Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn tả cảnh ở trường tiểu học trí nang lang chánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.25 KB, 18 trang )

I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Nếu coi hệ thống giáo dục quốc dân là một ngôi nhà thì bậc học Tiểu học
chính là nền móng của ngôi nhà ấy. Ngôi nhà chung có vững chắc được hay không
tùy thuộc vào nền móng của nó. Đúng vậy, bậc học Tiểu học có một vị trí đặc biệt
quan trọng, đây là bậc học giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự
phát triển một cách toàn diện về đức, trí, thể, mĩ. Trong sự góp phần hình thành
nhân cách của học sinh Tiểu học phải kể đến vai trò của môn Tiếng Việt. Môn học
này giúp các em có những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ
giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa và văn học của Việt Nam, nước
ngoài; bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của Tiếng Việt góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Môn Tiếng Việt gồm các phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và
câu, Chính tả, Tập làm văn. Tất cả các phân môn này đều nhằm giúp học sinh rèn
luyện bốn kỹ năng: nghe, đọc, nói, viết. Trong phân môn Tập làm văn thể loại văn
miêu tả làm cho tâm hồn và trí tuệ người đọc thêm phong phú, giúp cho học sinh có
thể cảm nhận văn học và đời sống hằng ngày một cách tinh tế, sâu sắc hơn.
Vì thế văn miêu tả chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình
Tập làm văn bậc Tiểu học. Thế nhưng để có một bài văn miêu tả hay thì không phải
dễ nhất là đối với học sinh dân tộc thiểu số như địa bàn nơi tôi công tác. Nhà văn
Phạm Hổ đã viết: “Miêu tả một em bé hoặc một chú mèo, một cái cây, một dòng
sông mà ai cũng miêu tả giống nhau thì không ai thích đọc. Vì vậy, ngay trong quan
sát để miêu tả, người viết phải tìm ra cái mới, cái riêng”[2]. Song với vốn từ còn
nghèo nàn, khả năng quan sát còn nhiều hạn chế thì làm văn miêu tả đối với học
sinh lớp 5 ở trường Tiểu học Trí Nang quả là điều khó khăn.
Chương trình tập làm văn lớp 5 gồm các nội dung: miêu tả; các loại văn bản;
ôn tập về kể chuyện, miêu tả. Trong đó khó nhất đối với học sinh là miêu tả. Qua
một thời gian giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh có thể làm tốt các kiểu bài ở thể
loại văn miêu tả như: tả đồ vật, tả con vật, tả người; nhưng khi làm văn tả cảnh thì
học sinh còn nhiều lúng túng; câu văn thường ngắn ngủn, què quặt, thiếu bộ phận,
thiếu hình ảnh; diễn đạt chưa trôi chảy, thiếu cảm xúc. Các bài viết thường rơi vào


tình trạng liệt kê, kể mà không tả, khô cứng. Do vậy, khi dạy kiểu bài này đòi hỏi
giáo viên phải có nhiều sáng tạo cũng như sự nhạy bén, linh hoạt trong quá trình
lên lớp, chuẩn bị thật công phu các tình huống có thể gặp ở học sinh. Chính vì vậy
nên tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài
văn tả cảnh ở trường Tiểu học Trí Nang, huyện Lang Chánh” với mong muốn
trước hết là giúp nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn cho lớp tôi phụ trách.
Sau đó, mục tiêu quan trọng hơn là góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn
Tiếng Việt lớp 5 ở trường Tiểu học.
1


1.2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu đề tài này nhằm khắc phục những khó khăn mà giáo
viên, học sinh mắc phải, nhằm nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Tập làm
văn nói riêng, góp phần nâng cao hiệu quả môn Tiếng Việt nói chung. Đồng thời
giúp học sinh - giáo viên có hứng thú, chờ đón giờ Tập làm văn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn tả cảnh ở trường
Tiểu học Trí Nang, huyện Lang Chánh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này tôi đã áp dụng một số phương pháp sau:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu tài liệu để tìm hiểu cơ sở
lý thuyết liên quan đến đề tài nghiên cứu. Thành tựu lý thuyết đã đạt được liên
quan đến đề tài nghiên cứu. Chủ trương và chính sách liên quan đến nội dung
nghiên cứu. Số liệu thống kê.
+ Phương pháp điều tra nghiên cứu học sinh: Phương pháp này được sử
dụng để tìm hiểu, nắm bắt những khó khăn, hạn chế mà học còn mắc phải trong
quá trình học tập đối với nội dung nghiên cứu của đề tài.
+ Phương pháp thực nghiệm, trắc nghiệm: Sử dụng phương pháp này
nhằm thu thập, đánh giá hiệu quả của các biện pháp đã đưa ra trong đề tài

nghiên cứu.

2


II. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận:
Mục tiêu dạy Tập làm văn ở Tiểu học hiện nay là: "Hình thành và phát
triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) cung cấp
những kiến thức cơ bản để học sinh biết cách sử dụng tiếng Việt làm công cụ tư
duy, giao tiếp và học tập, tạo điều kiện cho học sinh độc lập về suy nghĩ, chủ
động, sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự học, tạo hứng thú học tập cho học
sinh"[13].
Phân môn Tập làm văn là một phân môn khó đối với học sinh bởi nó yêu
cầu học sinh phải biết tổng hợp kiến thức, kỹ năng của các phân môn khác để
viết thành một văn bản hoàn chỉnh với bố cục, lời lẽ, từ ngữ rõ ràng, mạch lạc.
Nếu như ở các lớp 1, 2, 3 các em học Tập làm văn thông qua việc trả lời các câu
hỏi hoặc viết thành đoạn văn thì lên lớp 4, 5 yêu cầu cao hơn là viết thành một
bài văn hoàn chỉnh với bố cục rõ ràng. Song đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu
học là dễ nhớ nhưng mau quên, sự tập trung chú ý chưa cao, trí nhớ chưa bền
vững thích học nhưng chóng chán. Tư duy của các em mang đậm nét cụ thể, trực
quan, khả năng phân tích tổng hợp kém, vốn từ ngữ còn hạn chế nên phần lớn
học sinh còn lúng túng, vụng về, gặp nhiều khó khăn khi làm văn miêu tả nói
chung và tả cảnh nói riêng. Số học sinh làm được một bài văn miêu tả hay và có
sáng tạo chưa nhiều.
“Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người,
của vật để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy”[1].
Văn miêu tả giúp người đọc hình dung một cách cụ thể hình ảnh của sự vật
thông qua những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc thể hiện cảm xúc
thẩm mỹ của người viết. Văn miêu tả mang tính thông báo thẩm mỹ, chứa đựng

