I. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết để hạn chế tai nạn thương tích, đảm bảo an toàn tính
mạng cho trẻ ở cơ sở giáo dục mầm non, học sinh, sinh viên và cán bộ công chức
ngành giáo dục và đào tạo, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu: Các cơ sở
giáo dục tăng cường công tác phòng, chống tai nạn thương tích để thực hiện nghiêm
túc, có hiệu quả “Chính sách quốc gia phòng, chống tai nạn thương tích”[1]
Tuy nhiên, nhìn vào thực tế số tai nạn thương tích trẻ em đang gia tăng,
chúng tôi nhận thấy, một phần rất lớn những ca tai nạn thương tích đau lòng của
trẻ thường bắt nguồn từ sự bất cẩn và kém hiểu biết của người lớn và kỹ năng
sống của trẻ còn non nớt
Kỹ năng sống là khả năng điều chỉnh và lựa chọn hành vi đúng đắn, có khả
năng điều chỉnh nhu cầu của bản thân một cách hợp lý và ứng phó kịp thời trước
những thách thức trong cuộc sống.
Giáo dục kỹ năng sống là trang bị những kiến thức thái độ hành động giúp
cho trẻ hình thành được kỹ năng sống cần thiết phù hợp với môi trường sống
.đặc biệt là cần trang bị cho trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân [2]
Tai nạn thương tích luôn rình rập quanh ta nhất là đối với trẻ nhỏ. Vì vậy,
là giáo viên mầm non cần tìm hiểu và trang bị cho bản thân những kiến thức
chính xác và cách phòng tránh tai nạn thương tích để có những biện pháp phòng
tránh một cách có hiệu quả. Giáo dục trẻ biết cách phòng tránh tai nạn thương
tích là một việc làm rất quan trọng nhưng không dễ dàng. Bản thân tôi là một
giáo viên trẻ nên rất muốn chung tay cùng nhà trường phòng tránh tai nạn
thương tích, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ, điểu đó đã thôi thúc tôi nghiên
cứu và tìm ra “Một số biện pháp phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ nhà
trẻ 18 - 24 tháng tuổi”
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối tính mạng của trẻ
trong trường mầm non và tìm ra nhiều biện pháp phòng tránh tai nạn thương
tích, đảm bảo an toàn cho trẻ mọi lúc, mọi nơi.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là “Một số biện pháp phòng tránh tai nạn thương tích
cho trẻ nhà trẻ 18-24 tháng tuổi”
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp điều tra thực trạng
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
1. Cơ sơ lý luận của SKKN
Việc đảm bảo an toàn tính mạng cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu trong tất cả các cơ sở giáo dục mầm non. Vì vậy, đòi hỏi người giáo viên
cần xây dựng kế hoạch hoạt động phù hợp với quá trình phát triển tâm sinh lý
trẻ, đặc biệt là khả năng nhận thức của trẻ.
Trẻ nhà trẻ còn rất non yếu, sức đề kháng kém, tư duy của trẻ chủ yếu là tư
duy trực quan hình tượng. Khả năng ghi nhớ của trẻ không bền vững nên người
1
giáo viên cần dạy trẻ mọi lúc, mọi nơi và nội dung dạy đó cần được lặp đi, lặp
lại nhiều lần.
Giáo dục trẻ biết cách phòng tránh tai nạn thương tích là một việc làm rất
quan trọng nhưng không dễ dàng. Trước hết giáo viên cần trang bị cho bản thân
những hiểu biết chính xác về tai nạn thương tích. Và khi đã có những hiểu biết
rõ ràng thì giáo viên cần tích hợp, lồng ghép một cách hợp lý vào tất cả các hoạt
động một cách hợp lý.[3]
Tai nạn thương tích luôn rình rập quanh ta, nó có thể xảy ra ở mọi lúc, mọi
nơi, mọi lứa tuổi nhưng tập trung nhiều ở lứa tuổi mầm non. Vì ở độ tuổi này cơ
thể trẻ còn non yếu, sở thích của trẻ là hay tò mò, hiếu động nên việc phòng
tránh tai nạn thương tích cho trẻ trong trường mầm non nếu được thực hiện
thường xuyên và bắt đầu ngay từ lứa tuổi nhà trẻ sẽ tạo được nề nếp, thói quen
và kỹ năng phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ ngay từ khi chập chững bước
vào đời.
Thực tế hàng ngày trẻ được tiếp xúc, được tham gia rất nhiều các hoạt động
trong trường, ở mọi nơi như trong lớp, ngoài sân trường. Hay nói một cách khác
là nhu cầu hàng ngày của trẻ là học tập và vui chơi ở mọi nơi. Nhưng trẻ chỉ biết
rằng mình thích chơi theo cách của mình, điều này rất nguy hại bởi trẻ chưa hiểu
về những yếu tố tác động bên ngoài có thể gây nguy hiểm đến bạn thân. Chính
vì vậy, một trong những nhiệm vụ của trường mầm non là trang bị cho trẻ những
hiểu biết về “tai nạn thương tích cũng như cách phòng tránh tai nạn thương
tích”. Để trẻ tiếp thu được những kiến thức đó, giáo viên cần nắm bắt được tình
hình cũng như những đặc điểm của môi trường xung quanh trẻ. Như vậy việc
tuyên truyền phòng tránh tai nạn thương tích mới đạt hiệu quả như mong đợi.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
Là một trong những trường còn rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất nhưng
những năm vừa qua trường MN Quảng Yên luôn thực hiện tốt công tác thi đua dạy
tốt học tốt, chất lượng giáo dục không ngừng được nâng cao. Và đặc biệt công tác
đảm bảo an toàn cho trẻ luôn được nhà trường chú trọng đặt lên hàng đầu.
