Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tạo hứng thú cho học sinh để nâng cao hiệu quả dạy học thơ trữ tình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.61 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu

1

Trang
2

1. 1. Lí do chọn đề tài

2

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

4

2.1. Cơ sở lí luận


4

2.2. Thực trạng vấn đề

5

2.3. Các sáng kiến áp dụng giải quyết vấn đề

7

2.4. Hiệu quả của sáng kiến

14

3. Kết luận, kiến nghị

15

3.1. Kết luận

15

3.2. Kiến nghị

16

* Tài liệu tham khảo

17


* Phụ lục

18

1


1. MỞ ĐẦU

1. 1. Lí do chọn đề tài
Không biết từ bao giờ tôi đã yêu nghề dạy học. Từ khi biết mơ ước, tôi
luôn ước sau này lớn lên sẽ làm cô giáo dạy Văn. Suốt những năm tháng cắp
sách đến trường, tôi luôn nuôi dưỡng và âm thầm ấp ủ ước mơ đó. Tôi yêu thầy
cô, yêu sao những giờ học văn: vừa tha thiết, trữ tình; vừa ngọt ngào như lời ru
của mẹ. Thầy cô đã thắp sáng ước mơ của tôi. Và ước nguyện ấy đã thành hiện
thực. Tôi đã trở thành cô giáo dạy Văn.
Tôi yêu nghề dạy học. Yêu môn văn. Yêu mái trường. Yêu những ánh mắt
trẻ thơ hồn nhiên, vô tư, trong sáng. Vì vậy tôi dành hết tâm huyết, niềm đam
mê cho nghề dạy học. Người giáo viên phải vừa hồng, vừa chuyên, phải luôn
vững vàng về kiến thức, sâu về chuyên môn, sáng về tâm đức, là những kĩ sư
tâm hồn. Ý thức rõ vai trò, trách nhiệm của nghề mình gắn bó, tôi luôn chủ động
nghiên cứu, trau dồi đổi mới phương pháp dạy học đáp ứng mục tiêu, yêu cầu
giáo dục của đất nước.
Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của người học; phải phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn
học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho người
học.
Cùng với mối quan tâm chung về chất lượng giáo dục, lâu nay dư luận
đang rất quan tâm đến vấn đề dạy học văn trong nhà trường phổ thông. Ai cũng

muốn giờ dạy văn phải hấp dẫn cuốn hút học sinh hơn và hiệu quả hơn. Mục
tiêu giáo dục xác định: giảm căng thẳng, khơi dậy hứng thú học tập, khả năng
hoạt động sáng tạo tích cực của học sinh.
Xuất phát từ lý do trên, tôi đã trăn trở làm thế nào khơi dậy niềm đam mê,
thích thú trong những giờ học văn của học sinh. Tôi chọn đề tài: “Tạo hứng thú
cho học sinh để nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác phẩm thơ hiện đại Việt
Nam trong chương trình Ngữ văn lớp 9”.
2

2


1.2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng lý luận về tiếp nhận và cảm thụ tác phẩm văn chương, về đặc
trưng thi pháp thể loại thơ trữ tình, đề xuất các phương pháp cụ thể của việc dạy
thơ trữ tình lớp 9 theo đặc trưng thể loại nhằm nâng cao chất lượng dạy học tác
phẩm văn học, góp phần khẳng định ưu điểm và tính khả thi của hướng dạy tác
phẩm theo đặc trưng thể loại.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Khơi dậy hứng thú học tập trong các giờ học tác phẩm thơ hiện đại Việt
Nam trong chương trình Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 cho học sinh trường
THCS Lý Thường Kiệt, huyện Hà Trung bằng những giải pháp, biện pháp phù
hợp với đặc điểm tình hình và tâm lí lứa tuổi của đối tượng học sinh lớp 9.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề đặt ra trong SKKN, tôi sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp các tài liệu và các vấn đề có liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tham khảo các tài liệu, giáo trình có
nội dung liên quan.
- Phương pháp khảo sát, thực nghiệm, thống kê, phân tích, xử lý số liệu.

- Phương pháp thực nghiệm sư phạm…

3

3


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
Những biến chuyển về kinh tế, sự mở rộng giao lưu và hội nhập quốc tế,
sự bùng nổ của công nghệ thông tin… đã thổi vào đời sống hiện đại nhiều đổi
thay mạnh mẽ trong cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Đi kèm với đó, các giá trị sống, quan niệm sống của con người hiện đại
nói chung và giới trẻ nói riêng cũng có nhiều đổi thay, những mối quan hệ giữa
người với người cũng trở nên đa chiều, phức tạp hơn.
Thực tế đó đòi hỏi con người hiện đại không thể chỉ sống thuần nhất, giản
đơn mà cần có kĩ năng để ứng phó với nhiều tình huống đa chiều. Như vậy, để
có thể sống, học tập, làm việc và vươn tới thành công trong xã hội hiện đại, con
người không chỉ cần có kĩ năng để tồn tại mà còn cần những kĩ năng để đáp ứng
linh hoạt những đòi hỏi từ sự phức hợp của môi trường sống. Có lẽ bởi vậy, kĩ
năng sống dường như đã trở thành một phần thiết yếu đối với mỗi cá nhân, trở
thành một “tiêu chuẩn” mà con người hiện đại cần vươn tới.
Đáp ứng những yêu cầu của thời đại, phương pháp dạy học tích cực, phát
huy tính chủ động sáng tạo của ngừi học đã trở thành đích đến của mỗi nền giáo
dục. Việc dạy học Ngữ Văn nói chung và dạy học thơ trữ tình hiện đại Việt
Nam cấp THCS nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Văn
chương vốn là “tấm gương phản chiếu cuộc sống”. Mỗi cung bậc cảm xúc, mỗi
mảnh tâm tư, mỗi số phận của cuộc sống được lọc qua nhãn quan của nhà văn
để bước vào tác phẩm đều đã trở thành những giá trị phổ quát mà dường như
mỗi người nhìn vào đều thấy mình trong đó. Bởi đặc điểm ấy mà có thể coi Ngữ

Văn là một trong những môn học gần với đời sống nhất trong các môn học trong
nhà trường phổ thông. Và cũng bởi đặc điểm ấy, sẽ không quá khó khăn để giáo
viên tìm được sợi dây kết nối giữa văn và đời, để tìm thấy sự tương liên trong
dạy học văn và việc hình thành kĩ năng sống cho học sinh.
“Văn học là nhân học” (M. Gorki), là khoa học về con người và có khả
năng kì diệu trong việc giáo dục con người. Chân lí này đã được khẳng định từ
lâu. Ở các nước phát triển trên thế giới, việc dạy học văn gắn liền với giáo dục
kĩ năng sống đã được tận dụng triệt để và phát huy hiệu quả. Văn chương xích
gần hơn với cuộc đời và dường như đã thực sự thực hiện được sứ mệnh cao cả
4

