Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Sử dụng sơ đồ tư duy dạy môn hình học THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.91 KB, 13 trang )

Mục lục
1. Mở đầu..............................................................................................................2
1.1. Lý do chọn đề tài:.....................................................................................2
1.2. Mục đích nghiên cứu:...............................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu:.............................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu:.......................................................................3
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:.......................................3
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm.............................................................3
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm...............................................3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.............4
2.3. Các giải pháp thực hiện...........................................................................5
2.3.1 Nắm bắt phương pháp sử dụng SĐTD để học tập, ghi nhớ:............5
2.3.2 Thiết kế sơ đồ tư duy (SĐTD):...........................................................7
Chương II học sinh được học về diện tích đa giác. Tôi giúp học sinh hệ
thống kiến thức chương II bằng sơ đồ sau:.................................................10
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường..........................................................11
3. Kết luận, kiến nghị:.......................................................................................12
3.1. Kết luận...................................................................................................12
3.2. Kiến nghị:................................................................................................12
Tài liệu tham khảo.............................................................................................13


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài:
Bộ môn toán dù là số học, đại số hay hình học thì đối với nhiều học sinh
nhận xét là một môn khô khan, một môn khó học, không có hứng thú học tập, …
Để học được yêu cầu học sinh phải có “gốc”, tức là phải học tốt, chăm chỉ từ
những bài đầu (thậm chí là đầu khóa, đầu cấp học), nắm được lý thuyết sau đó
vận dụng làm bài tập để củng cố, những việc này đòi hỏi ở người học một sự
kiên trì, nỗ lực. Tuy nhiên việc này không phải học sinh nào cũng làm được,


việc này càng khó khăn hơn khi đối tượng học sinh là những vùng đặc biệt khó
khăn. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng này, có học sinh thì gia đình không có
điều kiện, có học sinh thì do bố mẹ ít quan tâm còn phó mặc cho nhà trường, có
em thì dù được quan tâm nhưng lại không có hứng thú học toán, đặc biệt là hình
học…
Môn Toán nói chung và học Hình học nói riêng có nhiều sự liên quan đến
các môn khác, có nhiều áp dụng vào thực tế, nhưng để học tốt thì đòi hỏi ở các
em sự đầu tư lớn về thời gian, có học sinh dành rất nhiều thời gian cho môn này
nhưng hiệu quả không cao dẫn đến sao nhãng các môn học khác. Việc đưa ra
cho các em phương pháp học hiệu quả, tốn ít thời gian thực sự là một nhu cầu
cấp thiết.
Đã có nhiều SKKN cũng đề cập đến việc này nhưng đảm bảo vừa gây
hứng thú học tập cho học sinh lại vừa giúp các em rút ngắn thời gian học tập và
có thể hệ thống kiến thức một cách khoa học thì thực tế chưa có nhiều.
Qua nghiên cứu một số tài liệu, cũng như thực tế giảng dạy của bản thân,
tôi nhận thấy việc áp dụng sơ đồ tư duy (SĐTD) có thể giải quyết được các yêu
cầu trên, việc áp dụng có thể sử dụng cho hầu hết các môn học, các tiết học. tôi
chỉ xin đưa ra một trường hợp áp dụng SĐTD mà bản thân đã áp dụng đó là
Sáng kiến kinh nghiệm: “Sử dụng sơ đồ tư duy dạy môn hình học 8 học kỳ
I”. Rất mong được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để đề tài đưa
ra được hoàn thiện hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài được đưa ra để giải quyết một số thực trạng của môn toán đó là: sự
hứng thú đối với môn hình học, vấn đề thời gian, vấn đề ghi nhớ một cách logic
có hệ thống kiến thức.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài này nghiên cứu việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy hình học 8 học
kỳ I để giúp các em có thể: Rút ngắn thời gian học lý thuyết nhưng vẫn đảm bảo
nhanh nhớ, lâu quên và nhớ được một cách có hệ thống từ đó sẽ gây hứng thú
cho học sinh và có thể áp dụng cho các phần khác của môn toán hoặc các môn

học khác.