Để thực hiện được mục tiêu đó đầu năm tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng
của lớp mình và nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn sau:
2.1. Thuận lợi
Trong quá trình công tác không chỉ riêng năm học 2017-2018 bản thân tôi
được nhà trường giao phụ trách lớp nhà trẻ mà tôi cũng đã từng chủ nhiệm độ
tuổi này nhiều năm liền nên tôi cũng nắm vững về tâm sinh lý và nhu cầu phát
triển toàn diện của trẻ.
Hơn nữa, là một giáo viên trẻ đã được đào tạo chuẩn, có lòng yêu nghề mến
trẻ, tận tình trong công việc và lại là người địa phương nên tôi gặp rất nhiều
thuận lợi trong công tác. Bản thân tôi luôn mong muốn đảm bảo an toàn tuyệt
đối cho trẻ mọi lúc mọi nơi cả về thể xác lẫn tinh thần.
Năm học 2017-2018 lớp tôi được Ban giám hiệu nhà trường giao nhiệm vụ
thực hiện điểm về một nội dung trong đề án “Trường học gắn với thực tiễn và
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ - Nội dung giáo dục kỹ năng tự lập”. Do đó, nhà
trường luôn tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất, tinh thần. Hàng năm Ban giám
2
hiệu nhà trường đã tổ chức lớp tập huấn và cử giáo viên đi học các lớp về phòng
tránh tai nạn thương tích cho trẻ.
Ngoài tài liệu chuyên môn nhà trường còn trang bị đầy đủ tài liệu về cách
phòng tránh tai nạn thương tích cho giáo viên.
Lớp tôi có sĩ số là 16 học sinh trong đó số lượng trẻ nam và nữ cân đối với
nhau, tạo điều kiện thuận lợi khi tổ chức các hoạt động.
2.2. Khó khăn
Quảng Yên là một xã thuần nông nên nhận thức của các bậc phụ huynh về
vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục cách phòng tránh tai nạn thương tích đối với
trẻ còn hạn chế.
- 50% phụ huynh chưa có thời gian quan tâm, chú ý cũng như các kiến
thức cơ bản về an toàn cho trẻ, các biện pháp phòng tránh tai nạn thương tích
cho trẻ. [4]
- 30% phụ huynh làm công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp nên thời gian
làm việc còn phụ thuộc, làm ca nên ít có thời gian quan tâm đến con.[4]
- 20% phụ huynh là cán bộ công nhân viên nhà nước, tuy có kiến thức về
phòng tránh tai nạn thương tích nhưng mất nhiều thời gian cho công việc.[4]
- Trẻ nhà trẻ cón quá nhỏ nên ý thức tự bảo vệ mình còn hạn chế.
Nắm bắt được tình hình thực tế trên tôi biết rằng kiến thức về phòng tránh
tai nạn thương tích cho trẻ ở lớp nhà trẻ là rất khó để phụ huynh nắm bắt và cho
trẻ ghi nhớ khi ở nhà. Xong có những bố mẹ do bận công việc nên ít có thời gian
trò chuyện với con về việc tự bảo vệ mình và cách nhận biết những nguy hiểm
xung quanh mình… Đây cũng là một hạn chế trong việc giúp trẻ phòng tránh tai
nạn thương tích tại gia đình.
3. Các giải pháp thực hiện
Qua những buổi tập huấn do trường, do Phòng giáo dục tổ chức và những
quy định của sở giáo dục, nội quy của nhà trường. Đồng thời, dựa vào kinh
nghiệm của bản thân cũng như hiện trạng cơ sở vật chất, môi trường học tập, tôi
đã đúc kết được một số kinh nghiệm, biện pháp để đảm bảo an toàn cho trẻ như
sau:
3.1. Biện pháp 1: Chấp hành nghiêm túc nội quy, quy định của ngành học
về việc sử dụng đồ dùng, đồ chơi.
Một trong những khái niệm về đồ chơi thì đồ chơi là một trong những đồ
dùng không thể thiếu đối với trẻ nhỏ, đồ chơi cần cho trẻ được ví như cơm ăn
nước uống hàng ngày của trẻ. Nếu trong một ngày ở lớp trẻ hoạt động mà không
có đồ chơi thì coi như hoạt động đó không thành công qua đó nói nên tầm quan
trọng của đồ chơi là rất cần thiết cho trẻ. Và thời gian trẻ được tiếp xúc với đồ
chơi trong một ngày là rất nhiều, chính vì vậy phải thường xuyên loại bỏ những
đồ chơi gây nguy hiểm cho trẻ.
Theo nội quy của nhà trường, giáo viên phải thường xuyên vệ sinh đồ
dùng, đồ chơi hàng ngày, hàng tuần để đảm bảo vệ sinh và loại bỏ những đồ
chơi gây nguy hiểm cho trẻ.
Những đồ chơi đã bị hư hỏng trở nên sắc nhọn rất nguy hiểm. Cơ thể trẻ
còn rất non yếu, làn da mỏng manh của trẻ rất dễ bị trầy xước. Vì thế, khi chơi
3
dễ gây ra nguy hiểm cho trẻ như đứt tay, xước da. Ngoài ra, vật sắc nhọn còn
làm nguy hiểm đến mắt cũng như chảy máu cơ thể trẻ.
