Tải bản đầy đủ (.doc) (168 trang)

Công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.15 KB, 168 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỒNG THÁI QUANG

CÔNG TY HỢP DANH HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH
VỰC CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỒNG THÁI QUANG

CÔNG TY HỢP DANH HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH
VỰC CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 938 01 07

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. TS. Nguyễn Am Hiểu


2. PGS.TS. Trần Ngọc Dũng

Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu do chính tôi thực
hiện. Mọi số liệu, kết quả nghiên cứu đã công bố được tham khảo trong luận án đều
trung thực có trích dẫn đầy đủ nguồn tài liệu theo đúng quy định. Những kết luận
của luận án là mới và chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học của tác
giả nào khác.
Tác giả luận án

Đồng Thái Quang


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương
dẫn nhập:
1.
1.1.

1.2.

2.
2.1.
2.2.
3.

3.1.
3.2.
3.3.
Chương 1:

1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.

1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Các nghiên cứu lý luận về công ty hợp danh và pháp luật về
công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ
pháp lý
Các nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành
pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung
cấp dịch vụ pháp lý
Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến

6
6

6

19

đề tài luận án

Một số vấn đề liên quan đến đề tài luận án đã đƣợc nghiên
cứu trong các công trình khoa học đã công bố
Những vấn đề liên quan đến đề tài luận án chƣa đƣợc nghiên
cứu và luận án cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết
Lý thuyết nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết

24

nghiên cứu của luận án
Lý thuyết nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu
Kết luận chương dẫn nhập

26
26
26
27
28

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY HỢP DANH
HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC CUNG CẤP DỊCH
VỤ PHÁP LÝ VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY HỢP
DANH HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC CUNG CẤP
DỊCH VỤ PHÁP LÝ
Những vấn đề lý luận về công ty hợp danh hoạt động
trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý
Khái quát về dịch vụ pháp lý
Khái niệm và đặc điểm của công ty hợp danh hoạt động trong
lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý

Vai trò và ƣu thế của công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh

24
25

29
29
29
33


1.1.4.
1.2.
1.2.1.

1.2.2.
1.2.3.
1.2.4.

Chương 2:

2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.
2.1.4.

2.1.5.
2.1.6.


vực cung cấp dịch vụ pháp lý
Các biến thể của công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực
cung cấp dịch vụ pháp lý
Pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực

36

cung cấp dịch vụ pháp lý
Khái niệm, đặc điểm và nội dung chủ yếu của pháp luật về
công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ
pháp lý
Vai trò của pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong
lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý
Nguồn của pháp luật điều chỉnh đối với công ty hợp danh
hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý
Khái quát pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở một số nƣớc trên thế giới và
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Kết luận chương 1

51

THỰC TRẠNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP
LUẬT VỀ CÔNG TY HỢP DANH HOẠT ĐỘNG
TRONG LĨNH VỰC CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở
VIỆT NAM
Thực trạng pháp luật về công ty hợp danh hoạt động
trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam
Thực trạng quy định về thành lập công ty hợp danh hoạt động
trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý

Thực trạng quy định về thành viên của công ty hợp danh hoạt
động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý
Thực trạng quy định về tƣ cách pháp nhân của công ty hợp
danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý
Thực trạng quy định về cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành và
cơ chế đại diện của công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ pháp lý
Thực trạng quy định về quyền và nghĩa vụ của công ty hợp
danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý
Thực trạng quy định về tổ chức lại và chấm dứt hoạt động
của công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch

42

51
54
55

57
68

69
69
69
83
92

97
103



vụ pháp lý
Thực tiễn thi hành pháp luật về công ty hợp danh hoạt

105

động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam
Một số kết quả đạt đƣợc khi thi hành pháp luật về công ty
hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý
Một số khó khăn, vƣớng mắc cụ thể khi thực thi pháp luật về
công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ
pháp lý
Kết luận chương 2

113

116
121

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ CÔNG TY HỢP DANH HOẠT ĐỘNG
TRONG LĨNH VỰC CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở
VIỆT NAM

122

2.2.
2.2.1.
2.2.2.


3.1.

3.2.

Định hướng hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh
hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt
Nam
Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty hợp
danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở
Việt Nam
Kết luận chương 3

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

113

122

127
148
149


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt
BLDS
BLTM

CTHD
CTLHD
DVPL
HĐTV
LDN
LLS
TNHH
TVHD
TVGV
Nxb
UK
UPA
ULPA
USA
WTO

Viết đầy đủ

Bộ luật Dân sự
Bộ luật Thƣơng mại
Công ty hợp danh
Công ty luật hợp danh
Dịch vụ pháp lý
Hội đồng thành viên
Luật Doanh nghiệp
Luật Luật sƣ
Trách nhiệm hữu hạn
Thành viên hợp danh
Thành viên góp vốn
Nhà xuất bản

United Kingdom
Uniform Partnership Act
Uniform Limited Partnership Act
United States of America
World Trade Organization


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công ty là hình thức doanh nghiệp xuất hiện tƣơng đối sớm ở các nƣớc phát
triển và trong lịch sử hình thành công ty trên thế giới, trong đó CTHD là loại hình
xuất hiện sớm nhất. Ngƣời ta đã phát hiện những bằng chứng cho thấy các quy định
về sự hợp danh tồn tại từ thời cổ, trung đại. Các tài liệu lịch sử chỉ ra rằng, khái
niệm “hợp danh” lần đầu tiên xuất hiện trong Bộ luật Hămmurabi của Vƣơng quốc
Babylon vào khoảng 2300 năm trƣớc công nguyên. Do hoàn cảnh xã hội và tâm lý
kinh doanh, ban đầu sự liên kết rất đơn giản, chỉ diễn ra giữa các thƣơng nhân có sự
quen biết, tin cậy lẫn nhau, cùng hùn hạp vốn hoặc uy tín để tiến hành hoạt động
kinh doanh chung. Sự liên kết này của các thƣơng nhân đã tạo lập nên mô hình
công ty đầu tiên là công ty đối nhân. Đây là loại công ty mà các thành viên thƣờng
quan tâm đến yếu tố nhân thân của nhau hơn là yếu tố vốn.
Ở Việt Nam, nền tảng kinh tế xã hội là sản xuất nông nghiệp, nền văn minh
thƣơng mại cùng với mô hình kinh doanh là công ty nói chung và CTHD nói riêng
xuất hiện tƣơng đối muộn. Một trong những dấu ấn của thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
là sự ra đời của Luật Công ty (1990) và Luật Doanh nghiệp tƣ nhân (1990). Tuy
nhiên, đây là những văn bản đầu tiên của thời kỳ đổi mới nên khó tránh khỏi những
khiếm khuyết làm ảnh hƣởng đến sự phát triển toàn diện của nền kinh tế; do đó,
LDN (1999) đã đƣợc Quốc hội khóa X thông qua, phản ánh sự hợp nhất, có sửa đổi,
bổ sung hai đạo luật trên, đáp ứng những đòi hỏi thực tế của nền kinh tế. Nội dung

của LDN (1999) có nhiều điểm mới. Một trong những điểm mới quan trọng nhất là
việc quy định sự tồn tại về mặt pháp lý của CTHD. Mặc dù mới đƣợc ghi nhận
trong LDN (1999), nhƣng trên thực tế, CTHD đã xuất hiện trong đời sống kinh
doanh ở nƣớc ta trƣớc khi LDN (1999) đƣợc ban hành. Tiếp đó, các quy định về
CTHD lại đƣợc cụ thể hóa hơn trong LDN (2005). Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa
XIII đã thông qua LDN (2014). Trong đạo luật này, quy chế pháp lý về CTHD đƣợc
thể hiện trong mƣời một điều (từ Điều 172 đến Điều 182).
Pháp lệnh luật sƣ (2001) và LLS (2006) đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2012 đã
quy định về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL - CTLHD, đây là cơ
sở để CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL tổ chức và hoạt động một
cách có hiệu quả. Các văn bản pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập,
tổ chức quản lý và hoạt động của CTLHD. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về
CTHD nói chung và về CTLHD nói riêng hiện nay vẫn còn khá sơ sài và có nhiều
điểm chƣa rõ, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu đa dạng hóa các hình thức kinh