tình cảm của người viết, sinh động và tạo ngôn ngữ miêu tả giàu hình ảnh.
Ở lớp 5, các loại bài Tập làm văn đều gắn với các chủ điểm, văn miêu tả
cũng nằm trong cấu trúc đó. Quá trình thực hiện các kỹ năng phân tích đề, quan
sát, tìm ý, viết đoạn là những cơ hội để huy động vốn từ, phong phú hoá vốn từ,
tích cực hoá vốn từ để vẽ lại được cảnh vật, con vật, đồ vật,… đồng thời giúp trẻ
hiểu biết được về cuộc sống theo các chủ điểm đã học. Việc phân tích đề, phân
tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn văn miêu tả góp phần phát triển khả năng phân
tích, tổng hợp, phân loại của học sinh. Tư duy hình tượng của trẻ cũng được rèn
luyện nhờ vận dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, ... khi miêu tả.
Ngôn ngữ trong văn miêu tả cần chính xác, cụ thể, giàu hình ảnh và có nét
riêng biệt. Chính vì thể để có bài văn hay đòi hỏi người viết phải có hiểu biết về
phương pháp làm văn, phải biết dùng từ ngữ, biết vận dụng linh hoạt các biện
pháp nghệ thuật tu từ được học.
Theo chương trình sách giáo khoa lớp 5, văn miêu tả chiếm tới 65% thời
lượng toàn bộ chương trình Tập làm văn bao gồm các kiểu bài: tả cảnh, tả
người, tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật trong đó thể loại văn Tả cảnh chiếm thời
lượng 18 tiết. Như vậy, việc rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh là một
việc làm quan trọng và cần thiết. Điều đó tạo tiền đề vững chắc để học sinh làm
được những bài văn hay, câu văn súc tích, giàu hình ảnh, diễn đạt rõ ý, cảm xúc
chân thật, sinh động và sáng tạo. Để tạo điều kiện cho học sinh có những cơ sở
3


học tốt tất cả các kiểu bài văn miêu tả đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới
phương pháp dạy học: Lấy học sinh làm trung tâm, còn thầy chỉ là người tổ chức
hướng dẫn, trò tự khám phá và lĩnh hội tri thức. Có như vậy thì mới nâng cao
được hiệu quả và chất lượng giảng dạy.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
2.2.1. Thực trạng dạy học dạng văn tả cảnh ở lớp 5 trường Tiểu học
Trí Nang:

Năm học 2017-2018, Trường Tiểu học Trí Nang có 15 lớp với tổng số cán
bộ giáo viên đứng lớp là 15 đồng chí. Để phát huy hết năng lực học tập của học
sinh với mục tiêu phát triển chất lượng giáo dục đại trà, nâng cao chất lượng mũi
nhọn, nhà trường đã phân công tôi giảng dạy và chủ nhiệm lớp 5A.
Qua thực tế giảng dạy ở lớp 5A, tôi thấy có một số thuận lợi như: Các bậc
phụ huynh đã quan tâm đến việc học tập của con em mình hơn trước. Các em
học sinh đều đọc thông, viết thạo có khả năng viết được một bài văn tả đồ vật
hay cây cối. Bên cạnh những thuận lợi đã nêu tôi thấy cũng có không ít khó
khăn khi học sinh học văn tả cảnh. Đó là: kỹ năng làm bài Tập làm văn tả cảnh
của học sinh còn rất yếu. Đa số các em chưa hoàn thành được bài văn trong thời
gian yêu cầu. Bài viết không có bố cục, sắp xếp ý lộn xộn, không theo một trình
tự nhất định, viết lan man, dài dòng, chưa biết miêu tả vào trọng tâm... Một số
em làm văn theo kiểu “bắt chước” từ các bài văn mẫu, chắp nối từng đoạn hay
sao chép cả bài (Ví dụ: em Hà Ngọc Anh khi tả một ngày mới bắt đầu ở quê em
đã viết theo văn mẫu nên đã tả “Thành phố đang thay đổi màu sắc trong bước
chuyển huyền ảo của rạng đông”). Do đó học sinh làm văn miêu tả, thường có
những biểu hiện phổ biến như sau:
- Vay mượn ý của người khác, thường là của bài văn mẫu. Nói cách khác
học sinh thường học thuộc bài văn mẫu để chép vào bài của mình. Với cách học
ấy các em không cần quan sát, không có cảm xúc gì về đối tượng được tả.
- Miêu tả hời hợt, chung chung không có sắc thái riêng biệt nào của đối
tượng được tả,...Vì thế bài làm ấy gán cho đối tượng miêu tả nào cùng loại cũng
được. Một bài miêu tả như vậy đọc lên thấy mờ nhạt. Nguyên nhân chủ yếu là
các em không biết cách quan sát hoặc các em không biết cách hồi tưởng lại kinh
nghiệm sống của mình.
- Học sinh chưa biết bộc lộ cảm xúc và sử dụng các biện pháp nghệ thuật
khi tả cảnh khiến bài viết thiếu hình ảnh, khô khan,… Học sinh chưa có hứng
thú viết văn đặc biệt là văn miêu tả.
- Học sinh không có thói quen sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa
khi viết văn.

- Học sinh chưa có ý thức quan sát đối tượng miêu tả và ghi chép những
điều quan sát được một cách cụ thể và chi tiết chính vì vậy mà các em còn lơ mơ
về đối tượng miêu tả nên tả còn nhiều chi tiết khập khiễng, lủng củng không gắn
kết với nhau.
- Bài viết của học sinh còn nghèo nàn về nội dung, chưa sinh động, chưa
để lại ấn tượng.
* Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên do một số yếu tố sau:
4


- Vốn từ của các em còn hạn chế, khả năng tư duy ngôn ngữ còn yếu nên
chưa phân tích rõ ràng và chắc chắn yêu cầu của bài từ đó chưa xác định đúng
và đủ những nội dung cần trình bày trong bài nói.
- Các mối quan hệ trong giao tiếp của các em còn ít, nhiều em không có
điều kiện tiếp xúc nhiều với cuộc sống bên ngoài nên các em còn nhút nhát,
thiếu tự tin vì vậy khi nói chưa thể hiện được sắc thái tình cảm, chưa mạnh dạn,
tự nhiên khi nói.
- Học sinh tiểu học vốn sống, vốn kiến thức và những rung cảm trước cái
đẹp còn hạn chế nên chưa thổi được vào cảnh cái hồn để cảnh miêu tả trở nên
sinh động, ấn tượng.
- Do ảnh hưởng rất lớn của môi trường sống (gia đình chưa chú trọng đến
văn hoá ứng xử, thực tại xã hội phức tạp), sự tác động không nhỏ của sách báo,
phim ảnh (truyện tranh, phim chưởng) làm cho ngôn ngữ của các em mất đi sự
hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng.
Phân môn Tập làm văn là một phân môn khó vì thế trong quá trình giảng
dạy giáo viên còn lúng túng. Nhiều giáo viên chưa đào sâu suy nghĩ nghiên cứu
bài dạy nên việc hướng dẫn cho học sinh chưa sâu sắc. Giáo viên mới chỉ hướng
dẫn học sinh làm bài theo từng tiết trong sách giáo khoa chứ chưa cho học sinh
thấy được mối quan hệ giữa các bài, chưa giúp học sinh gắn kết kiến thức của
các tiết để viết thành một bài văn hoàn chỉnh. Mặt khác giáo viên chưa biết vận

dụng thời gian luyện tiếng Việt ở buổi 2 để hướng dẫn và luyện cho các em kỹ
năng làm bài.
Ở các buổi luyện giáo viên thường ra một đề bài rồi yêu cầu học sinh viết
dựa vào những kiến thức mà các em tiếp thu được ở các tiết chính khoá dẫn đến
nhiều học sinh viết một cách lơ mơ do không tổng hợp được các kiến thức đã
học.
2.2.2. Kết quả khảo sát đầu năm:
Sau khi nắm được thực trạng dạy và học kiểu bài tả cảnh ở lớp 5, tôi đã tiến
hành khảo sát ở lớp 5A để kiểm tra khả năng làm bài văn tả cảnh của các em.
Đề bài: Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây
(hay trên cánh đồng, nương rẫy).
Sau khi kiểm tra, tôi đã chấm bài và thu được kết quả như sau:
Số HS được
kiểm tra
14