Những đồ chơi nhỏ như xâu hột hạt, hoa ở góc hoạt động với đồ vật rất
nhỏ khi trẻ chơi cô cần chú ý quan sát tránh để trẻ đưa vào miệng. Khi chơi xong
cô cần cất dọn cẩn thận không để trẻ tự ý lấy chơi.
Đồng thời tôi luôn cố gắng sáng tạo ra những loại đồ chơi mới phù hợp
với lứa tuổi mà vẫn đảm bảo tính khoa học của hoạt động. Ở góc hoạt động với
đồ vật ngoài những đồ vật sẵn có như hột hạt, hoa, tôi sáng tạo thêm một số đồ
chơi theo chủ đề: Khâu quần áo, cài khuy… bằng nhiều chất liệu khác nhau như
xốp, vải, thảm đục lỗ cho trẻ xâu.
Hoạt động chơi tự do tại góc chơi của trẻ
Với những đồ chơi hiện nay đa phần là đồ chơi xuất xứ từ Trung Quốc, với
nhiều chất liệu nhựa độc hại như chì, các chất gây rối loạn nội tiết, gây ung thư
và một số là loại nhựa giòn dễ vỡ gây nguy hiểm cho trẻ. Chính vì vậy, khi chọn
lựa đồ chơi cho trẻ giáo viên cần lưu ý chọn cho trẻ đồ chơi có xuất xứ rõ ràng,
các thông số về kỹ thuật cũng như chất liệu tạo thành được nhà sản xuất ghi đầy
đủ, rõ ràng trên bao bì sản phẩm đảm bảo an toàn cho trẻ khi chơi.[5]
Song song với việc loại bỏ đồ dùng, đồ chơi nguy hiểm thì giáo viên phải
luôn cẩn trọng với đồ dùng của cô như: dao, kéo, thước kẻ, súng bắn nến…khi
dùng xong phải cất gọn đúng nơi quy định, cất cao khỏi tầm tay với của trẻ.
4
Báo ngay với BGH nếu trong lớp có đồ dùng, đồ chơi bị hỏng để thay đồ
dùng đồ chơi mới ngay đảm bảo an toàn và có đồ chơi cho trẻ kịp thời.
Việc thường xuyên loại bỏ đồ dùng, đồ chơi gây nguy hiểm là việc làm
hàng ngày, dễ làm và đơn giản giúp phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ rất
hiệu quả ở lứa tuổi nhà trẻ. Chính nhờ việc thường xuyên loại bỏ đồ dùng đồ
chơi nguy hiểm mà giờ đây trẻ lớp tôi luôn được đảm bảo an toàn. Lớp tôi
không có trường hợp nào bị tai nạn do bị hóc sặc, trầy xước do đồ chơi hư hỏng
hay đồ chơi nhỏ.
3.2. Biện pháp 2: Xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học an toàn
Trường mầm non Quảng Yên được xây dựng khu hai tầng rất khang trang,
tuy nhiên khi thiết kế thi công các kỹ sư chưa lường trước được những nguy
hiểm có thể xảy ra đối với trẻ. Bản thân là người giáo viên mầm non ngày ngày
tiếp xúc với trẻ tôi đã nhận thấy một số bất cập về cơ sở vật chất vì thế tôi đã
mạnh dạn đề xuất ý kiến với ban giám hiệu, được sự nhất trí của ban giám hiệu
và sự ủng hộ của phụ huynh. Nhà trường đã có những biện pháp sửa chữa, nâng
cấp một số khu vực có thể gây nguy hiểm cho trẻ.
Tất cả các lan can được xây cao 120cm quá tầm đầu trẻ, các nan hoa trang
trí được thiết kế bằng các thanh dọc không rộng quá 15cm, bỏ hết các thanh
ngang có thể làm bàn đạp cho trẻ leo trèo, một số đoạn lan can được xây kín.
Hiên đằng sau lớp học được sự đóng góp tham gia xã hội hóa giáo dục của phụ
huynh nhà trường đã có kinh phí để làm khung sắt đảm bảo an toàn cho trẻ. Mà
vẫn đảm bảo không gian thông thoáng, ánh sáng đầy đủ cho trẻ.
Sàn nhà vệ sinh khi xây dựng còn nhiều vũng nước đọng gây nguy hiểm
cho trẻ, được nhà trường lưu tâm chú ý, nâng cấp lại sàn vệ sinh, xử lý các vũng
nước đọng. Giờ đây, sàn nhà vệ sinh luôn róc nước, khô thoáng.
Hơn thế, tôi đã tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường trang bị cho mỗi
phòng vệ sinh một thảm nhựa chống trơn để đảm bảo cho trẻ không bị trượt ngã
do trơn khi vào vệ sinh và có giá để đồ ở trên cao tránh tầm với của trẻ.
Khu vực nhà bếp được xây dựng cách xa khu vực giảng dạy để tránh ảnh
hưởng của khí ga cũng như tiếng ồn ảnh hưởng tới trẻ nếu trẻ hít phải khí độc từ
các nguồn gây ô nhiễm không khí ( như hơi than tổ ong, khí ga …) rất dễ bị ngộ
độc không khí.
Khu vực bể nước ở trường tôi tuy được xây cách xa khu sân chơi và lớp
học nhưng do đã xây dựng lâu năm nên nền sân đôi khi bị bong tróc, trơn trượt.
