Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

THU hút đầu tư tư NHÂN vào các dự án PPP KINH NGHIỆM của một số QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI và bài học CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.88 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

THU HÚT ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀO CÁC DỰ ÁN
PPP - KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế

VÕ TÙNG ANH

Hà Nội - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
----------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

THU HÚT ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀO CÁC DỰ ÁN
PPP - KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Ngành: Kinh tế học
Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 8310106


Họ và tên học viên: Võ Tùng Anh
Người hướng dẫn: PGS, TS Nguyễn Thị Tường Anh

Hà Nội - 2018


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC HÌNH
DANH MỤC BẢNG
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THU HÚT VỐN TỪ KHU VỰC TƯ
NHÂN VÀO ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ– (PPP).......4
1.1. Lý thuyết chung về hình thức đối tác công tư (PPP)...............................4
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của phương thức đối tác công tư (Public Private
Partnership-PPP................................................................................................ 4
1.1.2. Lợi ích và thách thức của phương thức hợp tác công tư (PPP)................9
1.1.3. Các hình thức tổ chức thực hiện PPP..................................................... 13
1.2. Nguồn vốn tư nhân trong dự án PPP......................................................... 16
1.2.1 Cấu trúc về nguồn vốn của dự án PPP.................................................... 16
1.2.3. Vai trò của nguồn vốn tư nhân trong các dự án PPP.............................. 21
1.3 Thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án PPP............................................... 25
1.3.1 Các phương pháp thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án PPP.................25
1.3.2 Những khó khăn, thách thức trong việc thu hút đầu tư tư nhân vào các dự
án PPP............................................................................................................. 33
CHƯƠNG II: KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TƯ
NHÂN TRONG MÔ HÌNH PPP.......................................................................... 38
2.1. Kinh nghiệm các quốc gia trong việc thay đổi thể chế chính sách..........38
2.1.1. Kinh nghiệm từ Hàn Quốc...................................................................... 38
2.1.2. Kinh nghiệm từ nước Đức....................................................................... 41
2.2. Kinh nghiệm các quốc gia về hỗ trợ tài chính các dự án PPP.................44

2.2.1. Đạo luật Tài chính và Đổi mới cơ sở hạ tầng giao thông (TIFIA) ở Hoa
Kỳ..................................................................................................................... 44
2.2.2. Quỹ tăng hỗ thanh toán hợp đồng (CPEG) - Mexico..............................46
2.3. Kinh nghiệm lựa chọn phương thức và đối tác hợp tác công – tư...........48
2.3.1 Lựa chọn đối tác tư nhân trong dự án hầm Sydney ở Úc.........................48


2.3.2 Lựa chọn nhà thầu và phương thức đầu tư PPP ở dự án Dartford, Anh .. 50

2.4. Cam kết của chính phủ khi tham gia dự án PPP...................................... 54
2.4.1. Cam kết chính phủ trong dự án Bệnh viện Joonalup, Úc........................54
2.4.2. Cam kết trong dự án PPP Laibin B, Trung Quốc.................................... 57
2.5. Nhận dạng và phân bố rủi ro hợp lý trong các dự án PPP......................63
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CÁC NƯỚC TRONG VIỆC THU
HÚT ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀO CÁC DỰ ÁN PPP Ở VIỆT NAM...................69
3.1. Tình hình triển khai mô hình PPP tại Việt Nam giai đoạn qua...............69
3.1.1. Tình hình thực hiện các dự án PPP trước năm 2010..............................69
3.1.2 Tình hình thực hiện các dự án PPP từ 2010 trở lại đây...........................71
3.2. Thực trạng thu hút vốn đầu tư tư nhân vào các dự án PPP ở Việt Nam 74

3.2.1. Khung cơ chế chính sách hỗ trợ thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án
PPP ở Việt Nam................................................................................................ 74
3.2.2. Cơ chế hỗ trợ tài chính của chính phủ trong việc thu hút vốn đầu tư tư
nhân vào các dự án PPP.................................................................................. 78
3.2.3. Quy trình lựa chọn đối tác tư nhân và dự án PPP ở Việt Nam...............79
3.2.4. Đánh giá chung về tình hình thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án PPP ở
Việt Nam........................................................................................................... 82
3.3. Một số đề xuất thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án PPP ở Việt Nam . 85

3.3.1. Về cải cách chính sách........................................................................... 85

3.3.2. Về vấn đề hỗ trợ tài chính cho các dự án................................................ 88
3.3.3. Về vấn đề lựa chọn đối tác tư nhân......................................................... 90
3.3.4. Về cam kết của chính phủ trong thực hiện dự án PPP............................91
KẾT LUẬN............................................................................................................ 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 94


LỜÌ CAM ĐOAN
Tôi tên là: Võ Tùng Anh
Mã học viên: 1606040002
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất cứ công trình nào khác.

Tác giả luận văn


ADB
AUD
BOO
BOOT
BOT
BLT
BTL

BANOBRAS
CA
CARP
CPEG

DBOT

EUR
FSTA
KRW

KDI
MERCOSUR

MIGA
MOSF
MRG
NSNN
ODA

PIMC
PPA
PPIAF

PPIP
PPP


RTA
VGF
USD

UNDP



DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1: Cam kết đầu tư cho các dự án cơ sở hạ tầng có sự tham gia của
khu vực tư nhân vào các nước phát triển theo lĩnh vực 1990 -2005............23
(Hình 2.1: Biểu đồ cải cách đạo luật về mô hình đối tác công tư ở Hàn
Quốc)..................................................................................................................................................... 41
Hình 3.1: Tỷ trọng số các sự án phân theo hình thức đầu tư (%)................69
Hình 3.2: Tỷ trọng vốn đầu tư các dự án phân theo hình thức đầu tư (%)
70
Hình 3.3: Tỷ trọng số dự án phân theo lĩnh vực đầu tư (%) và tổng vốn đầu tư

(tỷ đồng).............................................................................................................................................. 71


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Tóm tắt dòng đầu tư vào các nước đang phát triển theo lĩnh
vực và khu vực............................................................................................................................... 24
Bảng 2.1.Các loại rủi ro và trách nhiệm chia sẻ rủi ro của các bên.............67