Hoàn thành tốt
SL
0

TL
0%

Hoàn thành
SL
8

TL
57,1%


Chưa hoàn thành
SL
6

TL
42,9%

Qua khảo sát tôi thấy khả năng làm bài văn của các em còn nhiều hạn chế.
Số học sinh làm bài văn được đánh giá hoàn thành tốt không có, mặc dù vẫn biết
rằng để làm được bài văn được đánh giá hoàn thành tốt là rất khó. Số học sinh
chưa hoàn thành cũng còn nhiều. Với các em hoàn thành tuy các em đã nắm
được yêu cầu và nội dung của đề bài, bố cục rõ ràng, cũng đã biết lồng cảm xúc
khi miêu tả nhưng các em chưa biết miêu tả những đặc điểm nổi bật của cảnh
đó, còn miêu tả chung chung, chưa biết sử dụng một số biện pháp nghệ thuật so
5


sánh, nhân hoá,... dẫn đến bài văn miêu tả chưa sinh động. Nhiều em mới làm
được bài văn với đủ 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài. Bài văn mang tính kể lể,
liệt kê chứ chưa biết miêu tả đặc điểm nổi bật của cảnh đó. Ví dụ: Khi miêu tả
cảnh buổi sáng trong một vườn cây các em đã kể các loại cây trong vườn, các
loại chim đến hót ở vườn mà chưa lột tả được vẻ đẹp của cây vào buổi sáng,
chưa làm nổi bật cái hay vẻ sinh động của vườn cây khi có tiếng chim hót. Còn
các bài văn chưa hoàn thành thì chưa có bố cục rõ ràng, sắp xếp ý lộn xộn, diễn
đạt dài dòng,... Đặc biệt một số em mới chỉ viết dưới dạng đoạn văn 7 đến 9 câu.
Kết quả này cũng cho thấy một phần nào đó sự quan tâm của giáo viên
trong việc rèn luyện kỹ năng làm bài văn và mở rộng kiến thức cho học sinh còn
hạn chế.
Với kết quả làm bài của học sinh, qua tìm hiểu tôi thấy nguyên nhân dẫn
đến kết quả bài văn của học sinh chưa đạt yêu cầu đó là:

- Học sinh chưa nắm được cấu tạo của bài văn miêu tả dẫn đến bài làm
chưa rõ ba phần: mở bài, thân bài, kết bài. Cũng do chưa nắm được cấu tạo của
bài văn miêu tả cây cối mà học sinh sắp xếp ý còn lộn xộn chưa tả theo một trình
tự hợp lý.
- Cách diễn đạt của các em còn vụng về. Cách dùng từ chưa chính xác và
chưa phù hợp. Chủ yếu là các em mới biết liệt kê chứ chưa biết tả các đặc điểm
nổi bật của cảnh đó.
- Các tiết Tập làm văn chính khoá giáo viên đã dạy các em viết từng phần,
miêu tả treo trình tự (không gian, thời gian) nhưng nhiều em chưa biết tổng hợp
để viết thành bài văn hoàn chỉnh dẫn đến bài viết chưa đạt yêu cầu.
- Khi miêu tả chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật để làm cho bài
văn sinh động, giàu hình ảnh.
Từ thực trạng trên tôi thấy cần phải hướng dẫn cho học sinh kỹ năng làm
bài văn tả cảnh để học sinh làm tốt dạng văn này.
2.3. Các biện pháp tổ chức thực hiện:
Biện pháp 1: Giúp học sinh nắm vững phương pháp làm văn miêu tả
nói chung và tả cảnh nói riêng.
Việc giúp học sinh nắm vững phương pháp làm văn miêu tả nói chung và
tả cảnh nói riêng giúp học sinh có con đường đi đến bài văn đúng hướng, không
bị sai lệch về cả nội dung và hình thức.
Khi làm văn miêu tả, giáo viên cần giúp học sinh nắm được 4 yêu cầu sau:
- Cụ thể hóa sự vật (tả cái gì?)
Ví dụ: Tả dòng sông thì tập trung tả dòng sông, không miên man tả sâu
cảnh xóm làng nằm bên cạnh dòng sông, hay cảnh trời mây vào thời điểm đó
cho dù các sự vật đó cũng có liên quan.
- Cá thể hóa sự vật (tả như thế nào?): Tả cảnh nào thì người đọc hình
dung cảnh đó chứ không bị lẫn lộn với cảnh khác.
Ví dụ: Tả cảnh dòng sông thì phải tả chủ yếu những yếu tố liên quan không
thể tách rời như: cây cối hai bên bờ sông, hoạt động của con người trên sông, ...
- Mục đích hóa sự vật (tả với mục đích gì ?)

Ví dụ: Tả dòng sông với mục đích đó là tả lại một cảnh đẹp rất đáng tự
hào của người dân quê hương, ích lợi mà dòng sông mang lại….
6


- Cảm xúc hóa sự vật (tả với tư tưởng, tình cảm, thái độ ra sao?)
Ví dụ: Tả dòng sông với niềm tự hào, với sự ngưỡng mộ về một vẻ đẹp nên thơ...
Biện pháp 2: Giáo viên cần rèn luyện cho học sinh kĩ năng tìm hiểu đề
văn miêu tả.
Ở Tiểu học, học sinh được học Tập làm văn miêu tả theo những đề bài cho
trước với những yêu cầu nhất định. Tìm hiểu đề là kĩ năng đầu tiên mà học sinh
phải tiến hành trong quá trình làm bài. Ở đây giáo viên cần giúp học sinh biết
cách xác định yêu cầu của đề, tránh được sự lúng túng trong quá trình triển khai
bài viết, dẫn đến viết xa đề, lạc đề.
Việc rèn luyện tốt kĩ năng tìm hiểu đề văn miêu tả cho học sinh sẽ có ảnh
hưởng đến kết quả của các kĩ năng tiếp theo. Để giúp học sinh thực sự thuần
thục kĩ năng tìm hiểu đề văn miêu tả, cần chú ý hướng dẫn các em một số thao
tác sau đây khi tìm hiểu đề:
- Đọc kĩ đề bài, bước đầu nhận thức sơ bộ về nội dung, yêu cầu miêu tả.
- Gạch chân những từ ngữ quan trọng trong đề bài.
- Trả lời các câu hỏi để xác định yêu cầu của đề như: Đề bài yêu cầu viết
theo kiểu bài văn miêu tả nào? Đối tượng miêu tả của bài viết là gì? Mục đích
viết bài văn miêu tả để làm gì? Bài viết sẽ tập trung miêu tả những đặc điểm chủ
yếu nào của đối tượng? Vì sao lại tập trung tả những đối tượng đó? Bài viết
hướng tới người đọc là ai? Từ ngữ xưng hô xẽ được sử dụng trong bài viết là gì?
Cần lưu ý điểm gì khi sử dụng ngôn ngữ trong bài văn miêu tả?
Ví dụ: Đề bài Tập làm văn ở tuần 4 lớp 5:
“ Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay
trên cánh đồng, nương rẫy).
Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp học

sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội
dung bài viết:
Với đề bài trên học sinh cần phân tích và trả lời được các câu hỏi: Đề thuộc
thể loại gì? Đề yêu cầu tả gì?
Sau khi trả lời đúng các câu hỏi trên, học sinh thực hành gạch chân trực
tiếp trên đề bài:
Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trên
cánh đồng, nương rẫy).
Tìm hiểu kĩ đề văn miêu tả bằng việc thực hiện các thao tác trên trong
quá trình tìm hiểu đề sẽ giúp học sinh có hiểu biết đầy đủ về đề văn miêu tả, từ
đó có hứng thú hơn khi viết bài văn và phát huy cao nhất khả năng sáng tạo
trong bài văn.
Biện pháp 3: Giáo viên cần củng cố và xây dựng cho học sinh một dàn
bài chung về bài văn tả cảnh để học sinh có thể dựa vào đó khi làm văn để bài
văn có bố cục rõ ràng, miêu tả theo một trình tự hợp lý.
Tả cảnh bao giờ cũng có con người, con vật. Hoạt động của con người,
chim muông sẽ làm cho cảnh vật thêm đẹp và sinh động hơn. Để có một bài văn
miêu tả hay, chân thực, các em phải biết quan sát, cảm nhận sự vật bằng nhiều
giác quan: xúc giác, thính giác, thị giác và đôi khi cả sự liên tưởng. Muốn làm
tốt, viết trôi chảy mạch lạc học sinh cần nắm vững cấu tạo của bài văn tả cảnh,
7


vì vậy ở các tiết luyện Tiếng Việt, giáo viên cần hướng dẫn để học sinh xây dựng
được dàn bài của bài văn tả cảnh. Nắm được dàn bài của bài văn tả cảnh học
sinh sẽ có điểm tựa để quan sát theo trình tự hợp lý, viết được bài văn mà không
lúng túng, nhất là đối với học sinh chưa hoàn thành môn học. Vì vậy tôi đã
hướng dẫn học sinh lập được một dàn bài chung có bố cục như sau:
Mở bài: Giới thiệu bao quát cảnh sẽ tả.
- Em tả cảnh gì, ở đâu? Em nhìn thấy cảnh vào dịp nào? Vào thời gian nào?

Thân bài: Tả những nét nổi bật của cảnh vật.
a, Tả bao quát toàn cảnh: Tả những nét chung
b, Tả chi tiết:
- Tả sự thay đổi của cảnh theo thời gian hoặc tả từng bộ phận của cảnh:
+ Từ xa đến gần hoặc từ gần đến xa.
+ Từ cao xuống thấp hoặc từ thấp lên cao.
+ Tả hoạt động của người hoặc động vật có liên quan đến cảnh.
Kết bài: Nêu cảm xúc và suy nghĩ của em về cảnh đã tả.
Dựa vào bố cục này học sinh sẽ làm được bài văn với đầy đủ ba phần (mở
bài, thân bài, kết bài) và sắp xếp các ý theo một trình tự hợp lý.
Chú ý: Khi lập dàn ý cần cân đối câu từ. Câu không quá dài hay quá ngắn, mỗi
câu cần làm nổi rõ một trọng tâm của bài. Các ý cần chặt chẽ, logíc với nhau...
Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh quan sát.
Muốn quan sát có hiệu quả, quan sát phải có tính mục đích, người quan
sát phải có cách nghĩ, cách cảm của riêng mình. Quan sát để làm văn nhằm phản
ánh một đối tượng cụ thể, vừa chi tiết, vừa có tính khái quát. Qua chi tiết, người
đọc phải thấy được bản chất của sự việc. Vì vậy quan sát phải có lựa chọn. Nếu
yêu cầu các chi tiết cụ thể nhưng đó không phải là những chi tiết rời rạc, tản
mạn, mang tính chất liệt kê. Chi tiết không cần nhiều mà phải chọn lọc, lựa chọn
những điểm riêng biệt, nổi bật, gây ấn tượng,… Đó là những chi tiết lột tả được
cái thần của cảnh. Khi quan sát, cần sử dụng đồng thời nhiều giác quan và điều
quan trọng là phải quan sát bằng tấm lòng. Mục đích quan sát sẽ quy định đối
tượng và phương pháp quan sát. Để tả cảnh, cần xác định vị trí quan sát. thời
điểm quan sát, trình tự và nội dung quan sát. Quan sát phải luôn gắn với việc tìm
ý và tìm từ ngữ để diễn tả. Để giúp quan sát và tìm ý, với mỗi đề bài cần có một
hệ thống câu hỏi gợi ý nội dung quan sát và các ý cần xác lập. Nếu học sinh
không thực hiện tốt bước quan sát và tìm ý thì học sinh sẽ không có chất liệu để
làm văn từ đó học sinh sẽ không có hứng thú làm bài hoặc sao chép bài văn
từ những bài văn mẫu. Tuy nhiên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách ghi
chép tỉ mỉ những điều mình quan sát tạo thành một cuốn cẩm nang để khi miêu

tả học sinh có sẵn tư liệu để làm bài. Vì vậy, khi dạy văn miêu tả, giáo viên cần
chú ý hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả theo các trình tự hợp lý :
a. Tả theo trình tự không gian:
- Miêu tả theo trình tự không gian: Là từ quan sát toàn bộ (cái chung) đến
quan sát từng bộ phận (cái riêng) hoặc ngược lại. Tả từ xa đến gần, từ trên
xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ trái sang phải,... hoặc ngược lại. Ở lớp 4, lớp
5 trình tự này được vận dụng khi miêu tả loài vật, đồ vật, cảnh vật,...
Ví dụ 1:
8


Tả từ ngoài vào trong: “ Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa
Lĩnh. Trước đền, những khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm
nhiều màu sắc bay dập dờn như đang múa quạt xoè hoa. Trong đền dòng chữ
vàng Nam Quốc Sơn Hà uy nghiêm đề ở bức hoành phi treo chính giữa.”[3]
Ví dụ 2:
Tả từ dưới lên trên “ Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dễ gãy
hơn cành khế. Quả hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành”[6].
b. Tả theo trình tự thời gian:
- Miêu tả theo trình tự thời gian: Là cách quan sát sự vật, hiện tượng theo
diễn tiến của thời gian từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc, từ mùa này sang mùa
khác, từ tháng này sang tháng khác,...Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả
trước, cái gì xảy ra sau (có sau) thì miêu tả sau. Trình tự này thường được vận
dụng trong bài văn miêu tả cảnh vật, hiện tượng tự nhiên (tả cảnh) hay tả cảnh
sinh hoạt của con người.
Ví dụ 1:
“Phía bên sông, xóm Cồn Hến nấu cơm chiều, thả khói nghi ngút cả một
vùng tre trúc. Đâu đó, từ sau khúc quanh vắng lặng của dòng sông, tiếng lanh
canh của thuyền chài gỡ những mẻ cá cuối cùng truyền đi trên mặt nước, khiến
mặt sông nghe như rộng hơn. Và khi dãy đèn bên đường bắt đầu thắp lên những