Do đó, tôi cùng các chị em thường xuyên làm vệ sinh cọ rửa nền sân mỗi khi đi
rửa bát. Đồng thời, bể nước luôn được đậy lắp, khóa vòi cẩn thận.
5
Hoạt động vệ sinh trước khi ăn
Từ những điều kiện cơ sở vật chất ban đầu còn nhiều khó khăn, Ban giám
hiệu nhà trường đề xuất ý kiến lên cấp trên để nâng cấp, cải tạo, kết hợp cùng
giáo viên và phụ huynh nâng cấp và sửa chữa kịp thời một số hạng mục hư hỏng
nhỏ để nhà trường có khung cảnh sư phạm đẹp và đảm bảo an toàn cho trẻ. Thực
tế chứng minh, bằng cách thực hiện tốt biện pháp xây dựng trường học an toàn
lớp tôi không có trẻ nào xảy ra tai nạn thương tích nói riêng và toàn trường nói
chung.
3.2. Sưu tầm các bài thơ ngắn mang nội dung phòng tránh tai nạn
thương tích dạy cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.
Đối với trẻ em, thơ là một kho tàng kiến thức vô cùng phong phú. Nhiều khi
chúng ta không thể giải thích mọi việc bằng những câu nói khô cứng, khó hiểu, vì
như vậy, trẻ rất khó tiếp thu. Nhưng khi những kiến thức ấy được đưa vào những
câu nói có vần, có điệu thì trẻ sẽ vừa dễ tiếp thu, vừa dễ nhớ hơn. Chính vì vậy,
tôi đã sưu tầm các bài thơ mang nội dung giáo dục phòng tránh tai nạn thương
tích cho trẻ để dạy lồng ghép ở mọi lúc, mọi nơi. Do đó, những nội dung vốn rất
khô cứng nay đã trở nên nhẹ nhàng hơn.Ví dụ một số bài thơ như sau:
Xuống cầu thang[6]
Này các bạn nhỏ
Nhớ đừng đùa nhau
Khi xuống cầu thang
Đừng lấy tay vịn
Bé lưu ý nhé
Làm cầu trượt chơi
Bước xuống cẩn thận
Nhỡ mà bị rơi
Thì nguy hiểm lắm!
6
Hình ảnh cô lồng ghép đọc thơ “ Xuống cầu thang” khi dẫn trẻ đi chơi
Đừng chơi gần bếp[6]
Cái bếp là nơi nấu ăn
Bé ơi đừng có loanh quanh lại gần
Bếp ga, tủ lạnh, quạt trần
Nồi cơm, chảo điện rất gần tầm tay
Lại còn cả phích nước đầy
Không may ngã phải là gây bỏng liền
An toàn là việc đầu tiên
Bé ơi phải nhớ, tránh liền bếp thôi!
Đi dép lê[6]
Đi dép lê
Không được chạy
Kẻo vấp ngã
Gãy trẹo chân
Rách áo quần
Tay lấm bẩn
Nhắc bé[6]
Cái mũi để thở
Cái miệng để ăn
Nghe được rõ rành
Là tai bé đấy
Không dùng que, gậy
Hột hạt đồ chơi
7
Đi cẩn thận
Cho vào mọi nơi
Bước nhẹ nhàng
Mắt, tai, mũi, miệng
Chớ vội vàng
Nhỡ gặp nguy hiểm
Các bạn nhé!
Thì biết làm sao?
3.4. Giáo viên luôn giám sát trẻ mọi lúc, mọi nơi và thường xuyên dạy
trẻ một số kỹ năng sống cần thiết.
- Giáo viên không nên để bé chơi một mình dù chỉ trong tích tắc. Trẻ lứa
tuổi nhà trẻ phải luôn luôn được sự chăm sóc, trông coi của người có trách
nhiệm. Cô giáo phải thường xuyên theo dõi, bao quát cháu mọi lúc mọi nơi.[7]
- Luôn luôn để mắt đến trẻ mọi lúc, mọi nơi vì ở tuổi mầm non trẻ hiếu
động và luôn muốn khám phá mọi đồ vật xung quanh bằng tất cả khả năng của
mình: Mắt nhìn, tay sờ và… ngậm vào miệng để nếm thử. Vì thế mà trẻ thường
mắc phải các tai nạn về đường hô hấp do hít và nuốt phải các dị vật.[7]
- Hàng ngày giáo viên nhận trẻ trực tiếp từ tay cha mẹ trẻ, đếm và kiểm tra
trẻ nhiều lần trong ngày, chú ý những lúc đưa trẻ ra ngoài nhóm trẻ để tham gia
các hoạt động ngoài trời hoặc thăm quan. Bàn giao số trẻ khi giao ca. Đóng cửa,
cổng trường khi không có người ra vào. Khi trò chuyện với trẻ cô tổ chức chơi
một số trò chơi như tập vông, tay xinh…( gợi ý xem trẻ có đồ gì trong túi thì bỏ
ra chơi cùng )để xem ai có gì trong túi quần áo không, từ đó cô có thể loại bỏ
những đồ chơi nhỏ mà trẻ nhặt được hoặc mang từ nhà đến.[7]
Hình ảnh chơi tự do của trẻ
8
* Hoạt động học: Thường ít gây ra tai nạn nhưng ảnh hưởng tới sự phát
triển của trẻ. Trẻ có thể đùa nghịch chọc bút vào mặt nhau ( chọc vào mắt nhau).
