, giáo viên thờng mất nhiều
thời gian, công sức chuẩn bị nên nhiều ngời áp dụng phơng pháp
này một cách hời hợt, qua loa...
Về phía học sinh việc các em tự chuẩn bị các dụng cụ thí
nghiệm thờng không đầy đủ...
3. CC GII PHP THC HIN TI:
Việc nâng cao chất lợng dạy và học trong nhà trờng là một
trong những việc làm quan trọng góp phần nâng cao dân trí,
đào tạo nhân tài cho đất nớc. Chính vì vậy thực tế cũng có
nhiều giáo viên trăn trở, suy t, cha hài lòng với thực tại về chất lợng
giờ dạy nên đã ngày đêm miệt mài nghiên cứu tìm những sáng
kiến mới, những phơng pháp mới, phơng pháp hay nhằm đổi mới
phơng pháp dạy học cho phù hợp với đặc thù bộ môn và quá trình
nhận thức của học sinh. Giúp các em học tập một cách nhẹ nhàng
và có hiệu quả là một trong những yêu cầu cấp thiết của giáo dục
nói chung và bậc Tiểu học nói riêng.
Xuất phát từ những yêu cầu về phơng pháp Bàn tay nặn bột
trong dạy kiểu bài thí nghiệm chứng minh trong quá trình thực
hiện kinh nghiệm: Một số kinh nghim nhm nõng cao hiu qu khi sử
dụng Phơng pháp Bàn tay nặn bột để dạy môn T nhiờn v xó
12



hội lớp 3 ”. §Ó ®¹t ®îc nh÷ng yªu cÇu ®ã t«i ®· đưa ra một số biện
pháp như sau:
3.1. Biện pháp 1: Tìm hiểu nội dung chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 3 có
những bài nào có thể áp dụng phương pháp BTNB.
Nội dung chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 3 có: 3 chủ đề, gồm 70 tiết của 35
tuần. Trong đó có 34 bài có thể vận dụng phương pháp BTNB để dạy, cụ thể:
* Con người và sức khoẻ: có 11 bài, đó là những bài: bài 1, bài 2, bài 4, bài 5, bài
6, bài 7, bài 8, bài 9, bài 11, bài 12, bài 13, bài 14.
* Tự nhiên: có 23 bài, đó là những bài: bài 40, bài 41, bài 42, bài 43, bài 45, bài
46, bài 47, bài 48, bài 49, bài 50, bài 51, bài 52, bài 53, bài 54, bài 55, bài 58, bài
59, bài 60, bài 61, bài 62, bài 63, bài 64, bài 65 bài 66, bài 67, bài 68.
3.2. Biện pháp 2: Hiểu rõ nguyên lí từng bước dạy trong phương pháp BTNB.
Việc hiểu rõ nguyên lí của từng bước dạy trong phương pháp BTNB là rất quan
trọng, nó giúp cho chúng ta vận dụng các bước dạy vào từng bài dạy dễ dàng và
hiệu quả.
Chẳng hạn:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề: Thực chất đây là bước
kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của học sinh. Vì vậy, tình huống
xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với học sinh, câu hỏi nêu vấn đề phải
dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không sử dụng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không).
Tình huống xuất phát nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. Có những trường hợp
không nhất thiết phải có tình huống xuất phát mới đề xuất câu hỏi nêu vấn đề (tuỳ
vào từng kiến thức và từng trường hợp cụ thể).
Bước 2: Hình thành biểu tượng ban đầu.
Hình thành biểu tượng ban đầu là bước quan trọng, đặc trưng của phương pháp
dạy học BTNB. Bước này khuyến khích học sinh trình bày quan niệm ban đầu, ý
kiến ban đầu của mình về sự vật, hiện tượng trước khi được tìm hiểu về bản chất
sự vật, hiện tượng. Đây là những quan niệm được hình thành trong vốn sống của
13



