Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

DẤU HIỆU TRẦM CẢM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở MỘT SỐ KHỐI SINH VIÊN ĐA KHOA TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG, NĂM 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.9 KB, 64 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG

NGUYỄN HOÀNG VIỆT ĐỨC

DẤU HIỆU TRẦM CẢM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở MỘT SỐ KHỐI SINH VIÊN ĐA KHOA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG, NĂM 2015

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ Y HỌC DỰ PHÒNG

HẢI PHÒNG - 2015


BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG

NGUYỄN HOÀNG VIỆT ĐỨC

DẤU HIỆU TRẦM CẢM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở MỘT SỐ KHỐI SINH VIÊN ĐA KHOA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG, NĂM 2015

Chuyên ngành: Bác sỹ y học dự phòng
Mã số:

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ Y HỌC DỰ PHÒNG
Người hướng dẫn: ThS. Bs. Nguyễn Thị Thắm

HẢI PHÒNG - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đã thực hiện quá trình làm khóa luận một cách khoa
học, chính xác và trung thực.
Các kết quả, số liệu trong khóa luận này đều có thực, kết quả thu được
từ quá trình nghiên cứu của chúng tôi chưa được công bố trên bất cứ tạp chí,
bài báo nào.
Hải Phòng, ngày 28 tháng 5 năm 2015
Người thực hiện

Sinh viên: Nguyễn Hoàng Việt Đức


LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân
thành tới:
Ban giám hiệu, phòng đào tạo Đại học, khoa Y tế công cộng trường Đại
học Y Dược Hải Phòng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy, cô giáo đã tận tình hướng
dẫn, giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện tại
trường.
Đặc biệt tôi xin trân trọng cảm ơn ThS. Nguyễn Thị Thắm, người đã
trực tiếp hướng dẫn dạy bảo, tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tôi thực
hiện khóa luận này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới bố mẹ, anh chị em, cùng bạn bè đã
luôn ở bên, động viên, khuyến khích, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt sáu năm
học, cũng như trong thời gian tôi làm khóa luận.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất. Song do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, cùng

với những hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm do đó khó tránh khỏi những
thiếu sót nhất định mà bản thân chưa tự thấy được. Tôi rất mong được sự góp
ý của quý Thầy, Cô và các bạn đồng nghiệp để khóa luận được hoàn chỉnh
hơn.
Sau cùng, tôi xin kính chúc quý thầy cô trong khoa Y tế công cộng thật
dồi dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là
truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Hải Phòng, ngày 28 tháng 5 năm 2015


Nguyễn Hoàng Việt Đức


DANH MỤC VIẾT TẮT

CES-D
HĐXH
SV
SVY2
SVY4
SVY6
WHO

The Centre of Epidemiological Studies – Depression Scale
Hoạt động xã hội
Sinh viên
Sinh viên khối Y2
Sinh viên khối Y4
Sinh viên khối Y6
World Health Organization



MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
Chương 1: TỔNG QUAN
2
1.1. Một số khái niệm về trầm cảm
2
1.2. Ảnh hưởng và hậu quả của bệnh trẩm cảm
3
1.3. Tình hình trầm cảm trên thế giới và Việt Nam
4
1.4. Tình hình trầm cảm ở sinh viên y khoa
6
1.5. Các test sàng tuyển trầm cảm
7
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
10
2.1. Đối tượng nghiên cứu
10
2.2. Địa điểm nghiên cứu
10
2.3. Thời gian nghiên cứu
10
2.4. Phương pháp nghiên cứu
10
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu
10

2.4.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
10
2.4.3. Các biến số nghiên cứu
12
2.4.4. Phương pháp và công cụ thu thập thông tin
14
2.4.5. Phương pháp hạn chế sai số, hạn chế số nhiễu
15
2.4.6. Quản lý, xử lý và phân tích số liệu
15
2.4.7. Đạo đức trong nghiên cứu
16
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
16
3.1. Đặc điểm chung về đối tượng nghiên cứu
16
3.2. Dấu hiệu trầm cảm sử dụng công cụ CES-D 20
19
3.3. Dấu hiệu trầm cảm và các yếu tố liên quan
22
3.3.1. Dấu hiệu trầm cảm và đặc điểm chung
22
3.3.2. Dấu hiệu trầm cảm và mối quan hệ với gia đình, bạn bè, xã hội
26
3.3.3. Dấu hiệu trầm cảm và các yếu tố thuộc về bản thân sinh viên
28
3.3.4. Dấu hiệu trầm cảm và các đặc điểm liên quan đến học tập
29
Chương 4: BÀN LUẬN
30