Nhất là với các hoạt động sử dụng đất nặn cần chú ý không đẻ trẻ nghịch đất nặn
nhét vào tai, mũi của nhau rất nguy hiểm.
+ Không sử dụng các loại chai, lọ đựng thuốc, đựng màu độc hại làm đồ
chơi cho trẻ.
+ Giáo viên luôn lồng ghép, tích hợp giáo dục về an toàn cho trẻ trong mọi
chủ đề, lồng ghép nội dung phòng tránh tai nạn thương tích vào chương trình
giáo dục.
VD: CĐ Mẹ và những người thân yêu của bé: lồng ghép các câu hỏi:
“những đồ dùng nào trong gia đình có thể gây nguy hiểm trẻ không được đến
gần”( các đồ dùng sử dụng điện, phích đựng nước nóng, dao, kéo…)[8]
CĐ Bé đi khắp nơi bằng phương tiện giao thông nào: biển báo giao thông
đơn giản, đèn tín hiệu, khi tham gia giao thông các bé cũng phải nhớ đội mũ bảo
hiểm….[8]
CĐ Đồ dùng, đồ chơi trong lớp bé: khi chơi đồ chơi phải như thế nào, nếu
đưa vào miệng sẽ bị làm sao…[8]
CĐ Cây và những bông hoa đẹp: Giáo dục trẻ không được leo trèo lên cành
cây sẽ bị ngã rất nguy hiểm.[8]
- Cho trẻ làm quen với những biển cấm, biển báo nguy hiểm, cảnh báo
những đồ vật gây nguy hiểm và những nơi nguy hiểm trẻ không được đến gần.
* Hoạt động ăn: Vào giờ ăn trẻ rất hiếu động háu ăn vì thế khi thức ăn
mang từ nhà bếp lên còn đang còn nóng cô cần để nguội bớt rồi mới chia về bàn
cho trẻ.
+ Kiểm tra thức ăn trước khi cho trẻ ăn, uống. Tránh cho trẻ ăn thức ăn,
nước uống còn quá nóng.
+ Không ép trẻ ăn, uống khi trẻ đang khóc, trẻ vừa ăn, vừa cười đùa hoặc
khi trẻ đang khóc mà cô cố ép trẻ ăn, uống đều rất dễ gây sặc cho trẻ. Vì thế cô
phải để trẻ ăn trong tâm trạng thật thoải mái, không cố ép trẻ
+ Khi ăn cần cho trẻ ăn ở tư thế ngồi, nhắc trẻ ăn từ từ, nhai kỹ. Giáo dục
trẻ khi ăn không được vừa ăn, vừa đùa nghịch, nói chuyện dễ bị xặc, nghẹn.
+ Dị vật đường ăn thường gặp là hóc xương, nghẹn nên tôi đã trao đổi phối hợp
với tổ nuôi, chế biến những món ăn mềm, xay nhỏ, phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ.[7]
* Hoạt đông ngủ: Khi trẻ chuẩn bị lên giường giáo viên chú ý xem trẻ còn
ngậm thức ăn trong miệng không, kiểm tra tay, túi quần áo xem có vật nhỏ lạ,
các loại hạt, kẹo cứng, đồ chơi trên người trẻ tránh trường hợp khi ngủ trẻ trêu
ghẹo nhét vào miệng, mũi, tai. Để dị vật rơi vào đường thở gây ngạt thở.
+ Phòng ngủ phải được thông thoáng tránh trường hợp khi trẻ ngủ trẻ hít
phải khí độc từ các nguồn gây ô nhiễm không rất dễ bị ngộ độc.
+ Giáo viên luôn bao quát trẻ không để trẻ ngủ lâu trong tư thế nắm sấp
xuống đệm, úp mặt xuống gối sẽ thiếu dưỡng khí gây ngạt thở[7]
9
Hình ảnh chuẩn bị trước khi ngủ của trẻ
* Giờ chơi tự do trong lớp: Khi chơi trong lớp, trẻ có thể gặp các tai nạn
như dị vật mũi, tai do trẻ tự nhét đồ chơi ( hạt cườm, con xúc sắc, các loại hạt
quả, đất nặn…) vào mũi, tai mình hoặc nhét vào tai bạn, mũi bạn. Trẻ hay ngậm
hoặc chọc đồ chơi vào mồm gây rách niêm mạc miệng, hít vào gây dị vật đường
thở, nuốt vào gây dị vật đường ăn.Vì vậy cô không cho trẻ cầm các đồ chơi quá
nhỏ, tránh trường hợp trẻ cho vào miệng mũi.
+ Trẻ chơi tự do trong nhóm, giáo viên không cho trẻ chạy, xô đẩy nhau
tránh va vào thành bàn, cạnh ghế, mép tủ…có thể gây chấn thương [7]
+ Không nên để trẻ một mình vào nơi chứa nước kể cả xô chậu nước, khi
dùng xong giáo viên cần đổ hết nước, úp xô, chậu, đảm bảo các xô, thùng không
chứa nước trong nhà vệ sinh. Giám sát khi trẻ đi vệ sinh, không để trẻ vào nhà
vệ sinh một mình, không để trẻ chơi gần khu vực có chứa nguồn nước.[7]
* Hoạt động chơi tập buổi chiều: Với nội dung chơi tập buổi chiều tôi
thường tổ chức các trò chơi cho trẻ có thể trong lớp hoặc ngoài sân trường nên
việc theo dõi trẻ sát xao là rất cần thiết để tránh tai nạn xảy ra với trẻ.