2

doanh để thu hút vốn đầu tƣ vào thị trƣờng. Chất lƣợng của đội ngũ luật sƣ - thành
viên công ty và hiệu quả hoạt động của CTLHD không cao, chƣa đáp ứng đƣợc yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế; sự hành nghề của luật sƣ và CTLHD chƣa đáp ứng
yêu cầu của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Một trong những
nguyên nhân quan trọng ảnh hƣởng tiêu cực tới sự phát triển của đội ngũ chuyên
gia pháp lý làm việc trong các CTLHD và bản thân các CTLHD là do quy định của
pháp luật chƣa thật sự minh bạch, thống nhất; các quy định về luật sƣ và CTLHD
vẫn bộc lộ những hạn chế, bất cập trên cả phƣơng diện lý luận và thực tiễn làm ảnh
hƣởng tới hiệu quả hoạt động của công ty, của thành viên và của khách hàng. Bên
cạnh đó, có thể nhận thấy, hoạt động của các CTLHD thời gian qua chƣa đƣợc
quan tâm đúng mức, thực hiện chủ yếu theo kinh nghiệm, chƣa đƣợc đầu tƣ nghiên
cứu một cách cơ bản về lý luận, chậm tổng kết thực tiễn. Nói cách khác, loại hình

công ty này chƣa thu hút đƣợc nhiều sự quan tâm, tìm hiểu của các nhà khoa học,
trong khi nó có nhiều triển vọng phát triển ở Việt Nam.
Từ những điểm còn tồn tại nêu trên, sự nghiên cứu sâu sắc, cơ bản về CTHD
hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL và pháp luật về nó là điều cần thiết nhằm
giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra, phục vụ cho việc hoàn thiện các
quy định pháp luật về thị trƣờng nói chung và pháp luật về chủ thể kinh doanh nói
riêng. Với lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ pháp lý theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ
luật học của mình. Thông qua việc nghiên cứu sẽ làm rõ thêm, bổ sung thêm cơ sở
lý luận, cơ sở thực tiễn đối với CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL
nhằm từng bƣớc hoàn thiện pháp luật về loại hình doanh nghiệp này trong điều kiện
cải cách tƣ pháp, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án chủ yếu là các quy định pháp luật về tổ
chức và hoạt động của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL theo pháp
luật Việt Nam. Đồng thời luận án cũng nghiên cứu các quy định pháp luật của một
số nƣớc khác nhằm so sánh và rút ra các bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện
pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL, pháp luật về
CTHD hoạt động trong lĩnh vực này và việc hoàn thiện nó là những vấn đề rất phức
tạp không những về mặt lý luận mà còn cả về mặt thực tiễn.


3

Về nội dung, khi nghiên cứu đề tài đã lựa chọn, tác giả luận án tập trung làm
rõ những vấn đề lý luận cũng nhƣ thực trạng các quy định hiện hành của pháp luật
Việt Nam về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL nhƣ thủ tục thành

lập, hình thức và tƣ cách pháp lý, quản trị điều hành… và giải thể, phá sản CTHD
hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL.
Về không gian, luận án tập trung chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp
luật trong nƣớc; tuy nhiên, có sự phân tích, bình luận và so sánh với một số quy
định của pháp luật nƣớc ngoài về cùng vấn đề để rút ra những bài học kinh nghiệm
cần thiết cho quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về CTHD hoạt động trong
lĩnh vực cung cấp DVPL ở Việt Nam.
Về thời gian, luận án tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện
hành để đánh giá chính xác thực trạng pháp luật Việt Nam về CTHD hoạt động
trong lĩnh vực cung cấp DVPL. Song để đảm bảo tính khả thi của các kiến nghị, giải
pháp, luận án cũng nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của các quy định
pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL từ khi Pháp lệnh luật
sƣ (2001) và LDN (1999) ra đời.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích nghiên cứu của luận án
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và chủ trƣơng hoàn thiện các thể chế của thị
trƣờng nhằm đáp ứng những đòi hỏi của một nền kinh tế mở và nhu cầu đa dạng
trong việc lựa chọn hình thức kinh doanh của ngƣời đầu tƣ, mục đích nghiên cứu
của luận án là phân tích, đánh giá những vấn đề pháp lý về mô hình CTHD hoạt
động trong lĩnh vực cung cấp DVPL để đƣa ra định hƣớng và tìm kiếm các giải
pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh
vực cung cấp DVPL tại Việt Nam.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận án đề ra và thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, luận án nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, vài trò và ƣu thế của CTHD
hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL.
Hai là, luận án nghiên cứu các biến thể của CTHD hoạt động trong lĩnh vực
cung cấp DVPL theo pháp luật của một số nƣớc trên thế giới là CTLHD hữu hạn và
CTLHD trách nhiệm hữu hạn.
Ba là, luận án nghiên cứu pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung

cấp DVPL ở một số nƣớc trên thế giới và rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam.
Bốn là, luận án nghiên cứu thực trạng pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh


4

vực cung cấp DVPL ở Việt Nam, chỉ ra những bất cập, hạn chế cần phải khắc phục;
đồng thời khảo cứu, chỉ ra những khó khăn, vƣớng mắc trong thực tiễn thi hành
pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL.
Năm là, luận án đƣa ra định hƣớng và một số giải pháp cụ thể cho việc hoàn
thiện pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL tại Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
* Phương pháp luận của luận án
Khi nghiên cứu đề tài của luận án - một đề tài thuộc khoa học xã hội, tác giả
luận án sử dụng phƣơng pháp luận biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về phát triển kinh tế và xây dựng đất nƣớc trong
thời kỳ đổi mới. Luận án cũng kế thừa kết quả của các công trình mà các tác giả đi
trƣớc đã nghiên cứu về nhiều vấn đề có liên quan đến CTHD nói chung và CTHD
hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL nói riêng ở Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa
duy vật lịch sử, khi giải quyết các vấn đề thuộc nội dung nhiệm vụ của luận án,
ngƣời viết sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp là quy nạp,
phân tích, tổng hợp, so sánh...
Ở chƣơng 1, tác giả dùng phƣơng pháp quy nạp để xây dựng các định nghĩa,
sử dụng phƣơng pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, vai
trò và ƣu thế của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL; nghiên cứu khái
niệm, đặc điểm, vai trò, nguồn của pháp luật về CTHD trong lĩnh vực cung cấp
DVPL ở Việt Nam; ngoài ra, thông qua phƣơng pháp phân tích, tác giả cũng tìm
hiểu pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở một số nƣớc

trên thế giới và rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam.
Trong chƣơng 2, tác giả sử dụng phƣơng pháp nổi bật là so sánh luật học
nhằm tìm ra những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và pháp
luật của một số nƣớc khác về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL, trên
cơ sở đó tham khảo để hoàn thiện pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực này.
Tại chƣơng 3, về cơ bản tác giả sử dụng các phƣơng pháp phân tích và tổng
hợp để đƣa ra định hƣớng và một số giải pháp có căn cứ khoa học, góp phần hoàn
thiện pháp luật và thực thi có hiệu quả pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực
cung cấp DVPL ở Việt Nam trong thời gian tới.
5. Những đóng góp mới của luận án
Thông qua việc nghiên cứu có hệ thống đề tài này cùng với mục tiêu và nhiệm