KẾT LUẬN
44
KHUYẾN NGHỊ
45
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Phân bố cỡ mẫu điều tra theo khối
Bảng 2.2: Các biến số nghiên cứu
Bảng 3.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tôn giáo và khối lớp
Bảng 3.2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nơi ở và khối lớp
Bảng 3.3: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tình trạng tài chính
Bảng 3.4: Nhóm dấu hiệu tích cực trong thang đo CES-D
Bảng 3.5: Nhóm dấu hiệu về khó khăn giao tiếp trong thang đo CES-D
Bảng 3.6: Nhóm dấu hiệu chán nản trong thang đo CES-D
Bảng 3.7: Nhóm dấu hiệu về hoạt động của bản thân trong thang CESD
Bảng 3.8: Mối liên quan giữa khối lớp và dấu hiệu trầm cảm
Bảng 3.9: Mối liên quan giữa giới tính và dấu hiệu trầm cảm
Bảng 3.10: Mối liên quan giữa tôn giáo và dấu hiệu trầm cảm
Bảng 3.11: Mối liên quan giữa nơi sống và dấu hiệu trầm cảm
Bảng 3.12: Mối liên quan giữa hôn nhân bố mẹ và dấu hiệu trầm cảm
Bảng 3.13: Mối liên quan giữa tình trạng tài chính và dấu hiệu trầm
cảm
Bảng 3.14: Mối liên quan giữa các yêu tố liên quan đến bạn bè, xã hội
và dấu hiệu trầm cảm
Bảng 3.15: Mối liên quan giữa các yếu tố thuộc về gia đình và dấu hiệu

trầm cảm
Bảng 3.16: Mối liên quan giữa các yếu tố thuộc về bản thân sinh viên
và dấu hiệu trầm cảm
Bảng 3.17: Mối liên quan giữa các yếu tố liên quan đến học tập và dấu
hiệu trầm cảm

11
12
16
17
18
19
19
20
21
22
22
23
24
24
25
26
27
28
29


DANH MỤC HÌNH

Hình 3.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới

Hình 3.2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo dân tộc và khối lớp
Hình 3.3: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nguồn hỗ trợ tài chính
Hình 3.4: Tỷ lệ có dấu hiệu trầm cảm ở sinh viên

16
17
18
21


11

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại, công nghiệp hoá - hiện đại
hoá, con người bị cuốn vào nhịp sống hối hả, đòi hỏi sự tập trung cao độ, sự
cố gắng không ngừng trong xã hội. Từ đó nảy sinh nhiều căn bệnh nguy hiểm
liên quan đến đời sống và sức khoẻ tinh thần, một trong những căn bệnh nguy
hiểm đã, đang và rất phổ biến ở xã hội ngày nay là bệnh trầm cảm [1].
Theo ước tính của WHO năm 2012, trên toàn thế giới có khoảng 350
triệu người chịu ảnh hưởng của trầm cảm [39]. Bệnh do nhiều nguyên nhân
khác nhau từ các biến động tâm lý, cảm xúc cho tới những thách thức trong
cuộc sống thường ngày. Đặc biệt là khi kéo dài với cường độ vừa hoặc nặng,
trầm cảm có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, làm giảm khả năng
vốn có tại nơi làm việc, trường học cũng như trong gia đình. Nặng nề nhất,
trầm cảm có thể dẫn đến tử tự, với khoảng 1 triệu ca mỗi năm trên thế giới
[39].
Ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về trầm cảm, nhất là ở đối tượng
sinh viên. Sinh viên trường y với khối lượng công việc học tập lớn, thời gian
học tập dài, dễ nảy sinh áp lực là một trong các đối tượng cần được xem xét.
Một số nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy rằng sinh viên y khoa có tỷ lệ cao

có dấu hiệu với trầm cảm trong suốt những năm đại học [14, 16, 29]. Tuy
nhiên hiện nay mới chỉ có nghiên cứu về trầm cảm ở sinh viên trường Đại học
Y Dược Hồ Chí Minh [31] và Đại học Y Hà Nội [7] mà chưa có sự đánh giá
nào ở sinh viên trường Đại học Y Dược Hải Phòng.
Từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Dấu hiệu trầm
cảm và một số yếu tố liên quan ở một số khối sinh viên đa khoa trường
Đại học Y Dược Hải Phòng năm 2015” với 2 mục tiêu sau:
1. Mô tả tỷ lệ có dấu hiệu trầm cảm ở sinh viên Y2, Y4, Y6 đa khoa trường
Đại học Y Dược Hải Phòng năm học 2014-2015.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến dấu hiệu trầm cảm ở sinh viên Y2, Y4,


