Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

BÁO CÁO THỰC TẬP NGÀNH LUẬT TẠI VIỆN KIỂM SÁT. ĐỀ TÀI: THỰC TIỂN THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG QUÁ TRINH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC SƠ THẢM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.87 MB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á
KHOA LUẬT
------

ĐỀ TÀI:

BÁO CÁO THỰC TẬP
NGHỀ NGHIỆP 2

THỰC TIỂN THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG QUÁ TRINH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ
TỤC SƠ THẢM

`

Cơ quan thực tập

: Viện kiểm sát nhân dân TP Buôn Ma Thuột

Sinh viên thực tập

:

Ngành

: Luật kinh tế

Giáo viên hướng dẫn :
Cán bộ hướng dẫn

:



01/6/2019 - 31/7/2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á
KHOA LUẬT
------

THỰC TẬP NGHÊ NGHIỆP 2

ĐỀ TÀI:

THỰC TIỂN THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG QUÁ TRINH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ
TỤC SƠ THẢM

`

Cơ quan thực tập

: Viện kiểm sát nhân dân TP Buôn Ma Thuột

Sinh viên thực tập

: Y Tô Ni Êban

Ngành

: Luật kinh tế


Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Thị Hà
Cán bộ hướng dẫn

: KSV. Trần Thị Hồng Thắm

01/6/2019 – 31/7/2019
2


NHẬN XÉT CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP
Họ và tên sinh viên:
Lớp:

Khóa:

Khoa: Luật

Trường Đại Học Đông Á

Trong thời gian từ ngày 01 tháng 6 năm 2019 đến ngày 31 tháng 7 năm 2019
Tai: Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột
Địa chỉ:
Sau quá trình thực tập tại cơ quan của sinh viên, chung tôi có một số nhận xét
như sau:
1. Về ý thức chấp hành nội quy cơ quan:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
2. Về tinh thần thái độ học tập:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

3. Về quan hệ với cán bộ tại cơ quan:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
4. Các nhận xét khác:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

Đánh giá chung sau khi thực tập:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
Ngày …… tháng …… năm 2019
Cán bộ hưỡng dẫn

Xác nhận của cơ quan thực tập

(Ký và ghi rõ họ và tên)

(Ký, đóng dấu và ghi rõ họ và tên)

3


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỞNG DẪN
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
Ngày …… tháng …… năm 2019
Giáo viên hướng dẫn
(Ký và ghi rõ họ và tên)

LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin chân thành cảm ơn đến Đại học Đông Á nói chung và
Khoa Luật nói riêng đã tạo điều kiện cho em học tập nghiên cứu lý thuyết trên
giảng đường và tham gia kỳ thực tập tại Viện kiểm sát là những bài học nằm
4


ngoài giáo trình, nằm ngoài sự suy nghĩ của bản, điều này cũng đã giúp bản thân
trưởng thành hơn trong việc nhìn nhận để tiếp cận kỹ năng thực tiễn. Đặc biệt,
em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới anh, chị tại Viện kiểm sát nhân dân TP
Buôn Ma Thuột đã giúp đỡ, hướng dẫn em làm việc và nâng cao kỹ năng về sự
tự tin và chủ động các kỹ nâng mêm thực tiễn trong thời gian học việc tại cơ

quan.
Mặc dù quá trình thực tập thời gian ngắn em cũng đã học được rất nhiều
kiến thức thực tiển, nhưng do trình độ hiểu biết và kỹ năng thực tiễn còn hạn chế
nên bài báo cáo còn rất nhiều thiếu sót nên em rất mong được sự đóng góp của
quý thầy, để bài báo cáo của em được hoàn thiện hơn.
Thông qua những kiến thức đã học tại trường và cũng như việc so sanh
với thực tiển con rất hạn chế qua. Trong công việc quan sát cũng như học việc
tại cơ quan em nắm bất được mọi thủ tục của một vụ án hoàn chỉnh.
Em xin trân trọng cảm ơn Cơ quan và Trường đã tạo điều kiện cho em.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

TAND

: Tòa án nhân dân

VKV

: Kiểm sát viên

BLTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự


TTDS

: Tố tụng dân sự

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................8
1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài..................................................8

5


2.

Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài....................................9

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài...................................................9

4.

Kết cấu của bài báo cáo.............................................................................9

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUY ĐỊNH VIỆN KIỂM SÁT
THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ........................................................................10
1.1. Lý luận các khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc Viện kiểm sát tham
gia Tố tụng dân sự...............................................................................................10
1.1.1. Khái niệm việc Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự.................10

1.1.2. Đặc điểm của việc Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự............12
1.1.3. Ý nghĩa của việc Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự..............14
1.2. Cơ sở của việc pháp luật quy định Kiện kiểm sát tham gia Tố tụng án dân
sự......................................................................................................................... 15
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định Viện kiểm sát tham gia
tố tụng dân sự..................................................................................................15
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định Viện kiểm sát tham tố
tụng dân sự...................................................................................................... 17
CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG QUÁ TRÌNH THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO THỦ TỤC SƠ
THẨM.................................................................................................................... 18
2.1. Những nội dung thực tiễn cơ bản của pháp luật về Viện kiểm sát tham gia
Tố tụng dân sự đã tim hiểu trong quá trình thực tập............................................18
2.1.1. Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết
các vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm.............................................................18
2.1.2. Nghiên cứu hồ sơ án dân sự theo thủ tuc sơ thẩm.........................23
2.1.3. Công việc trong các giai đoạn.......................................................24
2.2. Thực trạng hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma
Thuột trong 5 năm (2015 – 2019)........................................................................30
MINH CHỨNG KÈM THEO......................................................................33
CHƯƠNG 3 NHẬN XÉT, GIẢI PHÁP VÀ KẾT LUẬN...........................53
3.1. Nhận xét................................................................................................... 53
3.2. Giải pháp..................................................................................................53
6


3.2.1. Thực hiện pháp luật của viện kiểm sát nhân dân TP Buôn Ma
Thuột............................................................................................................... 53
3.2.2. Một số ý kiến đóng góp để xây dựng quy trình sắp xếp án sơ thẩm,
phương hướng nâng cao chất lượng thi hành án và thu lý án dân sự ở Tp Buôn