Ngoài ra, để trang bị thêm một số kiến thức, kỹ năng phòng tránh tai nạn
thương tích cho trẻ thì thỉnh thoảng vào các buổi chiều tôi thường mở phim hoạt
hình ngắn mang nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ xem và trẻ rất là thích.
Từ đó trẻ sẽ có thêm kinh nghiệm cho bản thân mình.
Như vậy, bằng việc thường xuyên giám sát trẻ và dạy trẻ một số kỹ năng
sống cần thiết tôi đã loại bỏ được hết những tai nạn có thể xảy ra. Đồng thời trẻ
lớp tôi đã nhận biết được một số nguy cơ gây nguy hiểm cho bản thân và biết
cách phòng tránh.
10
3.5. Tự học tập, bồi dưỡng nâng cao kiến thức về phòng tránh tai nạn
thương tích cho trẻ.
Giáo viên mầm non là người trực tiếp chăm sóc trẻ khi ở lớp, vì vậy bồi
dưỡng kiến thức về phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ là rất quan trọng.
Ngoài việc tham gia đầy đủ vào các buổi tập huấn do nhà trường và phòng giáo
dục tổ chức giáo viên còn cần nghiên cứu sách báo và hoàn thiện nội dung,
chương trình giáo dục nội khoá và ngoại khoá về phòng, chống tai nạn, thương
tích cho phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi và tình hình thực tế ở địa
phương. Tổ chức và tham gia các cuộc thi tìm hiểu về cách phòng tránh tai nạn
thương tích cho trẻ. Thực hiện nghiêm túc và có chất lượng về nội dung giáo
dục phòng, tránh tai nạn, thương tích đã được Bộ quy định tại chương trình các
môn học. Cần chú trọng việc trang bị kiến thức và hình thành kỹ năng phòng,
chống tai nạn thương tích cho trẻ.
Giáo viên cũng phải tham gia các lớp tập huấn về Y tế để nâng cao kiến
thức vế cách sơ cứu kịp thời nếu trẻ không may gặp tai nạn. Giáo viên phải được
tập huấn kiến thức và kĩ năng về phòng và xử trí ban đầu một số tai nạn thường
gặp như xặc, bỏng, gãy xương… Hằng năm, nhà trường cần phối hợp với y tế
địa phương tập huấn, nhắc lại cho giáo viên về nội dung này.[7]
Khi trẻ bị tai nạn phải bình tĩnh xử trí sơ cứu ban đầu tại chỗ, đồng thời báo
cho cha mẹ và y tế nơi gần nhất để cấp cứu kịp thời cho trẻ.
Tham mưu với ban giám hiệu đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị
phòng, tránh tai nạn, thương tích ( băng, nẹp cứu thương…) củng cố và phát
triển phòng Y tế để đáp ứng được nhiệm vụ phòng, tránh tai nạn, thương tích;
phát hiện và xử lý kịp thời khi có tai nạn thương tích xảy ra trong nhà trường.
Từ những buổi tập huấn rất hữu ích và những tài liệu mà nhà trường cung
cấp bản thân tôi đã tự nâng cao được kiến thức về phòng tránh tai nạn thương
tích và biết cách xử lý kịp thời các tai nạn không may xảy đến với trẻ.
3.6. Nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ trong lớp
học, bản thân tôi luôn chú trọng đến công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Bởi khi
trẻ có cơ thể khoẻ mạnh thì việc đi lại của trẻ sẽ vững chãi hơn tránh việc trẻ hay
bị vấp ngã. Ngoài ra, khi trẻ có sức khoẻ đảm bảo trẻ sẽ tiếp thu những kiến thức
cô dạy một cách tốt hơn, từ đó trẻ sẽ có một số kinh nghiệm để tự bảo vệ bản
thân trước những nguy cơ không an toàn. Ví dụ: khi đi cầu thang cần vịn tay vào
thành, không xô đẩy nhau sẽ bị ngã…
Để làm được điều này, hàng tháng tôi tổ chức cân đo cho trẻ 1 lần và phối
hợp với trạm y tế khám sức khoẻ cho trẻ 1 năm 2 lần.
Ngoài ra, tôi luôn theo dõi xem trẻ đã uống vacxin đầy đủ hay chưa nhằm
nhắc nhở phụ huynh kịp thời và kết hợp với nhân viên y tế của trường cùng theo
dõi sức khoẻ của trẻ.
Bản thân tôi luôn tuân thủ nghiêm ngặt quy trình vệ sinh cho trẻ cũng như
chăm sóc trẻ trong quá trình trẻ ăn, ngủ tại trường. Và tôi thường xuyên lồng
ghép giáo dục trẻ biết cách tự rửa tay, rửa mặt, nhặt rác bỏ vào nơi quy định cho
môi trường sạch sẽ…
11
Hàng tháng tôi cùng chị em trong trường tích cực tham gia các phong trào
trồng rau sạch tại trường để trẻ được sử dụng nguồn rau an toàn.