2


1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong đề tài bản thân đã áp dụng một số phương pháp như: Phương pháp
nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết; phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu
thập thông tin,…
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
Bản sáng kiến được phát triển từ sáng kiến kinh nghiệm: “Sử dụng sơ đồ
tư duy dạy chương I hình học 8”
Sáng kiến này được mở rộng thêm đối tượng nghiên cứu là bộ môn hình
học 8 học kỳ I, mở rộng thêm các ví dụ về sử dụng sơ đồ tư duy ở chương II –
Diện tích đa giác. Sử dụng SĐTD để củng cố bài học.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Việc ghi nhớ trong học tập của đại đa số mọi người nói chung, học sinh
nói riêng đều là ghi nhớ đơn thuần qua đoạn văn, học sinh khá hơn có thể ghi
nhớ theo kiểu ghi chú các ý chính (vạch các ý chính ra để học). Tuy việc ghi nhớ
như vậy đã thể hiện sự khoa học, sự bao quát, nhưng nếu chú ý phát triển hơn
chút nữa thì sẽ phát huy được khá nhiều về sự ghi nhớ, có thể nhanh nhớ mà lâu
quên hơn, mặt khác còn phát triển khả năng sáng tạo, sức tưởng tượng phong
phú, và từ đó gây hứng thú trong học tập hơn … Đó chính là áp dụng sơ đồ tư
duy (SĐTD).
Đây là một phương pháp mà các giáo viên đã được ngành tập huấn năm
2010, tuy nhiên để hiểu và áp dụng thường xuyên đôi khi có hạn chế, có thể do
thói quen ngại thay đổi, có thể do chưa nhận thấy tác dụng thực sự của sơ đồ tư
duy, tuy có nhiều SKKN đã nói về việc áp dụng SĐTD nhưng để áp dụng tốt
bản thân thiết nghĩ nó còn phải được phối hợp cùng một số phương pháp khác.

“Trước hết ta cần hiểu được não người gồm hai phần: bán cầu não trái và
bán cầu não phải. Não trái chúng ta xử lý thông tin về lập luận, toán học, phân
tích, ngôn ngữ, các chuỗi số và sự kiện … Não phải chúng ta chăm lo về những
việc như âm nhạc, sáng tạo, mơ mộng, tưởng tượng, màu sắc, tình cảm, … Do
đó trong khi học chỉ có một nửa bộ não hoạt động cho việc học – não trái. Não
phải sẽ vẫn hoạt động và gây sao nhãng việc học (chú ý ra ngoài cửa sổ, “tâm
hồn treo ngược cành cây” … ), việc này sẽ dẫn đến khả năng ghi nhớ sẽ bị hạn
chế, thậm chí không thể tập trung để học được do phần não phải không được
làm việc và nó sẽ tìm “việc làm cho mình” bằng các sự tưởng tượng bay bổng,
nghĩ đến những bộ phim, bài hát, hay hình ảnh gì đó đẹp, ấn tượng … Do đó học
sinh sẽ mất tập trung khi học, cảm thấy việc học nhàm chán” (Trích sách “tôi tài
giỏi bạn cũng thế” của Adam Khoo - một tác giả người Singapo rất nổi tiếng
với nhiều sách về phát triển con người)

3


Trong đề tài tôi đã sử dụng một số kiến thức đã tiếp thu được qua việc tìm
hiểu về “Bản đồ tư duy góp phần dạy học tích cực” của Tiến sỹ Trần Đình
Châu – BGD&ĐT. Và Sách “Tôi tài giỏi bạn cũng thế” của Adam Khoo
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Qua tìm hiểu thực tế ở học sinh cho thấy, nhiều học sinh chưa biết cách
học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một
cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, thậm chí
không hiểu nội dung của vấn đề hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến
thức có liên quan với nhau.
Khi thực nghiệm trên một lớp học mà đa số các em rất hạn chế việc tự học
ở nhà mà lý do có thể vì lười học, vì bận việc gia đình, vì không hứng thú học
tập… (lớp có mặt bằng học sinh chủ yếu là TB-khá và yếu). Bản thân tiến hành
chọn ngẫu nhiên một số học sinh, hướng dẫn và thực hành cho các em sử dụng

SĐTD, sau đó cùng một nội dung kiểm tra về khả năng đọc và ghi nhớ một đoạn
văn (định lý, tính chất, hoặc của một môn trái ban…) tiến hành trên cả lớp thì
những học sinh được học cách sử dụng SĐTD đã có thể thuộc ngay trên lớp
nhanh hơn các học sinh khác và còn nhớ rất tốt ở những ngày sau.
Dưới đây là một bảng thống kê thời gian ghi nhớ trong một bài kiểm tra
thử nghiệm của bản thân về khả năng ghi nhớ nội dung “Dấu hiệu nhận biết
hình bình hành” - hình học 8 tập I - của 2 nhóm trước khi bước vào nghiên cứu
(Bài kiểm tra sẽ cụ thể ở phần sau) :
Nhóm