TÓM TẮT KẾT QUẢ LUẬN VĂN
Trong bối cảnh ngân sách quốc gia của các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam còn eo hẹp, nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) sụt giảm, việc huy
động sự tham gia của khu vực tư nhân (đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài) vào các
dự án cơ sở hạ tầng là rất cần thiết, mà phương thức hợp tác công – tư (PPP) là một
hình thức thích hợp, đã có lịch sử phát triển lâu dài ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, thực tiễn thí điểm triển khai các dự án theo hình thức PPP ở Việt Nam đã
đạt được một số kết quả nhất định, song cũng còn không ít trở ngại, khó khăn cả về
nhận thức, khuôn khổ thể chế và thực tiễn quá trình triển khai. Trong khi đó, mô
hình PPP đã xuất hiện khá sớm trên thế giới và thực tiễn áp dụng các phương thức
thu hút đầu tư tư nhân trong dự án PPP cũng vô cùng phong phú. Đã có nhiều báo

cáo, tài liệu phân tích cụ thể các đặc điểm và hiệu quả của việc thu hút đầu tư tư
nhân trong dự án PPP tại các quốc gia trên thế giới đã được ban hành và hoàn toàn
có thể học tập tham khảo để ứng dụng vào Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
và đúc rút ra kinh nghiệm từ những ví dụ điển hình quốc tế để từ đó đưa ra được
những kiến nghị phù hợp với Việt Nam là hết sức cần thiết.
Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này của mình, tác giả đã đưa cơ sở lý luận
bao gồm những khái niệm cơ bản, các hình thức của mô hình PPP, nhưng ưu điểm
và hạn chế của mô hình này, và khái quát những phương thức nhằm thu hút đầu tư
tư nhân tham gia vào mô hình này. Đề tài “Thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án
PPP, kinh nghiệm của một số quốc gia thế giới và bài học cho Việt Nam” cũng đã
tóm tắt những phương thức nhằm thu hút đầu tư tư nhân vào mô hình PPP, trong đó
tập trung chủ yếu ở ba phương thức: Thay đổi thể chế chính sách, Hỗ trợ tài chính
cho các dự án, Lựa chọn phương thức và đối tác PPP. Tiếp đến, tác giả cũng đã đưa
được kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong việc thu hút đầu tư tư
nhân vào các dự án PPP từ đó tác giả cũng ra rút ra được một số bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam trong lĩnh vực này. Trên cơ sở những bài học quốc tế đó, luận
văn cũng đã đưa ra được môt số kiến nghị nhằm vận dụng những kinh nghiệm này
trong việc thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án PPP ở Việt Nam.


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong thập kỷ qua, công cuộc đổi mới đã giúp Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to
lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, bộ mặt đất nước nay đã có sự chuyển biến tích cực.
Góp phần quan trọng vào sự tăng trường vượt bậc đó là đường lối chính sách huy động sự
tham gia của các thành phần kinh tế, đặc biệt là sự tham gia của thành phần kinh tế tư
nhân, điều đó đã góp phần tạo nên động lực mạnh mẽ trong tăng cường đầu tư vào xây
dựng cơ sở hạ tầng, là nền tảng và động lực cho tăng trưởng và nâng cao hiệu quả hoạt

động của khu vực công. Nguyên nhân chính phủ cần phải huy động sự tham gia của lực
lượng kinh tế tư nhân là bởi, không một chính phủ nào có thể kham nổi toàn bộ việc đầu tư
cho hệ thống cơ sở hạ tầng, và cũng không nhà đầu tư tư nhân nào có thể làm được việc
này vì đây là lĩnh vực có hiệu quả kinh tế thấp và nhiều rủi ro, đó cũng chính là lý do khiến
cho mô hình hợp tác công – tư PPP ra đời. Mô hình này đã bộc lộ nhiều tác động tích cực,
đặc biệt trong bối cảnh châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng đang phát triển nhanh và
nhu cầu về dịch vụ công cũng như cơ sở hạ tầng rất lớn.
Mô hình hợp tác công tư (PPP) trong việc đầu tư nâng cao chất lượng các dịch vụ công
được coi là hướng đi đúng đắn của Việt Nam trong giai đoạn này. Tuy nhiên, trong quá
trình áp dụng thực hiện tại Việt Nam, nhiều khó khăn và thách thức đã bộc lộ rõ nét do
hành lang pháp lý của chúng ta chưa hoàn thiện, cơ chế đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư
tham gia dự án còn nhiều bất cập. Kinh nghiệm thực hiện PPP của nhiều nước trên thế giới
cho thấy, việc các luật thiếu thống nhất, thiếu các văn bản hướng dẫn thực hiện và các cơ
chế chia sẻ rủi ro và lợi ích thỏa đáng là những yếu tố góp phần làm các dự án

PPP
không còn hấp dẫn trong mắt của các nhà đầu tư tư nhân. Nhận thức
được điều đó,

tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu “Thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án PPP,
kinh nghiệm của một số quốc gia thế giới và bài học cho Việt Nam” làm đề tài cho
luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn sẽ đi sâu tập trung vào nghiên cứu về kinh
nghiệm thu hút đầu tư khu vực tư nhân của các nước trên thế giới vào các dự án
PPP, từ đó rút ra kinh nghiệm thực tiễn cho Việt Nam trong quá trình thực thi các dự
án PPP trong tương lai.