học sinh, là các ý tưởng giải thích sự vật, hiện tượng theo suy nghĩ của học sinh.
Khi yêu cầu học sinh trình bày biểu tượng ban đầu, giáo viên có thể yêu cầu nhiều
hình thức biểu hiện của học sinh, có thể là bằng lời nói (thông qua phát biểu cá
nhân), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ.
Đối với học sinh chúng ta thường mỗi lần phát biểu rất ngại nói vì sợ sai và sợ
bị chê cười. Do đó giáo viên cần khuyến khích học sinh trình bày ý kiến của mình,
biết lắng nghe và tôn trọng những quan niệm sai hoặc chưa thực sự chính xác của
học sinh khi trình bày biểu tượng ban đầu.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và thí nghiệm
- Đề xuất câu hỏi:
Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của học sinh, giáo viên
giúp học sinh đề xuất các câu hỏi từ những khác biệt đó. Chú ý xoáy sâu vào những
sự khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học
Ở bước này giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác
biệt trong lớp để giúp học sinh so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên quan
đến nội dung bài học.
- Đề xuất thí nghiệm nghiên cứu:
Từ các câu hỏi được đề xuất, giáo viên nêu câu hỏi cho học sinh đề nghị các
em đề xuất thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu để tìm câu trả lời cho câu hỏi đó.
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu.
Từ các phương án thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu mà học nêu ra, giáo viên khéo
léo nhận xét và lựa chọn thí nghiệm để học sinh tiến hành. Ưu tiên thực hiện thí
nghiệm trực tiếp trên vật thật. Một số trường hợp không thể tiến hành thí nghiệm
trên vật thật có thể làm mô hình, hoặc cho học sinh quan sát tranh vẽ. Đối với
phương pháp quan sát, giáo viên cho học sinh quan sát vật thật trược, sau đó mới
cho học sinh quan sát tranh vẽ khoa học hay mô hình để phóng to những đặc điểm
không thể quan sát rõ trên vật thật.
Bước 5: Kết luận kiến thức.

14


Sau khi thực hiện thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được
giải quyết, kiến thức được hình thành tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa
chuẩn xác một cách khoa học. Giáo viên có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống
lại để học sinh ghi và vở coi như là kiến thức bài học. Trước khi kết luận chung,
giáo viên nên yêu cầu một vài kiến của học sinh cho kết luận sau khi thực hiện thí
nghiệm (rút ra kiến thức bài học). Giáo viên khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng
cách cho học sinh nhìn lại, đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu (biểu tượng ban
đầu) trước khi học kiến thức. Như vậy những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá
trình nghiên cứu – tìm tòi, chính học sinh tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà
không phải do giáo viên nhận xét một cách áp đặt. Chính học sinh tự phát hiện
những sai lệch trong nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những
thay đổi này sẽ giúp học sinh ghi nhớ lâu hơn, khắc sâu kiến thức.
3.3. Biện pháp 3: Vận dụng các bước dạy trong phương pháp BTNB phù hợp
với nội dung từng bài dạy.
Chẳng hạn:
Bài: Côn trùng
Trong quá trình dạy chúng ta thường cho học sinh quan sát tranh ảnh về côn
trùng trước, sau đó hỏi học sinh :
- Côn trùng có những bộ phận chính nào? Học sinh thảo luận và trả lời – Giáo viên
chốt lại.
- Cũng là hoạt động và thời gian đó chúng ta có thể vận dụng các bước dạy trong
phương pháp BTNB đó là:
Bước 2: Hình thành biểu tượng ban đầu: Theo em, côn trùng có những bộ phận
chính nào? (Học sinh tự do phát biểu – giáo viên ghi nhanh những kiến đó lên
bảng)
- Bước 3: Đề xuất thí nghiệm: Để biết được chính xác côn trùng có những bộ phận
chính nào, ta phải làm gì? (Học sinh tự đề xuất: Quan sát côn trùng thật, tranh,

ảnh,..)
15


- Bước 4 và 5: Tiến hành quan sát – Kết luận: Học sinh quan sát – Tự đều chỉnh và
rút ra kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.
Bài: Động vật
Cách dạy tương tự với bài Côn trùng, chúng ta cũng có thể vận dụng các bước
dạy trong phương pháp BTNB như sau:
- Bước 2: Hình thành biểu tượng ban đầu: Theo em, động vật có những bộ phận
nào? (Học sinh ghi ý kiến cá nhân sau đó thống nhất vào bảng nhóm – trình bày)
- Bước 3: Đề xuất thí nghiệm: Để biết được chính xác động vật có những bộ phận
chính nào, ta phải làm gì? (HS tự đề xuất: Quan sát tranh, ảnh,.. động vật)
- Bước 4 và 5: Tiến hành quan sát – Kết luận: Học sinh quan sát – Tự đều chỉnh và
rút ra kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.
3.4. Biện pháp 4. Sử dụng đồ dùng dạy học phù hợp và hiệu quả
Đối với phương pháp BTNB, việc sử dụng đồ dùng dạy học phù hợp và hiệu
quả quyết định sự thành công của một tiết dạy. Vì vậy, trước mỗi tiết dạy người
giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng phục vụ cho tiết dạy. Giáo viên phải biết
lựa chọn đồ dùng nào là phù hợp với tiết dạy của mình.
Chẳng hạn:
- Đối với những bài: Lá cây, Quả, Hoa, Thân cây, Rễ cây, Cá,…. giáo viên có thể
lựa chọn đồ dùng dạy học là vật thật.
- Đối với những bài như: Côn trùng, Động vật, Thú,…thì giáo viên lại chọn đồ
dùng dạy học là những bức ảnh.
- Đối với những bài như: Trái đất – Quả địa cầu, Sự chuyển động của trái đất, Trái
đất là một hành tinh trong hệ mặt trời, ….giáo viên lại chọn đồ dùng dạy học là
những mô hình.
Bên cạnh việc lựa chọn đồ dùng dạy học phù hợp với từng tiết dạy thì việc sử
dụng hiệu quả đồ dùng dạy trong từng tiết dạy cũng rất quan trọng.