Số lượng

Thời gian để nhớ Hỏi lại sau 1 tuần
được nội dung
(HS nhớ/tổng HS)

Nhóm được thực hành
10
10 phút
8/10 = 80%
ghi nhớ
Nhóm học theo thói
10
12 phút
4/10 = 40%
quen lâu nay
(Ghi chú: Ở bài kiểm tra này bản thân không yêu cầu học sinh về nhà đọc thuộc
lòng và hỏi bất chợt vào tuần sau)
4



Bảng khảo sát trước và sau khi nghiên cứu:
Bản thân tiến hành nghiên cứu đối với lớp 8B:
Mức độ ghi nhớ bài của học sinh
Thời
gian Số lượng
Khá – Tốt
TB
Yếu
KS
SL
%
SL
%
SL
%
Trước
30
8
26,7
14
44,6
8
26,7
Sau
30
13
43,3
14
46,7

3
10
2.3. Các giải pháp thực hiện.
Tổ chức riêng cho các em vào 1 buổi để truyền đạt (tập huấn) nội dung,
cách thức ghi nhớ. Sau này ở mỗi tiết dạy đều thực hành các phương pháp đã
học, và yêu cầu các em về nhà vận dụng vào bài học. Khi kiểm tra bài cũ,
khuyến khích các em thết kế lên bảng SĐTD do các em tự làm ở nhà để học bài
(Có trang bị phấn màu).
2.3.1 Nắm bắt phương pháp sử dụng SĐTD để học tập, ghi nhớ:
Bản thân tổ chức tập huấn cho học sinh các nội dung sau (khi các em đã
học xong bài hình bình hành):
a. Luyện cách tìm “từ chìa khóa” trong đoạn văn:
Trước hết để áp dụng SĐTD, cần giúp các em có khả năng thâu tóm vấn
đề, khái quát ý chính của nội dung một bài học, đó chính là khả năng: “Đọc để
nắm bắt thông tin”:
Hầu hết học sinh khi đọc sách nghĩ rằng sẽ giúp các em thêm hiểu bài và
có thêm kiến thức mới, khi học bài hay chuẩn bị thi các em sẽ dành rất nhiều
thời gian để đọc lại bài hòng cố gắng ghi nhớ mọi thứ (học “vẹt”) hoặc sẽ học
một số chỗ có khả năng đề thi sẽ vào (học “tủ”), điều này sẽ rất mệt mỏi (nếu
học “vẹt”) hoặc căng thẳng (nếu học “tủ”). Tuy nhiên để đọc hiệu quả và nắm
bắt được nhiều thông tin trong thời gian ngắn thì những học sinh giỏi không
chọn cách này. Phương pháp đọc hiệu quả ở đây chính là tìm ra các “từ chìa
khóa” trong đoạn văn. Phương pháp này chỉ yêu cầu người đọc chỉ cần đọc qua
một lần duy nhất, sau đó sẽ dùng bút ghi lại những từ chìa khóa (việc yêu cầu
tìm được các từ chìa khóa thì đương nhiên sẽ có tác dụng là học sinh phải/đã
nắm được nội dung bài học nên sẽ không thể có chuyện học “vẹt”). Theo những
gì được biết qua tài liệu tham khảo và qua thực nghiệm thì bản thân thấy rằng
nhìn chung các từ chìa khóa chiếm khoảng 40% tổng số từ trong một quyển sách
giáo khoa, còn 60% các từ còn lại hầu như không mang lại nhiều nội dung cần
truyền đạt mà nó chỉ có tác dụng nối các từ chìa khóa giúp người đọc hiểu nội

dung trong lần đọc đầu tiên.
b. Giáo viên đưa ra một số ví dụ cho học sinh:
Ví dụ 1:
“Dấu hiệu nhận biết hình bình hành”(Bài kiểm tra trước khi
nghiên cứu) :
- Tứ giác có các cạnh đối song song là hình bình hành
- Tứ giác có các cạnh đối bằng nhau là hình bình hành
5