2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Mô hình PPP xuất hiện trên thế giới khá sớm, và đã được áp dụng trong
nhiều lĩnh vực ở các quốc gia khác nhau. Trong đó, nghiên cứu về việc thu hút đầu
tư tư nhân trong mô hình này cũng đã được nhiều tác giả quốc tế quan tâm, vì đây
chính là động lực thúc đẩy quan trọng cho việc hình thành các dự án. Những nghiên
cứu quốc tế đã giúp tác giả rất nhiều trong việc hoàn thành bài luận văn này có thể
kể đến như “Public-Private Partnership Infrastructure Projects: Case Studies from
the Republic of Korea” của nhóm tác giả Jay-Hyung Kim, Jungwook Kim,
Sunghwan Shin, Seung-yeon Lee (KDI & ADB, 2011) bài nghiên cứu “Current
PPP-Model for the German Federal Trunk Roads, Conference on Applied
Infrastructure Research” của nhóm tác giả Thorsten Beckers, Christian von
Hirschhausen, Jan Peter Klatt (2005) hay những bộ báo cáo khác của World Bank,
UNDP, PPIAF…
Trong các nghiên cứu về mô hình PPP ở Việt Nam, có thể kể đến công trình
“Hình Thức Đối Tác Công - Tư (Ppp): Kinh Nghiệm Quốc Tế Và Khuôn Khổ Thể
Chế Tại Việt Nam” của nhóm tác giả: Mai Thị Thu Nguyễn Văn Phúc, Đặng Ngọc
Trâm, Nguyễn Đoan Trang Phương, hay Luận án tiến sĩ “Hình thức hợp tác công tư
(Public Private Partnership) để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ tại
Việt Nam” của Huỳnh Thị Thúy Giang (2012). Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu
nào tổng quát và chuyên sâu nêu lên được những phương thức cụ thể thu hút vốn
đầu tư tư nhân vào các dự án PPP ở Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và nhân tố tác động đến thu hút vốn đầu tư từ khu
vực tư nhân cho dự án đầu tư theo hình thức công –tư (PPP);
- Nghiên cứu những kinh nghiệm quốc tế trong thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án
PPP và từ đó rút ra những bài học cho Việt Nam
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án PPP ở Việt
Nam
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:



3

Đối tượng nghiên cứu: Kinh nghiệm thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án PPP trên thế giới

và bài học cho Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu tình hình thu hút vốn đầu tư tư nhân từ
năm 1950 đến nay ở các nước.
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu kinh nghiệm ở quốc gia: Hàn
Quốc,
Đức, Anh, Ấn Độ, Mê-xi-cô, Úc, Trung Quốc và Việt Nam.
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu các nội dung về kinh nghiệm thu hút
đầu tư tư nhân vào các dự án PPP và bài học cho Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học bao gồm:
5.1. Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu
Việc thu thập tài liệu có liên quan đến nội dung của đề tài có ý nghĩa quan trọng
trong nghiên cứu. Luận văn đã thu thập tài liệu, tư liệu thống kê về thu hút đầu tư tư
nhân vào các dự án PPP ở Việt Nam và các nước khác trên thế giới.
5.2. Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
Phương pháp phân tích giúp tìm ra được những phương pháp thu hút vấn đầu tư tư
nhân vào các dự án PPP ở các nước. Phương pháp so sánh để có thể thấy được sự
khác biệt trong việc phân chia rủi ro giữa khu vực tư và khu vực công khi tham gia
vào các dự án PPP và những khác biệt khi áp dụng những phương pháp thu hút đầu
tư ở các nứơc vào Việt Nam. Phương pháp tổng hợp trong việc rút ra những bài học
áp dụng cho Việt Nam dựa vào kinh nghiệm các quốc gia trên thế giới.
Trong nghiên cứu, các phương pháp này được sử dụng linh hoạt để giải quyết vấn
đề một cách hiệu quả nhất.

6.

Kết cấu của luận văn:

Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý thuyết chung về thu hút vốn từ khu vực tư nhân vào đầu tư theo hình
thức đối tác công tư– (PPP
Chương 2: Kinh nghiệm thế giới về thu hút đầu tư tư nhân trong mô hình PPP
Chương 3: Vận dụng kinh nghiệm các nước trong việc thu hút đầu tư tư nhân vào
các dự án PPP ở Việt Nam


4

CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THU HÚT VỐN TỪ KHU VỰC TƯ
NHÂN VÀO ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ– (PPP)

1.1.

Lý thuyết chung về hình thức đối tác công tư (PPP)

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của phương thức đối tác công tư (Public
Private Partnership-PPP
1.1.1.1. Khái niệm về Đối tác công tư (Public Private Partnership-PPP)
Khái niệm về đối tác công tư (Public Private Partnership-PPP) được định
nghĩa dưới nhiều khía cạnh và có nhiều phiên bản khác nhau, tùy theo bối cảnh của
các quốc gia hoặc tổ chức nghiên cứu. Phần dưới đây sẽ điểm qua một vài khái
niệm về PPP đang được sử dụng khá phổ biến trên thế giới.
Trong cuốn sách “PPP: Hướng dẫn cho chính quyền địa phương” xuất bản
tháng 5/1999, Chính quyền bang British Columbia, Canada coi Đối tác công tư là

“sự phối hợp giữa các cơ quan chính phủ và tổ chức tư nhân nhằm mục đích cung
cấp cơ sở hạ tầng công, các tiện nghi cho cộng đồng và các dịch vụ liên quan”
(Ministry of Municipal Affair, 1999).
Trong nghiên cứu “Khai thác lợi thế của PPP: Vai trò của chiến lược hỗ trợ
tài chính trong phát triển bền vững”, Colverson và Perera coi PPP “là một hình thức
được áp dụng trong một số dạng hợp đồng giữa nhà nước và khu vực tư nhân nhằm
mục tiêu cung cấp dịch vụ và phát triển cơ sở hạ tầng” (Colverson và Perera, 2012).
Một số tổ chức chuyên hoạt động trong lĩnh vực PPP như: Hội đồng PPP của
Canada (Canadian Council for Public Private Partnership), Hội đồng quốc gia về
PPP của Mỹ (National Council for Public Private Partnership) cũng đưa ra những
khái niệm riêng của mình về PPP. Chẳng hạn như “PPP là một liên doanh hợp tác
giữa khu vực công và tư, dựa trên lợi thế của mỗi bên nhằm xác định nhu cầu của
cộng đồng thông qua việc phân bố hợp lý nguồn lực, rủi ro và lợi ích” (“A
cooperative venture between the public and private sectors, built on the expertise of
each partner, that best meets clearly defined public needs through the appropriate
allocation of resources, risks and rewards”). (The Canadian Council for PublicPrivate Partnerships) và đây là khái niệm sẽ được tác giả sử dụng trong bài nghiên
cứ này của mình.