4


của nó. Nhưng ở nước ta, có một thực tế ta phải thừa nhận rằng, bộ môn Ngữ
Văn trong trường phổ thông chưa thực sự tạo được hứng thú nơi người học. Báo
chí, truyền hình đã không ít lần đề cập đến vấn đề: học sinh học văn như một sự
ép buộc, học thụ động, không có niềm say mê, tìm tòi... Một trong những
nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do người học chưa tìm được sợi dây
kết nối giữa văn và đời. Kiến thức xa xôi, học không biết để làm gì thì chắc chắn
sẽ không thể có hứng thú!
Trong quá trình giảng dạy Ngữ Văn cấp THCS, tôi nhận thấy thơ
trữ tình, đặc biệt là thơ trữ tình hiện đại Việt Nam chiếm dung lượng lớn trong
chương trình. Điều này thể hiện tầm quan trọng và vị thế của thơ trữ tình hiện
đại Việt Nam trong nền giáo dục nước nhà. Những bài thơ được tuyển chọn vào
chương trình hầu hết là những tác phẩm hay, có giá trị về nội dung, nghệ thuật,
có tác dụng bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm góp phần hình thành và phát triển
nhân cách toàn diện cho học sinh. Nhưng nhìn vào thực tế giảng dạy Ngữ Văn
nói chung và giảng dạy thơ trữ tình hiện đại Việt Nam nói riêng, có thể nhận
thấy chúng ta chưa khai thác hết tiềm năng của thơ trữ tình hiện đại Việt Nam

trong việc khơi dậy niềm đam mê cho các em.
Như vậy, việc tạo được tâm thế và hứng thú học tập cho học sinh trong dạy
học nói chung và trong dạy học thơ trữ tình hiện đại Việt Nam nói riêng ở
nhà trường THCS là vô cùng cần thiết. Điều đó đòi hỏi người giáo viên phải
luôn có ý thức gắn việc dạy văn với dạy người, luôn trăn trở, tìm tòi để tích hợp
một cách khéo léo và có hiệu quả cho học sinh qua mỗi tác phẩm văn chương.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi lựa chọn đề tài: “Tạo
hứng thú cho học sinh để nâng cao hiệu quả dạy học thơ trữ tình hiện đại Việt
Nam ở lớp 9 trường trung học cơ sở” với mong muốn tìm ra một số biện pháp
nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh để có những giá trị đích thực của cuộc
sống qua mỗi tác phẩm thơ trữ tình hiện đại Việt Nam được học.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi nghiên cứu sáng kiến
2.2.1. Thực trạng
Có nhiều nguyên nhân tạo nên tình trạng học tập trì trệ, thụ động, thiếu hào
hứng của học sinh. Xét về xã hội, thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa
học công nghệ, dễ hiểu là đại đa số học sinh chỉ muốn học các ngành khoa học
tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế… ít có học sinh hứng thú học văn, bởi phần đông học
5

5


sinh nghĩ rằng năng lực văn là năng lực tự nhiên của con người xã hội, không
học vẫn biết đọc, biết nói; học văn không thiết thực. Văn có kém một chút, ra
đời vẫn không sao, vẫn nói và viết được, còn không học ngoại ngữ, không học
khoa học, kĩ thuật thì coi như chịu phép. Có thể đó là lí do làm cho đa số học
sinh không cố gắng học Ngữ văn.
Về phía học sinh, phần lớn các em chưa thực sự hài lòng về với cách dạy
văn của thầy cô. Theo phản ánh của không ít học sinh, các giờ lên lớp của các
thầy cô giáo văn chưa tạo được ấn tượng cho các em.

Như vậy cả thầy và trò đều cảm thấy chưa thật sự thoải mái. Trò mong
muốn có những giờ học văn hấp dẫn còn thầy cũng đòi hỏi học trò say mê, có
trách nhiệm hơn với môn học này.
2.2.2. Kết quả của thực trạng trên
Năm học 2014 - 2015 tôi được phân công dạy môn Ngữ văn lớp 9. Sau khi
điều tra học sinh và đối chiếu kết quả học tập giữa đối tượng học sinh lớp 9 khoá
học này với học sinh lớp 9 khoá trước (năm học 2010 - 2011). Kết quả như sau:
- Đối với học sinh khối 9 khoá trước khi dạy các văn bản thơ trữ tình hiện
đại trong chương trình ngữ văn lớp 9: Mùa xuân nho nhỏ, Viếng lăng Bác… tôi
thấy giờ học vẫn còn nặng nề. Có thể do giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi
chưa phù hợp quá khó hoặc quá dễ; có nhiều câu hỏi vụn vặt, câu hỏi xa rời
trọng tâm. Học sinh quay cuồng trong những câu hỏi, thót tim vì lo bị cô gọi trả
lời. Và như thế không còn cảm hứng chỉ còn thấy sợ, chán học. Vì vậy kết quả
khảo sát tiết học chỉ đạt được:
Kết quả khảo sát khóa học 2007 - 2011
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%

Lớp



số

9A

34

5

14,71

15

44,12

12

35,29

2

5,88

9B

33

3

9,09


17

51,52

10

30,30

3

9,09

Tổng số

67

8

11,94

32

47,76

22

32,84

5


7,46

- Kết quả khảo sát bài làm của học sinh tôi rất thất vọng. Đây có lẽ là nỗi
buồn lớn nhất của người thầy. Hàng loạt câu hỏi tự đặt ra trong tôi, thôi thúc tôi
phải tìm bằng được giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy học. Tôi không nản lòng,
6

6


bằng tất cả lòng yêu nghề, yêu trẻ, tôi kiên trì đọc sách, tìm đọc tài liệu về
phương pháp dạy học, đi dự giờ, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm của những đồng
nghiệp có bề dày trong giảng dạy. Đặc biệt tôi đầu tư soạn bài trước khi lên lớp
rất chu đáo, trăn trở, miệt mài đêm ngày để có những giáo án lên lớp thật sự có
hiệu quả. Tôi ý thức được rằng kết quả giảng dạy không phải là cái gì cao xa mà
chính là sự cố gắng hết mình trong công việc, yêu nghề, tâm huyết với nghề, say
chuyên môn, tận tâm, làm việc tích cực, nhiệt tình, trách nhiệm sẽ thành công.
Và người thầy khi đứng trên bục giảng kiến thức thôi chưa đủ mà quan trọng
phải tâm huyết, say chuyên môn. Đặc biệt phải có phương pháp dạy học phù hợp
cho từng kiểu bài cụ thể, nghĩa là phải dạy học phù hợp với đặc trưng thể loại.
Tạo được hứng thú cho học sinh trong giờ học văn như tìm được chiếc chìa khoá
vàng để mở vào thế giới bí ẩn của thơ trữ tình. Tôi thật sự hạnh phúc khi thấy
việc làm của mình như một tia sáng rọi chiếu lên trang sách mới. Chất lượng
giảng dạy được nâng lên. Niềm vui cũng đã mỉm cười, hạnh phúc đến với tôi.
Niềm mong đợi bấy lâu nay đã trở thành hiện thực. Đó là kết quả học tập của
học sinh đã được nâng lên đáng kể. Công sức của người thầy được đến đáp xứng
đáng. Kết quả là:
- 100% học sinh hiểu bài sâu sắc, có hứng thú, say sưa với bài giảng, có
thái đội tích cực, chủ động học tập.