quả tròn màu tím nhạt, chuyển dần sang màu xanh lá cây và cuối cùng nở bung
ra trong màu trắng soi rõ mặt người qua lại thì khoảnh khắc yên tĩnh của buổi
chiều cũng chấm dứt”.[2]
Ví dụ 2:
“Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào hương
thơm lại ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt thảo quả gieo
trên đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Một năm sau nữa, từ một
thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sôi sao mà mạnh mẽ vậy.” [2]
* Ngoài các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện
cho học sinh kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị
giác,...) để quan sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
Ví dụ :
Phân tích bài “Mưa rào” (Tiếng Việt 5- Tập 1- Trang 33) ta thấy tác giả đã
quan sát bằng các giác quan như sau:
- Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy mưa rơi.
- Xúc giác: Gió bỗng thấy mát lạnh, nhuốm hơi nước.
- Khứu giác: Biết được mùi nồng ngai ngái, xa lạ man mác của những trận
mưa đầu mùa.
- Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng hót
của chào mào.
Sau khi hướng dẫn học sinh quan sát, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
ghi lại những điều mình quan sát được theo một trình tự hợp lý. Tôi thường
hướng dẫn học sinh ghi lại những điều các em quan sát được theo dàn bài chung
của bài văn tả cảnh mà học sinh đã lập được.

9


Tóm lại, mỗi một người giáo viên cần phải hiểu rằng: Hướng dẫn học sinh
quan sát là một bước làm rất quan trọng trong tiết Tập làm văn miêu tả nói

chung và tả cảnh nói riêng.
Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh viết từng phần của bài văn.
* Hướng dẫn học sinh viết phần mở bài:
Mở bài cũng giống như lời chào, lời mời gọi người đọc đến với bài viết
của mình. Cũng như lời chào, lời mời gọi có thể viết rất giản dị, chân thành, tự
nhiên, ngắn gọn nhưng cũng có lúc cần dẫn dắt gợi mở khéo léo gây ấn tượng,
gây sự hấp dẫn cho người đọc. Mở bài là một phần trong bố cục của bài văn
miêu tả. Phần mở bài có nhiệm vụ giới thiệu nội dung sẽ nói đến yêu cầu của đề
bài, hướng vào đề văn, cần giới thiệu ngắn gọn, cụ thể về đối tượng được miêu
tả. Nếu một bài văn có phần mở bài hay sẽ gây ấn tượng rất lớn cho người đọc.
Có nhiều cách mở bài khác nhau tùy theo đối tượng và cảm hứng của mỗi
người. Sau đây là một số cách mở bài thường gặp:
a. Mở bài trực tiếp: Giới thiệu ngay cảnh định tả một cách cụ thể rõ ràng.
Với cách mở bài này giáo viên nên khuyến khích học sinh có khả năng học
Tiếng Việt ở mức hoàn thành vận dụng để viết.
Ví dụ 1:
Đề bài: Em hãy tả một con sông, một con suối hay một hồ nước ở quê em.
- Phần lớn các em đều giới thiệu ngay vào đối tượng miêu tả như: “Quê
em có một con suối rất đẹp”.
Ví dụ 2:
Đề bài: Tả con đường từ nhà đến trường.
Đa số các em đều giới thiệu ngay con đường mình tả: “Từ nhà em đến
trường có thể đi theo nhiều ngã đường. Nhưng con đường mà em thích đi hơn cả
là con đường đi tắt ngang qua cánh đồng”.
b. Mở bài theo kiểu gián tiếp: Là nói chuyện khác có liên quan rồi mới
tìm ra cái cớ để dẫn vào chuyện hay đối tượng định tả một cách sinh động và
hấp dẫn.
Với cách mở bài này giáo viên nên khuyến khích học sinh hoàn thành tốt
nội dung môn học vận dụng để viết bài, giúp các em nâng dần khả năng viết
văn, phát triển tâm hồn văn.

Ví dụ 1:
Đề bài: Em hãy tả một con sông, một con suối hay một hồ nước ở quê em.
Có em đã viết:
Tuổi thơ của em gắn liền với những cảnh đẹp của quê hương. Đó là những
thửa ruộng bậc thang hay những con đường quen thuộc in dấu chân quen, ...
nhưng gần gũi và thân thiết nhất vẫn là dòng sông nhỏ đầy ắp tiếng cười của bọn
trẻ chúng em mỗi buổi chiều hè.
Ví dụ 2:
Đề bài: Tả con đường từ nhà đến trường.
Em Lương Thị Khánh Ly lớp tôi đã viết:
10


Như vậy, cũng là giới thiệu dòng sông hay con đường từ nhà đến trường
nhưng mỗi người lại có một cách giới thiệu riêng. Với học sinh, sản phẩm này ít
nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách suy nghĩ, giới thiệu, diễn đạt. Tuy
nhiên chúng ta không nhất thiết phải gò bó học sinh làm mở bài theo một cách
nào, mà chỉ dẫn cho học sinh cách vào bài phải bám sát yêu cầu của đề, không
lan man, xa đề, không rườm rà nhưng cũng không thô kệch vô duyên.
c. Mở bài theo cách bộc lộ cảm xúc: Là nêu cảm xúc nổi bật; bộc lộ tình
cảm chân thành, yêu mến,... hoặc ngược lại của bản thân người viết về đối tượng
được miêu tả.
Cách mở bài này thực sự khó đối với học sinh ở lớp tôi phụ trách, tuy
nhiên các em được tham khảo và ít nhiều đã giúp các em có thêm cách viết mở
bài của bài văn miêu tả sinh động, hấp dẫn hơn.
Ví dụ :
Đề bài: Em hãy tả một con sông, một con suối hay một hồ nước ở quê em.
Em Hà Thị Nga viết:
Hay với đề bài "Tả con đường từ nhà đến trường" có em đã viết:
Đường ơi! Đường có nhận ra em không? Em là “ Bống con” đây mà.