Ma thuột.......................................................................................................... 54
3.3. Kết luận....................................................................................................55
3.3.1. Kết luận về viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự........................55
3.3.2. Kết luận về quá trình giải quyết án theo thủ tục sơ thẩm..............56
3.3.3. Kết luận về bản thân trong quá trình học việc...............................57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................58

DANH MỤC BẢ
Biểu đồ 2.2-1 Số liệu thụ lý Thi hành án dân sự.............................................27
Y
Bảng 2.2-1 Thống kê kết quả công tác kiểm sát thụ lý của Viện kiểm sát nhân
dân
thành
phố
Buôn
Ma
Thuột
năm
12/2014
3/2019
…………………………….28

7


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân,
vì dân. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta không ngừng đổi mới, phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phấn

đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để
góp phần thực hiện được các mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng
hiện nay của Nhà nước ta là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh công
cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp nhằm đảm bảo cho các cơ quan nhà
nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng hoạt động hiệu quả.
Trong lĩnh vực tư pháp, ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp đã chỉ rõ: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tư pháp". Ngày 25 tháng 11 năm 2015, tại Kỳ hợp thứ 10 Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân
sự. Đây là Bộ luật tố tụng dân sự thứ hai của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, trong đó có quy định các vấn đề vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Bộ luật đã hạn chế thẩm quyền tham gia Tố
tụng dân sự của Viện kiểm sát, đề cao nguyên tắc quyền tự quyết định của đương
sự trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy vậy, qua thực hiện Bộ luật này cho thấy
trong điều kiện hệ thống pháp luật Việt Nam còn bất cập, người dân còn gặp khó
khăn trong việc tự chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đội
ngũ cán bộ xét xử và đội ngũ Luật sư cũng chưa đáp ứng được yêu cầu v.v... thì
việc hạn chế việc tham gia Tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân lại không
phù hợp. Đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho việc vi phạm pháp luật
trong giải quyết các vụ việc dân sự vẫn xảy ra. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02
tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
đã nêu rõ: “Nhiệm vụ cải cách tư pháp đang đứng trước nhiều thách thức. Tình hình
phạm tội diễn biến phức tạp, với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Các
khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, các loại khiếu kiện
và tranh chấp có yếu tố nước ngoài có chiều hướng tăng về số lượng và phức tạp,
đa dạng hơn. Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng
cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ
công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và


8


pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi
phạm”.
Xuất phát từ thực tiễn trên, ngày 25 tháng 11 năm 2015 tại kỳ họp thứ 10
Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố
tụng dân sự đã sửa đổi, bổ sung các quy định về việc Viện kiểm sát nhân dân tham
gia tố tụng dân sự. Mặc dù Luật sửa đổi, bổ sung một số điều ra đời Bộ luật tố tụng
dân sự đã sửa đổi nhiều quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc tham gia Tố
tụng dân sự 2015 làm Viện kiểm sát nhân dân cho hợp lý hơn, khoa học hơn nhưng
thực tiễn áp dụng những năm qua cho thấy vẫn còn có sự bất cập, cần sự tiếp tục
nghiên cứu để hoàn thiện. Với những lý do nêu trên, em đã chọn đề tài "Thực tiễn
về viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự trong quá trinh giải quyết vụ án dân sự
theo thủ tục sơ thẩm". Nghiên cứu làm báo cáo thực tập của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Mục đích của việc nghiên cứu là làm rõ hai vấn đề cần lý luận: Thứ nhất,
thực tiễn nội dung các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về Viện kiểm sát nhân
dân Tp. Buôn Ma Thuột tham gia Tố tụng dân sự; Thứ hai, thực tiễn về các quy
trình giải quyết án theo trình tự thủ tục sơ thẩm.
- Thực hiện trong thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và thực
hiện có hiệu quả các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về Viện kiểm sát nhân dân
tham gia Tố tụng dân sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, việc nghiên cứu có nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về Viện kiểm sát nhân dân tham gia Tố tụng
dân sự như khái niệm, đặc điểm và vai trò của Viện kiểm sát nhân dân; Phân tích
làm rõ nội dung các quy định của pháp luật khi tham gia Tố tụng dân sự và kết hợp
sử dụng phương pháp so sánh tổng hợp các số liệu...; Tìm ra các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng và hiệu quả khi tham gia án dân sự.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma
Thuột tham gia Tố tụng dân sự theo thủ tục sơ thẩm, các quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự về Viện kiểm sát nhân dân tham gia Tố tụng dân sự và thực tiễn tham
gia Tố tụng dân sự.
4. Kết cấu của bài báo cáo
- Nội dung bài báo cáo gồm 3 Chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của quy định Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự.
Chương 2: Nội dung và thực tiễn trong quá trình tham gia tố tụng dân sự
9


Chương 3: Nhận xét, kiến nghị và kết luận.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUY ĐỊNH VIỆN KIỂM SÁT THAM GIA
TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. Lý luận các khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc Viện kiểm sát tham
gia Tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm việc Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự
Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp và chủ thể khi tham gia
vào các quan hệ xã hội phải thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy
định của pháp luật. Một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền,
nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của chủ thể khác. Do đó, để duy trì trật tự xã hội Nhà nước thiết lập cơ chế
pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Khi có tranh chấp phát
sinh, chủ thể có quyền, lợi ích bị xâm phạm có thể yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Khi đó, Tòa án sẽ tiến hành những hành vi nhất định để
giải quyết một tranh chấp dân sự. Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật tố tụng dân sự
thì Tố tụng dân sự bao gồm khởi kiện, hòa giải, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm,

giám đốc thẩm, tái thẩm và thi hành án. Từ đó có thể hiểu "tố tụng dân sự" là quá
trình bao gồm các hoạt động của Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải
quyết các vụ việc dân sự. Nếu như luật tố tụng hình sự bao gồm các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án hình sự thì luật tố tụng dân sự bao gồm các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong Tố tụng dân sự để đảm bảo việc giải
quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự đúng đắn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của nhà nước.
Ở Việt Nam, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân ra đời từ năm 1960, xuất phát
từ nhu cầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất, vì lẽ trên phải tổ chức ra Viện kiểm sát nhân dân
nhằm giữ vững pháp chế Xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho pháp luật được thi hành
nghiêm chỉnh và thống nhất. Ngay từ ngày đầu mới thành lập, chức năng cơ bản
nhất của Viện kiểm sát nhân dân đã được xác định trong Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 1960 là "kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đảm bảo cho pháp
luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất". Đến nay, Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã xác định rõ vị trí, chức năng của Viện
kiểm sát nhân dân tại chương VIII, từ Điều 107 đến 109, và K2 Điểu 12 Bộ luật tố
tụng dân sự. Theo đó:
10


Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, việc tham gia Tố tụng dân sự
của Viện kiểm sát nhân dân nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình
tố tụng đảm bảo cho tính pháp chế của các phán quyết của Tòa án, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nhà nước và các thành viên trong xã hội. Các hoạt động cụ thể

của Viện kiểm sát nhân dân trong Tố tụng dân sự bao gồm kiểm sát thông báo thụ
lý vụ việc của Tòa án, kiểm sát hoạt động giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự của
Tòa án, kiểm sát bản án, quyết định dân sự của Tòa án và kháng nghị các bản án,
quyết định dân sự của Tòa án.
Điều 46 Bộ luật tố tụng dân sự quy định, cùng với Tòa án, Viện kiểm sát nhân
dân là một cơ quan tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng.
Nhưng khác với Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân tham gia giải quyết vụ việc dân sự
nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Viện kiểm sát nhân dân tham gia kiểm
sát hoạt động Tố tụng dân sự thể hiện cụ thể ở nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát
viên và của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân được quy định tại các Điều 44 và
45 Bộ luật tố tụng dân sự. Theo quy định tại Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự, khi
được phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động Tố
tụng dân sự, Kiểm sát viên có những nhiệm vụ quyền hạn kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự của Tòa án,
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng, kiểm sát các
bản án, quyết định của Tòa án, tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, phiên họp
giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này và phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ việc dân sự. Theo quy định tại Điều 44 Bộ
luật tố tụng dân sự, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ, quyền
hạn tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động Tố tụng dân sự, quyết định phân công Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng, tham gia phiên tòa xét xử vụ án
dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự,
kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng của
Kiểm sát viên, quyết định thay đổi Kiểm sát viên và kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự.
11



Từ những phân tích trên có thể rút ra kết luận: Việc Viện kiểm sát nhân dân
tham gia Tố tụng dân sự là việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt
động tố tụng giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án và các hoạt động tham gia tố
tụng của những người tham gia tố tụng nhằm đảm bảo cho pháp luật được thi hành
nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án.
1.1.2. Đặc điểm của việc Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật tố tụng dân sự thì cơ quan tiến
hành tố tụng gồm TAND và Viện kiểm sát nhân dân. Tòa án là cơ quan xét xử, nhân
danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra bản án, quyết định giải quyết vụ
việc dân sự. Trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng TAND phải thực hiện
đúng nhiệm vụ, quyền hạn và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Cùng là cơ quan tiến hành tố tụng nhưng hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân hoàn toàn khác. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, những người tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc tham
gia Tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, phải khẳng định việc Viện Kiểm Sát tham gia Tố tụng dân sự đã
được ghi nhận trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là
một nguyên tắc cơ bản của Tố tụng dân sự. Ngay từ Hiến pháp 1960, Hiến pháp
đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ghi nhận về chế định Viện kiểm
sát nhân dân. Tuy vị trí chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trải qua các thời kỳ
của Hiến pháp 1960, 1980, 1992 và mới nhất là Hiến pháp năm 2013 có nhiều thay
đổi, nhưng về cơ bản đều ghi nhận Viện kiểm sát có "Nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo
vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân". Hiến pháp năm 2013 dành các Điều từ 107 đến 109 quy
định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và mô hình Viện kiểm sát trong đó xác định
chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Nếu như
Hiến pháp ghi nhận một trong hai chức năng cơ bản của Viện kiểm sát nhân dân là

kiểm sát hoạt động tư pháp thì Bộ luật tố tụng dân sự cụ thể hóa điều này thành
nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự quy định tại Điều
21. Theo đó, "Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của
pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vu việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật".
Với việc quy định kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng dân sự là một

12


nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng dân sự cho thấy tầm quan trọng, vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân trong Tố tụng dân sự. Đây là tư tưởng pháp lý cơ bản,
xuyên suốt trong quá trình xây dựng và thực hiện Tố tụng dân sự. Việc vi phạm
nguyên tắc được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến hậu quả là vụ
việc phải được xem xét lại, ngay cả khi bản án, quyết định đó đã có hiệu lực pháp
luật.
Thứ hai, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng dân sự là hoạt động
do cơ quan duy nhất là Viện kiểm sát nhân dân tiến hành. Theo quy định của Hiến
pháp, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan có chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Với chức năng, nhiệm vụ của
mình, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, trực tiếp tham gia
giám sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm trật tự xã hội. Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát của mình thông qua việc nhận các
thông báo, quyết định, bản án của Tòa án và các văn bản có liên quan đến việc giải
quyết vụ việc dân sự, kiểm sát hoạt động của Tòa án trong khi tiến hành tố tụng,
kiểm sát hoạt động tố tụng của nguyên đơn, bị đơn, ngươi có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan... Pháp luật quy định về nhiều cơ chế giám sát các hoạt động Tố tụng dân
sự nhưng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng dân sự thì chỉ có duy nhất
cơ quan Viện kiểm sát nhân dân mới có đủ thẩm quyền, được giao đủ công cụ pháp

lý thực hiện. Cụ thể Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành quy
định Viện kiểm sát nhân dân có quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị. Kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc dân
sự của Tòa án, Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng,
kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án, tham gia phiên tòa, phiên họp, tiến
hành thu thập chứng cứ [Điều 4 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTCTANDTC ngày 01/8/2012 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân
tối cao về hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự (sau đây gọi tắt là Thông tư liên
tịch số 04/2012)].
Thứ ba, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng dân sự phải
tuân theo những quy định của pháp luật về trình tự và thủ tục. Vì hoạt động kiểm
sát của Viện kiểm sát nhân dân nhằm mục đích bảo đảm hoạt động của Tòa án, hoạt
động của đương sự và những người tham gia tố tụng khác phải tuân thủ theo đúng
quy định của pháp luật, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa nên hoạt động kiểm sát
của Viện kiểm sát nhân dân không nằm ngoài pháp luật, phải tuân thủ quy định của
13