- 100% học sinh tiếp thu tri thức qua những gì nghe được, nói được và làm
được.
Vì vậy trong đề tài sáng kiến kinh nghiệm của năm học này, tôi mạnh dạn
đưa ra một số thao tác mà bản thân đã thực hiện để tạo hứng thú học tập cho học
sinh mang lại hiệu quả cao trong giờ dạy học thơ trữ tình hiện đại trong chương
trình Ngữ văn 9.
2.3. Các sáng kiến áp dụng giải quyết vấn đề: “Tạo hứng thú cho hoc
sinh n©ng cao hiÖu qu¶ giê d¹y vµ học tác phẩm thơ hiện đại Việt
Nam”
2.3.1. Chủ động ngay từ bài soạn
- Khi người thầy có trách nhiệm, có niềm đam mê với chuyên môn của
mình, có lòng yêu nghề, mến trẻ họ sẽ phát huy tối đa khả năng tự học, từ bồi
dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ; họ sẽ không ngừng trăn trở về những tiết học
hiệu quả, chất lượng. Họ sẽ không ngừng vận dụng, thể nghiệm những kiến thức
và phương pháp, không ngừng điều chỉnh hoạt động giảng dạy theo hướng ngày
càng có chất lượng, hiệu quả. Thực tế dạy học cho thấy để có một giờ dạy thành
công không chỉ đòi hỏi kiến thức chuyên môn hẹp mà còn rất cần những kiến
7

7


thức liên môn. Nền tảng tri thức chuyên ngành được đào tạo vốn hạn hẹp, một
nhà giáo dục cần nhiều hơn thế, kiến thức chuyên ngành cần luôn bồi đắp, kiến
thức liên ngành luôn cần cập nhật. Đó là quá trình chuẩn bị thường xuyên, bền
bỉ. Nếu không có quá trình lâu dài, bển bỉ ấy rất khó có những giờ lên lớp thăng
hoa.
- Cùng với quá trình chuẩn bị lâu dài về chuyên môn nghiệp vụ là sự chuẩn
bị cho một tiết dạy cụ thể trước khi lên lớp. Sự chuẩn bị thể hiện ở nhiều khâu:
từ kế hoạch dạy học, xác định trọng tâm kiến thức, lựa chọn phương pháp, thiết

kế cách tổ chức các hoạt động... từ phía người dạy và người học. Sự chuẩn bị bài
bản, chu đáo, nhuần nhuyễn cho mỗi tiết dạy đã bảo đảm hơn 50% thành công
của tiết dạy ấy, ngoại trừ những yếu tố khách quan, người dạy cũng đã hết mình.
2.3.2. Giờ học phải tạo được tâm lí thoải mái, nhẹ nhàng cho cả người
dạy và người học
- Tâm lí thoải mái, sự tự tin của người thầy giáo khi bước vào lớp học là
một chất xúc tác cần thiết cho tiết dạy nhưng lại ít được giáo viên chú ý. Những
giáo viên chuẩn bị bài kỹ thường là rất tự tin khi bước vào lớp học, và chính sự
tự tin của người thầy, thái độ cởi mở thân mật của thầy khi bước vào lớp làm
không khí lớp học thêm phấn chấn. Điều đó thể hiện ở nhiều phương diện: giọng
nói, lượng kiến thức nhẹ nhàng, lượng câu hỏi vừa phải.
- Tạo không khí thoải mái trong giờ học, giữ mối quan hệ thân thiện giữa
thầy và trò: thông thường khi giáo viên vào lớp dạy có học sinh yếu kém, kiểm
tra bài cũ các em không thuộc sẽ cảm thấy bức xúc, khi ấy khuôn mặt dễ trở nên
“hình sự”, hậm hực, những điều muốn nói, những dự định sẽ tan theo mây khói,
không khí giờ học trở nên nặng nề, căng thẳng. Để giảm áp lực tôi thường cố
gắng kiềm chế, giận mà cười, nói thật như nói chơi tạo sự thân thiện với học
sinh.
2.3.2. Bồi dưỡng cho các em tình yêu văn học, giúp các em hiểu được
những bài học cuộc sống mà mỗi tác phẩm gửi gắm, lồng ghép giáo dục kĩ
năng sống vào bài học, gắn việc học văn với thực tế cuộc sống...
- Học sinh có những giây phút lắng đọng trong cảm xúc của tác phẩm,
được suy nghĩ về một vấn đề các em muốn tự mình khám phá. Các hoạt động
của giờ học phải diễn ra thật tự nhiên không hề gò ép, khiên cưỡng.
- Học sinh sẽ hứng thú, đam mê học hơn khi giáo viên biết khơi nguồn,
đánh thức tình cảm, nuôi dưỡng tâm hồn qua từng lời giảng của giáo viên.
Nói như nhà văn Tạ Duy Anh thì: Bản chất của việc học văn là khám phá
những bí mật về vẻ đẹp, khám phá những bí mật về con người, khám phá sự kì
8