12

Y6 đa khoa trường Đại học Y Dược Hải Phòng năm học 2014-2015.
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Một số khái niệm về trầm cảm
Theo Tổ chức y tế giới (WHO): “Trầm cảm là một rối loạn tâm thần
phổ biến, đặc trưng bởi nỗi buồn, mất hứng thú và niềm vui, cảm giác tội lỗi,
đánh giá thấp giá trị bản thân, khó ngủ, chán ăn, cảm giác mệt mỏi và kém tập
trung” [38].
Trầm cảm có thể kéo dài hoặc tái phát, làm suy yếu đáng kể khả năng
của cá nhân trong các hoạt động tại nơi làm việc, trường học hay cuộc sống
hằng ngày. Nghiêm trọng nhất, trầm cảm có thể dẫn tới tự tử. Nếu bệnh nhẹ,
mọi người có thể được điều trị mà không cần dùng thuốc nhưng khi trầm cảm
vừa hoặc nặng thì người bệnh cần thuốc và phương pháp trị liệu bằng việc nói
chuyện [38].
Theo Nguyễn Minh Tuấn [9], trầm cảm là một trạng thái rối loạn cảm
xúc có những đặc điểm sau:

-

Nỗi buồn sinh thể (đau khổ tâm thần vô biên)
Ức chế tư duy và hoạt động (chậm chạp, mất trí)
Rối loạn giấc ngủ và các chức năng sinh học
Tiên lượng: có liên quan tới nguy cơ tự sát. Nguy cơ này hiện diện suốt
quá trình bệnh lý. Do vậy cần giám sát chặt chẽ bệnh nhân.

Về quá trình hình thành các cơn trầm cảm, các tình huống xuất hiện có thể
bao gồm:
-

Thông thường tiến triển âm ỉ.
Đôi khi đột ngột (khởi đầu bằng tự sát).
Có thể kế tiếp sau cơn hưng cảm.
Sau một sang chấn tâm thần hoặc cơ thể (bệnh tật, về hưu, tang tóc).
Có thể do dùng thuốc có tác dụng phụ gây trầm cảm.


13

Trong giai đoạn khởi phát, bệnh tiến triển từ từ với các dấu hiệu đầu
tiên là mất ngủ, đau đầu, mệt mỏi. Sau vài tuần, vài tháng xuất hiện cảm giác
bị mất khả năng làm việc, mất giá trị bản thân, do dự, không thiết gì tới công
việc và người thân. Người bệnh nghiền ngẫm lo âu về sức khoẻ và tương lai,
có thể xuất hiện ý tưởng và hành vi tự sát.
Trong giai đoạn toàn phát, các biểu hiện có thể bao gồm: nét mặt bất
động, biểu lộ sự đau khổ dấu hiệu “Omega trầm cảm” (nếp nhăn khi cau 2
lông mày). Bệnh nhân không quan tâm tới hình thức bên ngoài của mình nữa.
Bệnh nhân hầu như bất động, ngồi nguyên một chỗ trong nhiều giờ. Chẳng

thiết trò chuyện, gặng hỏi thì trả lời miễn cưỡng nhát gừng, đơn điệu, xen lẫn
nhưng tiếng rên rỉ, thở dài não ruột. Nặng hơn nữa là không nói.
Một số trường hợp bệnh nhân cố gắng che giấu các rối loạn (tươi cười
giả tạo). Trường hợp này nguy cơ tự sát cao do những người xung quanh mất
cảnh giác. Bệnh có thể khỏi tự nhiên trung bình sau 6-7 tháng (cơn ngắn chỉ
vài tuần, cơn dài thì nhiều năm, trong cơn giảm từng giai đoạn ngắn, không
đáng kể). Khi được điều trị có thể thu ngắn cơn đáng kể sau trung bình một
tháng nằm viện. Các triệu chứng được cải thiện dần, giấc ngủ phục hồi. Bệnh
nhân được coi như khỏi bệnh khi niềm vui với cuộc sống trở lại.
1.2. Ảnh hưởng và hậu quả của bệnh trẩm cảm
1.2.1. Đối với bệnh nhân
Trầm cảm là một căn bệnh thuộc về sức khoẻ tinh thần không chừa bất
cứ một ai, không phân biệt người già, trẻ em, người trưởng thành… Trầm cảm
ảnh hưởng tới người bệnh về ý thức, cảm giác, tư duy, trí nhớ, ngôn ngữ, tình
cảm… Làm cho bệnh nhân trầm cảm nhìn thế giới xung quanh với cái nhìn vô
hồn, vô cảm, thế giới trong mắt họ bị thu hẹp, sức khoẻ cơ thể giảm sút
nghiêm trọng, giảm ăn ngủ, giảm cân nặng, giảm hứng thú với tất cả các hoạt
động xã hội và tất cả các hoạt động khác đối với họ đều trở nên vô cảm. Trầm


14

cảm được coi là một rong những nguyên nhân chủ yếu gây loạn thần và các
chứng bệnh khác liên quan đến sức khoẻ tinh thần. Nặng nề nhất, trầm cảm dễ
dấn tới hành vi tự sát [1].
1.2.2. Đối với xã hội
Bệnh nhân trầm cảm là một gánh nặng cho gia đình và xã hội, gia đình
phải bỏ công sức, tiền bạc, của cải nhiều trong công việc chữa trị thời gian lâu
dài, như vậy xã hội phải bỏ nhiều chi phí nghiên cứu, dự đoán, điều trị và
phòng chống về nó.