3.6.Tuyên truyền và phối kết hợp với phụ huynh
Ngoài công tác tuyên truyền trên loa đài ,khẩu hiệu, tranh áp phích, tờ rơi…
về công tác phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ thì công tác tuyên truyền với
phụ huynh học sinh là một trong những biện pháp quan trọng . Cần nhắc nhở và
tuyên truyền cho phụ huynh thực hiện các biện pháp an toàn cho trẻ, để phòng
tránh những tai nạn cho trẻ có thể xảy ra tại gia đình, trên đường đến trường hoặc
đón trẻ từ trường về nhà. Tuyệt đối không đẻ trẻ nhỏ đi đón nhau.
Vì đa phần phụ huynh rất bận, nên giáo viên thường tranh thủ trao đổi vào
giờ đón trả trẻ về cách phòng tránh tai nạn thương tích tại nhà như khuyến khích
phụ huynh dán những cảnh báo nguy hiểm ở ổ điện , để những vật dụng gây
nguy hiểm lên cao, đúng nơi quy định nhất là các loại dao kéo, phích nước, các
loại thuốc…Thường xuyên loại bỏ những đồ chơi gây nguy hiểm ở nhà, kiểm tra
quần áo trước khi mặc cho trẻ tránh trường hợp có côn trùng bám vào khi phơi
lại mặc cho trẻ khiến trẻ ngứa ngáy khó chịu.
Giếng nước, bể nước phải xây cao thành và các dụng cụ chứa nước như
chum, vại… cần có nắp đậy chắc chắn hoặc khóa cẩn thận. Không bao giờ được
để trẻ một mình ở dưới nước hoặc gần nơi nguy hiểm. Nếu gia đình nào có điều
kiện nên dạy trẻ tập bơi sớm để phòng tránh đuối nước.
Nhắc phụ huynh cẩn thận khi cho trẻ ăn các loại quả có hạt, các loại thạch,
kẹo cứng…Điều quan trọng nhất là phải luôn giám sát trẻ để chắc chắn rằng con
mình luôn được đảm bảo an toàn tuyệt đối.
Tuy nhiên để việc cung cấp kiến thức được hiệu quả, dễ nhớ nên tôi làm tờ
thông báo về một số cách phòng tránh tai nạn thương tích đơn giản ở góc tuyên
truyền. Ở đó dán những hình ảnh đẹp, dễ bắt mắt nên được phụ huynh lưu tâm
đọc hằng ngày.
Công tác tuyên truyền phòng tránh tai nạn thương tích với phụ huynh là
việc vừa dễ lại vừa khó, dễ vì đây là công việc hàng ngày của giáo viên, khó ở
đây là giáo viên phải có những lời nói thuyết phục, biết chọn lọc những nội
dung tuyên truyền thiết thực, thu hút được phụ huynh để phụ huynh dễ hiểu
và dễ thực hiện.
Biện pháp tuyên truyền kết hợp với phụ huynh tại lớp giúp giáo viên và
phụ huynh hiểu nhau hơn, từ đó giúp giáo viên thuận lợi trong việc giáo dục trẻ
tránh những nơi nguy hiểm, không an toàn với trẻ. Và cũng yên tâm hơn trong
công tác phòng tránh tai nạn tại nhà vì phụ huynh đã có kiến thức về cách phòng
tránh tai nạn và họ biết điều gì mình nên làm… Giáo viên phối hợp với phụ
huynh là việc làm rất cần thiết tạo cho trẻ một môi trường an toàn về sức khỏe,
tâm lí và thân thể.
4. Kết quả đạt được sau khi áp dụng SKKN thực tiễn tại lớp
Sau một năm thực hiện những biện pháp phòng tránh tai nạn thương tích,
tôi luôn đảm bảo một môi trường học tập và vui chơi an toàn cho trẻ.
- Trong lớp không có các đồ dùng đồ chơi gây nguy hiểm.
- Môi trường trong và ngoài lớp luôn đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ.
12
- Giáo viên đã nắm vững được nội dung, biện pháp và cách phòng tránh tai
nạn thương tích cho trẻ nhà trẻ 18- 24 tháng nói riêng và học sinh toàn trường
nói chung.[9]
- 100% trẻ lớp tôi nói riêng và học sinh toàn trường không gặp phải những
tai nạn thương tích đáng tiếc.[9]
- 70% số lượng trẻ nhà trẻ có một số kỹ năng cơ bản về cách phòng tránh
tai nạn cho bản thân như không bỏ các loại hột hạt vào miệng, không xô đẩy
nhau…….[9]
- Phụ huynh đã có kiến thức về cách phòng tránh tai nạn thương tích và rất
tích cực trong việc phối hợp cùng giáo viên nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho
trẻ mọi lúc mọi nơi.
-Từ những suy nghĩ đơn giản của phụ huynh về tai nạn thương tích đối với trẻ,
sau khi trò truyện, trao đổi cùng cùng giáo viên đã có những việc làm cụ thể và
hiểu biết sâu sắc hơn về tầm quan trọng của việc phòng tránh tai nạn thương tích
cho trẻ. Phụ huynh có ý thức hơn trong công tác phòng tránh tai nạn thương tích
cho con em mình, đã ủng hộ kinh phí xã hội hóa cùng nhà trường tổ chức lát gạch
sân trường, sửa chữa phần gạch bong tróc ở các phòng học, sàn vệ sinh và sửa chữa
một số đồ dùng đồ chơi, tạo điều kiện cho cô và trẻ trong mọi hoạt động.