pháp luật. Trước đây, khi Bộ luật tố tụng dân sự chưa được ban hành thì Viện kiểm
sát nhân dân chỉ được tham gia các phiên tòa dân sự. Từ khi Bộ luật tố tụng dân sự
được ban hành, pháp luật đã hạn chế sự tham gia phiên tòa của Viện kiểm sát nhân
dân trong các vụ án dân sự nên theo Bộ luật tố tụng dân sự thì Viện kiểm sát nhân
dân chỉ tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà
đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án,
các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị bản án, quyết định của
Tòa án. Đến nay, khi Nhà nước ban hành Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân
sự quyền tham gia phiên tòa, phiên họp của Viện kiểm sát nhân dân đã được mở
rộng hơn, cụ thể:
1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân
sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật

nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc
dân sự; các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập
chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử
dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thể chất, tâm thần.
3. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm. Tuy vậy, dù pháp luật quy định như thế nào thì trong hoạt động
kiểm sát của mình, Viện kiểm sát nhân dân vẫn phải tuân theo các quy định đó.
Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân vừa mang tính giám sát, vừa thể
hiện sự đảm bảo cho hoạt động tố tụng diễn ra đúng quy định của pháp luật, vừa hỗ
trợ việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng và đúng luật.
1.1.3. Ý nghĩa của việc Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự
Trước hết phải khẳng định việc tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân
trong Tố tụng dân sự đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật. Đây là mục đích được
xác định ngay từ ngày đầu khi thành lập cơ quan kiểm sát và vai trò này luôn được
khẳng định qua các lần sửa đổi, bổ sung luật. Trong hệ thống bộ máy nhà nước,
Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật cho thấy tầm quan
trọng của Viện kiểm sát nhân dân trong đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền
làm chủ của nhân dân, đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và thống
nhất. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và có nhiệm vụ giám sát việc thực thi
pháp luật của cơ quan tư pháp, đảm bảo pháp luật được tôn trọng trong các hoạt
động của cơ quan tiến hành tố tụng và của những người tham gia tố tụng. "Viện

14


kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện
các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo
đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật" [Điều 21].

Bên cạnh đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật, việc tham gia Tố tụng dân
sự của Viện kiểm sát nhân dân còn góp phần phát hiện, hạn chế những tiêu cực, sai
sót trong hoạt động tố tụng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của những người tiến
hành tố tụng trong giải quyết các vụ việc dân sự. Bộ luật tố tụng dân sự quy định
thẩm phán và hội thẩm nhân dân khi xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, bên
cạnh đó là quy định quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Muốn đảm bảo
được những điều đó thì nhất thiết phải có sự kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân,
bởi hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng do nhiều nguyên nhân khác nhau
có thể không được khách quan. Và nhiều khi vì lý do lịch sử để lại, không phải
người tiến hành tố tụng nào cũng nhận thức vấn đề giống nhau, do đó cần sự giám
sát của Viện kiểm sát nhân dân để đảm bảo cho hoạt động tố tụng đúng trình tự, thủ
tục pháp luật quy định. Cuối cùng, hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân
trong Tố tụng dân sự đảm bảo cho vụ việc dân sự được giải quyết nhanh chóng,
khách quan, toàn diện, đầy đủ và kịp thời, đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa
án có căn cứ và đúng luật, đảm bảo quyền lợi của người tham gia tố tụng. Sự tham
gia của Viện kiểm sát nhân dân thể hiện ở hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát
nhân dân từ giai đoạn thụ lý hồ sơ, điều tra xác minh thu thập chứng cứ đến xét xử.
Tùy vào từng giai đoạn, từng nội dung công việc cụ thể mà có quyền ra các
văn bản đề nghị, kiến nghị, hay kháng nghị nhằm giúp cho việc giải quyết vụ việc ở
các cấp TAND được nghiêm túc đúng trình tự và thủ tục do pháp luật quy định.
Thực tiễn sự tham gia của Viện kiểm sát trong Tố tụng dân sự cho thấy khi có văn
bản đề nghị, kiến của Viện kiểm sát nhân dân thì số lượng các vụ án quá hạn, kéo
dài giảm đi đáng kể. Và khi TAND khắc phục những thiếu sót theo ý kiến của Viện
kiểm sát nhân dân cũng làm giảm đáng kể vụ việc phải kháng nghị theo trình tự
phúc thẩm, giám đốc thẩm. Điều này không chỉ đảm bảo cho các bên tham gia tố
tụng mà còn giúp cho vụ án được giải quyết nhanh chóng, khách quan và đúng
pháp luật.
1.2. Cơ sở của việc pháp luật quy định Kiện kiểm sát tham gia Tố tụng án dân
sự
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định Viện kiểm sát tham gia tố tụng

dân sự

15


Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, Tòa án và Cơ quan công tố được tổ chức
theo Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa án và ngạch thẩm phán;
Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 về việc ấn định thẩm quyền của các Tòa án và sự
phân công giữa các nhân viên trong Tòa án…Theo đó cơ quan công tố nằm trong
cơ cấu tổ chức của Tòa án, do Bộ Tư pháp quản lý. Ngay trong cơ cấu này thì chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp cũng thể hiện khá rõ, cụ thể các Công tố viên
có quyền giám sát công tác điều tra của Tư pháp Cảnh sát, kiểm soát công việc
quản trị lao tù, có quyền kháng cáo bản án hình sự đã tuyên, riêng người đứng đầu
Viện công tố của Tòa Thượng thẩm có cả nhiệm vụ giám sát việc thi hành các Đạo
luật, Sắc lệnh và Quy tắc hiện hành trong quản hạt của mình. Tại kỳ họp thứ 8
Quốc hội khóa I, Quốc hội đã quyết định Viện công tố Trung ương trực thuộc
Chính phủ được thành lập trên cơ sở tách bộ phận công tố trực thuộc Tòa án ra. Tuy
nhiên ngay cả trong mô hình này thì Viện công tố cũng đã có những nhiệm vụ kiểm
sát hoạt động tư pháp như giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra
của Cơ quan điều tra, giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc xét xử của Tòa
án, giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc thi hành các bản án hình sự, dân sự
và trong hoạt động của các Cơ quan giam, giữ, cải tạo, khởi tố và tham gia tố tụng
những vụ án dân sự. Như vậy, ngay từ lúc mới hình thành, Cơ quan công tố đã thể
hiện rõ xu hướng độc lập cả về tổ chức lẫn thẩm quyền hoạt động. Chức năng
không chỉ giới hạn ở thực hành quyền công tố mà còn giám sát hoạt động điều tra,
giám sát đối với các hoạt động tư pháp và tham gia hoạt động Tố tụng dân sự,
kháng cáo bản án hình sự, dân sự. Hiến pháp năm 1959 ban hành đánh dấu sự ra
đời của một loại hình cơ quan nhà nước mới trong bộ máy nhà nước, đó là cơ quan
Viện kiểm sát nhân dân. Tại Điều 105 Hiến pháp năm 1959 quy định: Viện kiểm sát
nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kiểm sát việc tuân theo pháp

luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các
nhân viên cơ quan nhà nước và công dân. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương
và Viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định. Đến Hiến
pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 tuy có những bổ sung, thay đổi về tổ chức,
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhưng chức năng kiểm sát các hoạt động tư
pháp vẫn luôn được giao cho Viện kiểm sát nhân dân Qua sơ kết 3 năm thực hiện
Nghị quyết 49-NQ/TW, Bộ Chính trị nêu rõ, một trong những nguyên nhân làm cho
chất lượng xét xử các vụ án dân sự thời gian qua còn thấp là do chưa có cơ chế
giám sát, kiểm sát hiệu quả việc giải quyết các vụ án này. Kết luận số 79-KL/TW
ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị khẳng định: "Viện kiểm sát nhân dân có chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay". Báo
16


cáo chính trị tại Đại hội XI yêu cầu "Bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm
sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp". Nhiều đạo luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp được sửa đổi, bổ
sung hoặc ban hành mới theo hướng tăng cường vai trò giám sát các hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Các văn bản pháp luật này đều khẳng định một
cách nhất quán yêu cầu của Đảng, Quốc hội phải tăng cường hơn nữa vai trò, trách
nhiệm của VKS trong kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên tất cả các lĩnh vực tư
pháp. Đảng ta đã khẳng định xây dựng nhà nước pháp quyền là vấn đề có tính quy
luật trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, một trong những yêu cầu
mới của quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là bảo đảm sự kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy, tiếp tục duy trì VKS với tính cách là một
hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước với hai chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, đồng thời có các cơ chế pháp lý
để tăng cường hiệu lực, hiệu quả các khâu công tác kiểm sát hoạt động tư pháp
chính là biện pháp quan trọng góp phần đẩy mạnh các cơ chế kiểm tra, giám sát,

kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở đất nước ta.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định Viện kiểm sát tham tố tụng
dân sự
Theo quy định của pháp luật hiện hành có hai chức năng cơ bản là thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nếu như chức năng thực hành
quyền công tố diễn ra trong quy trình tố tụng hình sự thì chức năng kiểm sát các
hoạt động tư pháp thể hiện trong quy trình tố tụng dân sự, cụ thể là kiểm sát hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng. Thực tiễn kiểm sát hoạt động tư pháp thời gian qua đạt được những kết quả
rất quan trọng.

17


CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG QUÁ TRÌNH
THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO THỦ TỤC SƠ THẨM

2.1. Những nội dung thực tiễn cơ bản của pháp luật về Viện kiểm sát tham
gia Tố tụng dân sự đã tim hiểu trong quá trình thực tập
2.1.1. Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết các vụ
án dân sự theo thủ tục sơ thẩm
- Quá trình giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm bao gồm các giai
đoạn như thụ lý vụ án, lập hồ sơ và hòa giải vụ án, xét xử vụ án tại phiên tòa sơ
thẩm. Do đó, khi tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải vụ án dân sự theo thủ
tục sơ thẩm từ giai đoạn thụ lý, lập hồ sơ và hòa giải vụ án, xét xử vụ án tại phiên
tòa sơ thẩm. Theo quy định tại khoản 1 Điều 196 và 199 Bộ luật tố tụng dân sự:
"Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải thông
báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý
vụ án".
“Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối
với yêu cầu của nguyên đơn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố, yêu
cầu độc lập (nếu có)”
Như vậy, việc Tòa án thụ lý vụ án phải được thông báo bằng văn bản cho Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp và phải giao Thông báo về việc thụ lý vụ án trong thời
hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án. Công tác kiểm sát thụ lý vụ án dân sự
gồm hai nội dung chính:
+ Kiểm sát việc xác định thẩm quyền của Tòa án khi nhận đơn có đúng thẩm
quyền không, khắc phục tình trạng Tòa án thụ lý không đúng thẩm quyền hoặc từ
chối thụ lý mặc dù đúng thẩm quyền.
+ Kiểm sát việc tiến hành các thủ tục thụ lý theo đúng quy định tại Điều 196
Bộ luật tố tụng dân sự. Cách thức kiểm sát công tác thụ lý vụ án dân sự được quy
định cụ thể tại [Điều 196]:
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải thông
báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý
vụ án.
2. Văn bản thông báo phải có các nội dung chính sau đây:
18


a) Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo;
b) Tên, địa chỉ Tòa án đã thụ lý vụ án;
c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện;
d) Những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết;
đ) Danh sách tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện;
e) Thời hạn người được thông báo phải có ý kiến bằng văn bản nộp cho Tòa án

đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có;
g) Hậu quả pháp lý của việc người được thông báo không nộp cho Tòa án văn
bản về ý kiến của mình đối với yêu cầu.
- Trước đây Thông tư liên tịch số 03/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày
01/9/2005 hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự có hướng dẫn
chi tiết về thời hạn, cách thức chuyển thông báo thụ lý vụ án của TAND sang Viện
kiểm sát nhân dân để đảm bảo cho hoạt động kiểm sát thụ lý của Viện kiểm sát
nhân dân, nhưng đến nay thông tư này đã hết hiệu lực, được thay thế bằng Thông tư
liên tịch số 04/2012. Tuy nhiên trong nội dung của Thông tư liên tịch số 04/2012
không đề cập đến hoạt động kiểm sát thụ lý của Viện kiểm sát nhân dân đối với các
vụ việc của Tòa án do đó nội dung của hoạt động kiểm sát thông báo thụ lý vụ việc
của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện theo nội dung [Điều 196] Bộ luật tố
tụng dân sự nêu trên.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu bị đơn có yêu cầu phản tố, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì thực hiện như thủ tục khởi kiện
của nguyên đơn. Điều này có nghĩa là đối với yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập
của đương sự khi được Tòa án chấp nhận thì TAND cũng có trách nhiệm thông báo
đến Viện kiểm sát nhân dân như trường hợp thông báo thụ lý, thời hạn và nội dung
thông báo cũng thực hiện theo quy định tại [Điều 196] Bộ luật tố tụng dân sự.
Hoạt động kiểm sát việc thụ lý của Viện kiểm sát nhân dân có ý nghĩa rất lớn
trong cả quá trình kiểm sát hoạt động tố tụng, góp phần đảm bảo quá trình thụ lý,
giải quyết vụ án của Tòa án được chính xác, tạo mối quan hệ tích cực giữa Tòa án
và Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời chủ động
phòng ngừa, góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những sai sót có thể xảy ra ngay
từ giai đoạn thụ lý vụ án.
Ở giai đoạn này, bên cạnh việc thụ lý hồ sơ vụ việc, ra thông báo và chuyển
đến Viện kiểm sát nhân dân thì có những hồ sơ vì không đủ điều kiện bị Tòa án trả
lại. "Khi trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi
kiện, Tòa án phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện đồng thời gửi cho
19



Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp tại. "Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, Viện kiểm sát cùng cấp có
quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện. Việc bổ sung quy
định này giúp viện kiểm sát kiểm sát được hoạt động trả lại đơn của Tòa án, tránh
được những trường hợp Tòa án từ chối thụ lý vụ án không đúng hoặc trốn tránh
việc thụ lý giải quyết vụ việc tại Tòa án.
Giai đoạn lập hồ sơ và hòa giải vụ án, hoạt động của Tòa án bao gồm: "Thông
báo về việc thụ lý vụ án; yêu cầu đương sự nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; thực
hiện một số biện pháp để thu thập chứng cứ theo quy định tại [Khoản 2 Điều 97]
Bộ luật Tố tụng dân sự. Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án bao gồm:
Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; trưng cầu giám định; quyết định
định giá tài sản; xem xét, thẩm định tại chỗ; ủy thác thu thập chứng cứ; yêu cầu cá
nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện
vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự.
Ngoài ra, trong giai đoạn lập hồ sơ vụ án Tòa án còn tiến hành hòa giải vụ án,
trừ trường hợp vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được và ra
một trong các quyết định sau: "Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; tạm
đình chỉ giải quyết vụ án; đình chỉ giải quyết vụ án; đưa vụ án ra xét xử" [Khoản 3
Điều 203].
Ngoài ra, BLTTDS quy định: "Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày
ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Tòa án phải gửi quyết
định đó cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp" và:
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được gửi cho các đương sự, Viện kiểm
sát cùng cấp ngay sau khi ra quyết định. Trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên
tòa theo quy định tại [Khoản 2 Điều 21] của Bộ luật này thì Tòa án phải gửi hồ sơ
vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp; trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận
được hồ sơ, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa án [Khoản 2
Điều 195].


-

Quy định về thủ tục chuyển hồ sơ vụ án được thực hiện như sau:

Tất cả tài liệu có trong hồ sơ vụ việc dân sự (bao gồm tài liệu cũ và tài liệu
mới bổ sung, nếu có) đều phải được đánh số thứ tự và có bản kê danh mục các tài
liệu. Trước khi chuyển hồ sơ vụ việc dân sự từ Tòa án sang Viện kiểm sát hoặc
ngược lại, phải kiểm tra đầy đủ tài liệu trong hồ sơ vụ việc dân sự đó.Trường hợp
gửi hồ sơ theo đường bưu chính, thì người trực tiếp nhận hồ sơ đầu tiên của Viện
kiểm sát hoặc Tòa án phải kiểm tra niêm phong; nếu niêm phong không còn

20


nguyên vẹn thì phải lập biên bản ngay xác nhận tình trạng hồ sơ, có xác nhận của
nhân viên bưu chính và báo cáo lãnh đạo đơn vị trực tiếp phụ trách, đồng thời
thông báo ngay cho cơ quan gửi hồ sơ để phối hợp giải quyết. Trường hợp niêm
phong còn nguyên vẹn, nhưng qua kiểm tra phát hiện tài liệu có trong hồ sơ bị thiếu
so với bản kê danh mục các tài liệu thì phải báo cáo cho lãnh đạo đơn vị trực tiếp
phụ trách để lập biên bản ngay và thông báo cho cơ quan chuyển hồ sơ biết để phối
hợp giải quyết. Ngày nhận hồ sơ là ngày cơ quan nhận hồ sơ tiếp nhận hồ sơ do cơ
quan bưu chính chuyển đến tại trụ sở của mình. rường hợp hồ sơ vụ việc dân sự
được chuyển trực tiếp thì thủ tục giao nhận hồ sơ do Tòa án chuyển cho Viện kiểm
sát được thực hiện tại trụ sở Viện kiểm sát; thủ tục giao nhận hồ sơ do Viện kiểm
sát chuyển trả cho Tòa án được thực hiện tại trụ sở Tòa án. Người nhận hồ sơ phải
đối chiếu bản kê danh mục tài liệu với tài liệu đã được đánh số thứ tự trong hồ sơ.
Việc giao nhận phải được lập biên bản, ghi rõ thời gian, địa điểm giao nhận hồ sơ,
tình trạng hồ sơ, có chữ ký và họ tên của những người tiến hành giao nhận hồ sơ.
Vai trò kiểm sát trong giai đoạn này là giám sát quá trình lập hồ sơ của Tòa án,

thông qua việc kiểm sát lập hồ sơ của Tòa án phát hiện những vi phạm, thiếu sót
trong quá trình áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ, kiểm sát các hoạt động
khác liên quan đến hoạt động lập hồ sơ của Tòa án, đảm bảo việc điều tra, lập hồ sơ
được thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.
Trong các hoạt động kiểm sát đối với vụ án dân sự ở giai đoạn sơ thẩm thì
kiểm sát tại phiên tòa được coi là quan trọng nhất và đây cũng là hoạt động còn gây
nhiều tranh cãi bởi quy định của pháp luật có nhiều điểm chưa thống nhất. Trước
hết phải khẳng định quy định về kiểm sát tại phiên tòa trong Bộ luật tố tụng dân sự.
Theo quy định tại [Điều 21] "Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa đối với
những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại
Để tạo điều kiện cho Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa [Điều 2]
Thông tư liên tịch số 04/2012 quy định: Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ
ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển hồ sơ vụ
án dân sự cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát nhân dân phải trả lại hồ sơ cho Tòa án.
Tại phiên tòa nếu vắng mặt KSV Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử không
hoãn phiên tòa (Điều 232 BLTTDS). Quá trình diễn ra phiên tòa, "trường hợp có
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa thì Kiểm sát viên hỏi sau đương sự" [Điều 249]
và "sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, chủ
tọa phiên tòa đề nghị Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân về