Trầm cảm không chỉ gây hại cho bản thân người bị bệnh mà nhiều
trường hợp, các cá nhân trầm cảm sẽ giết hại ai đó, đôi khi sau đó họ sẽ tự sát.
Trầm cảm cũng có thể là một yếu tố đóng góp và các tình huống tự tử gây hại
tới người khác. Những cơn “đại dịch tự tử” đã xảy ra tràn lan từ lâu trước khi
ngành tâm bệnh học bắt đầu giải nghĩa các sắc thái của chúng. Những cơn đại
dịch như vậy xảy ra một cách rời rạc, nhưng lặp đi lặp lại ở các cộng đồng
dân cư nhất định như người da đỏ Châu Mỹ và ở những nời nhất định như các
đơn vị điều trị tâm thần nội trú [1].
1.3. Tình hình trầm cảm trên thế giới và Việt Nam
1.3.1. Lịch sử và tình hình trầm cảm trên thế giới
Lịch sử nghiên cứu từ xa xưa cho đến hiện nay có rất nhiều nhà khoa
học, nhà nghiên cứu thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau tìm hiểu và nghiên
cứu về bệnh trầm cảm [1].
-

Thời cổ đại: Các rối loạn cảm xúc đã được nhận dạng như một bệnh,

-

Saul đã mô tả các triệu chứng, biểu hiện của bệnh trầm cảm.
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực (gọi tắt là bệnh trầm cảm), trước đây gọi là
loạn thần hưng – trầm cảm, đã từng được các thầy thuốc và các triết gia
người Hi Lạp nhận biết, đặc biệt là Hippocrates vào thế kỷ IV trước
công nguyên. Theo quan điểm thể dịch thời bấy giờ, ông ta cho rằng đó


15

là do mất thăng bằng hoặc loạn thăng bằng thể dịch với sự góp mặt của
môi trường, cơ thể và cảm xúc. Ông mô tả mỗi cơn hưng cảm có liên

quan đến việc tiết sữa lại có vẻ thích hợp hơn với tình trạng mê sảng có
-

kết hợp với nhiễm trùng hậu sản.
Bốn thể kỷ sau Hippocrates, Areteus đã mô tả một cách rõ ràng chu kỳ
khí sắc, theo ông trầm cảm xuất hiện trước cơn hưng cảm (học thuyết

-

thể dịch).
Galen, một thầy thuốc Hi Lạp, hành nghề ở Roma vào thế kỷ II sau
công nguyên, tiếp tục truyền thống quan điểm thể dịch, cho rằng trầm
cảm là do thừa mật đen (cho nên mới có từ melankhole, melan có nghĩa
là đen, khole là mật) mặc dù ông ta cũng đã bắt đầu xét đến yếu tố tâm

-

lý, xúc cảm.
Năm 1896 bệnh trầm cảm đã được Emil Kraepelin - nhà tâm lý học
người Đức tách ra thành một bệnh độc lập dựa trên sự thống nhất về
các biểu hiện lâm sàng và tính chất tiến triển, ông đã hợp nhất các thể
bệnh trước kia được coi như là những bệnh độc lập như “Bệnh thao
cuồng”, “Bệnh sầu uất, “Bệnh loạn tâm thần tuần hoàn”, với sự thay
đổi lần lượt các giai đoạn trái ngược nhau hoặc sự kết hợp những giai

-

đoạn tương phản nhau.
Levitan (1997) đã nghiên cứu trên 8116 bệnh nhân từ 15-64 tuổi và xác
định tỷ lệ rối loạn trầm cảm điển hình là 8% và có xu hướng tăng lên

gấp 2-3 lần trong 25 năm tiếp theo, nữ cao gấp 2 lần nam, tăng lên ở
tuổi 40.
Khoảng 18.800.000 người Mỹ trưởng thành, chiếm khoảng 9.5% độ

tuổi dân số Hoa Kỳ từ 18 tuổi trở lên, bị rối loạn trầm cảm trong một năm,
trong đó tỷ lệ gặp ở phụ nữ cao gấp gần 2 lần nam giới (12% so với 6,6%).
Năm 1997 có 30.535 người chết vì tự tử tại Hoa Kỳ. Tỷ lệ tự tử ở người trẻ
gia tăng đáng kể trong vài thập kỳ qua. Trong năm 1997, tự tử là nguyên nhân
thứ 3 trong số những nguyên nhân tử vong hàng đầu ở lứa tuổi từ 15 đến 24.