Chẳng hạn:

16


- Đối với bài Hoa, nếu chúng ta chỉ cho học sinh quan sát rồi xác định các bộ phận
của bông hoa đó thì khó tìm ra được các bộ phận, mà nên cho học sinh lấy từng bộ
phận của bông hoa đó ra rồi xác định từng bộ phận một, như vậy học sinh sẽ rất đễ
dàng để nhận ra đâu là cuống hoa, cánh hoa, đài hoa và nhị hoa.
- Đối với bài Lá cây cũng vậy, nếu chúng ta chỉ cho học sinh quan sát rồi xác định
các bộ phận của chiếc là đó thì khó tìm ra các bộ phận chính mà phải cho học sinh
xé chiếc lá đó ra rồi xác định từng bộ phận một, như vậy học sinh sẽ rất đễ dàng để
nhận ra đâu là cuống lá, phiến lá, gân lá.
3.5. Biện pháp 5. Tăng cường bồi dưỡng vốn kiến thức có liên quan đến bộ
môn Tự nhiên và Xã hội 3
Tự nhiên và Xã hội 3 là môn học mang trong mình nhiều kiến thức thực tế hết
sức phong phú và gần gũi về thế giới Tự nhiên và Xã hội, thế giới con người. Vì
vậy, tăng cường bồi dưỡng vốn kiến thức là việc làm quan trọng đóng góp vào
thành công trong công việc đổi mới phương pháp dạy học môn Tự nhiên và Xã hội
nói chung và dạy học theo phương pháp BTNB nói riêng.
Chẳng hạn: Một số bài trong chủ đề:
- Con người và sức khoẻ: Trong chủ đề này kiến thức liên quan đến môn sinh học.
Vì vậy, để dạy tốt các tiết học này cần đọc thêm tài liệu liên quan đến môn sinh
học.
- Tự nhiên: Kiến thức ở chủ đề này lại liên quan đến cả môn sinh học và môn địa
lí. Vì vậy, chúng ta cũng phải tìm hiểu thêm những tài liệu liên quan đến hai bộ
môn này để đọc và hiểu rõ các kiến thức liên quan đến tiết dạy.
Tóm lại, tất cả các biện pháp nêu trên, nhằm đạt tới mục đích cuối cùng là sau
khi học xong mỗi tiết Tự nhiên và Xã hội nói riêng và hoàn thành chương trình Tự
nhiên và Xã hội bậc Tiểu học nói chung, học sinh tích lũy được vốn hiểu biết về tự

nhiên và xã hội, về cấu tạo của các cơ quan trong cơ thể của con người, ý thức được
trách nhiệm của mình với bản thân, gia đình và mọi người xung quanh, yêu thiên
nhiên đất nước và biết bảo vệ môi trường.
17


3.6. p dng i chng
Sau khi vận dụng kinh nghiệm này vào thực tế giảng dạy, tôi
đã thực hiện, thực nghiệm đối với lớp 3B. Kết quả việc áp dụng
kinh nghiệm: Một số kinh nghim nhm nõng cao hiu qu khi sử
dụng Phơng pháp Bàn tay nặn bột để dạy môn T nhiờn v xó
hi lp 3 . Tôi đã tiến hành khảo sát và thấy chất lợng học sinh
cũng nâng cao rõ rệt Cụ thể kết quả kiểm tra ở lớp 3B đầu năm
( cha áp dụng) và cuối năm nh sau:
Sau một thời gian sử dụng phơng pháp Bàn tay nặn bột ở lớp
3B gồm 24 học sinh cho thấy:
Chất lợng

Kiến thức

Đầu năm

HS nắm đợc

Năng lực
HS làm việc

chuẩn KTKN, b- một
ớc


đầu

cách

vận động,

Cha mạnh dạn

bị trong

hoạt

động

trong nhóm, còn rụt rè,

dụng đợc vào hoạt
thực tế.