8


lạ của ngôn ngữ. Khi đó mỗi giờ học văn giống như một cuộc thám hiểm vào
những miền đất mới luôn hứa hẹn vô số bất ngờ thú vị. Người thầy phải là người
hướng các em đi đến những miền đất ấy.
- Học sinh có những tình cảm đúng đắn trước những con người, sự việc,
vấn đề mà tác phẩm đề cập, phản ánh.
Đó là những tình cảm, thái độ: vui - buồn, yêu - ghét, yêu thương - căm
thù, ca ngợi - phê phán… Ta ngưỡng mộ, trân trọng lẽ sống “Lặng lẽ dâng cho
đời” của nhà thơ Thanh Hải trước lúc đi xa. Xúc động bởi dòng cảm xúc dạt dào
của tình bà cháu (Bếp lửa). Suy nghĩ về những lời người cha nói với con (Nói
với con).
Thật đáng tiếc khi học những áng văn “sống mãi với thời gian” ấy mà các
em thờ ơ không mấy xúc động.
- Học sinh biết soi từ tác phẩm vào cuộc sống bản thân, bạn bè, những
người xung quanh. Học được ở đó bao điều tốt đẹp.
Một trong những yêu cầu đổi mới dạy học là: Làm cho việc học với môi
trường thực tế, gắn với kinh nghiệm sống của người học, tạo điều kiện cho
người học có kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào những tình huống khác
nhau trong thực tiễn cuộc sống.
(Đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn THCS - Nguyễn Quang
Minh, Nguyễn Thuý Hồng)
Từ lời người cha nói với con “Nói với con”, các em tìm thấy ở đó lời nói
của chính mình về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, ý thức gắn bó với cội
nguồn, ý thức vươn lên trong cuộc sống.
Nhưng môn văn không phải là những lời giáo huấn khô khan, gượng ép, hô
hào,… mà có sức lay động tâm hồn con người rất tự nhiên, rất ám ảnh, rất tinh
tế… và tràn đầy cảm xúc. Học xong một tác phẩm tự các em thấy ḿnh phải như
thế nào, nên như thế nào, ước ao được như thế nào, cần phải có thái độ, tình cảm

ra sao trong cuộc sống… Không cần phải nói ra mà tự nhủ trong lòng. Đó là sự
thành công của giờ học văn.
2.3.3. Thay đổi “khẩu vị” bài giảng
Người thầy giáo có thể say mê giảng bài suốt 45 phút của một tiết học mà
không có cảm giác mệt mỏi. Nhưng với học sinh việc tập trung nghe thầy giảng
bài suốt 45 phút trong một buổi học thường có từ 4 - 5 tiết học lại không phải là
điều dễ dàng. Hiện tượng uể oải, ngáp vặt, ngủ gục, nói chuyện riêng trong lớp
diễn ra khá phổ biến.
9

9


Một tiết học diễn ra nhẹ nhàng, sinh động, tôi đã chủ động làm tốt các công
việc:
- Bao quát tốt lớp học để nhận biết đối tượng học sinh thiếu tập trung do tác
động của hoàn cảnh khách quan (có chuyện không hay trong gia đình, sức khoẻ
kém, cơ thể mệt mỏi), từ đó lường được thái độ nóng giận ảnh hưởng chung tới
sinh khí của cả tập thể. Phải quan tâm đến đối tượng học sinh mà ta giảng dạy.
Đã đành cùng một lớp là có một trình độ phổ thông như nhau, nhưng lại khác
biệt về mặt tâm sinh lý. Có em hay lơ đãng, thiếu tập trung, có em tiếp thu
chậm, có em “ngồi nhầm lớp”… Vì vậy, với một người thầy, ta vẫn phải có trách
nhiệm quan tâm đến tất cả các em, dù chỉ dạy một tiết, dù không phải giáo viên
chủ nhiệm. Có thể bằng nhiều cách, bất chợt hỏi một câu để “đánh thức” một em
đang lơ đãng, hay đặt một câu hỏi để kiểm tra em tiếp thu chậm, hoặc hỏi cả lớp
xem có nội dung nào chưa hiểu để giảng lại kỹ hơn…
- Không rập khuôn theo một trình tự mà học sinh đã quá quen thuộc. Có thể
tạo hứng thú học tập cho các em ngay từ hoạt động khởi động tiết học. Khởi
động tiết học có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau:
Chẳng hạn:

- Tăng tính trực quan sinh động bằng trình chiếu hình ảnh, minh họa đúng
lúc, đúng chỗ.
Dạy văn bản “Viếng lăng Bác”, sử dụng tư liệu mở đoạn phim Bác mất kết
hợp với giọng nói của giáo viên ở cuối khổ thơ thứ 3 tạo không khí trầm lắng
cảm xúc tang thương bao trùm lên cả không gian, thời gian khi nghe tin Bác
mất.
- Kể một câu chuyện nhỏ về tác giả, hoàn cảnh sáng tác tác phẩm, đọc đoạn
thơ mình yêu thích (giáo viên và học sinh cùng tham gia). Đây là những hình
thức hoạt động khiến học sinh hào hứng và nhiệt tình tham gia. Giáo viên có thể
cho điểm để khuyến khích các em.
Để có những câu chuyện hay, cảm động về tác giả và hoàn cảnh ra đời tác
phẩm giáo viên phải có thói quen thường xuyên sưu tầm và tích luỹ kiến thức.
Ví dụ: Câu chuyện về nhà thơ Thanh Hải tác giả bài thơ “Mùa xuân nho
nhỏ”: Được tập kết ra Bắc năm 1959 (khi đó nhà thơ 20 tuổi) nhưng Thanh Hải
vẫn xin ở lại mièn Nam chiến đấu. Ông sống cùng đồng bào Tà Ôi, Vân Kiều, ăn
củ nâu, củ chuối thay cơm. Cuộc đời biết bao gian khổ nhưng ông vẫn kiên
cường bám trụ quê hương. Khi vào tuổi 50 (tóc bạc), ông lâm bệnh nặng, phải
chống chọi với nỗi đau đớn của căn bệnh ung thư gan hiểm nghèo, sự sống chỉ
tính bằng giờ, bằng phút. Nhạc sĩ Trần Hoàn, người bạn thân thiết của ông
10

10


khuyên ông hãy nghỉ ngơi, đừng viết nữa nhưng ông vẫn viết, viết hối hả vì sợ
mình không còn viết được nữa, chỉ một tháng sau (12/1980) ông đã qua đời. Sau
khi ông mất, vợ ông dọn giường bệnh và tìm thấy dưới nệm bài thơ này.
Từ câu chuyện, học sinh hiểu và đồng cảm với nhà thơ hơn, trân trọng bài
thơ, xúc động trước những tình cảm chân thành, cao đẹp mà tác giả gửi gắm lại
cho đời trước lúc đi xa.

Hay, dạy bài thơ “Viếng lăng Bác”, nói về hoàn cảnh sáng tác bài thơ, giáo
viên thêm vào một chi tiết nhỏ về công trình xây dựng lăng Bác: Vật liệu xây
dựng được mang về từ nhiều miền trên cả nước trong đó có sự đóng góp của
Thanh Hoá: Vào mùa hè năm 1974, hàng ngàn người dân đồng bào các dân tộc
Kinh, Mường, Thái ở huyện miền núi Bá Thước, Thanh Hóa đã cơm đùm, cơm
nắm, gùi thêm củ sắn, củ khoai về công trường đá tại thung lũng Ken Rai để
khai thác đá hồng ngọc quý gửi về xây lăng Bác, đá núi Nhồi Đông Sơn. Các em
thấy rất vinh hạnh, tự hào về quê hương mình.