21


việc giải quyết vụ án" [Điều 262]. Nội dung phát biểu của KSV tại phiên tòa là vấn
đề gây nhiều tranh cãi vì nếu KSV khi phát biểu về vấn đề nội dung vụ án vô tình
sẽ gây tâm lý "dẫn đường" cho phán quyết của Tòa án. Trường hợp phán quyết của
Hội đồng xét xử và phát biểu của KSV tại phiên tòa có nội dung khác nhau, thậm
chí trái ngược sẽ dẫn đến tâm lý hoang mang cho đương sự, vì cùng là cơ quan tiến
hành tố tụng, tại sao lại có những quan điểm khác nhau về cùng một vụ án.

Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong,
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của
người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án.
Và quy định này cũng được hướng dẫn tương đối cụ thể trong Điều 8 của
Thông tư liên tịch số 04/2012:
Phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng
xét xử trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời
điểm Hội đồng xét xử nghị án; Trong trường hợp Kiểm sát viên yêu cầu Hội đồng
xét xử khắc phục các vi phạm về thủ tục tố tụng, thì Hội đồng xét xử phải xem xét,
quyết định và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận; trường hợp không chấp
nhận, thì phải nêu rõ lý do. Quyết định về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận
yêu cầu của Kiểm sát viên được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng
xử án và phải được ghi vào biên bản phiên tòa.
b) Phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố
tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị
án, không phát biểu về quan điểm giải quyết vụ án.
Kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên có quyền được xem biên bản phiên tòa, yêu
cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận. Biên bản
phiên tòa và văn bản tố tụng thể hiện đầy đủ, khách quan, toàn diện diễn biến phiên
tòa từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên tòa. Biên bản phản ánh mọi diễn biến
tại phiên tòa, là tài liệu tố tụng quan trọng giúp Tòa án cấp trên xem xét, giải quyết
vụ án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm. Biên bản phiên tòa do Thư ký Tòa án
ghi trực tiếp tại phiên tòa bằng cách viết tay hoặc bằng phương tiện kỹ thuật nhưng
luôn được thể hiện ở dạng văn bản. Biên bản không đọc công khai sau khi kết thúc
phiên tòa. Tuy nhiên để đảm bảo tính chính xác, khách quan của biên bản thì Bộ
luật tố tụng dân sự quy định Kiểm sát viên có quyền xem lại biên bản phiên tòa,

22



yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản bởi nhiều khi, có thể vì lý do chủ
quan hay khách quan mà biên bản không phản ánh đúng diễn biến phiên tòa.
2.1.2. Nghiên cứu hồ sơ án dân sự theo thủ tuc sơ thẩm

- Trong quá trình sắp xếp, đọc, nghiên cứu hồ sơ em cũng đã biết thủ tục trình
tự của một bộ hồ sơ sơ thẩm hồ sơ vụ án dân sự bao gồm:
+ Bìa hồ sơ có ghi ngày, tháng thụ lý, tên địa chỉ các đương sự. Hồ sơ vụ án
dân sự sơ thẩm có bìa hồ sơ riêng, cấp phúc thẩm có bìa riêng.
+ Các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ được đánh số thứ tự liên tiếp từ 01, ghi ở
góc trên bên phải tài liệu, gọi là bút lục.
+ Bản kê các tài liệu có trong hồ sơ.
- Thực tiễn của việc sắp xếp hồ sơ vụ án dân sự tại tại viện kiểm sát phải theo
trình tự của tòa án
+ Về việc ghi số bút lục trong hồ sơ vụ án : Các hồ sơ đều được đánh số bút lục
theo số trang liên tục từ 01 đến hết hồ sơ, nhưng có hồ sơ đánh số từ trên xuống
dưới (số 01 trên đầu hồ sơ); có hồ sơ đánh số từ dưới lên trên (số 01 để dưới cùng
hồ sơ) đây cũng là trình tự xếp hồ sơ của Viện kiểm sát theo như em đã làm từ thực
tiễn. Xung quanh con số ghi bút lục, có đóng dấu treo hình tròn có chữ viện kiểm
sát đang giii quyết, cũng có những văn bản không có treo dấu mà chỉ có con số bút
lục; Có hồ sơ vụ án lại không có một số bút lục nhất định; Có hồ sơ cùng một số
bút lục nhưng lại có nhiều trang tài liệu hoặc nhiều tài liệu nên được ghi là 60 a,
60b …
+ Về bản kê tài liệu: Bản kê tài liệu có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết
trong việc bảo quản lưu trữ hồ sơ và phải được cập nhật thường xuyên ngay từ khi
thụ lý vụ án. Thực tế không phải hồ sơ nào cũng có bản kê, có hồ sơ chỉ có bản kê
của cấp sơ thẩm. Bản thông kê được lập thành bảng và đánh những tiêu đề các văn
bản có trong hồ sơ từ bút lục 01 cho đến hết.
Bảng kê bút lục thông thường được bố trí làm 5 cột, theo thứ tự từ trái sang phải,

gồm: Cột thứ tự (ghi số thứ tự tài liệu); cột tên tài liệu (ghi đầy đủ, cụ thể tên tài liệu và
nguồn tài liệu, ví dụ: Biên bản xác minh, Bản tự khái của ai cùng thời gian (ghi ngày,
tháng, năm ban hành hoặc thu thập tài liệu); cột số bút lục (ghi số bút lục của tài liệu)
và cột ghi chú (ghi hình thức của tài liệu là bản gốc, bản chính hay bản photo…)
Hồ sơ án hôn nhân: Bước đầu khởi kiện xin ly hôn gồm có Đơn xin ly hôn, giấy
chứng nhận đăng ký kết hôn, sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân, Giấy khai sinh của
con (nếu có), Các tài liệu, chứng cứ khác chứng minh tài sản chung (thực tế tài sản
là do đương sự tự chia tòa án không xử lý nếu không yêu cầu)
23