5

Phân tích sâu sắc hơn bản chất của sự hợp tác giữa nhà nước và khu vực tư
nhân cho thấy trong mối quan hệ này, nhà nước có thể đóng vai trò như “bên cấp
vốn” (tức là hỗ trợ về vốn, tài sản… cho khu vực tư nhân trong việc cung cấp dịch
vụ công trên cơ sở ký hoặc không ký hợp đồng giữa hai bên). Nhà nước cũng có thể
đóng vai trò là “bên mua dịch vụ” (do tư nhân cung cấp) một cách lâu dài; hoặc
“nhà điều phối” tạo ra những diễn đàn để thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân
(Planning Commission, 2004).
Sự khác biệt giữa PPP và Tư nhân hóa:
Trong mô hình PPP, khu vực tư nhân có vai trò đóng góp rất quan trọng, từ

giai đoạn đầu tiên tới cuối cùng của một dự án. Điều này, trong rất nhiều trường
hợp, tạo ra sự hiểu lầm rằng công trình/dự án/dịch vụ đó đang được Chính phủ thực
hiện việc “tư nhân hóa”. Tuy nhiên, sự thật là PPP và tư nhân hóa có những điểm
khác biệt rất cơ bản.
Về trách nhiệm: Trong tư nhân hóa, trách nhiệm cung cấp và hỗ trợ tài chính
cho một dịch vụ cụ thể nào đó do khu vực tư; trong khi đó, theo cơ chế PPP, trách
nhiệm cung cấp dịch vụ hoàn toàn thuộc về khu vực công.
Về sở hữu, trong tư nhân hóa, quyền sở hữu được Nhà nước bán cho khu vực
tư nhân cùng với những quyền lợi và chi phí, song cơ chế PPP vẫn có thể tiếp tục
duy trì quyền sở hữu của Nhà nước.
Về bản chất của dịch vụ, khi tư nhân hóa, các nhà cung cấp tư nhân sẽ quyết
định phạm vi và phương thức cung cấp dịch vụ, trong khi dưới hình thức PPP,
những vấn đề này được cả hai bên (Nhà nước và tư nhân) quyết định thông qua hợp
đồng.
Về rủi ro và lợi ích, nếu là tư nhân hóa, khu vực tư nhân phải chịu hoàn toàn
rủi ro, trong khi với cơ chế PPP, Nhà nước và tư nhân sẽ cùng chia sẻ cả rủi ro và
lợi ích (Planning Commission, 2004).
1.1.1.2. Cơ sở hình thành và động cơ thúc đẩy Đối tác công tư (PPP)
Từ sau 1950 khi mà khái niệm về PPP còn chưa được hình thành, đã có sự
hợp tác giữa khu vực công và tư nhân trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cung
cấp các dịch vụ thiết yếu tại một số nước. Trong giai đoạn này, Nhà nước đóng vai


6

trò chủ đạo trong việc cung cấp các dịch vụ công và là người cung cấp các khoản tài
chính chủ yếu cho khu vực tư nhân để thực hiện nhiệm vụ này. Các công ty tư nhân,
đặc biệt là trong 4 ngành điện lực, than, thép, vận tải biển, đã nhận được sự hỗ trợ
đáng kể về tài chính từ Chính phủ, trong đó có kênh đầu tư qua các tổ chức tài
chính công. Các tổ chức tài chính công này được thành lập nhằm tách việc thực

hiện các chính sách công của nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh của các ngân
hàng thương mại và tiếp nhận các khoản vốn đầu tư từ chính phủ và các nguồn tài
trợ từ nước ngoài để đầu tư phát triển cho các công ty tư nhân trong việc phát triển
cơ sở hạ tầng và cung cấp các dịch vụ thiết yếu.
Đến thập niên 80, hợp tác giữa khu vực công và tư đã phát triển theo hướng
tư nhân hóa, theo đó xu hướng khu vực tư nhân thực hiện cung cấp các dịch vụ
công trước đây do nhà nước thực hiện nhằm giảm bớt gánh nặng về tài chính của
Chính phủ, đồng thời tạo điều kiện nâng cao chất lượng các dịch vụ công. Vào
những năm 1990, khái niệm quản lý theo mô hình khu vực tư nhân được áp dụng
vào quản lý khu vực công nhằm nâng cao trách nhiệm và tính hiệu quả trong khu
vực công tiến tới cải cách tổng thể khu vực công.
Từ năm 2000 đến nay, xu hướng liên danh công–tư đã được phát triển và
hoàn thiện. Theo đó, hợp tác công–tư được hiểu là một phần của việc cải cách khu
vực công nhằm khắc phục sự thiếu hụt nguồn tài chính, thực hiện tối đa hoá lợi ích,
và cung cấp tốt hơn các dịch vụ công với chi phí thấp nhất. Nội dung chính của hợp
tác công-tư là chia sẻ rủi ro và trách nhiệm giữa Nhà nước và khu vực tư nhân,
trong đó trách nhiệm gánh chịu chính đối với những rủi ro thuộc về khu vực tư
nhân. Nhà nước cũng có trách nhiệm trong việc hỗ trợ khu vực tư nhân về tài chính
để đảm bảo dự án khả thi, giảm bớt khó khăn cho tư nhân. Cơ chế hợp tác đã thay
đổi và chuyển dần từ quản lý bằng Luật sang quản lý thông qua hợp đồng. Ngoài
những cách thức hợp tác truyền thống, trong vòng 10 năm qua đã có nhiều biện
pháp, quy định và chính sách để thúc đẩy các mô hình hợp tác công–tư khác nhau.

Động cơ thúc đẩy


7

Theo nghiên cứu của tác giả thì có ba nguyên nhân chính thúc đẩy chính phủ
tham gia vào mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân là:

Thứ nhất: Thu hút vốn đầu tư tư nhân (thường bổ sung cho nguồn vốn nhà
nước hoặc giải phóng cho nguồn vốn nhà nước để sử dụng vào những nhu cầu khác
của nhà nước). Các chính phủ đối mặt với nhu cầu ngày càng tăng trong việc tìm đủ
nguồn tài chính để phát triển và duy trì cơ sở hạ tầng theo yêu cầu của sự gia tăng
của dân số. Các chính phủ gặp khó khăn bởi nhu cầu đô thị hóa ngày càng tăng, nhu
cầu tu bổ những cơ sở hạ tầng đã được xây dựng lâu năm, nhu cầu mở rộng mạng
lưới dịch vụ cho dân số mới tăng lên và nhu cầu đem lại dịch vụ cho những khu vực
trước đây chưa được cung cấp hoặc được cung cấp chưa đầy đủ. Hơn nữa, các dịch
vụ cơ sở hạ tầng thường có doanh thu thấp hơn chi phí, vì vậy phải bù đắp thông
qua trợ cấp và do đó làm cho nguồn lực nhà nước bị hao mòn thêm. Cùng với khả
năng tài chính hạn chế của chính phủ, những áp lực kể trên dẫn tới mong muốn huy
động vốn từ khu vực tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng. Được cơ cấu một cách
phù hợp, mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân có thể huy động các nguồn lực
trước đây chưa được khai thác của khu vực tư nhân tại địa bàn sở tại, trong khu vực
đang tìm kiếm các cơ hội đầu tư.
Mục đích của khu vực tư nhân trong việc tham gia vào mối quan hệ đối tác
nhà nước - tư nhân là tạo ra lợi nhuận từ năng lực và kinh nghiệm quản lý kinh
doanh của mình (đặc biệt là trong ngành dịch vụ công ích). Khu vực tư nhân tìm
kiếm sự đền bù cho các khoản đầu tư vào các dịch vụ bằng các khoản phí dịch vụ,
mang lại một khoản hoàn vốn đầu tư phù hợp.
Thứ hai: Tăng năng suất và sử dụng các nguồn lực có sẵn một cách hiệu quả
hơn. Sử dụng hiệu quả các nguồn lực hiếm hoi của nhà nước là một thách thức lớn
đối với chính phủ và là một trong những nguyên nhân chính làm nhiều chính phủ
không hoàn thành được các mục tiêu đặt ra. Nguyên nhân là do đặc thù của khu vực
nhà nước có quá ít hoặc không có động cơ thiết lập tính hiệu quả trong tổ chức và
quy trình hoạt động của mình, vì thế có vị thế không thuận lợi trong việc xây dựng
và điều hành các cơ sở hạ tầng một cách hiệu quả. Việc đưa những động cơ khuyến
khích như vậy vào khu vực nhà nước là khó khăn, mặc dù không phải không thực



8

hiện được. Singapore đã chứng tỏ được điều này bằng việc phát triển một hệ thống
cơ quan chính phủ hoạt động vì mục tiêu hiệu quả trong khi vẫn duy trì nhiều dịch
vụ quan trọng thuộc khu vực nhà nước.
Thứ ba: Cải cách các lĩnh vực thông qua việc phân bổ lại vai trò, động cơ và
trách nhiệm giải trình. Chính phủ đôi khi coi mối quan hệ nhà nước - tư nhân là một
chất xúc tác kích thích việc thảo luận và cam kết rộng rãi hơn về chương trình cải
cách trong các lĩnh vực, trong đó mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân chỉ là một
bộ phận cấu thành. Một vấn đề then chốt là luôn luôn phải tái cơ cấu và làm rõ vai
trò của các bên. Đặc biệt cần kiểm tra lại và phân bổ lại vai trò của các nhà hoạch
định chính sách, nhà quản lý, nhà cung cấp dịch vụ, đặc biệt nhằm huy động vốn,
đạt hiệu quả như đã trình bày ở trên. Một chương trình cải cách bao gồm mối quan
hệ nhà nước - tư nhân mang tới cơ hội xem xét lại việc phân bổ vai trò của các bên
nhằm xoá bỏ xung đột có khả năng xảy ra và công nhận một tổ chức tư nhân như là
một bên có khả năng tham gia. Tiến hành một giao kết quan hệ nhà nước - tư nhân
cụ thể thường thúc đẩy từng bước cải cách nhằm hỗ trợ việc phân bổ mới vai trò của
các bên, chẳng hạn như việc thông qua các điều luật, thành lập những cơ quan quản
lý riêng biệt. Đặc biệt việc kiểm tra lại các các thoả thuận chính sách và điều tiết
quản lý là những vấn đề tối quan trọng đối với thành công của một dự án PPP.
Theo phân tích trên, ba động cơ để áp dụng hiệu quả mô hình PPP là thu hút
vốn đầu tư tư nhân, gia tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực có sẵn và tạo ra động
cơ cũng như nâng cao trách nhiệm giải trình.
1.1.1.3

Một số đặc điểm của Mô hình Hợp tác Công –Tư (PPP)

Chia sẻ rủi ro (và lợi ích): Forward và Aldis (2009), Kappeler và Nemoz
(2010), Quium (2011) và Planning Commission (2004) đều thống nhất cho rằng
việc chia sẻ hay phân bổ rủi ro (Risk Allocation) là vấn đề trung tâm và là đặc điểm

nổi bật nhất của mô hình PPP. Trong phần dưới đây, nhóm nghiên cứu đi sâu vào
phân tích cụ thể đặc điểm này.
Những rủi ro có thể xuất hiện trong quá trình triển khai dự án được Planning
Commission (2004) tổng kết lại bao gồm:
- Rủi ro trong quá trình xây dựng do những lý do như sự vỡ nợ của nhà thầu,


9

môi trường bị tàn phá.
-

Rủi ro về thị trường do những nguyên nhân cầu không tương xứng, mức thuế

sử dụng dịch vụ không thực tế
- Rủi ro về tài chính do sự thay đổi về tỷ giá, lãi suất, thuế tăng lên, do lạm
phát
-

Rủi ro trong quá trình vận hành và bảo trì do hợp đồng bị ngừng lại, những

rủi ro về mặt công nghệ hoặc lao động.
-

Rủi ro về mặt pháp lý do những thay đổi trong hệ thống luật pháp, do tình

trạng vỡ nợ của nhà cung cấp dịch vụ
Theo thời gian, việc nhận diện và cuyển giao rủi ro từ đối tác công sang đối
tác tư nhân ngày càng phát triển, với độ chính xác ngày càng cao hơn và xu hướng
dần dịch chuyển (rủi ro) sang khu vực tư nhân (Forward và Aldis, 2009). Xu hướng