Đá hồng ngọc - Bá Thước, Thanh Hoá
- Nói lời chia sẻ với tác giả. Hình thức này để học sinh tự bộc bạch những
tình cảm, suy nghĩ trăn trở của mình về tác giả, để các em được mở rộng tâm
hồn với con người và cuộc sống, biết yêu thương con người, biết trân trọng cái
đẹp, biết nâng niu những giá trị của cuộc sống.
Cùng sẻ chia với nhà thơ Thanh Hải về ước nguyện “Một mùa xuân nho
nhỏ - Lặng lẽ dâng cho đời”.
2.3.4. Nghệ thuật sư phạm khi người giáo viên đóng vai trò hướng dẫn
học sinh.
11

11


Người dạy văn không chỉ là nhà khoa học, nhà sư phạm mà còn là nghệ sĩ
trên bục giảng. Khi đó, giáo viên hoàn toàn nhập tâm vào tác phẩm, sống cùng
tác phẩm, tình cảm, cảm xúc của tác giả cũng là cảm xúc của mình thì giờ dạy
mới thực sự có hồn, mới thu hút được sự say mê, hứng thứ học tập của học sinh.
- Khi đặt câu hỏi: Giáo viên thể hiện được sự băn khoăn thực sự trước một
vấn đề đặt ra từ tác phẩm và khao khát nhận được câu trả lời từ các em. Từ
giọng nói, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ… đều phải thể hiện được điều đó.

- Khi nghe học sinh trả lời:
+ Không nên nghĩ rằng thầy ở tầm cao, luôn luôn biết tất cả mà phải “luôn
luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”; trân trọng lời nói của các em. Từ đó tạo
được sự đồng cảm, thắp lên niềm đam mê, tìm tòi phát hiện và sáng tạo của các
em.
+ Học sinh nói chưa đúng, giáo viên nên nhẹ nhàng tỏ ý tiếc và nhờ bạn
khác giúp đỡ chứ không nên phủ định bằng các từ như “sai rồi”, “không đúng”,
“em chậm hiểu quá”… như vậy vô hình dung đang làm cho các em nhụt chí khi
học tập. Lúc này các em cần sự động viên, chia sẻ để có niềm tin trong học tập.
+ Khuyến khích cách hiểu, cách cảm mới mẻ, sáng tạo của học sinh: Mỗi
người khi đọc tác phẩm đều có thể đưa ra một cách giải mã riêng cho mình.
Nhưng muốn hiểu theo ý nào thì đều phải xuất phát từ văn bản, phải căn cứ vào
hình tượng, câu chữ cụ thể của bài thơ, câu thơ, đoạn thơ. Nếu ý hiểu của học
sinh phù hợp và thể hiện được năng lực sáng tạo giáo viên cần đón nhận, khuyến
khích tạo hứng thú cho các em, khơi gợi nhu cầu thích khám phá, được khám
phá. Chẳng hạn khi tìm hiểu 3 câu thơ:
“… Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
Học sinh có thể đưa ra nhiều cách hiểu khác nhau:
- Người đồng mình sống mạnh mẽ như sông như suối vượt qua mọi ghềnh
thác.
- Người đồng mình sống như sông như suối chảy về biển, chỉ biết cho,
không biết nhận.
- Người đồng mình tâm hồn trong trẻo, vô tư, hồn nhiên như sông như suối
không ngại gì gian khổ.
Giáo viên nhận xét: Cách hiểu của các em đều đúng vì các em đã cảm nhận
được qua hình ảnh đó một tâm hồn, một cách sống của người miền núi thật đẹp,
phong phú, khoáng đạt, tràn đầy niềm tin…
12


12


Như vậy, người giáo viên phải biết chia sẻ, động viên đúng lúc, đúng chỗ,
biết khơi nguồn, tạo động lực cho học sinh. Giáo viên tạo được tâm thế cho giờ
học văn qua nghệ thuật ứng xử các tình huống sư phạm, biết cách hỏi, cách
nghe, cách đáp, nghệ thuật biết giao hoà xoá đi khoảng cách thầy - trò, hai đối
tượng cùng khám phá văn bản. Một nụ cười, một ánh mắt sẻ chia khích lệ, một
cử chỉ dịu dàng, một lời nói ngọt ngào là nguồn cổ vũ, động viên rất lớn đối với
các em học sinh, tạo được tâm lý thoải mái cho giờ học.
2.3.5. Chất văn trong dạy học văn
Một điều dễ nhận thấy trong một số tiết dạy và học văn rất khô khan, nhàm
chán bởi cách truyền đạt kiến thức của giáo viên một chiều: giáo viên đưa ra câu
hỏi, học sinh trả lời và giáo viên kết luận. Điều đó biến giờ học thành cuộc đối
thoại tẻ nhạt thiếu chất văn chương.
Để giờ học mang lắng đọng chất văn, giáo viên cần định hướng cho các em
tìm một vài chi tiết đắt trong bài dừng lại để bình. Một lời bình hay, đúng lúc,
đúng chỗ làm học sinh nhớ mãi không bao giờ quên, có sức ám ảnh và lan toả.
Giờ học kết thúc mà hình ảnh của cô, lời giảng bình của cô vẫn còn vang mãi
trong lòng các em. Các em sẽ chờ đợi để được học tiết văn tiếp theo. Khi đó cô
đã truyền lửa, truyền niềm đam mê học văn của học sinh.
Dạy bài thơ “Viếng lăng Bác” có rất nhiều hình ảnh thơ, chi tiết nghệ thuật
giàu ý nghĩa: hàng tre, mặt trời, tràng hoa, vầng trăng, trời xanh, … Giáo viên
biết chọn lọc một vài chi tiết làm điểm nhấn cho toàn bài để bình tạo độ lắng sâu
trong giờ học, để lại ấn tượng sâu sắc cho người học để rồi các em nhớ mãi
không quên. Tôi chọn bình chi tiết:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Kết hợp cho hoc sinh xem đoạn phim cảnh giây phút Bác ra đi để tái hiện

lại giây phút đau thương của toàn dân tộc.
Như vậy, một tiết dạy học tác phẩm trữ tình đạt hiệu quả là mong muốn
của tất cả những nhà giáo tâm huyết. Tiết dạy đạt hiệu quả là tiết dạy mà người
giáo viên đã hoàn thành xuất sắc vai trò tổ chức, hướng dẫn của mình: phát huy
được tối đa tính chủ động, sáng tạo của người học để người học tự mình chiếm
lĩnh đơn vị kiến thức theo kế hoạch dạy - học mà người dạy đề ra. Rất nhiều
người, kể cả người trong nghề, cứ nghĩ việc dạy học là một công việc nhàm chán
vì vẫn chương trình ấy, bài học ấy, đơn vị kiến thức ấy... "biết rồi, khổ lắm, nói
mãi" như một vòng tuần hoàn, cứ lặp đi lặp lại mỗi năm. Thực ra bản chất của
việc dạy học không phải như thế, bản chất của nghề dạy học là sáng tạo - cố Thủ
13