16

Theo nghiên cứu công bố năm 2010 trên Tạp chí của Hiệp hội Y khoa
Hoa Kỳ, tỷ lệ thiếu niên tự tử năm 2004 tỷ lệ đã tăng 18%. Theo nghiên cứu
mới, tốc độ năm 2005 đã đi xuống nhưng không nhiều. Tỷ lệ khoảng 4,5%
trên 100.000 dân [7].
Đối tượng mắc phải trầm cảm đa dạng một cách đáng kể trong khắp
dân số thế giới. Tỷ lệ mắc phải trầm cảm suốt đời có tỷ lệ xấp xỉ 3% ở Nhật
cho đến 16% ở Mỹ, còn với hầu hết các nước thì dao động trong khoản 812%. Việc thiếu các tiêu chuẩn chấn đoán gây khó khăn cho việc so sánh tỷ lệ
mắc phải trầm cảm ở giữa các quốc gia khác nhau. Ngoài ra các yếu tố khác
biệt về văn hoá, khác biệt về rủi ro, cũng ảnh hưởng tới sự biểu hiện ra bên
ngoài của rối loạn này [11].
1.3.2. Tình hình trầm cảm tại Việt Nam
Tuy chưa phát triển mạnh như nhiều nước trên thế giới nhưng ở Việt
Nam cũng đã có một số nghiên cứu đóng góp và việc nhận biết sớm bệnh
trầm cảm.
Theo nghiên cứu của Trần Văn Cường và cộng sự (2002) trầm cảm
chiếm 13,2% dân số.
Theo Báo cáo kết quả điều tra quốc gia về vị thành niên Việt nam lần II

năm 2009 (SAVY II) cho biết, trong số hơn 10.000 thanh thiếu niên được điều
tra tại Việt Nam ở độ tuổi từ 14 đến 25, có 73,1% người trả lời từng có cảm
giác buồn chán, có 27,6% thanh thiếu niên đã trải qua cảm giác rất buồn hoặc
cảm thấy mình không có ích đến nỗi không muốn hoạt động như bình thường.
Tỷ lệ thanh thiếu niên cảm thấy hoàn toàn thất vọng về tương lai là 21,3% và
có 4,1% đã từng nghĩ đến chuyện tự tử. So sánh với SAVY I chỉ xét riêng cảm
giác nghĩ đến chuyện tự tử, mức độ tăng đã tăng lên khoảng 30% [3].
1.4. Tình hình trầm cảm ở sinh viên y khoa
Theo nghiên cứu của Niemi [30], lo lắng, căng thẳng và khó chịu cũng


17

như nhức đầu và đau ở cổ và vai rất phổ biến trong suốt 6 năm học ở trường y.
Trầm cảm thường gặp ở thời điểm tốt nghiệp hơn so với lúc bắt đầu đi lâm
sàng (36% so với 17%). Vào cuối thời gian đào tạo tiền lâm sàng, 47% sinh
viên được phỏng vấn cảm thấy căng thẳng rất mạnh. Tổng cộng có 36% sinh
viên cảm thấy căng thẳng rất nhiều vào đầu và 40% sinh viên cảm thấy rất
căng thẳng vào cuối thời gian đào tạo lâm sàng.
Nghiên cứu của một trường trung cấp Y Thái Lan cho thấy 61,4% sinh
viên cảm thấy có căng thẳng, 59% thấy căng thẳng nhẹ, 2,4% cảm thấy rất
căng thẳng [34].
Có tới 39,6% sinh viên có triệu chứng trầm cảm trong nghiên cứu về
sinh viên năm thứ nhất tại Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh [31].
Tại trường Đại học Y Hà Nội, số sinh viên các khối đa khoa có dấu
hiệu trầm cảm là khá cao với tỷ lệ lần lượt của khối sinh viên Y2, Y4, Y6 là
51%, 50% và 40% [7].
1.5. Các test sàng tuyển trầm cảm
1.5.1. Sàng tuyển
Sàng tuyển là việc áp dụng một biện pháp kỹ thuật (có thể là trắc

nghiệm hoặc thăm khám lâm sàng) để phân loại những cá nhân có thể đã mắc
bệnh và đang ở thời kỳ sớm của một bệnh trạng (chưa biểu hiện lâm sàng có
thể nhận thấy) trong một cộng đồng và những cá nhân hoàn toàn khoẻ mạnh.
Trắc nghiệm không phải là chẩn đoán xác định mà là nhằm tách lọc, phát hiện
những cá thể có nguy cơ phát triển bệnh. Bước tiếp theo của sàng tuyển là
theo dõi, chẩn đoán xác định và can thiệp sớm.
1.5.2. Một số công cụ sàng tuyển trầm cảm
Có nhiều thang điểm trắc nghiệm để đánh giá các mức độ rối loạn trầm
cảm, trong đó có các trắc nghiệm của Beck và Hamilton, được các tác giả