Hôm nay, sau mấy tháng hè về thăm quê, em lại được đặt đôi bàn chân nhỏ lên
mặt đường mát rượi, thân thương.
Nhờ khuyến khích học sinh diễn đạt phần mở bài bằng những cách khác
nhau mà vẫn đảm bảo nội dung chính, các em đã viết được nhiều bài văn hay, có
tính nghệ thuật.
* Hướng dẫn học sinh viết phần thân bài:
Thân bài là phần chính của bài văn nên phần này gồm nhiều đoạn văn và
chứa đựng nhiều ý nghĩa quan trọng nhất. Phần thân bài tập trung miêu tả những
nét nổi bật, riêng biệt nhất của đối tượng. Các ý phải được sắp xếp theo trình tự
hợp lí để đối tượng được miêu tả hiện lên rõ nét, sinh động và biểu cảm.
Thân bài có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả
được viết theo từng phần, từng ý đã sắp xếp khi quan sát, khi chuẩn bị bài.
Trong đó, thể hiện được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện
pháp nghệ thuật mà người viết vận dụng để tả. Khi liên kết câu văn, đoạn văn
các em cần vận dụng các cách liên kết đã học ở Luyện từ và câu như: liên kết
bằng từ ngữ nối, thay thế từ ngữ,… Tuy nhiên khi sử dụng những cách liên kết
này các em cần lựa chọn từ tránh sử dụng không đúng gây rườm rà.
Trong phần thân bài những ý tưởng viết ra cần phải chân thật, đúng với
những điều mình thấy và cảm nhận được từ đối tượng. Điều quan trọng là các
em phải biết chọn lọc những chi tiết tiêu biểu, đặc sắc để đưa vào đó thì bài văn
mới nổi bật được trọng tâm, thoát khỏi bệnh khuôn sáo, máy móc. Tránh viết
một cách mông lung, dễ lạc đề.
Khi làm đề văn 'Tả một ngày mới bắt đầu ở quê em" học sinh Lê Thị
Diễm Quỳnh lớp tôi đã viết như sau:
Hay khi "Tả dòng sông" em Hà Ngọc Châm đã viết:
11


Lưu ý: Khi viết phần thân bài đa số các em học sinh rơi vào tình trạng liệt
kê các chi tiết của cảnh. Ví dụ: Lòng sông rộng, nước trong xanh. Hai bên bờ

sông là những hàng tre,... Vì vậy giáo viên cần giúp học sinh cách mở rộng câu
đúng thành câu hay, sử dụng các biện pháp nghệ thuật để học sinh vận dụng thì
bài văn sẽ hay hơn.
* Hướng dẫn học sinh viết phần kết bài:
Kết bài là nhiệm vụ khép lại nội dung miêu tả và phát biểu cảm nghĩ của
người viết. Tùy theo đối tượng được miêu tả, tùy theo nội dung đã triển khai, đã
viết trong phần thân bài mà phần kết bài có thể viết theo kiểu đánh giá lợi ích
của đối tượng được miêu tả hoặc theo kiểu phát biểu những suy nghĩ hay bộc lộ
những tình cảm của bản thân đối với đối tượng được miêu tả.
Khi hướng dẫn học sinh viết kết bài nên lưu ý học sinh cần viết ngắn gọn, nêu
cảm nghĩ sát đề một cách tự nhiên, cố gắng để lại ấn tượng trong lòng người đọc:
- Bám sát thể loại, kiểu bài văn để viết phần kết bài, trong văn miêu tả cần
phát biểu cảm nghĩ.
- Giọng văn chân thành, tự nhiên, có cảm xúc riêng của bản thân, tránh
cách kết bài sáo rỗng, gượng ép.
- Gắn phần thân bài với phần kết bài một cách chặt chẽ, không chuyển ý
một cách đột ngột, nên liên hệ, khái quát từ những ý chính và nội dung cơ bản
đã triển khai trong phần thân bài.
Có nhiều kiểu kết bài, nhưng thông thường ta hay sử dụng một số kết bài sau:
a. Kết bài không mở rộng: Cho biết kết cục, không bình luận thêm.
b. Kết bài mở rộng: Sau khi cho biết kết cục, có lời bình luận thêm, suy
rộng ra các vấn đề khác.
c. Kết bài theo kiểu phát biểu cảm nghĩ về đối tượng: Căn cứ vào yêu cầu
của đề bài và đối tượng được miêu tả để bộc lộ cảm xúc chân thành, lòng yêu
thương tha thiết, biết ơn, mến phục, hoặc ngược lại về đối tượng được miêu tả.
Ví dụ:Với đề bài Tả dòng sông quê em đa số học sinh đều viết: Em rất yêu
dòng sông quê em. Tôi gợi ý để học sinh nhận thấy kết luận như thế này còn khô
khan. Tôi yêu cầu các em suy nghĩ nêu kết luận khác hay hơn. Một học sinh đã
nêu: Em yêu dòng sông như yêu người mẹ hiền. Sau này dù thời gian có làm
phai mờ những kỉ niệm thời thơ ấu nhưng hình ảnh dòng sông quê hương mãi

mãi in sâu trong tâm trí em. Mặt khác, tôi gợi ý để các em nói về tình cảm của
mình đối với dòng sông nên có em đã kết bài như sau: Thế đấy! Dòng sông quê
em đẹp như thế đấy. Các bạn có thích không? Riêng em hình ảnh dòng sông sẽ
mãi mãi in sâu trong tâm trí em. Đối với em, sông là một người bạn dễ thương,
dịu dàng chứ không lộng lẫy kiêu sa. Sông luôn đem đến sự vui thích cho em.
Tối đến, hình ảnh “dòng sông bạc” lấp lánh dưới ánh trăng vỗ về, đưa em vào
giấc ngủ êm đềm. Từ việc được nhận xét, sửa chữa mà các em đã viết được
nhiều kết luận hay, bộc lộ được cảm xúc của mình.
Biện pháp 6: Làm giàu vốn từ cho học sinh thông qua các phân môn
khác trong môn Tiếng Việt và cách sử dụng từ ngữ trong văn miêu tả.
Đối với học sinh đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số như địa bàn Trí
Nang, vốn từ của các em còn nghèo nàn do đó khi làm bài văn miêu tả các em
12


thường “bí từ”, nội dung diễn đạt còn đơn giản, chưa có hình ảnh. Vậy nên, tôi
luôn hướng dẫn học sinh làm giàu vốn từ của mình qua các phân môn như: Tập
đọc, Luyện từ và câu, ... Từ đó, tạo cho học sinh thói quen quan sát, đánh giá,
nhìn nhận một sự vật, một cảnh vật hay một con người nào đó và thể hiện
những điều đã quan sát và đánh giá được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình,
kịp thời điều chỉnh những lỗi về dùng từ, viết câu, làm văn, ...
Để giúp học sinh có thêm vốn từ ngữ, tôi thường sử dụng một số biện
pháp sau:
a. Bài tập làm giàu vốn từ cho học sinh thông qua các phân môn của
môn Tiếng Việt:
- Phân môn Tập đọc giúp các em hiểu được nội dung của các đoạn văn,
khổ thơ có ý nghĩa miêu tả (cảnh vật, con người,...). Mỗi tiết dạy Tập đọc tôi
thường thêm một vài câu hỏi về thể loại, bố cục và trình tự miêu tả của tác giả
để học sinh thấm dần về Tập làm văn miêu tả.
- Phân môn Luyện từ và câu có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ nhiều