13


tướng Phạm Văn Đồng nói "nghề dạy học là nghề sáng tạo nhất trong những
nghề sáng tạo". Câu nói của cố Thủ tướng phải hiểu theo nhiều khía cạnh, trong
đó ta có thể thấy vai trò hết sức quan trọng của người thầy. Một tiết dạy thành
công là một lần người dạy thỏa mãn được niềm đam mê nghề nghiệp, cảm nhận
được niềm vui của sự sáng tạo - sáng tạo trong cách tổ chức hướng dẫn, sáng tạo
trong việc tìm kiếm được tri thức mới mẻ, sáng tạo cùng sự sáng tạo của học
sinh, vui cùng niềm vui, sự hứng thú khi tự phát hiện và chiếm lĩnh tri thức của
học sinh. Có lẽ hạnh phúc của nghề giáo chủ yếu đến từ niềm vui của sự sáng
tạo.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau khi nghiên cứu lí luận và áp dụng vào thực tiễn dạy học thơ trữ tình
hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS Lý Thường
Kiệt đã đem lại hiệu qủa thiết thực:
- Làm cho giờ học sinh động, hấp dẫn hơn do cách hướng dẫn học sinh khai

thác kiến thức phù hợp, dễ hiểu, dễ nắm bắt nội dung bài học.
- Làm cho học sinh hứng thú, say mê, hào hứng với nội dung bài học ngay
từ những giây phút đầu tiết học.
- Làm cho học sinh tiếp thu bài tốt hơn, học tốt hơn, tích cực khai thác nội
dung bài học.
Qua việc điều tra, khảo sát chất lượng học sinh lớp 9 trường THCS Lý
Thường Kiệt Hà Trung khóa học 2011 - 2015 so với học sinh lớp 9 khoá trước
(2007 - 2011) kết quả thu được như sau:
Giỏi
Khóa học

Sĩ số
SL

14

Khá

2007 - 2011

67

8

2011 - 2015

67

17


TL
11,9
4
25,3
7

SL
32
43

TL
47,7
6
64,1
8

Trung
bình
SL
22
7

TL
32,8
4
10,4
5

Yếu
SL

5
0

TL
7,4
6
0,0
0

14


3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Hiệu quả của một giờ dạy luôn là niềm trăn trở, suy nghĩ hướng tới của
người thầy khi đứng trên bục giảng. Để có được hiệu quả cao trong giảng dạy
người thầy phải không ngừng trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ, phải tâm huyết
với nghề, say chuyên môn, phải thực sự đắm mình trong từng giờ lên lớp, phải
thắp lửa trong lòng các em để khơi dậy niềm đam mê, hứng thú trong giờ học,
để các em thấy được vị trí, vai trò quan trọng của môn ngữ văn trong nhà trường
giai đoạn hiện nay. Bởi văn học là nhân học, học văn cũng chính là học cách làm
người. Vì vậy người thầy phải gieo vào lòng học sinh những ước mơ, những
hoài bão, những khát khao khám phá những chân trời tri thức rộng mở phía
trước. Những giờ học bổ ích mới thật sự có ý nghĩa, nó để lại trong kí ức của các
em một ấn tượng vô cùng sâu sắc để rồi các em nhớ mãi và rung động suốt cả
một đời người.
Những vấn đề tôi trình bày trên đây chỉ là một chút ít kinh nghiệm nhỏ rút
ra từ thực tế giảng dạy trong nhiều năm qua của bản thân và nó đã thực sự đem
lại thành công. Đó thực sự là những con số biết nói giúp tôi có thể khẳng định
mình trước đồng nghiệp, trước phụ huynh và các em học sinh. Tôi rất mong

nhận được sự chia sẻ, đóng góp ý kiến của đồng nghiệp, sự chỉ bảo tận tình của
các đồng chí chuyên viên phòng GD &ĐT, Sở GD &ĐT để tôi có điều kiện phát
huy hơn nữa năng lực chuyên môn của bản thân.
3.2. Kiến nghị:
Quá trình thực nghiệm và nghiên cứu đề tài, tôi có một số kiến nghị đề
xuất sau:
15
15


- Với Phòng giáo dục, Sở giáo dục: tổ chức các lớp chuyên đề, các giờ dạy
xuất sắc cấp tỉnh cho giáo viên được dự giờ của đồng nghiệp giữa các trường
trong địa bàn toàn huyện và ngoài huyện để học hỏi kinh nghiệm.
- Với BGH nhà trường: Phân công chuyên môn hợp lý, đúng với trình độ
chuyên ngành được đào tạo để giáo viên có thời gian nghiên cứu, đầu tư chuyên
sâu.
Hà Trung, ngày 12 tháng 3 năm 2016
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.

Lý Thị Hương
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III
( 2004 - 2007)
2. Tạp chí Thế giới trong ta số 199
3. Văn học tuổi trẻ số 6 - 2006; số 11 - 2007.
4. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 - NXB Giáo dục.
5. Sách giáo viên Ngữ văn 9 - NXB Giáo dục


16

16


17

17


PHỤ LỤC: GIÁO ÁN MINH HỌA
NGỮ VĂN: TIẾT 117: VĂN BẢN: VIẾNG LĂNG BÁC
(Viễn Phương)
A. Mục tiêu cần đạt: Hs nắm được:
1. Kiến thức:
- Những tình cảm thiêng liêng của tác giả, của một người con từ miền Nam
ra viếng lăng Bác.
- Những đặc sắc về hình ảnh, tứ thơ, giọng điệu của bài thơ.
2. Kĩ năng:
- Đọc - hiểu một văn bản thơ trữ tình.
- Có khả năng trình bày những suy nghĩ, cảm nhận về một hình ảnh thơ,
một khổ thơ, một tác phẩm thơ.
3. Thái độ: Niềm kính yêu Bác, học và làm theo lời dạy của Bác.
B. Chuẩn bị:
- Gv: Tranh ảnh, phim tư liệu về Bác, chân dung tác giả Viễn Phương, bài
hát “Viếng lăng Bác”
- HS: Soạn bài, sưu tầm bài thơ, tranh ảnh về Bác.
C. Tiến trình tổ chức các hoạt động dạy học:
1. Khởi động:

? Gv đưa một số hình ảnh liên quan đến Bác Hồ. Yêu cầu hs nhận biết về
các hình ảnh đó.
? Hãy đọc những câu thơ viết về Bác.
2. Giới thiệu bài:
Hoạt động của Gv và Hs
Yêu cầu cần đạt
I. Tìm hiểu chung:
- Gv giới thiệu chân dung Viễn Phương
1. Tác giả: (1928 - 2005)
? Em hãy nêu những nét chính về tác giả
- Quê: An Giang.
Viễn Phương.
2. Hoàn cảnh sáng tác:
? Cuối bài thơ viết T4/1976 có ý nghĩa gì.
- 4/1976, khi ®Êt níc võa
Gv: Vật liệu xây dựng được mang về từ nhiều thèng nhÊt, lăng Chủ tịch Hồ
miền trên cả nước trong đó có sự đóng góp của Chí Minh vừa khánh thành.
- In trong tập thơ “Như mưa
Thanh Hoá:
mùa xuân” (1978)

Đá hồng ngọc - Bá Thước, Thanh Hoá
Gv hướng dẫn cách đọc.
3. Đọc văn bản - tìm hiểu chú
Khổ 1-3: Đọc chậm, giọng lắng sâu; khổ thích:
cuối: đọc nhanh hơn, giọng hơi cao lên.
18

18



GV đọc mẫu, gọi HS đọc.
? Cảm xúc bao trùm trong bài thơ là gì?
Mạch vận động của cảm xúc đi theo trình tự nào?
Hs đọc khổ1.
? Câu thơ mở đầu giới thiệu điều gì?
? Nhà thơ xưng hô như thế nào?
? Cách xưng hô thể hiện tình cảm như thế
nào đối với Bác.
? Cũng thể hiện tình cảm đ/v Bác trong bài
Người đi tìm hình của nước đã viết :
Đất nước..... nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn
Bác
Trong bài thơ VP lại xưng con - gọi Bác.
Cách xưng hô khác nhau như thế nào
Gv : Câu thơ mở đầu chỉ gọn như một thông
báo nhưng chứa đựng nhiều cảm. Sinh thời Bác
luôn nghĩ đến MN. Tố Hữu viết:
Bác nhớ MN nỗi nhớ nhà
MN mong Bác nỗi mong cha.
? Nhan đề bài thơ tác giả viết “Viếng…”, ở
câu 1 tác giả lại nói ra thăm mà không nói ra
viếng.
Nhà thơ không nói ra viếng mà là ra thăm.
Viếng là viếng người đã khuất, còn thăm như
người con về thăm cha, thăm nơi Bác nghỉ. T/c
nỗi nhớ thương ấp ủ bấy lâu chỉ chờ gặp lại
bóng dáng thân yêu là trào dâng thổn thức.
? Hình ảnh đầu tiên cũng là hình ảnh ấn

tượng nhất Viễn Phương quan sát và cảm nhận
được là gì?
? Hàng tre được tác giả cảm nhận trong
không gian như thế nào.
? Quanh lăng Bác có rất nhiều loài cây. Tại
sao tác giả nói đến hàng tre ?
- H/a rất đỗi thân quen của quê hương VN.
Hàng tre ấy là h/a cây cối mang màu đất
nước tụ về đây giữ giấc ngủ bình yên cho Người.
Đó là h/a dân tộc. Nó như khúc dạo đầu đã nói
lên bao xúc động, bồi hồi của nhà thơ khi đến
lăng Bác.
? Nghệ thuật được tác giả dùng thể hiện cảm
xúc là gì?
19

II. Phân tích văn bản:
1/ Cảm xúc về cảnh bên ngoài
lăng:
- Xưng con - gọi Bác
Thân mật, gần gũi, thành
kính.

- Từ “thăm”: nói tránh sự đau
thương, mất mát.

- Hàng tre:
+ bát ngát
+ xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa…thẳng

hàng.

=>Ẩn dụ: Tre - biểu tượng cho con
người Việt Nam: kiên cường, bất
khuất.
- Nghệ thuật: Ẩn dụ, lời thơ giản
dị, câu cảm thán -> tình cảm xúc
19


động, bồi hồi của nhà thơ khi đến
Gọi HS đọc khổ 2.
bên lăng Bác.
? Tìm mối quan hệ, nét tương đồng của hình 2/Cảm xúc khi đứng trước lăng:
ảnh thơ trong hai câu thơ đầu?
? Tại sao tác giả ví Bác với mặt trời? Hình
ảnh này có ý nghĩa gì ?
Mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng để
mang ánh sáng sự sống đến cho vạn vật muôn
loài thh́ trong lăng cũng có một mặt trời đó chính
là Bác. Bác chính là nguồn sáng chói lọi, rực rỡ,
đem đến sự sống, độc lập tự do, hạnh phúc cho
dân tộc Việt Nam. Ví Bác với mặt trời là h/a đã
quen, đem so sánh mặt trời trên lăng với mặt trời
trong lăng là sáng tạo riêng của Viễn Phương.
Chi tiết đặc tả mặt trời rất đỏ gợi trái tim đầy
nhiệt huyết, chân thành, trái tim yêu nước
thương dân.
Đọc những câu thơ có hình ảnh mặt trời
mang ý nghĩa ẩn dụ.

? Ngoài hình ảnh mặt trời hai câu sau còn có
hình ảnh nào gây ấn tượng.
? Tại sao tác giả nói kết tràng hoa mà không
phải là vòng hoa.
Từng đoàn người đi vào lăng viếng Bác
đúng là tạo thành một vòng tròn khiến nhà thơ
liên tưởng đến tràng hoa với muôn màu sắc rực
rỡ - biểu tượng của các dân tộc anh trên mọi
miền dất nước quây quần bên Bác. Mọi người
dường như không phải đến viếng một người đã
từ trần mà là đến viếng một cuộc đời bảy mươi
chín mùa xuân đã hiến dâng cho đời bao hoa
trái.
Chữ ngày ngày theo em là hiện tượng từ lặp
hay từ láy ?
? Ngày ngày được lặp lại có ý nghĩa gì ?
? Nhận xét về nghệ thuật của khổ thơ.

20

Hình ảnh thực
- mặt trời
Ẩn dụ (chỉ Bác)
Sự vĩ đại, tôn kính đối với
Bác.

- dòng người - tràng hoa…. -> ẩn
dụ đẹp, sáng tạo.