18

trong nước thường dùng và đã được chuẩn hoá ở Việt Nam, tại Viện Sức
Khoẻ Tâm Thần Quốc Gia.
Thang tự đánh giá trầm cảm của Beck (Beck Depression Inventory),
được Beck AT (Mỹ) và cộng sự xây dựng vào năm 1974, gợi ý từ những quan
sát lâm sàng bệnh nhân trầm cảm, nhất là từ liệu pháp tâm thần. Test này được
WHO công nhận để đánh giá trạng thái trầm cảm và hiệu quả của các phương
pháp điều trị, và là test được dùng phổ biến tại Viện Sức Khoẻ Tâm Thần
Quốc Gia từ năm 1989. Test Beck bao gồm 21 câu hỏi đánh số thứ tự từ 1 đến
21, mỗi câu có 4 đến 6 mục nhỏ, tổng cộng 95 mục nhỏ. Mỗi mục đi sâu khảo
sát từng đặc điểm của trầm cảm ở các mức điểm 0, 1, 2, 3. Kết quả được phân
tích theo các mức độ:
-

< 14 điểm: Không có trầm cảm
14-19 điểm: Trầm cảm nhẹ
20-29 điểm: Trầm cảm vừa
≤ 30 điểm: Trầm cảm nặng

Thanh đánh giá trầm cảm của Hamilton, ra đời năm 1960, là một

phương pháp đơn giản để đánh giá băng định lượng mức độ nghiêm trọng của
tình trạng trầm cảm, và để chứng minh những chuyển biến của rối loạn này
trong quá trình điều trị. Thang điểm được xây dựng dựa trên bộ câu hỏi gồm
14 câu trong đó 7 câu để đánh giá mức độ trầm cảm và 7 câu đánh giá mức độ
lo âu.
Mỗi câu được đánh giá ở các mức điểm 0, 1, 2, 3. Kết quả được phân tích
theo các mức độ:
-

7 điểm: Bình thường
8-10 điểm: Dấu hiệu trầm cảm hoặc lo âu
11-21 điểm: Trầm cảm hoặc lo âu thục sự
Ngoài ra còn có các thang đánh giá khác như DASS (Thang đánh giá

Lo âu – Trầm cảm – Stress), thang GDS (Thang đánh giá trầm cảm người già)


19


Tuy nhiên, các thang đánh giá trên chỉ đánh giá cường độ, mức độ và
sự nhận thức về trầm cảm ở những người bệnh có chẩn đoán rối loạn tâm
thần. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng thang đánh giá trầm cảm CES-D
(The Centre of Epidemiological Studies – Depression Scale), ra đời năm
1977. Ưu điểm của thang đánh giá này là sử dụng được ở cộng đồng để phân
biệt các trường hợp có dấu hiệu trầm cảm cần có can thiệp tiếp. Thang đo này
đã được đánh giá về tính giá trị và độ tin cậy đối với đối tượng vị thành niên ở
Việt Nam. Các câu hỏi trong thang đo ngắn gọn và dễ sử dụng. Thang đánh

giá gồm 20 câu [32]. Mỗi câu hỏi được đánh giá ở các mức điểm 0, 1, 2, 3
theo các mức độ như sau:
-

0 điểm: Không bao giờ hoặc hiếm khi (<1 ngày/tuần)
1 điểm: Đôi khi (1-2 ngày/tuần)
2 điểm: Thỉnh thoảng (3-4 ngày/tuần)
3 điểm: Rất hay xảy ra hoặc hầu hết thời gian (5-7 ngày/tuần)
CES-D được thiết kế bao gồm các triệu chứng chính của bệnh trầm

cảm được xác định với sự nhận mạnh vào các phần tình cảm: trầm cảm tâm
trạng, cảm giác tội lỗi và vô dụng, cảm giác bất lực và tuyệt vọng, chậm phát
triển tâm thần, mất cảm giác ngon miệng và rối loạn giấc ngủ.
CES-D được sử dụng rộng rãi trong nhiều nghiên cứu ở cộng đồng.
Theo đánh giá chuẩn của quốc tế thì điểm 16 là mốc (cut-off point) để phân
loại giữa có và không có dấu hiệu trầm cảm.


20

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Sinh viên đa khoa đang học năm thứ 2, 4, 6 Trường Đại học Y Dược
Hải Phòng năm học 2014-2015.
Tiêu chuẩn loại trừ:
Sinh viên không đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại trường Đại học Y Dược Hải Phòng, số
72A đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

2.3. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 2 đến tháng 6 năm 2015.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.4.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
-

Cỡ mẫu: được tính theo công thức của cỡ mẫu ngẫu nghiên phân tầng
theo 3 khối sinh viên, sử dụng phần mềm WHO Sample Size 2.0:

Trong đó:
n: Cỡ mẫu cần có.
α là ý nghĩa thống kê, ở mức α = 0,05 và giá trị Z tương ứng là 1,96.
d: Mức độ sai lệch tuyệt đối mong đợi là 0,05.
L: Số tầng là 3.
Ph: Tỷ lệ sinh viên có dấu hiệu trầm cảm ở từng khối. Lấy P h1=0,513;
Ph2=0,5 và Ph3=0,4 (tương ứng với tỷ lệ có dấu hiệu trầm cảm của khối
sinh viên Y2, Y4, Y6 đa khoa theo nghiên cứu ở sinh viên trường Đại
học Y Hà Nội) [7].