- Tứ giác có hai cạnh đối song song và bằng nhau là hình bình hành
- Tứ giác có các góc đối bằng nhau là hình bình hành
- Tứ giác có hai đường chéo cắt nhau tại trung điểm của mỗi đường là
hình bình hành.
(Những từ gạch chân là từ khóa)
Nếu không xác định được các từ khóa thì học sinh sẽ đọc rất nhiều từ và
đọc thuộc lòng nhưng có thể sẽ không hiểu được điều gì (học “vẹt”).
So sánh cách đọc nguyên văn trên với việc rút ra những điều cần thiết ta
có thể hướng dẫn học sinh thực hiện như sau:
Dấu hiệu nhận biết hình bình hành:
Tứ giác sẽ là hình bình hành nếu:
Các cạnh đối “//”
Các cạnh đối “=”
2 cạnh đối “//” và “=”
Các góc đối “=”
2 Đ.chéo X tại tr.điểm mỗi đường.
(Chú ý các ký hiệu tắt sẽ tăng khả năng nhớ hơn vì nó Đặc biệt. Các ký tự
tắt được chú thích ở phần Phụ lục)
Học sinh tóm lại được như vậy chứng tỏ học sinh đã khái quát được một
cách tổng thể, hiểu bài.

Ví dụ 2: Một ví dụ được trích từ sách “Tôi tài giỏi bạn cũng thế”
“ Đã từ lâu, người ta biết rằng bộ não con người có thể được chia ra làm
hai phần. Phần não trái và phần não phải. Người ta cũng biết rằng não trái
điều khiển phần bên phải của cơ thể, trong khi đó ngược lại, não phải điều
khiển phần bên trái cơ thể. Bên cạnh đó người ta cũng phát hiện ra rằng việc
não trái bị hư tổn sẽ gây ra nửa phần bên phải cơ thể bị tê liệt. Tương tự nếu
não phải hư tổn sẽ khiến nửa phần cơ thể bên trái bị tê liệt.”
Sau khi đọc xong trong trí nhớ người đọc sẽ nắm bắt được một số thông
tin từ nội dung đoạn văn, tuy nhiên không phải tất cả các từ trong đoạn văn đều
góp phần mang lại lượng thông tin đó. Thông tin chỉ được nằm trong các từ
khóa được gạch chân như sau đây:
“ Đã từ lâu, người ta biết rằng bộ não con người có thể được chia ra làm hai
phần. Phần não trái và phần não phải. Người ta cũng biết rằng não trái điều
khiển phần bên phải của cơ thể, trong khi đó ngược lại, não phải điều khiển
phần bên trái cơ thể. Bên cạnh đó người ta cũng phát hiện ra rằng việc não trái
bị hư tổn sẽ gây ra nửa phần cơ thể bên phải bị tê liệt. Tương tự nếu não phải
hư tổn sẽ khiến nửa phân cơ thể bên trái bị tê liệt.”
Nếu chỉ đọc những từ khóa thôi người đọc có thể hiểu toàn bộ những
thông tin đó:
… Não người chia hai phần … não trái, não phải … não trái điều khiển bên
phải cơ thể … não phải điều khiển bên trái cơ thể … não trái hư tổn, bên phải
cơ thể tê liệt … não phải hư tổn, cơ thể bên trái tê liệt.

6


Khi đọc những từ khóa trên thì người đọc vẫn nắm bắt được toàn bộ thông
tin. Tuy nhiên việc đọc các từ thứ yếu chiếm phần lớn đoạn văn thì hầu như
không mang lại thông tin bổ ích nào:
“ Đã từ lâu, người ta biết rằng bộ … của con … có thể được chia ra làm …