5

vụ cụ thể, so với những công trình đã đƣợc công bố của các tác giả khác, Luận án
đạt đƣợc một số điểm mới sau:
- Luận án làm rõ khái niệm, đặc điểm của CTHD hoạt động trong lĩnh vực
cung cấp DVPL.
- Luận án khẳng định vai trò và chỉ ra ƣu thế của CTHD hoạt động trong lĩnh
vực cung cấp DVPL so với các tổ chức cung cấp DVPL khác.
- Luận án phân tích các biến thể của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp
DVPL theo pháp luật một số nƣớc trên thế giới là CTLHD hữu hạn và CTLHD
trách nhiệm hữu hạn.
- Luận án tiếp cận và nghiên cứu pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực
cung cấp DVPL của một số quốc gia có nền kinh tế thị trƣờng phát triển (Hoa Kỳ
Anh, Trung Quốc...) dƣới góc độ so sánh với pháp luật Việt Nam; trên cơ sở đó rút
ra những kinh nghiệm lập pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về CTHD ở hoạt động
trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở Việt Nam trong tƣơng lai.
- Luận án phân tích và chỉ ra những thiếu sót, bất cập về thực trạng của pháp

luật Việt Nam cũng nhƣ những khó khăn, vƣớng mắc trong thực tiễn thi hành pháp
luật Việt Nam về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL.
- Luận án đề xuất định hƣớng cũng nhƣ một số giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm Phần
tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và ba chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ pháp lý và pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ pháp lý.
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về công ty hợp
danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.
Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh
hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.


6

Chương dẫn nhập
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố ở trong và
ngoài nƣớc liên quan đến các vấn đề cần giải quyết của đề tài luận án sẽ đƣợc tác
giả phân tích, bình luận theo những vấn đề sau đây:
1.1. Các nghiên cứu lý luận về công ty hợp danh và pháp luật về công ty
hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý
1.1.1. Các nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của công ty hợp danh
Cung cấp DVPL là một lĩnh vực hoạt động của CTHD. Khi thực hiện kinh
doanh, CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL vừa phải tuân thủ các quy

định trong LLS (2012) vừa phải tuân thủ các quy định của pháp luật về CTHD nói
chung đƣợc quy định trong LDN (2014). Vì vậy, việc tìm hiểu các công trình đã
nghiên cứu về CTHD nói chung có ý nghĩa lớn trong việc tham khảo để nghiên cứu
đề tài luận án.
Trên thế giới có khá nhiều công trình đề cập đến khái niệm và đặc điểm của
CTHD nói chung, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu nhƣ sau:
- Trong bài báo “The general partnership in German law” (CTHD thông
thƣờng
theo
pháp
luật
Đức)
đăng
tại
địa
chỉ:
năm 2009, Frank Wooldridge
đã định nghĩa CTHD và khẳng định số lƣợng thành viên của một hợp danh thông
thƣờng không nhiều và có thể bao gồm cả cá nhân và tổ chức. Hợp danh có khả
năng tham gia các giao dịch pháp lý, có quyền sở hữu tài sản, có thể kiện hoặc bị
kiện trên danh nghĩa của chính công ty. Tuy nhiên, công ty không phải là pháp nhân
mà chỉ đƣợc coi là một hội gồm các đồng chủ sở hữu chung.
- Trong bài báo “The general partnership under the French law” (CTHD
thông thƣờng theo pháp luật Pháp) đăng tại địa chỉ Frank Wooldridge viết rằng:
“Một hợp danh thường (société en nom collectif – SNC) là loại hình công ty mà tất
cả các thành viên đều phải là thương nhân (commercants), các thành viên phải chịu
trách nhiệm cá nhân và vô hạn đối với các chủ nợ về tất cả các khoản nợ của công
ty” [90, tr. 29]. Theo pháp luật của Pháp, phần vốn góp của một thành viên (ít nhất)
về nguyên tắc là không thể chuyển nhƣợng, cái chết hoặc sự phá sản của một thành
viên có thể dẫn đến sự giải thể của công ty nhƣng sự giải thể của công ty không ảnh



7

hƣởng đến phạm vi nghĩa vụ của các thành viên, họ vẫn phải chịu trách nhiệm
chung và liên đới đối với các bên thứ ba.
- Trong quyển sách “Comprehensive Business Law: Principles and Cases”
(Luật kinh doanh phổ quát: Những nguyên tắc và án lệ), Nxb. Kent, USA, năm 1987
của các tác giả Daniel V. Davidson, Brenda E. Knowles, Lynn M. Forsythe và
Robert R. Jespersen đã chỉ ra năm đặc điểm chính của một hợp danh bao gồm: (i)
Là một hội; (ii) Có hai hoặc nhiều ngƣời; (iii) Cùng tiến hành kinh doanh; (iv) Là
đồng chủ sở hữu và (v) Vì lợi nhuận.
- Trong quyển sách “Comparative Company Law: Text and cases on the laws
governing corporations in Germany, the UK and the USA” (Luật công ty so sánh:
Các án lệ theo pháp luật điều chỉnh các công ty ở Đức, Anh và Hoa Kỳ), Cambridge
University Press, năm 2010 của Andreas Cahn and David C. Donald đã trình bày
khái niệm, đặc điểm của các loại hợp danh (hợp danh chuyên nghiệp, hợp danh
thông thƣờng, hợp danh hữu hạn, hợp danh trách nhiệm hữu hạn) theo pháp luật của
Đức, Anh và Hoa Kỳ. So với các công trình khác, đây là công trình nghiên cứu toàn
diện các loại hợp danh của ba quốc gia: Đức, Anh và Hoa Kỳ.
- Trong quyển sách “European comparative company law” (Luật Công ty so
sánh ở châu Âu), Cambridge University Press, xuất bản lần đầu tiên năm 2009, tái
bản năm 2012 của Mads Andenas và Frannk Wooldridge phân tích, trình bày và so
sánh khái niệm, đặc điểm của các hợp danh ở một số quốc gia châu Âu nhƣ Anh,
Pháp, Đức, Bỉ, Italia, Tây Ban Nha… Về khái niệm, pháp luật của các nƣớc đều xác
định hợp danh là sự liên kết của các nhà kinh doanh trên cơ sở hợp đồng nhằm mục
đích lợi nhuận; về đặc điểm, các tác giả đều trình bày đặc điểm về tƣ cách pháp lý
của hợp danh, đặc điểm về chế độ trách nhiệm của thành viên… Đây là một công
trình nghiên cứu toàn diện hơn cả về CTHD theo pháp luật của các nƣớc ở châu Âu,
có giá trị tham khảo khá cao so với các công trình khác.