nhất khi dạy các tiết Mở rộng vốn từ. Trong các tiết này có các bài tập mở rộng
vốn từ rất cụ thể, thiết thực như tìm từ, ghép từ, phát hiện từ miêu tả, dùng từ
đặt câu, sắp xếp các từ thành nhóm miêu tả như nhóm từ ngữ miêu tả đặc điểm
cảnh vật, nhóm miêu tả hoạt động,...
Ví dụ 1: Tìm từ láy gợi tả âm thanh trên dòng sông (bì bọp, ì ọp, ì ầm, xôn xao, ...)
Ví dụ 2: Tìm những hình ảnh so sánh để so sánh với dòng sông: dòng
sông như dải lụa, dòng sông như con trăn khổng lồ, dòng sông như người mẹ
hiền ôm ấp đồng lúa chín vàng,...
b. Sử dụng từ ngữ trong văn miêu tả:
Sau khi học sinh đã có một vốn từ nhất định, giáo viên giúp học sinh các
cách sử dụng vốn từ trong miêu tả như: sử dụng từ láy, sử dụng tính từ tuyệt đối
(đỏ mọng, đặc sệt, trong suốt...), sử dụng các biện pháp nghệ thuật (so sánh,
nhân hoá,...) thông qua làm các bài tập như:
Ví dụ 1: Cho các từ “ríu rít, líu lo, liếp chiếp, rộn ràng, tấp nập, là là, từ từ,...”
Hãy chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau: “Tiếng
chim... báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Ông mặt trời... nhô lên sau luỹ tre xanh.
Khói bếp nhà ai... bay trong gió. Đàn gà con... gọi nhau,...theo chân mẹ. Đường
làng đã... người qua lại.”
Ví dụ 2: Hãy chọn từ ngữ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống để
được các câu văn có hình ảnh so sánh phù hợp nhất (tiếng chuông, chùm sao,
thuỷ tinh, dải lụa, lấp loáng, long lanh).
- Hoa xoan nở từng chùm trông giống như... ( những chùm sao )
- Nắng cứ như...xối xuống mặt đất.
( thuỷ tinh )
- Buổi sáng, dòng sông như một .... thướt tha (dải lụa)
- Trưa về, nắng đổ xuống làm mặt sông ... một màu nắng chói chang.(lấp loáng)
Lưu ý: Ở ví dụ 1 và ví dụ 2, cho số từ nhiều hơn số chỗ trống cần điền,
buộc học sinh phải suy nghĩ kĩ hơn khi chọn từ.
Biện pháp 7: Hướng dẫn học sinh diễn đạt câu văn sinh động, có hình ảnh.
Viết được một bài văn hay yêu cầu học sinh phải biết diễn đạt câu văn

sinh động, có hình ảnh, bài văn phải biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật. Để
13


giúp học sinh có vốn từ ngữ miêu tả phong phú, trong các tiết tập đọc tôi thường
hướng dẫn để học sinh thấy các từ ngữ miêu tả dùng trong bài, cách sử dụng từ
ngữ của tác giả để học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong cách miêu tả. Tôi
khuyến khích các em lập sổ tay văn học để ghi những từ ngữ miêu tả, những câu
văn hay để học tập. Tuy nhiên, ngôn ngữ miêu tả cần chân thực, chính xác, vì
vậy tôi hướng dẫn học sinh học tập chứ không sao chép, lựa chọn những từ ngữ
phù hợp để diễn đạt bài văn của mình. Mặt khác để học sinh diễn đạt được
những câu văn sinh động có hình ảnh, tôi hướng dẫn học sinh sử dụng ngôn ngữ
miêu tả như dùng động từ, tính từ, từ láy,... cần lưu ý học sinh dùng từ ngữ miêu
tả đúng sát, hợp lựa chọn từ ngữ khi miêu tả để làm cho câu văn có hồn.
Bên cạnh đó, tôi còn hướng dẫn học sinh sử dụng các biện pháp nghệ
thuật như so sánh, nhân hoá, điệp từ điệp ngữ,... Muốn sử dụng tốt các biện pháp
nghệ thuật, ở các tiết tập đọc tôi hướng dẫn học sinh phát hiện và phân tích tác
dụng của các biện pháp nghệ thuật đó. Tôi hướng dẫn các em khi miêu tả cần
liên tưởng để so sánh phù hợp làm cho sự vật miêu tả cụ thể hơn, dùng từ ngữ
chỉ người để nhân hoá sự vật làm cho sự vật được miêu tả sinh động.
Ví dụ: Khi tả dòng sông có em nêu: Dòng sông chạy ngoằn ngoèo. Tôi
gợi ý các em dùng biện pháp nghệ thuật so sánh để tả. Các em đã nêu được:
Dòng sông uốn khúc như một chú trăn xanh lớn cuồn cuộn đổ ra biển cả.
Với bài văn ‘Tả một ngày mới bắt đầu ở quê em” học sinh đã biết dùng
biện pháp nhân hoá đê miêu tả: “Ông mặt trời từ từ nhô lên từ phía sau dãy núi.
Ông vén tấm màn đêm, nhìn xuống trần gian bằng đôi mắt ngái ngủ, khuôn mặt
tròn trĩnh, hồng hào trông thật ngộ.” hay “ Ông mặt trời lúc này vẫn còn say
ngủ trong chiếc chăn mỏng của màn mây ấy thế mà những chú chim đã dậy từ
bao giờ, hót líu lo trên cành”. Bằng cách hướng dẫn như thế, tôi đã giúp học
sinh làm được những bài văn có hình ảnh và sinh động hơn.

Mặt khác, với mỗi đề bài văn tả cảnh cụ thể tôi đều cho các em quan sát
các hình ảnh có liên quan kết hợp với quan sát trong thực tế giúp các em dễ dàng
hơn khi điễn đạt câu văn. Ví dụ:
Đề bài: Tả dòng sông
Đề bài: Tả cánh đồng quê em vào mùa gặt
Đề bài: Tả một ngày mới bắt đầu ở quê em
Biện pháp 8: Hướng dẫn học sinh bộc lộ cảm xúc khi miêu tả.
Trong thực tế không ai tả để mà tả mà thường tả để gửi gắm suy nghĩ,cảm
xúc của mình và những tình cảm yêu ghét của người viết. Chính vì vậy mà bài
văn miêu tả không thể thiếu cảm xúc của người viết. Nếu thiếu cảm xúc thì bài
văn trở nên khô khan, sáo rỗng. Cảm xúc không phải chỉ bộc lộ ở một số câu
cuối bài mà cần thể hiện ở từng câu, từng đoạn của bài văn. Điều này tôi gợi ý
cho học sinh cụ thể ở từng bài.
Ví dụ khi tả dòng sông tôi gợi ý: Khi ngồi ngắm dòng sông em có cảm giác gì?
14


Học sinh nêu: “Khi ngồi ngắm dòng sông em thấy thật khoan khoái, dễ
chịu” hay “Dòng sông đối với em như một người bạn thân thiết, thuỷ chung”.
Hoặc “Còn gì vui thích hơn khi được cùng bạn bè nô đùa, trò chuyện bên bờ
sông, dưới những rặng tre xanh rì rào, râm mát.”
Tương tự như vậy, tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm xúc,
nhận xét của mình khi tả.
Biện pháp 9: Hướng dẫn học sinh luyện tập ở các tiết học của buổi thứ
hai trong ngày.
Học sinh làm tốt bài văn miêu tả các em không chỉ học các tiết chính
khoá, mà ở các tiết học của buổi thứ 2, tôi thường hướng dẫn học sinh tập viết
từng đoạn ví dụ tiết này tôi hướng dẫn các em cách viết mở bài thì tiết sau tôi
lại hướng dẫn cách viết kết bài, rồi hướng dẫn cách viết đoạn văn trong phần
thân bài,.... Cuối cùng tôi hướng dẫn học sinh cách liên kết thành một bài văn.