Phần … và phần ... Người ta cũng biết rằng … phần … của … trong khi đó
ngược lại, … phần … Bên cạnh đó người ta cũng phát hiện ra rằng việc …bị …
sẽ gây ra nửa phần …bị ... Tương tự nếu … sẽ khiến nửa phần …bị ...”
Người đọc sẽ hầu như chẳng thu được gì từ những từ trên, vậy mà nó lại
chiếm phần lớn từ ngữ trong đoạn văn, điều này cho thấy khi học sinh học thuộc
bài một cách mù quáng thì thực sự đang phung phí một phần lớn thời gian hết
sức vô ích. Chưa kể việc ghi nhớ quá nhiều từ thứ yếu sẽ khiến người học sao
nhãng những thông tin quan trọng. Đó là lý do vì sao một số học sinh rất chăm
chỉ nhưng kết quả học tập lại không được như ý muốn, cũng như nhiều học sinh
ngại học vì học không vào, mất quá nhiều thời gian.
Một cách đọc hiệu quả nữa là: “Đọc phần tóm tắt cuối chương trước khi
học đến chương đó”. Bởi vì ở cuối chương lúc nào cũng có phần tóm lại ý
chính, và có cả những câu hỏi kiểm tra về nội dung chương đó. Khi đọc phần
cuối chương trước sẽ giúp học sinh có một khái niệm về nội dung chính của
chương, đồng thời học sinh sẽ xác định được những thông tin nào cần tìm hiểu
trong chương sách, và do đó khi học sẽ chú ý để nắm bắt những thông tin đó.
2.3.2 Thiết kế sơ đồ tư duy (SĐTD):
* Một số đặc điểm của SĐTD:
- Sử dụng SĐTD giúp học sinh tiết kiệm thời gian vì nó chỉ tận dụng
các từ khóa.
Như đã trình bày ở phần trên, sau khi đọc xong một đoạn văn, một bài
viết, thì trong não chúng ta đã nắm bắt được nội dung, sau đó ta lựa chọn các từ
khóa mang thông tin, tiếp đến sẽ sử dụng các từ khóa đó trình bày lên sơ đồ tư
duy, điều này vẫn đảm bảo nội dung đầy đủ và ngắn gọn.
- Sử dụng SĐTD tận dụng được các nguyên tắc của “Trí nhớ siêu
đẳng” (Sách “Tôi tài giỏi bạn cũng thế”)
+ Sự hình dung: Sơ đồ tư duy có rất nhiều hình ảnh để người đọc hình
dung về kiến thức cần nhớ (sử dụng các ký tự tắt, các hình vẽ thay cho câu
văn…). Sơ đồ tư duy như là một bức tranh lớn đầy hình ảnh, màu sắc phong phú
chứ không phải là một bài học khô khan, nhàm chán.

+ Sự liên tưởng: Sơ đồ tư duy hiển thị một sự liên kết giữa các ý tưởng
một cách rất rõ ràng
+ Làm nổi bật sự việc: Thay cho những từ ngữ tẻ nhạt sơ đồ tư duy cho
phép người học làm nổi bật các ý tưởng trọng tâm bằng việc sử dụng các màu
sắc, kích cỡ, hình ảnh đa dạng.
- Việc sử dụng SĐTD chính là cách để người học tận dụng cả bộ não
cho việc học.

7


Sơ đồ tư duy sử dụng rất nhiều màu sắc khiến người học phải tập trung trí
tưởng tượng, sáng tạo phong phú của mình (sử dụng não phải), sơ đồ tư duy là
một bức tranh mang tính lý luận, liên kết chặt chẽ những gì được học (sử dụng
não trái). Đây chính là công cụ học tập vận dụng được sức mạnh của cả bộ não.
Thường xuyên vận dụng sơ đồ tư duy vào học tập sẽ giúp học sinh tiết
kiệm được thời gian học tập, có hứng thú với bài học, phát triển được sự sáng
tạo, khả năng khái quát, …
* Những điều cần biết khi tạo sơ đồ tư duy:
Cần lưu ý khi thiết kế SĐTD không nên:
- Ghi lại nguyên cả đoạn văn dài dòng.
- Ghi chép quá nhiều ý vụn vặt không cần thiết.
- Dành quá nhiều thời gian để ghi chép, vẽ, tô màu.
Khi tạo sơ đồ tư duy ta cần:
- Bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề.
Tại sao lại phải dùng hình ảnh? Vì một hình ảnh có thể diễn đạt được cả
ngàn từ và giúp ta sử dụng trí tưởng tượng của mình. Một hình ảnh ở trung tâm
sẽ giúp ta tập trung được vào chủ đề và làm cho ta hưng phấn hơn.
- Luôn sử dụng màu sắc. Bởi vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não
như hình ảnh.

- Nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh
cấp hai đến các nhánh cấp một,… bằng các đường kẻ, đường cong với màu sắc
khác nhau.
- Mỗi từ/ảnh/ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ hay
đường cong.
- Tạo ra một kiểu bản đồ riêng cho mình (Kiểu đường kẻ, màu sắc, các ký
hiệu, viết tắt …)
- Nên dùng các đường cong thay vì các đường thẳng vì các đường cong
được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt hơn rất nhiều so với
đường thẳng, đường thẳng thì hầu như đường nào cũng giống nhau nên khó nhớ.
- Bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm.
* Nhìn chung một sơ đồ tư duy sẽ có cấu tạo như sau:
(Hình ảnh tham khảo từ sách “Tôi tài giỏi bạn cũng thế”)

8


* Dòng chảy thông tin:
SĐTD không như cách viết thông thường, SĐTD không xuất phát từ trái
sang phải và từ trên xuống dưới. Thay vào đó SĐTD được vẽ, viết và đọc theo
hướng bắt nguồn từ trung tâm, di chuyển ra phía ngoài và sau đó là theo chiều
kim đồng hồ. Do đó các từ ngữ trên SĐTD nên được đọc từ phải sang trái (bắt
đầu di chuyển từ trong ra ngoài), các mũi tên xung quanh SĐTD bên dưới chỉ ra
cách đọc thông tin trong sơ đồ. Các số thứ tự cũng là một cách hướng dẫn khác.

* Thực hành thiết kế SĐTD:
Ví dụ 1: Ôn lý thuyết bài Hình Bình Hành - chương I hình học 8:
Chuẩn bị:
GV: Bộ mô hình tứ giác (Đồ dùng tự làm), phấn màu.
HS: Bút 4 – 6 ngòi (mỗi ngòi 1 màu khác nhau), thước.

Hoạt động của Giáo viên
Hoạt động của Học sinh
Ví dụ 2: Một số sơ đồ tư duy của học sinh tự thiết kế (chương I Hình
học 8):
- Nếu trình bày trên bảng giáo viên cho học sinh tự chọn các hình trong bộ
đồ dùng, tự thiết kế các nhánh, điền thông tin.
- Nếu trên giấy yêu cầu các em tự trang bị cho mình một bút 4 đến 6 ngòi
khác màu, thực hiện khi các em học bài ở nhà, giáo viên sẽ kiểm tra bất kỳ và
cho điểm để khích lệ học sinh.
* Phần kiểm tra bài cũ về hình chữ nhật:
- Câu hỏi phần kiểm tra bài cũ: Hãy nêu định nghĩa, tính chất, dấu hiệu
nhận biết hình chữ nhật bằng cách thiết kế SĐTD
(đa số học sinh hoàn thành bài kiểm tra loại này từ 5 - 8 phút)
Ví dụ 3: Tiết ôn tập chương I, phần ôn tập lý thuyết về các dấu hiệu nhận
biết:
9


Giáo viên tùy theo học lực của học sinh có thể chia ra 3 mức độ:
1: Học lực TB-khá trở xuống: Xếp sẵn bộ tứ giác, sắp xếp các mũi tên
hoặc dùng phấn màu vẽ các nhánh liên quan, sau đó cho nhiều học sinh lên ghi
các dấu hiệu nhận biết ở dạng ký hiệu, viết tắt.
2: Học lực khá: Giáo viên chỉ xếp tứ giác, việc thiết kế nhánh là của HS
3: Học lực giỏi : Giao bộ đồ dùng cho các em và yêu cầu các em thực hiện
Sau khi thiết kế xong, bản thân cho học sinh nhận xét về sơ đồ, một số ý
kiến của các em:
- “Sơ đồ này giúp em đã định hình được một cách hệ thống về mối liên hệ
giữa các loại hình tứ giác”
- “Nhìn vào sơ đồ em nhận thấy hình bình hành và hình vuông là có 5 dấu
hiệu nhận biết, hình thoi và hình chữ nhật có 4 dấu hiệu nhận biết …”