Ở Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến khái niệm, đặc điểm
của CTHD nói chung. Một số công trình tiêu biểu nhƣ:
- Trong công trình “Luật Thương mại toát yếu”, Quyển 2, do Bộ Quốc gia
giáo dục xuất bản năm 1959, Lê Tài Triển gọi CTHD là công ty đồng danh, đây là
hình thức kinh doanh đƣợc thành lập giữa những ngƣời buôn bán, mỗi hội viên
phải chịu trách nhiệm bản thân với ngƣời đệ tam và liên đới với nhau.
- Trong chuyên đề “Pháp luật về công ty” năm 1996, Viện nghiên cứu khoa
học pháp lý, Bộ Tƣ pháp và trong công trình “Một số vấn đề về công ty và hoàn
thiện pháp luật về công ty ở Việt Nam hiện nay” năm 1998, Nxb. Chính trị Quốc gia


8

Hà Nội, Nguyễn Thị Thu Vân đều định nghĩa và nêu các đặc điểm của hai loại hình
công ty là CTHD và công ty hợp vốn đơn giản. Theo tác giả này, CTHD có bốn đặc
điểm là: (i) Các thành viên đều có phần của mình trong công ty; (ii) CTHD phải
hoạt động dƣới một hãng chung và việc đặt tên công ty phải theo nguyên tắc do luật
định; (iii) Các thành viên đều có tƣ cách thƣơng gia; (iv) Tất cả các thành viên đều
phải chịu trách nhiệm bản thân, liên đới và vô giới hạn về các khoản nợ của công ty.
- Trong bài viết “Khái niệm công ty hợp danh trong Luật Doanh nghiệp năm
2005” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6/2009, tác giả Ngô Huy Cƣơng
đã phân tích khá kỹ khái niệm CTHD. Theo ngƣời viết, các nhà lập pháp Việt Nam
đã có sự sai lầm trong quan niệm về CTHD khi gắn CTHD thông thƣờng với một
loại hình công ty khác là công ty hợp vốn đơn giản để cùng gọi là CTHD. Điều này
dẫn đến nhiều quy định không thích hợp với chúng. Ngoài ra, tác giả kiến nghị rằng
pháp luật cần phải thừa nhận pháp nhân cũng có thể là thành viên của CTHD, bởi lẽ,
trong Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã quy định một hình thức
đầu tƣ là hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các bên trong hợp đồng này có thể là pháp
nhân. Bản chất của hình thức hợp tác này giống nhƣ bản chất của CTHD theo quan
niệm của các luật gia trên thế giới.

Ngoài ra, một số luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ ngành luật học tại Việt
Nam cũng đề cập đến khái niệm, đặc điểm của CTHD, thí dụ nhƣ:
- Trong công trình “Một số vấn đề pháp lý về công ty hợp danh”, Luận văn
thạc sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, năm 2003, Vũ Đặng Hải Yến đã nêu
khái niệm và chỉ rõ ba đặc điểm của CTHD là: (i) Phần vốn của các thành viên
trong công ty thƣờng thể hiện dƣới dạng đặc biệt - “chất xám” nhƣ kinh nghiệm,
uy tín nghề nghiệp, bằng cấp…; (ii) Chế độ trách nhiệm của mỗi loại thành viên
trong công ty là khác nhau – TVHD chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với mọi
khoản nợ của công ty, TVGV chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp vào
công ty; (iii) Một CTHD thông thƣờng hoạt động dƣới một cái tên và cái tên này có
ý nghĩa rất lớn đối với công ty. Trên cơ sở phân tích khái niệm, đặc điểm của
CTHD nói chung, tác giả làm rõ khái niệm, đặc điểm của CTHD theo pháp luật Việt
Nam trong sự so sánh tổng thể với pháp luật của một số nƣớc ở Đông Nam Á nhƣ
Singapore, Malaysia…
- Trong công trình “So sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật Nhật Bản về
công ty hợp danh”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội, năm 2015, sau khi phân tích khái niệm CTHD theo pháp luật của ba nƣớc
(Thái Lan, Pháp, Hoa Kỳ), tác giả Lục Việt Dũng khẳng định các quốc gia khác


9

nhau có những quan niệm khác nhau về CTHD tùy thuộc vào điều kiện lịch sử
thƣơng mại, cách nhìn nhận của các nhà lập pháp… và đƣa ra những dấu hiệu
chung của CTHD là: (i) Đều mang bản chất đối nhân; (ii) Xem trọng yếu tố nhân
thân của các thành viên và không có sự tách bạch tài sản của TVHD với công ty;
(iii) TVHD phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty. Sau đó,
tác giả tìm hiểu khái niệm, đặc điểm của CTHD theo LDN (2014) và theo pháp luật
của Nhật Bản.
- Trong công trình “Pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam”, Luận án tiến

sĩ luật học, Viện nhà nƣớc và pháp luật, năm 2012, Nguyễn Thị Huế đã nêu khái
niệm chung về CTHD, trên cơ sở đó tác giả phân tích và tìm hiểu pháp luật của một
số nƣớc trên thế giới (Nhật Bản, Pháp, Hoa Kỳ, Việt Nam) về CTHD đồng thời chỉ
ra bốn đặc điểm chung của CTHD bao gồm: (i) Chủ thể đầu tƣ vốn vào CTHD; (ii)
Hình thức pháp lý của CTHD; (iii) Tƣ cách pháp lý của CTHD, trách nhiệm tài sản
trong CTHD. Trong đặc điểm về hình thức pháp lý của CTHD, tác giả đã nêu khái
niệm và một số khía cạnh nổi bật của hai dạng CTHD phổ biến nhất là CTHD thông
thƣờng và CTHD hữu hạn theo pháp luật của một số nƣớc trên thế giới. So với các
công trình khác, đây là công trình nghiên cứu tƣơng đối đầy đủ về khái niệm, đặc
điểm của CTHD nói chung.
Bên cạnh các công trình trên, hầu hết các giáo trình chuyên ngành luật kinh tế
của các trƣờng đại học đào tạo luật khi viết về CTHD đều có đề cập đến khái niệm,
đặc điểm của loại hình công ty này. Đặc biệt trong Giáo trình pháp luật doanh
nghiệp của Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng (Chủ biên: Bùi Ngọc Sơn), Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2011, các tác giả đã tìm hiểu khái niệm, đặc điểm của CTHD
theo pháp luật của một số nƣớc trên thế giới. Theo giáo trình trên, CTHD là doanh
nghiệp đƣợc thành lập bởi hai hay nhiều thành viên đƣợc gọi là thành viên đích
danh. Thành viên trong công ty không những chịu trách nhiệm trong kinh doanh
bằng phần vốn góp của mình vào công ty mà còn bằng cả tài sản riêng của mình.
Chủ nợ của CTHD có thể đòi đƣợc trả nợ bằng tất cả tài sản của một thành viên.
Các thành viên đích danh có trách nhiệm vô hạn và liên đới về các trái vụ của công
ty. CTHD có một số đặc điểm: Về thành viên; về trách nhiệm vô hạn và liên đới của
thành viên; về quản lý; về chuyển nhƣợng quyền lợi của thành viên; về thuế; về
chấm dứt hợp danh.
Tóm lại, về khái niệm CTHD, các công trình đều nhất trí cho rằng đây là một
dạng công ty đối nhân, có sự liên kết của ít nhất hai thành viên, các thành viên đều
chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới; còn về đặc điểm, các tác giả thƣờng trình bày