21

Nh: Số lượng sinh viên ở từng khối. Với N h1=543, Nh2=463, Nh3=376
tương ứng số lượng sinh viên Y2, Y4, Y6 lấy từ dữ liệu của phòng Đào
tạo trường Đại học Y Dược Hải Phòng.
Wh: Trọng số, với Wh1, Wh2, Wh3 lần lượt là trọng số của khối SV Y2,
Y4, Y6. Tính bằng số sinh viên từng khối trên tổng sinh viên 3 khối.
Theo công thức trên thì cỡ mẫu tính được như sau:
Bảng 2.1: Phân bố cỡ mẫu điều tra theo khối
ST

T

Khố
i SV

1
Y2
2
Y4
3
Y6
Tổng số
-

Kích
thước
quần
thể
543
463
376
1382

Giá
trị p

Giá
trị d

Trọng

số W

0,513
0,50
0,40

0,05
0,05
0,05

0,393
0,335
0,272

Cỡ mẫu
tối thiểu
cần thiết

Số lượng
thực tế
điều tra

117
100
81
298

119
110
93

322

Phương pháp và kỹ thuật chọn mẫu:
Chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng tỷ lệ.
Danh sách số lượng sinh viên Y2, Y4, Y6 khối đa khoa được lấy từ

phòng đào tạo trường Đại học Y Dược Hải Phòng. Với tổng số sinh viên 3
khối là 1382 sinh viên. Sinh viên Y2 có 9 lớp, 543 sinh viên. Sinh viên Y4 có
9 lớp, 463 sinh viên. Sinh viên Y6 có 8 lớp, 376 sinh viên.
Tiến hành bốc thăm ngẫu nhiên 2 lớp Y2, 2 lớp Y4 và 2 lớp Y6 trong
tổng số các lớp trong danh sách để tiến hành phát phiếu phỏng vấn.
2.4.3. Các biến số nghiên cứu:
Bảng 2.2: Các biến số nghiên cứu
Nhóm biến số
Biến số
Phân loại biến
Thông tin chung: Các đặc điểm của sinh viên đa khoa
Y2, Y4, Y6 năm học 2014 – 2015
Thông tin

Năm sinh

Định lượng


22

Giới
Định tính (Nhị phân)
Dân tộc

Định tính (Danh mục)
Tôn giáo
Định tính (Danh mục)
chung của
Nơi sống
Định tính (Danh mục)
đối tượng
Người sống cùng
Định tính (Danh mục)
nghiên cứu
Tình trạng hôn nhân bố mẹ
Định tính (Danh mục)
Nguồn hỗ trợ tài chính
Định tính (Danh mục)
Tình trạng tài chính
Định tính (Danh mục)
Mục tiêu 1: Mô tả tỷ lệ có dấu hiệu trầm cảm ở sinh viên Y2, Y4, Y6 đa
khoa trường Đại học Y Dược Hải Phòng năm học 2014 - 2015
Tỷ lệ có dấu
hiệu trầm cảm

Tỷ lệ sinh viên có dấu hiệu trầm
cảm theo đánh giá CES-D20

Định lượng

Mục tiêu 2: Mô tả một số yếu tố liên quan đến dấu hiệu trầm cảm ở sinh
viên Y2, Y4, Y6 đa khoa Đại học Y Dược Hải Phòng năm 2014 - 2015
Khó khăn trong việc tìm bạn mới Định tính (Nhị phân)
Khó khăn trong việc tham gia

Định tính (Nhị phân)
hoạt động xã hội
Yếu tố từ mối Mẫu thuẫn với bạn cùng phòng
Định tính (Nhị phân)
quan hệ với gia Đánh nhau với bạn
Định tính (Nhị phân)
đình, bạn bè, xã Bạn thân qua đời
Định tính (Nhị phân)
hội
Chia tay với người yêu
Định tính (Nhị phân)
Người thân trong gia đình qua Định tính (Nhị phân)
đời
Gặp rắc rối với ba mẹ
Định tính (Nhị phân)
Thay đổi thói quen ngủ
Định tính (Nhị phân)
Thay đổi thói quen ăn uống
Định tính (Nhị phân)
Định tính (Nhị phân)
Yếu tố thuộc về Giảm sút sức khỏe
bản thân sinh Tập thể dục thể thao
Định tính (Nhị phân)
viên
Có việc làm thêm
Định tính (Nhị phân)
Đính hôn hoặc kết hôn
Định tính (Nhị phân)
Chấn thương nặng
Định tính (Nhị phân)

Yếu tố liên
Tăng áp lực học hành
Định tính (Nhị phân)
quan đến học Điểm thấp hơn mong đợi
Định tính (Nhị phân)
tập
Đạt thành tích học tập xuất sắc
Định tính (Nhị phân)
Thay đổi chuyên ngành
Định tính (Nhị phân)
Tìm công việc sau khi ra trường Định tính (Nhị phân)
Bỏ nhiều tiết học
Định tính (Nhị phân)
Chuẩn bị, mong đợi tốt nghiệp
Định tính (Nhị phân)