Thực tế giảng dạy nhiều năm tôi thấy ở chương này học sinh rất dễ nhầm
lẫn do không định hình được một cách hệ thống, thường lúng túng khi được hỏi
về các dấu hiệu nhận biết, và thường nêu thiếu dấu hiệu nhận biết… Với cách
làm này đã khắc phục được các tồn tại trên.
Ví dụ 4: Bài kiểm tra 10 phút (kiểm tra lý thuyết):
- Trước khi kiểm tra bản
thân lưu ý cho phép các em
thỏa sức tưởng tượng, liên
hệ với những gì đó đặc biệt,
hài hước,…
- Đây là một bài làm của
học sinh mà tôi thấy khá thú
vị, khi được hỏi em nói rằng
đã liên tưởng hình bình
hành với củ hành, phần rễ
của nó là định nghĩa và tính
chất. Có 5 lá và mỗi lá là
một dấu hiệu nhận biết.
- Sau khi cho cả lớp xem sơ
đồ này nhiều học sinh tỏ ra
rất thích thú và sự thật các
em nhớ được rất lâu.
Ví dụ 5: SĐTD về hình vuông khi các em học xong chương II:
Chương II học sinh được học về diện tích đa giác. Tôi giúp học sinh hệ
thống kiến thức chương II bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ trên tôi chọn cách đi cho học sinh là từ hình chữ nhật, xuất phát từ
một bài toán thực tế “tính diện tích một sân gạch được lát bằng các viên gạch
có diện tích 1m2”, Hỏi các em về diện tích cả sân gạch, học sinh sẽ đếm số gạch,
tuy nhiên với nhiều viên gạch hơn thì các em sẽ phải đếm tổng số gạch bằng
cách lấy hàng x cột để tính tổng số gạch, và vấn đề cốt lõi là ở điểm này để xây

dựng diện tích HCN.
10


Thực tế khi giáo viên hỏi nêu công thức tính diện tích hình HCN đã học ở
tiểu học? Giáo viên sẽ nhận được hai đáp án: S = (a + b).2 và S = a.b (các em
không phân biệt được diện tích và chu vi)
Khi lấy ví dụ thực tế là diện tích sàn gạch HCN, các em sẽ hiểu bản chất
diện tích HCN và không nhầm sang chu vi, sau đó phát triển sang diện tích HCN
tổng quát (=> diện tích hình vuông), từ diện tích HCN ta tính được diện tích tam
giác vuông (bằng một nửa diện tích HCN), và tiếp tục suy luận ta tính được diện
tích tam giác thường bằng việc kẻ đường cao và xuất hiện 2 tam giác vuông (2
nửa HCN). Tiếp tục đến diện tích hình thang, hình thoi thì đều có điểm chung là
xây dựng từ tổng diện tích 2 tam giác. Cuối cùng đến hình bình hành là một hình
thang đặc biệt nên xây dựng công thức tính diện tích từ cách tính diện tích hình
thang.
Với cách này, toàn bộ công thức tính diện tích đa giác của chương II được
gói gọn trong 1 mặt giấy và nó có tính logic, liền mạch giúp các em không bị
nhầm lẫn.
Hoặc khi chỉ cần nhớ các công thức tính diện tích đa giác thì giáo viên có
thể cho học sinh vẽ SĐTD theo hướng khác, hình ảnh sau là 1 SĐTD về diện
tích đa giác do các em tự thiết kế:
VÍ dụ 6:
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Với việc áp dụng SKKN này đã thể hiện có nhiều tác dụng tích cực:
+ Tạo được hứng thú học tập cho học sinh với môn Hình học nói riêng và
các môn học nói chung (Bản thân luôn khuyến khích các em áp dụng vào các
môn khác, đặc biệt là các môn xã hội)
+ Nâng cao năng lực tưởng tượng, sự tập trung, sự sáng tạo cho học sinh,

giúp các em vận dụng được cả bộ não vào việc học do đó các em tiếp thu nhanh
hơn và nhớ lâu.
+ Rút ngắn thời gian học tập của các em. Giảm bớt tình trạng “quá tải”
khi học sinh muốn học tốt được tất cả các môn.
+ Việc yêu cầu các em lọc ra “từ chìa khóa” sau khi đọc xong một đoạn
văn đã giúp các em hiểu được vấn đề, dễ nhớ. Sau đó sử dụng các từ đó thiết kế
SĐTD đã giúp cho nhiều học sinh từ chỗ học không sôi nổi, nhàm chán,… đã có
cái nhìn khác khi áp dụng phương pháp này, đặc biệt là những học sinh thích vẽ,
nhiều em đã áp dụng với các môn khác và hiệu quả được nâng lên rõ rệt.
+ Khi ôn tập chuẩn bị cho thi hoặc kiểm tra chỉ cần các em xem lại một số
SĐTD, nội dung cả chương kiến thức chỉ gói gọn trong một vài sơ đồ, thậm chí
chỉ 1 mặt giấy, trong khi nếu vẫn học theo thói quen lâu nay các em sẽ phải học
và đọc rất nhiều vừa tốn thời gian mà chưa chắc đã hiểu vấn đề nếu học vẹt.
+ Có nhiều phần mềm thiết kế SĐTD (Imindmap; Mindmapple, Coggle,
Blumind, Minharchitect...) đòi hỏi phòng học phải có máy chiếu, và đối tượng
người học phải sử dụng được máy tính nên tôi chưa áp dụng vào SKKN này mà