10


những đặc điểm về: (1) Tƣ cách pháp lý; (2) Chế độ trách nhiệm; (3) Hình thức
pháp lý; (4) Quản trị điều hành và cơ chế đại diện.
1.1.2. Các nghiên cứu về hình thức pháp lý của công ty hợp danh
Pháp luật của các nƣớc thƣờng quy định sự tồn tại của một hoặc một số loại
hợp danh (hợp danh thông thƣờng, hợp danh hữu hạn hay hợp danh TNHH…).
Những quy định về các loại hình hợp danh này đều có điểm khác biệt. Vì thế, pháp
luật của các quốc gia luôn phân định rõ ràng các hình thức pháp lý của hợp danh để
trên cơ sở này xây dựng những mô hình điều chỉnh pháp luật phù hợp và đầy đủ đối
với chúng. Nghiên cứu về “hình thức pháp lý” của hợp danh là một đề tài thu hút
nhiều nhà nghiên cứu tại Việt Nam cũng nhƣ ở các quốc gia khác.
Trên phạm vi thế giới đã có một số công trình đề cập tới các hình thức pháp lý
của CTHD. Một số bài viết điển hình là:
- Trong bài viết “Company Law and Securities” (Pháp luật công ty và Chứng
khoán) đăng trên Tạp chí Australian Business Law, số 38, năm 2010, Robert J
Wilczek tìm hiểu và so sánh bốn loại hợp danh, là hợp danh thông thƣờng, hợp
danh hữu hạn, hợp danh trách nhiệm hữu hạn và hợp danh hữu hạn trách nhiệm hữu
hạn, đồng thời chỉ ra những ƣu, nhƣợc điểm của các loại hợp danh này theo pháp
luật Hoa Kỳ.
- Trong bài viết “Partnerships” (Các công ty hợp danh), đăng tại địa chỉ:
, tác giả
đã phân tích về các loại hình hợp danh ở Hoa Kỳ bao gồm hợp danh thông thƣờng (vấn
đề thành lập, những ƣu điểm, hạn chế so với hợp danh hữu hạn và công ty cổ phần,
việc góp vốn, hợp đồng hợp danh, vấn đề thuế, trách nhiệm do hành vi
vi phạm của các thành viên); hợp danh hữu hạn (so sánh ƣu điểm và hạn chế của nó
với công ty cổ phần và hợp danh thông thƣờng, quyền của TVHD và TVGV, vấn đề
thuế); hợp danh trách nhiệm hữu hạn và hợp danh hữu hạn trách nhiệm hữu hạn.
- Trong quyển sách “Business Law: Text and Cases” (Pháp luật kinh doanh:
Các án lệ) của các tác giả Kenneth. W, Clarkson, Rogerte Roy Miller và Frank B.
Cross, năm 2015 đã phân tích bốn loại hợp danh theo pháp luật Hoa Kỳ là hợp danh

thông thƣờng, hợp danh hữu hạn, hợp danh trách nhiệm hữu hạn và hợp danh hữu
hạn trách nhiệm hữu hạn.
- Trong quyển sách: “Comparative Company Law: Text and cases on the laws
governing corporations in Germany, the UK and the USA” (Luật công ty so sánh:
Các án lệ theo luật điều chỉnh công ty ở Đức, Anh và Hoa Kỳ) năm 2010 của
Andreas Cahn and David C. Donald đã trình bày và so sánh các hình thức CTHD


11

theo pháp luật của Đức, Anh và Hoa Kỳ.
- Trong quyển sách “European comparative company law” (Luật Công ty so
sánh ở châu Âu), năm 2012, Mads Andanas và Frank Wooldridge cũng phân tích và
so sánh các loại CTHD (hợp danh thông thƣờng, hợp danh hữu hạn, hợp danh trách
nhiệm hữu hạn…) của một số nƣớc ở châu Âu (Anh, Pháp…).
Tại Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu pháp luật của nƣớc ngoài về
hình thức của CTHD nhƣ:
- Trong tác phẩm “Pháp luật Singapore về các hình thức tổ chức kinh doanh”,
Tạp chí Luật học số 12/ 2009, trong phần CTHD, tác giả Vũ Thị Lan Anh đã tìm
hiểu về ba loại hợp danh của Singapore là hợp danh thông thƣờng, hợp danh hữu
hạn và hợp danh trách nhiệm hữu hạn. Theo tác giả, hợp danh của Singapore gồm
có hai ngƣời trở lên cùng tiến hành hoạt động kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận,
không có tƣ cách pháp nhân và tối đa không quá hai mƣơi thành viên. Hợp danh
hữu hạn là hợp danh không có tƣ cách pháp nhân gồm hai hay nhiều thành viên,
không giới hạn số lƣợng tối đa, trong đó có ít nhất một TVHD thông thƣờng chịu
trách nhiệm vô hạn và thành viên hữu hạn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm
vi số vốn đã góp vào công ty. Hợp danh trách nhiệm hữu hạn có tƣ cách pháp nhân,
có ít nhất hai thành viên, không hạn chế số lƣợng tối đa và chỉ chịu trách cá nhân
trƣớc những rủi ro hoặc khoản nợ phát sinh do hành vi thiếu cẩn trọng của mình mà
không chịu trách nhiệm về các hành vi sai trái của các thành viên khác.

- Trong bài viết “Hình thức pháp lý doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay nhìn từ
góc độ luật so sánh”, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 4/2003, tác giả Nguyễn Am
Hiểu cũng có đề cập đến hình thức pháp lý của CTHD. Theo hệ thống pháp luật
Anh - Mỹ, hình thức pháp lý của doanh nghiệp gồm: Corporation, business và hợp
tác xã. Trong đó, business bao gồm hai dạng cơ bản là business một chủ và hợp
danh (partnership). Hệ thống pháp luật châu Âu lục địa chia các doanh nghiệp làm
ba loại cơ bản là doanh nghiệp một chủ, các công ty và hợp tác xã. Các công ty có
hai nhóm gồm nhóm công ty đối nhân và nhóm công ty đối vốn; trong nhóm công
ty đối nhân có CTHD. Còn ở Việt Nam hiện đang tồn tại một số chủ thể kinh doanh
nhƣ hợp tác xã, doanh nghiệp tƣ nhân… và CTHD.
- Trong đề tài cấp Bộ “Cải cách pháp luật về doanh nghiệp trong tiến trình
hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” do tác giả Bùi Nguyên Khánh làm chủ
nhiệm, năm 2016 cũng nêu các hình thức pháp lý của hợp danh theo pháp luật một
số nƣớc (Anh, Mỹ, Singapore, Malaysia, Nhật Bản và Đức).
- Trong công trình “Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới”,