Các đương sự sẽ nộp đơn khởi kiện về TAND mà nơi cư trú, làm việc của vợ
chồng; Sau khi nhận đơn khởi kiện cùng hồ sơ hợp lệ Tòa án trong thời hạn 05
ngày làm việc Tòa án kiểm tra đơn và ra thông báo nộp tiền tạm ứng án phí; nộp
tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại Chi cục thi hành án quận/huyện và nộp lại
biên lai tiền tạm ứng án phí cho Tòa án; Trong thời hạn 15 ngày làm việc Tòa án
tiến hành mở phiên hòa giải. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày hòa giải không
thành (không thay đổi quyết định về việc ly hôn) nếu các bên không thay đổi ý kiến
Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn.
Để được tòa án chấp thuận ly hôn cần phải đáp ứng đủ điều kiện: Tình trạng
của vợ chồng trầm trọng; Đời sống chung không thể kéo dài; Mục đích của hôn
nhân không đạt. Điều kiện tiến hành thủ tục thuận tình ly hôn: Hai bên thật sự tự
nguyện ly hôn; Hai bên đã thoả thuận được với nhau về việc chia hoặc không chia
tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con; Sự thoả thuận của hai
bên về tài sản và con trong từng trường hợp cụ thể này là bảo đảm quyền lợi chính
đáng của vợ và con.
Hồ sơ án dân sự: án dân sự cũng tương tự như án hôn nhân gồm: Đơn khởi kiện;
các; tài liệu liên quan đến vụ án (ở mục minh chứng để giải thích rõ hơn) ; Biên bản
hòa giải (vụ án đất đai), Quyết định trả lời khiếu nại lần đầu (vụ án hành chính);
Các tài liệu liên quan đến vụ kiện ( giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà

ở, hợp đồng…);Giấy chứng minh nhân dân, hộ khẩu (bản sao có sao y); Bản kê các
tài liệu nộp kèm theo đơn khởi kiện (ghi rõ số bản chính, bản sao).
2.1.3. Công việc trong các giai đoạn.
Qua quá trình học tập thực tiễn đã nêu ở mục trên thì ngoài ra, bản thân đã
tiếp xúc với quá trình xử lý các tình huống với kế hoạch đặt ra như sau: Vận dụng
một cách tối đa và linh hoạt những kiễn thức đã học và tích lũy được trong quá
trình học tập vào thực tiễn công việc tại Viện kiểm sát.
+ Rèn luyện, nâng cao kỹ năng xử lý tình huống. Nêu cao tinh thần học hỏi,
tiếp thu những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm làm việc của cơ quan. Tiếp cận và
năng cao hiểu biết về văn hóa, kỹ năng giao tiếp ứng xử tại công sở.
+ Đọc hồ sơ các vụ án, tập viết các đề xuất, quyết định khởi tố. Tham gia
phiên tòa; Tìm hiểu việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; Tìm hiểu việc thụ lý vụ
án và vụ việc dân sự theo trình tự thủ tục; Nghiên cứu hồ sơ vụ việc; thống kê số
liệu các vụ đã thụ lý để làm báo cáo thực tập cá nhân. Trong quá trình này công
việc được tiến hành chia làm 2 tháng như sau: Tháng thứ nhất gồm 4 tuần đầu sẽ
thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu án dân sự như Hôn nhân gia đình; Dân sự; Kinh
24


doanh thương mại về các vụ án và làm những công việc được giao: Tháng thứ hai
nghiên cứu về thụ lý án và thi hành án và các lệ phí, án phí, tạm ứng án mà các
đương sự phải nộp và thực hiện thống kê án tự khi Bộ luật tố tụng 2015 ra đời đến
này về thực trạng.
Theo như kế hoạch đặt ra và đề tài nghiên cứu Thực tiễn về Viện kiểm sát
nhân dân tham gia tố tụng dân sự theo quy trình thủ tục sơ thẩm tôi đã hiểu rõ được
một hồ sơ vụ án gồm những văn bản rất phức tạp từ khởi kiện đến kết thúc một vụ
án.
Tuần thứ nhất: Công việc tuần đầu khá phức tập vì lần đầu giải quyết chưa
được đúng đắn và em sẽ lấy một số thông tin cụ thể về những nhiệm vụ được giao
một số như sau

Công việc bắt buộc là xếp hồ sơ, photo bộ hồ sơ về án hôn nhân và vụ án
tranh chấp về tài sản. Nghiên cứu án của Nguyễn Thị Thảo về hợp đồng vay tài sản
và làm đề xuất giải quyết.
Sắp xếp hồ sơ vụ án ly hôn của Trần Thị Thu Thủy và làm báo cáo đề xuất
quan điểm hưỡng giải quyết.

* Đề xuất giải quyết vụ án Hôn nhân và gia đình đầu tiền gồm các thông tin
như sau: Thông tin về kiểm sát viên giải quyết được phân công về vụ án “Xin ly
hôn và con chung” thụ lý số 1011/2018/TLST-HNGĐ ngày 10/12/2018;
Nội dung vụ việc cụ thể: Nguyên đơn chị Trần Thị Thu Thủy trình bày
Tôi và Anh Nguyễn Minh Hiếu tự nguyện tim hiểu và yêu thương nhau và
có đăng ký kết hôn vào ngày 07/07/2007 tại ủy ban nhân dân xã hòa thắng,
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Daklak. Trong quá trình chung sống vợ chồng
hạnh phúc được thời gian đầu đến năm 2014 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẩn.
Nguyên nhân là do tính cách không hợp nhau và bất đồng quan điểm sống. Từ
năm 2014 cho đến nay chúng tôi đã sống ly thân. Nay xét thấy tình cảm vợ
chồng không còn nữa tôi có nguyện vọng yêu cầu tòa án giải quyết cho tôi được
ly hôn với ông Nguyễn Minh Hiếu. Về con chung, chúng tôi có 01 con chung là
cháu Nguyễn Thị Minh Nguyệt sinh ngày 24/8/2010. Chị Thủy có nguyện vọng
trực tiếp nuôi con đến trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con: không yêu cầu tòa
giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu tòa giải quyết.
Bị đơn Nguyễn Minh Hiếu đã được Tòa án niêm yết triệu tập nhiều lần
nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.
- Nhận xét và đề xuất: (Bản thân đã tự đề xuất từ nội dụng vụ án trên)

25


×