Hơn thế nữa muốn làm tốt bài văn tả cảnh, học sinh cần phải được luyện
viết bài với nhiều đề khác nhau. Ở tiết Tập làm văn chính khoá học sinh được
luyện viết bài văn tả cảnh thông qua một tiết.Vì vậy ở buổi luyện Tiếng Việt của
buổi học thứ 2 tôi cho học sinh luyện tập tả cảnh với nhiều đề bài:
Đề 1: Tả một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trên
cánh đồng, trên nương rẫy).
Đề 2: Tả một cơn mưa.
Đề 3: Tả ngôi nhà của em.
Đề 4: Tả quang cảnh trường em trong giờ ra chơi.
Đề 7: Tả một ngày mới bắt đầu ở quê em.
Đề 8: Tả một đêm trăng đẹp.
Đề 9: Tả một cảnh đẹp ở quê hương em
Với các đề bài trên học sinh được luyện viết nhiều, rèn luyện được kỹ
năng viết bài văn tả cảnh với các đối tượng miêu tả khác nhau. Sau mỗi bài viết
của học sinh tôi nhận xét bài cẩn thận và sửa lỗi cho học sinh rồi yêu cầu học
sinh viết lại những câu, những đoạn chưa đạt yêu cầu …
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm :
Sau khi tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra những giải pháp giúp học sinh
làm tốt bài văn tả cảnh, tôi đã tiến hành kiểm tra kết quả học tập của học sinh
với đề bài sau:
Đề bài: Quê hương em có rất nhiều cảnh đẹp: Một dòng sông uốn khúc
quanh co, những thửa ruộng bậc thang, một con đường ngoằn ngoèo quen
thuộc. Em hãy tả lại một trong những cảnh đẹp đó.
Với đề bài trên tôi yêu cầu học sinh vận dụng các kiến thức đã học và kỹ
năng của mình để làm bài.
Sau khi kiểm tra tôi đã chấm bài và thu được kết quả như sau:
Số HS được
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành

kiểm tra
SL
TL
SL
TL
SL
TL
14
4
28,5%
10
71,5%
0
0%
Qua thực tế bài làm của học sinh lớp 5A (do tôi vận dụng sáng kiến kinh
nghiệm) chất lượng bài viết đã được nâng lên rõ rệt. Điều đó cho thấy các biện
15


pháp mà tôi đưa ra hướng dẫn học sinh có tính khả thi. Phần lớn các em học sinh
lớp tôi dạy có bài văn miêu tả bố cục rõ 3 phần, miêu tả theo một trình tự hợp lý,
diễn đạt trôi chảy, mạch lạc, bài văn đã biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật so
sánh, nhân hoá, làm cho bài văn sinh động hấp dẫn. Nhiều em lần kiểm tra trước
chưa hoàn thành thì lần này đã tiến bộ rất nhiều. Điều này một lần nữa đã khẳng
định một số biện pháp tôi vận dụng trong dạy văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 là
có hiệu quả.

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Quá trình dạy học môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn

nói riêng thì việc nâng cao chất lượng dạy học là một yêu cầu cần thiết và quan
trọng. Vì vậy trong quá trình dạy học tôi không ngừng tìm tòi, nghiên cứu để
đưa ra những giải pháp tích cực nhằm giúp quá trình dạy học phân môn Tập làm
văn đạt kết quả cao nhất. Qua nghiên cứu và thực hiện “Một số biện pháp giúp
học sinh lớp 5 làm tốt bài văn tả cảnh” tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm cho
bản thân như sau:
- Giáo viên cần nắm vững chương trình bộ môn toàn cấp và từng lớp, nắm
vững và dạy đúng phương pháp bộ môn để gây hứng thú học tập cho học sinh.
Đồng thời phải nắm được đặc điểm trình độ của từng học sinh để đưa ra câu hỏi
và giao yêu cầu phù hợp. Trước hết phải bám sát yêu cầu của từng phần, từng
bài trong sách giáo khoa, nắm được dụng ý trình bày của sách giáo khoa để có
những câu hỏi, hướng dẫn phù hợp với học sinh, sau đó phân học sinh thành
nhóm đối tượng khác nhau để tiện việc hướng dẫn và giúp đỡ các em.
- Giáo viên cần phải biết hướng dẫn học sinh cách đọc sách tham khảo,
hướng dẫn các em tích luỹ vốn văn học giúp các em biết vận dụng linh hoạt
sáng tạo vào bài làm của mình, tránh tình trạng bắt chước, chép văn mẫu dẫn
đến bài văn sáo rỗng, thiếu cảm xúc.
- Giáo viên cần tạo ra cho học sinh hứng thú đối với bài học làm cho các
em thấy rõ mối quan hệ giữa kiến thức mới với kiến thức cũ. Cấu tạo bài giảng
của giáo viên cần logic, hệ thống và mạch lạc làm cho học sinh thấy được mối
quan hệ giữa các phần trong bài học.
-Với mỗi bài văn miêu tả cần giúp học sinh xây dựng được một dàn bài cụ
thể giúp các em có điểm tựa để làm bài.
16


-Trong quá trình dạy học cần kiểm tra đánh giá kịp thời sự tiến bộ của học
sinh để phát huy sự sáng tạo của các em, bổ sung những kiến thức còn thiếu
giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh.
- Giáo viên phải thật linh hoạt trong khi vận dụng các phương pháp và

xử lý tình huống trong giờ dạy.
- Giáo viên cần thường xuyên tham khảo tài liệu, chuyên san … có liên
quan đến phương pháp giảng dạy Tiếng Việt ở tiểu học nói chung và dạng văn tả
cảnh nói riêng.
3.2. Kiến nghị:
Để dạy học có hiệu quả Tập làm văn ở Tiểu học (nhất là văn miêu tả ở lớp
4, 5) tôi xin có một số đề nghị sau:
- Đối với Ban giám hiệu nhà trường: Cần cho áp dụng "Một số biện pháp
giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn tả cảnh" đối với các lớp khối 4, 5 trong
trường, nhằm rút kinh nghiệm chung đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả
giảng dạy phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng.
- Đối với đồng nghiệp dạy lớp 4, 5: Thầy, cô giáo cần phải đầu tư hơn nữa
về phương pháp và biện pháp cho mỗi giờ học phân môn Tập làm văn (từng thể
loại, từng kiểu bài cụ thể) để từng bước giúp các em nắm vững kiến thức, chủ
động nói lên những suy nghĩ hồn nhiên của mình; nói đúng, nói hay, làm giàu
thêm vốn từ ngữ và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân mà tôi đúc rút ra từ thực
tế giảng dạy. Trong quá trình dạy học tôi đã áp dụng và cũng đã thu được kết
quả nhất định. Tuy nhiên để đáp ứng được yêu cầu dạy học hiện nay tôi còn phải
học hỏi nhiều để nâng cao trình độ chuyên môn. Tôi rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của các đồng nghiệp để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn, giúp học
sinh học tốt dạng văn tả cảnh nhằm nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt nói
riêng và chất lượng giáo dục nói chung.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Trí Nang, ngày 14 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết không sao chép của người khác.
Người viết SKKN


Đỗ Thị Liên

17


18



×