12

Nxb. Tài chính, năm 2016 do nhóm tác giả Nguyễn Văn Giàu, Nguyễn Văn Phúc,
Nguyễn Đình Cung làm chủ biên đã phân tích và tìm hiểu các loại hợp danh theo
pháp luật của Hoa Kỳ và một số quốc gia khác. Trong công trình này, nhóm tác giả
cũng làm rõ một số vấn đề trong công ty nhƣ quan hệ giữa các thành viên, luận về
tƣ cách pháp nhân của hợp danh, so sánh đặc điểm của các hợp danh cũng nhƣ
trình bày một số quy định về thành lập CTHD trách nhiệm hữu hạn và trách nhiệm
của thành viên trong CTHD trách nhiệm hữu hạn.
Ngoài các công trình trên, trong các giáo trình của những trƣờng đại học có
đào tạo luật đều đề cập đến hình thức pháp lý của CTHD. Thí dụ, Giáo trình Luật
Thƣơng mại Việt Nam của Trƣờng đại học Luật Hà Nội, Tập 1, Nxb. Tƣ pháp, năm
2018 do các tác giả Nguyễn Viết Tý và Nguyễn Thị Dung làm đồng chủ biên, Giáo

trình pháp luật về chủ thể kinh doanh của Trƣờng Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh,
Nxb. Hồng Đức, năm 2013, do tác giả Bùi Xuân Hải làm chủ biên…
Một số nghiên cứu khác đƣợc đăng trên các tạp chí khoa học tại Việt Nam có
đề cập đến “hình thức pháp lý” của CTHD nhƣ: “Một vài khía cạnh pháp lý về chế
độ trách nhiệm của công ty hợp danh” của Bùi Nguyên Khánh năm 1998, Tạp chí
Nhà nƣớc và Pháp luật số 8; “Hướng hoàn thiện pháp luật liên quan đến công ty
hợp danh ở Việt Nam hiện nay” của Vũ Đặng Hải Yến năm 2004, Tạp chí Luật học
số 3; “Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về các loại hình doanh nghiệp ở Việt
Nam” của Đồng Ngọc Ba năm 2005, Tạp chí Luật học số 1; “Pháp luật doanh
nghiệp và đầu tư với vấn đề hội nhập” của Bùi Xuân Hải năm 2008, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp số 1; “Dự án sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: Bình luận những vấn
đề pháp lý chủ yếu” của Ngô Huy Cƣơng năm 2014, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
số 7; “Hình thức pháp lý của công ty hợp danh” của Nguyễn Thị Huế năm 2011,
Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 6; “Phân biệt công ty hợp danh và công ty hợp
vốn đơn giản theo Luật Doanh nghiệp năm 2014” của Nguyễn Vinh Hƣng năm
2015, Tạp chí Nghề luật số 11. „Công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp năm
2014: Bất cập và kiến nghị hoàn thiện” của Nguyễn Thị Yến năm 2017, Tạp chí
Luật học số 1…
Trong tác phẩm của mình, Vũ Đặng Hải Yến nhận xét về quy định của LDN
rằng CTHD có thể đƣợc chia thành hai loại: Loại thứ nhất chỉ bao gồm các TVHD;
và loại thứ hai lại có thêm các TVGV (tác giả gọi đây là CTHD hữu hạn). Trong khi
đó, Bùi Xuân Hải chỉ ra hợp danh thông thƣờng là hợp danh mà chỉ có một loại
thành viên (partners), tất cả đều chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của hợp
danh, tất cả thành viên đều tham gia điều hành kinh doanh. Hợp danh hữu hạn thì có


13

hai loại thành viên: (1) Các thành viên chỉ góp vốn để lấy lời và chỉ chịu trách
nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn góp vào hợp danh, nhƣng không đƣợc tham

gia quản lý - điều hành (limited partner); và (2) Thành viên chịu trách nhiệm vô hạn
và có quyền quản lý điều hành kinh doanh (general partners). Bài viết của Ngô Huy
Cƣơng trong giai đoạn góp ý cho dự thảo LDN sửa đổi cũng thể hiện quan điểm cần
phải tách CTHD hữu hạn ra khỏi CTHD thông thƣờng vì chúng là các hình thức
công ty khác nhau. Nguyễn Thị Huế lại tiếp cận và phân tích hai hình thức CTHD
điển hình trên thế giới là CTHD thông thƣờng và CTHD hữu hạn, đồng thời so sánh
với hình thức của CTHD ở Việt Nam. Theo tác giả, việc xác định hình thức CTHD
nhƣ trong LDN (2005) là chƣa thật sự phù hợp, không có sự tách bạch giữa hai loại
CTHD là CTHD thông thƣờng và CTHD hữu hạn. Ngƣời viết cũng đề xuất một số
kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến vấn đề trên, đặc biệt là
trong định nghĩa về CTHD. Bên cạnh đó, Nguyễn Vinh Hƣng cũng viết: “Việc quy
định hình thức pháp lý của công ty hợp danh trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 là
chưa chính xác và chưa phản ánh đúng bản chất thực sự của loại hình công ty
này… chúng ta nên tách bạch rõ ràng giữa công ty hợp danh và công ty hợp vốn
đơn giản” [42, tr.13]. Còn tác giả Bùi Nguyên Khánh thì khuyến nghị cần quy định
cụ thể có mấy loại CTHD và để chuẩn xác về mặt thuật ngữ thì cũng nên gọi CTHD
có cả TVHD và TVGV là công ty hợp vốn đơn giản, còn công ty có tất cả các thành
viên đều là TVHD thì gọi là CTHD. Chỉ nhƣ vậy mới có thể phân biệt hai loại hình
CTHD này rõ ràng về tên gọi. Nguyễn Thị Yến trong bài viết của mình cũng kiến
nghị: “Cần quy định tách biệt khái niệm CTHD thành các loại công ty riêng và định
danh cụ thể đối với từng loại hình công ty mà không sử dụng chung khái niệm
“công ty hợp danh” [80, tr.91, 92].
Tóm lại, đối với các công trình ở nƣớc ngoài khi nghiên cứu về hình thức
pháp lý của CTHD thì đều tập trung vào bốn loại hình chính là CTHD thông
thƣờng, CTHD hữu hạn, CTHD trách nhiệm hữu hạn và CTHD hữu hạn trách
nhiệm hữu hạn; đối với các công trình nghiên cứu ở trong nƣớc thì đều nhấn mạnh
đến việc LDN không tách bạch dứt khoát giữa hai hình thức hợp danh là CTHD
thông thƣờng và CTHD hữu hạn.
1.1.3. Các nghiên cứu về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh
Trên thế giới, công trình Partnership Law (Pháp luật hợp danh) trên website:

năm 2003 do Ủy ban luật pháp của Anh và X-cốt-len biên soạn
trong phần tƣ cách pháp lý của hợp danh có phân tích và chỉ ra rằng các hợp danh ở
Anh không có tƣ cách pháp nhân nhƣng hợp danh ở X-cốt-len lại có tƣ cách


14

pháp nhân và cuối cùng các tác giả đã khuyến nghị Anh nên học tập kinh nghiệm
của X-cốt-len thừa nhận tƣ cách pháp lý độc lập cho hợp danh, bởi nhƣ vậy sẽ có
lợi hơn so với quy định cũ trong Luật Hợp danh (1890) là hợp danh không có tƣ
cách pháp lý độc lập.
Ở Việt Nam có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến tƣ cách pháp nhân
của CTHD nhƣ:
- Trong bài viết “Cần quy định hợp lý về công ty hợp danh”, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp số 6/2005, tác giả Đỗ Văn Đại đã khuyến nghị rằng nên thừa nhận tƣ
cách pháp nhân cho CTHD. Nếu không thừa nhận tƣ cách pháp nhân, để đảm bảo
cho doanh nghiệp này tham gia tố tụng hay giao dịch với ngƣời thứ ba, chúng ta sẽ
phải thiết lập một số khái niệm pháp luật hay kỹ thuật pháp lý khác. Công việc này
không đơn giản và sẽ phức tạp hơn việc thừa nhận tƣ cách pháp nhân của CTHD
[21, tr.54].
- Trong bài viết “Về tư cách pháp lý của công ty hợp danh theo quy định của
pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 4/2006, Nguyễn Thị Huế
cho rằng mặc dù LDN (1999) không xác định tƣ cách pháp lý cho CTHD nhƣng từ
việc xem xét trách nhiệm của các thành viên trong công ty có thể suy ra CTHD
không có tƣ cách pháp nhân. Song LDN (2005) lại quy định CTHD có tƣ cách pháp
nhân. Tác giả bài viết cho rằng điều này là phi lý vì CTHD không có sự tách bạch
về tài sản giữa thành viên với công ty và công ty phải chịu trách nhiệm vô hạn. Hơn
nữa, dƣới góc độ pháp lý, công ty cũng không đủ điều kiện để trở thành pháp nhân
vì nó không phù hợp với bất kỳ tƣ cách chủ thể nào trong bốn chủ thể của quan hệ
pháp luật là pháp nhân, cá nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác.