III. Kết luận, kiến nghị và đề xuất
1. Kết luận
Đảm bảo an toàn cho trẻ là việc làm rất cần thiết và vô cùng quan trọng
hàng ngày đối với tất cả mọi người. Bản thân là một giáo viên mầm non, là
người mẹ hiền thứ 2 của trẻ, vì thế tôi luôn tìm tòi tạo ra một môi trường vui
chơi và học tập tập đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ. Qua việc thực hiện áp
dụng các biện pháp trên tôi thấy trẻ được vui chơi thỏa thích, thỏa mãi nhu cầu
tìm hiểu thế giới xung quanh của trẻ mà trong thế giới đó không có sự nguy
hiểm với trẻ. Những nguy hiểm mà trong khả năng của trẻ có thể phòng tránh
được qua những bài dạy của cô mà trẻ đúc kết được.
Từ những công văn của Phòng, Sở giáo dục và nội quy của nhà trường về
triển khai các biện pháp phòng tránh tai nạn thương tích trong trường học nhằm
mục đích giúp mọi người biết cách phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ, tránh
được những điều đáng tiếc xảy ra, đảm bảo an toàn về con người và tài sản.
Biện pháp phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ là một hoạt động tổng
hợp đòi hỏi gia đình và nhà trường, giáo viên và phụ huynh cùng tham gia.
Những chủ nhân tương lai cần được giáo dục tốt để hình thành những thói quen,
kỹ năng tự bảo vệc chính mình. Đây là tránh nhiệm và lương tâm, phấn đấu cho
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một xã hội trật tự, kỷ cương,
văn minh và hiện đại.
Từ những biện pháp đã áp dụng trong suốt thời gian thực hiện đề tài tôi đã
rút ra nhiều bài học bổ ích: Bản thân cô giáo phải yêu nghề, mến trẻ luôn tìm tòi
tạo ra môi trường thật tốt quanh trẻ: từ những đồ dùng, đồ chơi đến bữa ăn giấc
ngủ luôn là an toàn với trẻ, tạo được niềm tin nơi phụ huynh rằng họ đang có
người đồng hành trên con đường xây đắp hạnh phúc và tương lai phồn thịnh cho
thế hệ măng non chủ nhân của đất nước .
13
2. Kiến nghị và đề xuất
Nhìn lại quãng thời gian thực hiện đề tài: “Một số biện pháp phòng tránh
tai nạn thương tích cho trẻ 18-24 tháng tuổi” tôi mạnh dạn đề xuất và kiến
nghị một số vấn đề sau:
Đề nghị BGH nhà trường tham mưu với các cấp lãnh đạo nâng cấp cải tạo
về cơ sở vật chất, xây thêm một số phòng chức năng như phòng năng khiếu,
phòng thể chất để trẻ được rèn luyện thể chất trong môi trường rộng rãi, an toàn
hơn. Xây khu nhà vòm chống nắng để không gian hoạt động ngoài trời cho trẻ
rộng hơn.
Đề nghị Phòng Giáo dục tổ chức nhiều khóa học, và các lớp tập huấn về Y
tế cho giáo viên để giáo viên có thêm nhiều kiến thức sâu rộng về cách phòng
tránh tai nạn thương tích cho trẻ.
Trên đây là những sáng kiến kinh nghiệm tôi đã áp dụng trong suốt năm
học vừa qua, rất mong sự đóng góp của các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp
góp ý để đề tài “Một số biện pháp phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ
nhà trẻ 18 - 24 tháng tuổi ” được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Thanh Hóa, ngày 18 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT SKKN
Hoàng Thị Hường
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Công văn 5675/BGDĐT năm 2017 về tăng cường phòng chống tai nạn
thương tích cho trẻ
[2] Moodun 39 giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ,mẫu giáo
[3] Báo giáo dục và thời đại số 278 năm 2017
[4] Báo cáo tổng kết cuối năm 2017 của UBND xã Quảng Yên
[5] Tiêu chí đánh giá nhà trẻ
[6] Mạng Internet
[7] Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non 2014 .NXB giáo dục 2017
[8] Kế hoạch thực hiện theo chủ đề.NXB giáo dục 2017
[9]Báo cáo khảo sát trẻ lần 2 năm 2018(Trường MN Quảng Yên)
15
MỤC LỤC
Trang
I. Mở đầu..............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.........................................................................................1
3. Đối tượng nghiên cứu........................................................................................1
4.Phương pháp nghiên cứu....................................................................................1
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm...................................................................1
1. Cơ sơ lý luận của SKKN...................................................................................1
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN.....................................................2
2.1. Thuận lợi........................................................................................................2
2.2. Khó khăn........................................................................................................3
3. Các giải pháp thực hiện.....................................................................................3
3.1. Biện pháp 1:Thường xuyên loại bỏ đồ dùng, đồ chơi gây nguy hiểm...........3
3.2. Biện pháp 2: Xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học an toàn..............5
3.2. Sưu tầm các bài thơ ngắn mang nội dung phòng chống tai nạn thương tích
dạy cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.(2).........................................................................6
3.4. Giáo viên luôn giám sát trẻ mọi lúc, mọi nơi.................................................8
3.5. Tự học tập, bồi dưỡng nâng cao kiến thức về phòng tránh tai nạn thương
tích cho trẻ...........................................................................................................10
3.6.Tuyên truyền và phối kết hợp với phụ huynh................................................11
4. Kết quả đạt được sau khi áp dụng SKKN thực tiễn tại lớp.............................12
III. Kết luận, kiến nghị và đề xuất...................................................................13
1. Kết luận...........................................................................................................13
2. Kiến nghị và đề xuất........................................................................................13
16