- Điệp ngữ: Ngày ngày -> diễn tả

thời gian vô cùng, vô tận, vĩnh
viễn không bao giờ ngừng như tấm
lòng nhân dân không nguôi nhớ
Bác.
- Nghệ thuật:
+ Hình ảnh thơ sóng đôi; lặp
cấu trúc câu.
+ Điệp ngữ, ẩn dụ; câu thơ
dài 8-9 tiếng.
+ Nhịp thơ chậm rãi.
20


=>Ca ngợi sự vĩ đại và tấm lòng
thành kính của nhân dân đối với Bác.
3/ Cảm xúc khi vào trong
lăng:
- Khung cảnh yên tĩnh, thiêng
HS đọc khổ 3.
? Hai câu thơ đầu gợi khung cảnh trong lăng liêng.
như thế nào?
- Hình ảnh:
? Nếu khổ thơ 2 ta bắt gặp hình ảnh mặt trời
+ vầng trăng
thì ở khổ này ta bắt gặp hình ảnh nào?
+ trời xanh
 gợi suy ngẫm về cái cao cả,
? Hình ảnh vầng trăng, trời xanh gợi cho em
vĩ đại, trường tồn, bất diệt của
những liên tưởng gì?

Tình cảm của nhà thơ thấy Bác như đang Bác.
ngủ trong giấc ngủ bình yên giữa thiên nhiên đẹp
và thơ mộng. Bác vẫn ở cùng ta như nhà thơ Hải
Như trong bài Chúng cháu canh giấc Bác ngủ,
BH ơi đã diễn tả rất xúc động :
Trăng ơi trăng hãy yên lặng cúi đầu
Suốt cuộc đời Bác có ngủ yên đâu
Nay Bác ngủ chúng con canh giấc ngủ.
Trong bài thơ Trăng lên Phạm Ngọc Cảnh
cũng đã viết :
Trong lăng Bác vừa chợp nghĩ
Như sau mỗi việc làm
Trăng ơi trăng biết thế
Nên trăng bước nhẹ nhàng.
Hình ảnh Bác lúc thì rực rỡ như mặt trời,
lúc sáng trong như vầng trăng lúc lại bất diệt
trường tồn như trời xanh.Người đã hoá thân vào - Từ “nghe nhói”: nỗi đau đột
ngột, sự tiếc thương vô hạn làm
vũ tụ, thiên nhiên, đất nước.
? Vẫn biết Bác còn sống mãi trong lòng mỗi đau nhói con tim.
-> Câu thơ như một tiếng
người con đất Việt. Nhưng thực tế Bác đã ra đi
mãi mãi. Mỗi lần nghĩ đến điều đó tâm trạng tác khóc nghẹ ngào.
- Nghệ thuật: ẩn dụ, câu cảm
giả như thế nào?
? Vì sao nhà thơ không viết nghe nhức/ thán, từ ngữ biểu cảm; dòng thơ 7
chữ .
nghe buốt mà lại viết “nghe nhói”?
=> Niềm xúc động thiêng
? Nhận xét nghệ thuật của khổ thơ.

? Nhận xét về không gian, thời gian nghệ liêng, thành kính, tự hào pha lẫn
nỗi đau xót.
thuật trong 3 khổ thơ đầu ? Ý nghĩa.
Mở đoạn phim Bác mất.
4/ Ước nguyện của nhà thơ:
- …thương trào nước mắt
Đọc khổ 4.
Cảm xúc mãnh liệt.
? Mai mới về Nam mà hôm nay nhà thơ đã
21

21


có tâm trạng như thế nào ?
? “Thương trào nước mắt” thể hiện cảm xúc
gì?
Nghĩ đến ngày mai về MN nỗi thương xót
trào rơi nước mắt - không phải rưng rưng, rơm
rớm mà là trào, một cảm xúc mãnh liệt.
? Phải trở về Nam tác giả chỉ có thể gửi gắm
lòng mình bằng cách nào?
Tình thương xót như nén giữa tâm hồn, làm
nảy sinh bao ước muốn.....
? Ước nguyện của VP có điểm tương đồng
với ước nguyện của ai?
? Ước nguyện của nhà thơ lắng đọng nhất ở
hình ảnh nào?
? Tại sao ở khổ thơ đầu tác giả nói đến hàng
tre, ở đây tác giả nói đến cây tre.

Hàng tre khổ 1 được cảm nhận bằng thị
giác, chỉ số nhiều - biểu tượng cho sức sống của
con người VN, dtVN. Thì khổ cuối là h/a cây tre cây tre trung hiếu - cá nhân một người nguyện
mãi ở bên Bác, được gần Bác.....
? Nhận xét nghệ thuật của khổ thơ.

Liên hệ

- Muốn làm: Con chim, đoá hoa,
cây tre trung hiếu.
-> hoá thân, hoà nhập vào cảnh vật
bên lăng Bác.
- Nghệ thuật:
+ Điệp ngữ
+ Nhịp thơ nhanh, giọng thơ
tha thiết, chân thành.
-> Thể hiện ước nguyện chân
thành, tha thiết, muốn mãi được
gần Bác.

III/ Tổng kết:
1. Nghệ thuật:
- Giọng điệu phù hợp với nội
dung, tình cảm, cảm xúc : trang
nghiêm, sâu lắng, thiết tha, đau
xót, tự hào, giàu cảm xúc.
-Thể thơ 8 chữ, cách gieo vần
? Nhận xét về nghệ thuật đặc sắc của bài
không cố định.
thơ.

- Hình ảnh thơ có nhiều sáng
tạo.
2.Ý nghĩa:
Bài thơ thể hiện tâm trạng
xúc động,tấm lòng thành kính,biết
? Bài thơ có ý nghĩa gì?
ơn, sâu sắc của tác giả khi vào
lăng viếng Bác.
Gv hướng dẫn đọc sinh viết.
IV. Luyện tập:
Gọi 1-2 em viết tốt nói trước lớp. Hs khác
Em hãy viết đoạn văn bình
nhận xét. Gv bổ sung, kết luận.
Một lần nữa cô mời các em hãy lắng nghe khổ thơ 2 của bài thơ.
lại giai điệu tha thiết, thành kính, biết ơn sâu
sắc .... ca khúc Viếng lăng Bác.
Mở bài hát Vào lăng viếng Bác. (Sau khi
hướng dẫn học sinh học ở nhà)
22

22


D. Hướng dẫn học ở nhà:
- Học thuộc lòng bài thơ và phân tích các hình ảnh ẩn dụ.
-Soạn: “ Sang thu”. Cần chú ý cảm nhận tinh tế của tác giả khi đất trời vào
thu được thể hiện qua các khổ thơ như thế nào?
E. Rút kinh nghiệm:
………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

23

23



×