- Trong bài viết “Về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh” trên Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 1/2008, Lê Việt Anh khẳng định việc pháp luật Việt Nam
thừa nhận CTHD có tƣ cách pháp nhân là dấu hiệu thể hiện tính đặc thù. Song, qua
phân tích, tác giả nhận định việc thừa nhận tƣ cách pháp nhân cho CTHD là không
phù hợp với lợi ích nói chung và lợi ích của các thành viên nói riêng. Từ đó, tác giả
khẳng định lợi ích của việc thừa nhận CTHD có tƣ cách pháp nhân là không cao,
thậm chí còn hạn chế sự phát triển của loại hình công ty này, không tƣơng thích với
quy định của pháp luật đa số các nƣớc trên thế giới. Điều này gây ra những bất lợi
cho quá trình hội nhập khi Việt Nam đã là thành viên của WTO.
- Trong bài viết “Công ty hợp danh có hay không có tư cách pháp nhân” trên Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật số 7/2011, Nguyễn Vinh Hƣng đã khẳng định có nƣớc thừa
nhận CTHD có tƣ cách pháp nhân, có nƣớc không thừa nhận, có nƣớc lại


15

coi nó có tƣ cách pháp nhân khi phá sản…. Còn ở Việt Nam, theo tác giả, các quy
định của BLDS (2005) và LDN (2005) về CTHD là thiếu nhất quán, vì các quy định
của BLDS (2005) cho thấy CTHD không có tƣ cách pháp nhân; còn theo LDN
(2005) thì CTHD lại có tƣ cách pháp nhân. Sau khi phân tích và đƣa ra các lý lẽ về
vấn đề CTHD có tƣ cách pháp nhân hay không, tác giả kết luận nhà làm luật không
thể tùy tiện quy định CTHD là một pháp nhân hay không phải là pháp nhân mà phải
căn cứ vào bản chất của loại hình doanh nghiệp này.
- Trên Tạp chí Kiểm sát số 10/2013, trong tác phẩm “Bàn về tư cách pháp
nhân của công ty hợp danh theo quy định của Luật Doanh nghiệp”, tác giả Nguyễn
Văn Đông kết luận việc LDN (2005) quy định CTHD có tƣ cách pháp nhân là
không phù hợp vì các TVHD phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của
công ty. Quyền lợi của các thành viên sẽ không đƣợc bảo đảm do phần lợi nhuận
thu đƣợc của công ty có thể bị đánh thuế hai lần. Tác giả cũng nêu một số mâu
thuẫn phát sinh từ việc quy định CTHD có tƣ cách pháp nhân, chẳng hạn khi công

ty bị phá sản thì vấn đề trách nhiệm tài sản của công ty và thành viên công ty sẽ
đƣợc xử lý nhƣ thế nào để đảm bảo lợi ích của những ngƣời có liên quan. Từ đó,
tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 130 LDN (2005) theo hƣớng quy định CTHD không
có tƣ cách pháp nhân để phù hợp với xu thế chung của thế giới khi Việt Nam đã là
thành viên của WTO.
- Đồng tác giả Trần Ngọc Dũng và Trần Ngọc Anh trong bài viết “Các quy
định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về công ty hợp danh và giải pháp hoàn
thiện” đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 3/2017 cho rằng việc LDN
(2014) quy định CTHD có tƣ cách pháp nhân đem lại một số thuận lợi cho việc
thành lập, tổ chức và hoạt động của CTHD nhƣng không nên quy định tƣ cách pháp
nhân cho CTHD, chỉ có nhƣ vậy CTHD mới đƣợc thành lập và hoạt động với đúng
tính chất của một công ty đối nhân
- Trong công trình “Pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam”, Luận án tiến
sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, năm 2012, Nguyễn Thị Huế cho rằng LDN
(2005) quy định CTHD có tƣ cách pháp nhân là không phù hợp vì (1) nó mâu thuẫn
với BLDS, trái với bản chất của hợp danh và (2) nhiều nƣớc trên thế giới đều quy
định CTHD không có tƣ cách pháp nhân.
Có thể thấy, đa số các công trình trên đều khẳng định việc LDN trao cho
CTHD tƣ cách pháp nhân là không hợp lý, mâu thuẫn với quy định của BLDS và
trái với bản chất của CTHD.
1.1.4. Các nghiên cứu về cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành và cơ chế đại
diện


16

của công ty hợp danh
- Trong bài viết “The general partnership under French law” (CTHD thông
thƣờng theo pháp luật của Pháp) đăng năm 2009, Frank Wooldridge (British
Institute of International and Comparative Law) đã phân tích một cách cụ thể loại

hình doanh nghiệp này về các khía cạnh: Vị trí của các thành viên trong công ty;
vấn đề quản lý công ty (bổ nhiệm, sa thải, quyền hạn và trách nhiệm của ngƣời
quản lý, quyền hạn của những thành viên không phải là ngƣời quản lý…); hậu quả
khi một thành viên chết. Tác giả chỉ rõ CTHD thông thƣờng tƣơng đối phổ biến ở
Pháp và chủ yếu đƣợc thành lập bởi các cơ sở kinh doanh gia đình. Trong một số
nghề nhất định, CTHD dân sự đƣợc sử dụng để thay thế các CTHD thƣơng mại
(CTHD thông thƣờng).
- Cuốn sách “The law of corporations and other business organisations”
(Pháp luật về công ty và các hình thức tổ chức kinh doanh khác), Nxb. Cengage
th

Learning, 6 Edition xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2012 là của Angela Schneeman. Đây
là công trình viết chuyên sâu về pháp luật dành cho các tổ chức kinh doanh. Nội
dung của nó tập trung chủ yếu vào việc trình bày các hình thức kinh doanh nhƣ
công ty, doanh nghiệp tƣ nhân và các loại hợp danh bao gồm hợp danh thông
thƣờng, hợp danh hữu hạn, hợp danh TNHH và hợp danh hữu hạn TNHH. Trong
công trình này, ngoài việc phân tích về cấu trúc vốn, hợp đồng hợp danh, tác giả lần
lƣợt tìm hiểu về cơ cấu tổ chức quản lý của từng loại hợp danh.
- Năm 2006 Peter Layer phát hành cuốn sách “Legal forms in the global
marketplace: Effect on international business” (Những hình thức pháp lý trên thị
trƣờng thế giới: Ảnh hƣởng đối với kinh doanh quốc tế), Nxb. Routledge tại Anh.
Trong chƣơng 5 của cuốn sách, với tiêu đề: Legal forms of business organization
(Những hình thức pháp lý của tổ chức kinh doanh) tác giả trình bày mô hình hợp
danh thông thƣờng, hợp danh hữu hạn và hợp danh trách nhiệm hữu hạn ở bốn quốc
gia là Anh, Mỹ, Pháp và Đức. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những điểm tƣơng
đồng và khác biệt, những ƣu và nhƣợc điểm của các mô hình trên theo pháp luật
của mỗi nƣớc về các vấn đề nhƣ thành viên công ty, tổ chức quản lý và tƣ cách
pháp lý của công ty…
- Trong quyển “European comparative company law” (Luật công ty so sánh ở
châu Âu), các tác giả Mads Andenas và Frank Wooldridge cũng so sánh và trình bày

về cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành và cơ chế đại diện của hợp danh thông
thƣờng, hợp danh hữu hạn, hợp danh TNHH, hợp danh chuyên nghiệp… Trong hợp
danh thông thƣờng, các TVHD là ngƣời quản trị điều hành và đại diện cho công ty