23

Tranh cãi (xích mích) với thầy Định tính (Nhị phân)

2.4.4. Phương pháp và công cụ thu thập thông tin
2.4.4.1. Công cụ thu thập số liệu
Thông tin được thu thập bằng bộ câu hỏi có sẵn, đối tượng tự trả lời.
Để đánh giá về dấu hiệu trầm cảm của sinh viên, chúng tôi sử dụng
thang đo CES-D20 của Radoloff [32].
Bộ câu hỏi sử dụng thang điểm 4 mức độ 0-3 với Thang đo được mã
hoá:
-


0: Không bao giờ hoặc hiếm khi (<1 ngày/tuần)
1: Đôi khi (từ 1-2 ngày/tuần)
2: Thỉnh thoảng (từ 3-4 ngày/tuần)
3: Rất hay xảy ra hoặc hầu hết thời gian (từ 5-7 ngày/tuần)
Đặc biệt, các câu CES-D 4, 8, 12, 16 được tính điểm ngược lại là:

-

3: Không bao giờ hoặc hiếm khi (<1 ngày/tuần)
2: Đôi khi (từ 1-2 ngày/tuần)
1: Thỉnh thoảng (từ 3-4 ngày/tuần)
0: Rất hay xảy ra hoặc hầu hết thời gian (từ 5-7 ngày/tuần)
Tiêu chuẩn đánh giá:

-

Trong từng câu hỏi, dấu hiệu hành vi được coi là “có” nếu xuất hiện với

-

tần suất từ “Đôi khi” đến “Rất hay xảy ra”.
Phân loại dấu hiệu trầm cảm dựa theo tổng điểm của bộ câu hỏi CESD20: Tổng điểm <16: không có dấu hiệu trầm cảm. Tổng điểm ≥16: có
dấu hiệu trầm cảm [17, 32].

2.4.4.2. Quá trình thu thập số liệu
-

Bộ câu hỏi sử dụng bộ công cụ CES-D của Radoloff cùng các biến số
liên quan. Sau khi đã hoàn thành, bộ câu hỏi sẽ được tập huấn và điều



24

-

tra thử trên sinh viên nhằm kiểm tra tính logic, phù hợp.
Sau khi chọn sinh viên vào nghiên cứu, liên hệ phòng Đào tạo Đại học
để xem lịch học, lịch thi của từng lớp. Trên cơ sở đó, chọn thời điểm

-

phù hợp để ít ảnh hưởng nhất đến thời gian học tập của sinh viên.
Những sinh viên trong danh sách nghiên cứu sẽ được giải thích đầy đủ
mục đích, tính bảo mật của nghiên cứu, thời gian cần thiết để hoàn
thành một phiếu điều tra và trên cơ sở đó quyết định có tham gia

-

nghiên cứu hay không.
Phiếu điều tra không thu thập các thông tin để nhận diện đối tượng
nghiên cứu, được kiểm tra đã điền đẩy đủ thông tin khi nộp.


25

2.4.5. Phương pháp hạn chế sai số

-

Sai số có thể có

Sai số do thu thập số liệu, thông tin: thông tin nghiên cứu được thu thập
qua việc tự điền phiếu hỏi, do đó có thể có một phần phụ thuộc vào tính
chủ quan của đối tượng nghiên cứu hoặc do tâm lý e ngại, sai số nhớ

-

lại.
Sai sót trong quá trình nhập số liệu, xử lý số liệu.
Khống chế sai số
Tập huấn cho người phát vấn hiểu và nắm chắc bộ câu hỏi.
Giải thích kỹ các câu hỏi dễ gây nhầm lẫn trong bộ câu hỏi cho sinh

-

viên ngay khi phát phiếu.
Tiến hành điều tra thử với số lượng nhỏ để hoàn thiện công cụ, giám sát


-

quá trình điều tra thử, rồi sau đó mới tiến hành điều tra.
2.4.6. Quản lý, xử lý và phân tích số liệu
-

Số liệu được làm sạch trước khi nhập liệu: loại bỏ những phiếu điều tra

-

không hợp lệ: rách, không điền đủ thông tin, thông tin không rõ ràng.
Số liệu điều tra được nhập vào máy tính bằng phần mềm Epidata 3.1 và


-

phân tích dựa trên Stata 10.
Sử dụng các thuật toán tính tỷ lệ phần trăm, test χ2, Fisher exact test…

2.4.7. Đạo đức trong nghiên cứu
-

Nghiên cứu được sự đồng ý của Trường Đại học Y Dược Hải Phòng.
Sinh viên tự nguyện tham gia sau khi đã được giải thích rõ về mục đích

-

và ý nghĩa của nghiên cứu.
Thông tin thu thập trung thực, khách quan, được bảo mật và chỉ sử

-

dụng cho mục đích nghiên cứu.


×