Phẩm chất

động thiếu

nhóm

chỉ

tụ

tin


khi

có trình bày trớc lớp.

nột số em hoạt
động tích cực.
Cuối năm

HS nắm
chắc

HS tự chuẩn bị

chuẩn dụng

KTKN,

cụ

vận nghiệm

HS tích cực tham

thí gia các hoạt động
đơn của nhóm, tự tin

dụng vào thực giản, chủ động, trao đổi ý kiến
tế, biết liên hệ tích


cực

với cuộc sống động
hàng ngày.

họat của mình trớc lớp,
nhóm, ứng xử thân thiện

biết hợp tác và với bạn bè, yêu lao
trao

đổi

kết động, hứng thú với

quả

học

tập, việc chuẩn bị đồ

mạnh dạn trong đùng, dụng cụ thí
18


giao tiếp, biết nghiệm..
đặt câu hỏi và
tự tìm câu trả
lời....
Qua kết quả trên, tôi thấy rằng khi sử dụng Phơng pháp Bàn

tay nặn bột chất lợng học sinh đã đợc nâng cao cả về kiến thức,
năng lực và phẩm chất. Chứng tỏ kinh nghiệm đã có hiệu quả
trong giảng dạy, học sinh nhớ bài lâu hơn, kĩ năng t duy tốt hơn.
Đặc biệt là phần kĩ năng qua kiểm tra vấn đáp các em diễn đạt
mạch lạc hơn, tự tin chính xác hơn.

C. KT LUN V KHUYN NGH
1. Kết luận chung
Việc đổi mới phơng pháp giảng dạy là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của ngời giáo viên trong sự nghiệp trồng ngời. Đặc biệt trong tình hình chung của đất nớc đang thực hiện
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Ngời giáo viên
có thực hiện tốt công tác đổi mới phơng pháp giảng dạy trong quá
trình soạn giảng thì mới truyền thụ kiến thức trọng tâm cho
học sinh.
Phơng pháp Bàn tay nặn bột trong kiểu bài thí nghiệm chứng
minh phục vụ cho: Một số kinh nghim nhm nõng cao hiu qu khi sử
19


dụng Phơng pháp Bàn tay nặn bột để dạy môn T nhiờn v xó
hi lp 3 nhằm phát huy t duy sáng tạo cho học sinh. Đây là một
phơng pháp đặc thù của bộ môn nó phù hợp với đặc điểm nhận
thức của học sinh, giúp các em dễ hiểu bài, dễ nhớ, nhớ lâu kiến
thức. Nó đợc dùng vào các bớc giảng dạy:
- Dùng để kiểm tra bài cũ.
- Dùng để giúp học sinh phát hiện ra kiến thức mới, để rèn
luyện kĩ năng cho học sinh so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra
kiến thức. Đây chính là phơng pháp rèn luyện cho học sinh thói
quen tự học các em đợc thực hành làm thí nghiệm để chống lối
học chay, học vẹt.

-Dùng để củng cố và hớng dẫn học sinh về nhà học bài và
làm bài giúp các em khắc sâu kiến thức, nhớ kiến thức lâu hơn.
Sau khi nghiên cứu tìm hiểu rồi tiến hành thực nghiệm và giảng
dạy tại trờng Tiểu học đi đến kinh nghiệm trên. Để làm dợc điều
này cần:
*Đối với giáo viên:
- Phải hiểu rõ chức năng nhiệm vụ của phân môn khoa học để
có các hình thức tổ chức và phơng pháp dạy học cho phù hợp
tránh dạy nhồi nhét, áp đặt, mất hứng thú cho học sinh trong giờ
học.
- Giáo viên phải tự trau dồi cho mình có những kiến thức vững
chắc, ngôn ngữ phải chuẩn xác, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, trong
sáng.
- Xác định rõ mục tiêu của tiết dạy để chuẩn bị bài một cách
chu đáo và đầy đủ các phơng tiện dạy học phục vụ cho bài dạy.
ở mỗi bài dạy giáo viên phải xác định đợc: Bài dạy cần những
gì ? Và dạy nh thế nào ? Để tiết dạy nhẹ nhàng tự nhiên và hiệu
20