17

và các TVHD khác trong quan hệ với bên thứ ba, trong hợp danh hữu hạn, TVGV
không có quyền quản trị, đại diện cho hợp danh, còn đối với các hợp danh trách
nhiệm hữu hạn hay hợp danh chuyên nghiệp thì quyền đại diện cho hợp danh thuộc
về tất cả các thành viên…
Ở Việt Nam cũng có khá nhiều các công trình nghiên cứu có đề cập đến cơ
cấu tổ chức, quản trị điều hành và cơ chế đại diện trong CTHD, chẳng hạn nhƣ:
- Trong bài viết “Tìm hiểu về công ty hợp danh trong pháp luật Việt Nam và
Cộng hòa Pháp” đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 10/2004, Lê Thanh
Phong tìm hiểu về cơ cấu tổ chức quản lý của CTHD theo pháp luật Việt Nam
(HĐTV, TVHD, TVGV). Theo tác giả, CTHD và công ty hợp vốn đơn giản theo
pháp luật của Pháp có cơ cấu phức tạp hơn rất nhiều so với pháp luật Việt Nam. Cơ
quan quyết định cao nhất trong công ty là Đại hội. Việc điều hành công ty do ngƣời
quản lý thực hiện. Về nguyên tắc, tất cả các thành viên đều có tƣ cách Ngƣời quản
lý nhƣng họ có thể chỉ định ngƣời quản lý trong số các thành viên hoặc thậm chí
ngƣời ngoài công ty. Ngƣời quản lý cũng đại diện cho công ty.
- Trong bài viết “Các loại hình doanh nghiệp phổ biến ở Pháp” đăng trên Tạp
chí Khoa học pháp lý số 4/2006, Lê Minh Phiếu trình bày khái quát mô hình CTHD
của Cộng hòa Pháp về việc quản lý CTHD (quy chế đối với ngƣời quản lý, quyền
hạn của ngƣời quản lý, trách nhiệm của ngƣời quản lý). Tác giả cũng nêu lý do vì
sao CTHD là mô hình đƣợc các nhà đầu tƣ tại Pháp ƣa thích, đó là sự hấp dẫn về
thuế, việc thành lập tƣơng đối đơn giản, bảo đảm đƣợc bí mật vì không phải nộp
báo cáo tài chính đến tòa án…
- Trong bài viết “Quản trị nội bộ công ty luật hợp danh – Góc nhìn từ thực

tiễn” đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 2/2018, đồng tác giả Nguyễn Quý
Trọng và Nguyễn Minh Đức đã nêu bốn dấu hiệu để nhận diện quản trị nội bộ
CTLHD: chủ thể quản trị là các luật sƣ; cơ cấu tổ chức, điều hành của công ty; cơ
chế phân chia quyền lực; nguồn lực để chủ thể quản trị khai thác và vận dụng trong
quá trình quản trị. Đồng thời các tác giả cũng nêu các hạn chế, bất cập trong quản trị
CTLHD bao gồm: cơ chế bình quyền giữa các luật sƣ thành viên; về yêu cầu đƣợc
cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động của công ty; về vấn đề thừa kế trong
công ty; về tƣ cách thành viên bị tuyên bố mất tích.
Một số giáo trình chuyên ngành luật kinh tế cũng đề cập đến cơ cấu tổ chức
quản lý và cơ chế đại diện trong CTHD, thí dụ: “Luật Doanh nghiệp Việt Nam: Tình
huống - Dẫn giải - Bình luận”, Phạm Hoài Huấn (Chủ biên), Nxb. Chính trị Quốc
gia - Sự thật năm 2015; “Giáo trình pháp luật về chủ thể kinh doanh”, Bùi Xuân


18

Hải (chủ biên), Trƣờng Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức năm 2013;
“Giáo trình Luật Kinh tế” của các tác giả Minh Ngọc, Ngọc Hà, Nxb. Lao động, Hà
Nội năm 2013; “Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam”, Nguyễn Viết Tý, Nguyễn
Thị Dung (đồng chủ biên), Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Tƣ Pháp năm 2018,
Giáo trình Luật Thƣơng mại (phần chung và thƣơng nhân) của Ngô Huy Cƣơng,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013… Đặc điểm chung của tất cả các giáo
trình trên là đều phân tích các quy định hiện hành trong LDN về cơ cấu tổ chức
quản lý, điều hành và vấn đề đại diện của CTHD.
Một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ chuyên ngành luật học khi nghiên cứu
về CTHD có đề cập tới vấn đề quản trị trong loại hình công ty này, chẳng hạn nhƣ:
“Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo pháp luật doanh nghiệp Việt
Nam” của Phùng Anh Quốc, Học viện Khoa học xã hội năm 2017; “Pháp luật Việt
Nam về công ty hợp danh”, Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Thùy Giang,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2009; “Công ty hợp vốn đơn giản theo

pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Phƣơng Thảo,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2012; “So sánh pháp luật Việt Nam và
pháp luật Nhật Bản về công ty hợp danh”, Luận văn thạc sĩ luật học của Lục Việt
Dũng, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015; “Một số vấn đề pháp lý về
công ty hợp danh”, Luận văn thạc sĩ luật học của Vũ Đặng Hải Yến, Trƣờng Đại
học Luật Hà Nội năm 2003; “Xây dựng chế định pháp luật về công ty hợp vốn đơn
giản ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Vinh Hƣng, Khoa luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2014. “Pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam”, Luận
án tiến sĩ luật học của Nguyễn Thị Huế, Học viện Khoa học xã hội năm 2012…
Nhìn chung, các tác giả của những công trình trên đều có cách nhìn thống nhất
về quản trị CTHD: HĐTV là cơ quan có quyền quyết định cao nhất trong việc quản
lý hoạt động kinh doanh của công ty, đồng thời tất cả các TVHD cũng đều có quyền
quản trị điều hành ngang nhau và cùng là đại diện theo pháp luật cho công ty.
1.1.5. Các nghiên cứu về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ pháp lý
Thực tế cho thấy có một số ít công trình nghiên cứu trực tiếp về CTHD hoạt
động trong lĩnh vực cung cấp DVPL mà thƣờng chỉ có những công trình nghiên cứu
về DVPL nói chung trong đó chủ yếu đƣợc cung cấp bởi các CTHD. Điển hình phải
kể đến một số công trình nghiên cứu nhƣ:
- Trong công trình “Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ
luật học, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014, tác giả Đậu Huy Giang


×