11


chỉ thiết kế bằng tay vì nó tiện lợi trong việc hướng dẫn học sinh và phù hợp với
điều kiện nhà trường.
3. Kết luận, kiến nghị:
3.1. Kết luận
Vì thói quen rất khó thay đổi, do đó để duy trì tốt việc áp dụng SĐTD
giáo viên cần phải thường xuyên khích lệ, nhắc nhở các em áp dụng SĐTD vào
học tập, khi mới bắt đầu áp dụng, một số học sinh có khó khăn trong việc thiết
kế sơ đồ (mất nhiều thời gian, vẽ xấu,…) nhưng chỉ sau một vài sơ đồ tự thiết kế
cùng với việc hiểu rõ những lưu ý khi thiết kế SĐTD thì các em đã có thể tự
thiết kế SĐTD một cách thuần thục và nhanh chóng.

Để học tốt, chỉ cần người học đầu tư chút thời gian ban đầu để thiết kế sơ
đồ tư duy thì việc hệ thống kiến thức, nắm kiến thức trọng tâm trở nên rất dễ
dàng và nhanh chóng, do đó giáo viên cần phải kiên trì thay đổi thói quen học
tập thiếu hiệu quả của các em lâu nay chẳng hạn: cầm quyển sách và đọc đi đọc
lại cả buổi hòng thuộc lòng không bỏ sót từ nào, cách học này rất không tốt vì sẽ
tạo ra lối suy nghĩ và cách làm việc máy móc cho học sinh…Với những ưu điểm
và lưu ý đã đưa ra bản thân tin rằng việc áp dụng SĐTD vào dạy học là phương
pháp dễ áp dụng và có thể phổ biến được một cách sâu rộng cho học sinh, giúp
nâng cao chất lượng giáo dục đại trà, giáo dục mũi nhọn.
Bản thân chỉ xin được đưa ra việc áp dụng của SĐTD trong phần hình học
lớp 8 học kỳ I. Thực tế, sử dụng SĐTD có thể dạy được hầu hết các môn học,
thậm chí SĐTD còn có thể áp dụng vào nhiều lĩnh vực không phải giáo dục khi
người ta cần ghi nhớ vấn đề gì đó trong công tác quản lý, trong công việc hàng
ngày,…
3.2. Kiến nghị:
Sáng kiến kinh nghiệm này là do sự đúc rút kinh nghiệm của bản thân
trong quá trình giảng dạy tại trường THCS Bình Lương và qua nghiên cứu một
số tài liệu, chắc chắn cũng không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, rất
mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp để bản Sáng kiến được hoàn thiện và
áp dụng một cách có hiệu quả vào thực tế giáo dục học sinh.
Bên cạnh đó bản thân cũng rất mong được học hỏi các sáng kiến kinh
nghiệm cùng chuyên môn đã được xếp loại ở cấp huyện, cấp tỉnh (có thể thông
qua Internet như Vnedu, trường học kết nối …hoặc qua một số lớp tập huấn) để
bản thân có thể áp dụng vào giảng dạy tại địa phương nơi công tác.
XÁC NHẬN
Như Xuân, ngày 10 tháng 4 năm 2018
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
NGƯỜI VIẾT


Vi Đức Thiện
12


Tài liệu tham khảo
1. Sách giáo khoa, sách giáo viên toán 6, 7, 8, 9
2. Tài liệu tập huấn “Sử dụng bản đồ tư duy góp phần dạy học tích cực
và hỗ trợ công tác quản lí nhà trường” - TS. Trần Đình Châu – Bộ GD&ĐT
3. Sách “Tôi tài giỏi bạn cũng thế” – Adam khoo – Singapo.
Một số ký tự viết tắt











Sơ đồ tư duy:
Song song:
Bằng nhau:
Cắt nhau:
Trung điểm:
Đường chéo:
Vuông góc:
Hình

Hình chữ nhật:
Đường thẳng:

SĐTD
//
=
X
Tr.điểm
đ.chéo

H
HCN
đt

13



×