dịch chuyển này không có nghĩa là Nhà nước đổ mọi rủi ro lên vai t ư nhân mà nó
được phân bổ theo nguyên tắc: rủi ro sẽ được “phân chia” cho bên nào có khả năng
giải quyết tốt, hiệu quả hơn, với chi phí thấp hơn (sẽ phân tích cụ thể trong phần
dưới đây). Forward và Aldis (2009) cũng cho rằng trong đa số các dự án PPP, đối
tác tư nhân sẽ gánh vác và xử lý các rủi ro về tài chính, xây dựng và vận hành, trong
khi đối tác công (Nhà nước) sẽ chịu trách nhiệm với rủi ro chính trị (tham gia cùng
với khu vực tư nhân song Nhà nước vẫn phải hoàn thành các nghĩa vụ xã hội đối với
cộng đồng).
Một số đặc điểm khác của phương thức PPP được Kappeler và Nemoz (2010)
mô tả bao gồm mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa đối tác công và tư; các nội dung
chính của dự án PPP bao gồm “thiết kế, xây dựng, vận hành hoặc/và bảo trì”, gắn
liền với nguồn tài chính từ đối tác tư nhân; đối tác công trả công cho đối tác tư
trong suốt vòng đời của dự án PPP, căn cứ vào chất lượng dịch vụ cung cấp.
Chủ thể tham gia PPP: Đối tác công ở đây có thể là các bộ ngành, các chính
quyền địa phương hoặc các doanh nghiệp nhà nước. Đối tác tư nhân có thể là các
doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư trong nước hoặc nước ngoài.
1.1.2. Lợi ích và thách thức của phương thức hợp tác công tư (PPP)
1.1.2.1 Lợi ích của phương thức hợp tác công tư (PPP)


10

Thực tế là không phải lĩnh vực nào cũng nên áp dụng PPP bởi bản thân nó
chứa đựng cả những lợi ích và thách thức. Dựa trên kinh nghiệm thực tế trong việc
triển khai PPP ở các quốc gia trên thế giới, những lợi ích và thách thức do PPP
mang lại được tổng hợp lại như sau:
Những lợi ích khi áp dụng PPP
Tạo ra nhiều khoản đầu tư hơn cho cơ sở hạ tầng: Với cơ chế PPP, nhà nước
sẽ giảm được gánh nặng phải tìm kiếm, sắp xếp và phân bổ nguồn vốn đầu tư từ
ngân sách cho cơ sở hạ tầng. Bởi vậy, nhà nước có thể tiến hành nhiều dự án đầu tư

hơn hoặc tăng quy mô của các dự án đầu tư cho cơ sở hạ tầng.
Tạo ra sự ổn định và tăng trưởng cho khu vực tư nhân: Với việc tham gia vào
cơ chế PPP, khu vực tư nhân có được nhiều cơ hội đầu tư mang tính dài hạn hơn, ít
rủi ro hơn với sự bảo đảm của Nhà nước. Từ đó, tạo ra sự ổn định và tăng trưởng
cho khu vực tư nhân, thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp địa phương cũng như
tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn cho người lao động (Colverson và Perera, 2012).
Phân bố và quản lý rủi ro tốt và hiệu quả hơn: Bất kỳ một dự án đầu tư nào
đều ẩn chứa những rủi ro, có thể là rủi ro về tài chính, về tiến độ thực hiện, về lợi
nhuận… Ministry of Municipal Affairs (1999), Colverson và Perera (2012) và
European Commission (2003) cho rằng một trong những nguyên tắc cốt yếu của cơ
chế PPP là rủi ro sẽ được phân bố cho bên nào giải quyết tốt nhất, với chi phí thấp
nhất. Với nhiều trường hợp, Nhà nước sẽ là bên có trách nhiệm giải quyết những rủi
ro liên quan tới cộng đồng, môi trường hoặc bảo lãnh vay vốn. Ngược lại, khu vực
tư nhân ưu việt hơn trong việc xử lý những rủi ro liên quan tới quản lý, sử dụng
đồng vốn…
Tiết kiệm chi phí: Thứ nhất, với việc kết hợp hai khâu Thiết kế và Xây dựng
trong cùng một hợp đồng, cơ chế PPP cho phép nhà thiết kế và nhà xây dựng thiết
lập mối liên hệ gần gũi và sâu sắc hơn. So với việc ký hợp đồng riêng biệt cho phần
thiết kế và xây dựng, sự kết hợp này trước hết giúp cho việc thiết kế có tính sáng tạo
cao hơn, tiết kiệm được nhiều chi phí hơn; đồng thời cũng giúp giảm thời gian quá
trình xây dựng, để dịch vụ sớm được đưa vào sử dụng hơn, qua đó cũng giúp tiết
giảm chi phí (Ministry of Municipal Affairs, 1999 và Colverson và Perera, 2012).


11

Thứ hai, hầu hết các dự án PPP cần dịch vụ vận hành và bảo trì trong suốt vòng đời
của dự án, và việc này được giao cho khu vực tư nhân. Do vậy, khu vực tư nhân sẽ
có động lực và các giải pháp (về công nghệ, quản lý, sử dụng nguồn lực…) nhằm
giảm thiểu chi phí (vận hành và bảo trì) trong suốt vòng đời của công trình.

Cải thiện chất lượng dịch vụ cung cấp: Một trong những lợi ích rõ ràng được
nhiều nghiên cứu và kinh nghiệm quốc tế thực tế chỉ ra đó là chất lượng các dự án
áp dụng hình thức PPP “thường tốt hơn so với các hình thức đấu thầu truyền thống”
(European Commission, 2003, p.15).
Ngoài ra, PPP còn mang lại một số lợi ích khác như nâng cao khả năng quản lý
công (Nhà nước sẽ không phải làm công việc quản lý hàng ngày vì đã giao cho khu
vực tư nhân, mà tập trung vào việc lập kế hoạch và giám sát việc quản lý hàng
ngày), Tạo thêm doanh thu (Khu vực tư nhân có thể tạo ra thêm doanh thu từ bên
thứ ba khác bằng cách sử dụng năng lực còn dư hoặc nhượng lại các tài sản/thiết bị
thừa), uy tín về mặt chính trị tốt hơn cho Nhà nước.
1.1.2.2 Thách thức của phương thức hợp tác công tư (PPP)
Bên cạnh những lợi ích rõ ràng và ưu việt so với các hình thức khác, cơ chế
PPP cũng có ẩn chứa những thách thức không nhỏ, đòi hỏi các bên phải lưu tâm
trong quá trình áp dụng. Nổi bật là những vấn đề sau:
Gây ra chi phí cao hơn: Trước hết, điều này không hề mâu thuẫn với lợi ích
tiết kiệm chi phí được trình bày ở trên. Chi phí cao hơn ở đây có thể là việc các
khoản vay đối với khu vực tư nhân sẽ có lãi suất cao hơn so với việc Nhà nước đi
vay trong các mô hình truyền thống trước đây. Bên cạnh đó, chi phí cho việc tổ chức
quá trình đấu thầu và đàm phán hợp đồng, chi phí trả cho các công ty tư vấn pháp lý
cũng có thể khiến chi phí của việc áp dụng cơ chế PPP cao hơn (Colverson và
Perera, 2012). Trong khi đó, chi phí cao hơn được Ministry of Municipal Affairs
(1999) nhìn nhận dưới một góc độ khác: Theo đó, khi đặt ra mức phí cho việc sử
dụng một dịch vụ do Nhà nước cung cấp (phí sử dụng một con đường, một cây
cầu…), nhiều trường hợp Nhà nước không tính toán tới chi phí hành chính, khấu
hao công trình hoặc đơn giản là có những khoản trợ cấp bù đắp cho những chi phí
đó. Trong khi, việc áp phí trong cơ chế PPP đòi hỏi phải bao hàm tất cả các loại chi