quả. Từ đó biết lựa chọn phơng pháp và cách thức tổ chức mỗi
phần của bài học cho phù hợp. Trên cơ sở đó, xây dựng hệ thống
câu hỏi phù hợp với từng loại đối tợng học sinh trong lớp giúp các em
dễ tìm đợc kiến thức bài học.
- Biết phân loại đối tợng học sinh trong lớp để có biện pháp bồi dỡng giúp đỡ đối với mọi sự cố gắng của các đối tợng học sinh
trong lớp.
- Biết lựa chọn hệ thống phơng pháp và các hình thức dạy học
phù hợp với nội dung bài dạy và đối tợng học sinh trong lớp tạo nên
sự đồng bộ giữa thầy và trò, tạo sự hứng thú học tập của học
sinh một cách tự nhiên, thoải mái để đạt đợc yêu cầu đó giáo

viên cần phải biết khai thác vốn kiến thức của học sinh vào việc
xây dựng kiến thức bài học.
- Nắm chắc các bớc tiến hành của phơng pháp Bàn tay nặn bột
để vận dụng linh hoạt trong các tiết học.
*Đối với học sinh:
- Phải tích cực học tập, chuẩn bị bài trớc khi đến lớp.
- Đầy đủ sách giáo khoa và đồ dùng học tập của môn học.
- Phải tích cực tham gia luyện tập làm các thí nghiệm chứng
minh để nắm chắc kiến thức.
- Tích cực huy động vốn kiến thức của mình tham gia vào quá
trình học tập, xây dựng kiến thức bài học.
- Cần phát huy tính chủ động sáng tạo trong hoạt động học, mạnh
dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài để rèn luyện cho mình phơng pháp học tập tích cực và bản lĩnh tự tin, biết ứng xử thông
minh đúng đắn với môi trờng xung quanh.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi về: Một số kinh nghim
nhm nõng cao hiu qu khi sử dụng Phơng pháp Bàn tay nặn bột
21


để dạy môn T nhiờn v xó hi lp 3 . Qua nhiều năm làm công tác
giảng dạy tôi tự nhận ra một bài học là không có một phơng pháp
nào là tốt nếu nh không có sự chuẩn bị của thầy và trò. Thầy
phải đầu t nghiên cứu bài dạy chu đáo cẩn thận. Trò phải đọc và
chuẩn bị bài thật tốt có nh vậy mới đạt đợc kết quả tốt trong học
tập.
2. Những vấn đê cần kiến nghị:
Để có đợc những tiết dạy thành công trong sự nghiệp trồng
ngời theo tôi việc sử dụng phơng pháp Bàn tay nặn bột khi dạy
kiểu bài thí nghiệm chứng minh có tác dụng rất lớn, rất thiết
thực. Nhng hiện nay phơng pháp dạy ở các trờng việc sử dụng phơng pháp thí nghiệm còn rất hạn chế nên nhiều tiết học còn dạy

chay đối với các môn trong đó có môn Khoa học.
Do vậy là một giáo viên làm công tác chủ nhiệm và trực tiếp
giảng dạy qua dự giờ đồng nghiệp tôi xin đề xuất một số kiến
nghị.
2.1.Đối với phòng giáo dục:
- Đề nghị với các cấp lãnh đạo cần quan tâm hơn nữa đối với việc
nâng cao trình độ giáo viên.
- Cần tổ chức mở rộng nhiều chuyên đề đổi mới hình thức tổ
chức các hoạt động các môn học để giáo viên tham gia hoạt động
học tập.
2.2.Đối với nhà trờng:
Cần tạo điều kiện và quan tâm về cơ sở vật chất có trách
nhiệm giúp đỡ giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn về mọi
mặt.
2.3.Đối với giáo viên:
22


Cần tích cực học hỏi kinh nghiệm nâng cao trình độ nhận
thức trình độ chuyên môn của mình.
3. Lời cảm ơn:
Với phạm vi cũng nh trình độ lí luận của bản thân khả năng
nghiên cứu còn hạn chế nên kinh nghiệm này còn nhiều điểm tồn
tại. Do đó tôi rất mong nhận đợc những ý kiến đóng góp chân
thành của hội đồng khoa học, của các bạn đồng nghiệp để cho
kinh nghiệm này hoàn thiện và đạt hiệu quả tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

23




×