12


phí có liên quan (cộng với tính toán về lợi nhuận của các khoản đầu tư của đối tác
Tư nhân). Điều này sẽ dẫn tới việc người sử dụng dịch vụ sẽ phải trả mức phí cao
hơn so với sử dụng dịch vụ được cung cấp bởi riêng Nhà nước.
Làm giảm tính cạnh tranh: Các tiêu chuẩn cao khi lựa chọn đơn vị/ nhà đầu tư
tư nhân, chi phí giao dịch và đấu thầu cao cùng với việc phải ký hợp đồng dài hạn là
những yếu tố cần thiết để tham gia cơ chế PPP; và không phải đơn vị/ nhà đầu tư tư
nhân nào cũng có thể đáp ứng được. Colverson và Perera (2012) và Ministry of
Municipal Affairs (1999) cho rằng điều này gây ra hai hậu quả: trước hết, thu hẹp sự
lựa chọn đối tác Tư nhân của Nhà nước; thứ hai, do đó tạo ra thị trường độc quyền,
ít sức ép cạnh tranh để các đối tác Tư nhân được lựa chọn phấn đấu để giảm chi phí
hoặc nâng cao chất lượng dịch vụ.
Thiếu năng lực và những rủi ro chính trị: Cơ chế PPP đòi hỏi cả hai bên Nhà
nước và tư nhân đều phải có năng lực đủ mạnh về PPP, song trong rất nhiều trường
hợp, một hoặc cả hai bên đều không đủ năng lực. Ministry of Municipal Affair
(1999) cho rằng “sự kết hợp của một chính quyền thiếu năng lực, kinh nghiệm và
một đối tác tư nhân không quen thuộc với PPP có thể dẫn tới những rủi ro về mặt
chính trị (cho chính quyền đó). Colverson và Perera (2012) lại quan ngại về một
hiện tượng thiếu năng lực khác, đó là việc mô hình PPP phụ thuộc quá nhiều vào
chuyên gia tư vấn bên ngoài và cả nhà nước và tư nhân không học hỏi được gì qua
quá trình triển khai dự án.
Thách thức mang tên “quyền kiểm soát”: Bản chất của cơ chế PPP chính là
việc chia sẻ rủi ro, lợi ích và quyền quyết định giữa các bên. Đối tác tư nhân với
việc đầu tư về mặt tài chính, công nghệ, nhân lực… cũng có tiếng nói quan trọng
trong việc xác định ai sẽ là người nắm quyền cung cấp dịch vụ (sau khi dự án PPP
hoàn thành). Ministry of Municipal Affairs (1999) quan ngại rằng quá trình hợp tác
sẽ nảy sinh vấn đề tranh giành quyền kiểm soát và khuyến cáo vấn đề này nên được
làm rõ ngay từ giai đoạn đầu của quá trình hợp tác.
Tính minh bạch và trách nhiệm giải trình thấp: Một trong những vấn đề quan
ngại khi áp dụng hình thức PPP là tính minh bạch của dự án sẽ không cao như việc
chỉ nhà nước triển khai dự án. Lý do được Colverson và Perera (2012) nêu ra là do



13

tiếp cận với thông tin của đối tác tư nhân rất khó khăn, đặc biệt là những thông tin
tài chính, thương mại - được coi là bí mật kinh doanh của các công ty. Ngoài ra,
việc đánh giá toàn bộ dự án cũng sẽ rất khó khăn do những lý do tương tự, cộng
thêm với việc nguồn thông tin, dữ liệu do nhiều nguồn nắm giữ, công chúng khó có
thể kiểm tra được. Ministry of Municipal Affairs (1999) còn quan ngại hơn khi cho
rằng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các dự án PPP thấp có thể dẫn tới
việc công chúng chỉ trích sự hợp tác của nhà nước với tư nhân và yêu cầu nhà nước
phải đảm bảo quyền lợi của cộng đồng.
Thời gian dài hơn: Quá trình đàm phán và đấu thầu đối với các dự án PPP
thường kéo dài và phức tạp hơn so với các phương thức truyền thống khác. Mặt
khác, do bản chất phức tạp và thời gian dài hạn của bản hợp đồng giữa nhà nước và
tư nhân, bất kỳ mâu thuẫn, tranh chấp hoặc một thay đổi nào xảy ra cũng sẽ cần
nhiều thời gian hơn để giải quyết hoặc đàm phán lại (Colverson và Perera, 2012 và
Ministry of Municipal Affairs, 1999).
1.1.3. Các hình thức tổ chức thực hiện PPP
PPP

có thể được tổ chức thực hiện dưới nhiều phương thức. Dưới đây, tác giả

giới thiệu khái quát một số phương thức tổ chức thực hiện PPP phổ biến trên thế
giới. Cụ thể là:
1.1.3.1. Hợp đồng dịch vụ/quản lý
Hợp đồng dịch vụ: là hợp đồng thoả thuận giữa một cơ quan/ đơn vị thuộc
khu vực công (sau đây gọi là cơ quan nhà nước) có thẩm quyền với một đơn
vị/công ty tư nhân, trong đó cơ quan nhà nước thuê đơn vị tư nhân thực hiện một
hoặc một số nhiệm vụ, dịch vụ cụ thể trong một thời gian nhất định.

-

Việc ứng dụng loại hình hợp đồng này thường thích hợp nhất khi dịch vụ có

thể được xác định rõ ràng trong hợp đồng, yêu cầu của cơ quan nhà nước là có thể
thực hiện và việc thực hiện có thể theo dõi một cách dễ dàng. Loại hợp đồng này
thường được áp dụng trong khoảng thời gian từ 1-3 năm, đối với các loại dịch vụ
như: dịch vụ internet, dịch vụ nước sạch,... Phương thức này không phù hợp với
mục tiêu thu hút vốn đầu tư.
Hợp đồng quản lý: là hợp đồng giữa cơ quan nhà nước (khu vực
công) với


14

đối tác tư nhân, trong đó thoả thuận cho khu vực tư nhân được quản lý một tiện ích
hay dịch vụ công. Mô hình này thường được sử dụng trong các thoả thuận quản lý
từ 3-5 năm.
1.1.3.2

Nhượng quyền khai thác (Franchise)/cho thuê (Leasing)
Phương thức nhượng quyền khai thác, theo nghĩa rộng, là một hình thức tổ

chức thực hiện PPP, trong đó khu vực nhà nước dựa trên các tài sản/cơ sở hạ tầng do
nhà nước xây dựng và sở hữu (sau đây gọi là tài sản/cơ sở hạ tầng sẵn có), nhượng
lại quyền khai thác, kinh doanh cho khu vực tư nhân. Trong mô hình này, đối tác tư
nhân được lựa chọn sẽ được dành quyền vận hành và duy trì dịch vụ công.
Có hai hình thức cụ thể đối với phương thức này, đó là: Nhượng quyền khai
thác (Franchise) và cho thuê (Leasing).
+


Hình thức cho thuê (Leasing): Với hình thức này, Cơ quan nhà nước cho

đối tác tư nhân thuê tài sản/tiện ích/cơ sở hạ tầng sẵn có thuộc sở hữu của cơ quan
nhà nước, để thực hiện khai thác, vận hành, và cung cấp các dịch vụ công. Theo
thoả thuận cho thuê, đối tác tư nhân phải thanh toán tiền thuê cho cơ quan nhà nước
một khoản cố định, không phụ thuộc vào khả năng thu phí từ người sử dụng. Và do
đó, đối tác tư nhân chịu hoàn toàn rủi ro kinh doanh.
+

Hình thức nhượng quyền khai thác (Franchise): Là hình thức PPP trong

đó, cơ quan nhà nước nhượng lại quyền vận hành, khai thác và cung cấp dịch vụ
công cho đối tác tư nhân dựa trên các tài sản/tiện ích/cơ sở hạ tầng sẵn có, thuộc
quyền sở hữu của khu vực nhà nước. Nhưng khác với hình thức cho thuê, đối tác tư
nhân phải trả một khoản phí cố định theo thoả thuận cho cơ quan nhà nước, thì
trong hình thức nhượng quyền, đối tác tư nhân được phép thu phí từ người sử dụng
dịch vụ và trả một khoản phí cho cơ quan nhà nước theo tỷ lệ trên một đơn vị dịch
vụ bán ra, đồng thời được phép giữ lại một phần doanh thu từ việc cung cấp dịch vụ
công. Theo đó, với hình thức nhượng quyền khai thác, rủi ro kinh doanh của khu
vực tư nhân thường thấp hơn so với hình thức cho thuê.
1.1.3.3. Thiết kế- xây dựng - tài trợ - vận hành (DBFO: Design - Build - Finance Operate)


15

DBFO là một phương thức PPP, trong đó đối tác tư nhân thực hiện tất cả
các giai đoạn của một dự án để cung cấp dịch vụ công, bao gồm: thiết kế (D), xây
dựng (B), tài trợ (F) và vận hành dự án (O) thông qua một hợp đồng dài hạn.
Dự án đủ phải hấp dẫn đối với khu vực tư nhân (về lợi nhuận, những ưu đãi

cũng như những rủi ro có thể gặp phải). Thường sử dụng trong các dự án xây dựng
công trình như: các toà nhà phục vụ mục đích công (như: trường học, khách sạn,
nhà tù,...), và cũng có thể là các công trình hạ tầng giao thông, bến bãi, kho vận,...
và thời hạn của hợp đồng thường từ 25-30 năm.
1.1.3.4. Xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT: Build - Operate - Transfer)
BOT là một phương thức PPP trong đó khu vực nhà nước và đối tác tư nhân
thoả thuận cho phép đối tác tư nhân bỏ vốn xây dựng (bao gồm: xây mới, nâng cấp,
phát triển) công trình cơ sở hạ tầng và được phép kinh doanh (vận hành, khai thác)
công trình cơ sở hạ tầng đó trong một thời hạn nhất định nhằm thu lại chi phí đã bỏ
ra và thu một khoản lợi nhuận. Kết thúc thời hạn hợp đồng, đối tác tư nhân phải
chuyển giao không bồi hoàn công trình cơ sở hạ tầng cho khu vực nhà nước. Đây là
một mô hình quan trọng, hữu hiệu để huy động vốn đầu tư từ khu vực tư nhân trong
điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp. Hợp đồng BOT thường là một hợp đồng dài
hạn (khoảng 20-30 năm).
1.1.3.5. Xây dựng - chuyển giao - vận hành (BTO: Build - Transfer - Operate)
Hợp đồng BTO là một hình thức hợp đồng PPP, được ký kết giữa cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và đối tác tư nhân, trong đó đối tác tư nhân bỏ vốn xây
dựng công trình cơ sở hạ tầng, sau khi xây dựng xong công trình, đối tác tư nhân
chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho nhà nước, ngược lại, nhà nước dành cho đối
tác tư nhân quyền khai thác, sử dụng công trình đó trong một thời hạn nhất định.
Phương thức BTO cũng được áp dụng khá phổ biến trên thế giới, trong các lĩnh vực
cơ sở hạ tầng như: đường xá, hệ thống cấp nước, trụ sở của các cơ quan nhà nước,
sân bay…
1.1.3.6 Xây dựng - sở hữu - vận hành (BOO: Build - Own - Operate).
Phương thức BOO là phương thức trong đó khu vực nhà nước và đối tác tư
nhân thoả thuận: đối tác tư nhân bỏ vốn xây dựng tài sản/cơ sở hạ tầng dịch vụ công


×