Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

BỐN GIẢI PHÁP đổi mới TRONG dạy và học môn GIÁO dục QUỐC PHÒNG NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH cực của học SINH ở TRƯỜNG THPT THIỆU hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.51 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT THIỆU HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

BỐN GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TRONG DẠY VÀ HỌC
MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG NHẰM PHÁT HUY TÍNH
TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT THIỆU HÓA

Người thực hiện: La Khắc Phùng
Chức vụ:
Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: GDQP-AN

THANH HÓA, NĂM 2019

1


MỤC LỤC
Mục

Tiêu đề

Trang

I. MỞ ĐẦU

1
1



1. Lý do chọn đề tài
2.
3.
4.

Mục đích nghiên cứu

2

Đối tượng nghiên cứu

2

Phương pháp nghiên cứu

2

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1.

Cơ sở lý luận

2

2.

Thực trạng vấn đề nghiên cứu

3


3.

Các giải pháp tổ chức thực hiện

4

3.1

Tổ chức cho học sinh viết chuyên đề để học tốt môn GDQP-AN

5

3.2

Ứng dụng CNTT trong dạy - học để nâng cao hiệu quả giờ dạy GDQP-AN

7

3.3

Sử dụng các hình thức dạy học linh hoạt để phát huy tính tích cực của học sinh

11

3.4

Chú trọng đến công tác tuyển chọn - ôn luyện tham gia Hội thao GDQP-AN

16


cấp tỉnh
4.

Hiệu quả của sáng kiến

17
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

1.

Kết luận

18

2.

Kiến nghị

19

2


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, giáo dục quốc phòng - an ninh ( GDQP-AN) là
một bộ phận của nền giáo dục quốc dân. Việc GDQP-AN cho học sinh là
nhiệm vụ hết sức quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc gia, góp phần bồi
dưỡng cho thế hệ trẻ những kiến thức cơ bản về đường lối quân sự, quốc phòng

của Đảng ta và kỹ năng quân sự để sẵn sàng tham gia lực lượng vũ trang khi
cần thiết, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong chiến lược đào
tạo con người mới XHCN.
GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong chiến
lược đào tạo con người mới XHCN, nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ nói chung,
học sinh nói riêng lòng yêu nước, yêu CNXH, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần
tập thể, tư duy và kiến thức quân sự, chuẩn bị nhân lực và đào tạo nhân tài cho
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đây là một trong những nội dung giáo dục toàn diện
trong nhà trường, góp phần hình thành nhân cách con người mới XHCN. Mặt
khác, GDQP-AN còn trang bị kiến thức, ý thức xây dựng bảo vệ Tổ quốc, góp
phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Sau nhiều năm giảng dạy môn Giáo dục quốc phòng – an ninh theo
phương pháp bản thân tôi nhận thấy trong một tiết dạy giáo viên phải chuyển
tải nhiều kiến thức đồng thời phân chia thời gian học lý thuyết cũng như thực
hành phải hợp lý khoa học mới giải quyết được hết trọng tâm nội dung bài dạy.
Mặt khác không để học sinh xem nhẹ phần lí thuyết hay phần thực hành mà
cần hướng cho các em cách học và yêu thích môn học, vì thế đòi hỏi giáo viên
phải vận dụng và phát huy tốt việc đổi mới phương pháp dạy học.
Đổi mới phương pháp dạy và học, phương pháp kiểm tra, đánh giá theo
hướng tích cực hoá quá trình học tập của học sinh, tạo cho học sinh tự chủ
động học tập, chủ động nắm nội dung kiến thức môn học, từ những lí do trên
tôi trăn trở nghiên cứu và thực hiện đề tài “ Bốn giải pháp đổi mới trong Dạy
và Học môn Giáo dục quốc phòng nhằm phát huy tính tích cực của học sinh ở
trường THPT Thiệu Hóa”
3


2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng - an ninh cho học sinh ở

trường THPT, thông qua đó giáo dục các em tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước
và tự hào dân tộc.
3. Đối tượng nghiên cứu
Các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng - an ninh cho
học sinh ở trường THPT Thiệu Hóa
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra thông tin, phương pháp khảo sát thực tiễn
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp
- Phương pháp xử lý số liệu
- Phương pháp kiểm tra đánh giá
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển tính năng
động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học
lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Để đạt được mục tiêu đề ra là đảm bảo chất lượng giáo dục ổn định và
phát triển vững chắc. Ngay từ đầu năm học trường THPT Thiệu Hóa đã chỉ đạo
làm tốt công tác tuyên truyền đến toàn thể cán bộ, giáo viên, học sinh và các
bậc phụ huynh hiểu rõ mục đích, yêu cầu của việc nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện trong đó có bộ môn GDQP-AN.
Môn học giáo dục quốc phòng – an ninh đã trang bị cho các em học sinh
những tri thức cơ bản của nền giáo dục quốc phòng toàn dân, những hiểu biết
về tổ chức QĐND Việt Nam, về nhà trường quân đội, về lịch sử QĐND Việt
Nam, truyền thống đấu tranh dựng nước - giữ nước của dân tộc và Luật biên
giới Quốc gia. Đó là những kiến thức rất bổ ích, thiết thực với học sinh phổ
thông trước ngưỡng cửa cuộc đời. Học sinh còn được làm quen với tác phong
quân đội qua các bài học về điều lệnh, đội ngũ, các tư thế vận động cơ bản
4



trong chiến đấu, băng bó, cứu thương....làm quen với các phương tiện chiến
đấu như ném lựu đạn, cách bắn súng tiểu liên AK ... Qua học tập môn Giáo dục
quốc phòng – an ninh đã giáo dục cho học sinh lòng yêu nước - tự hào dân tộc,
nâng cao tinh thần cảnh giác, chống mọi âm mưu diễn biến hoà bình của kẻ
thù. Toàn bộ chương trình học tập của từng khối được xây dựng theo chương
trình hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, đảm bảo dạy đủ môn, đủ tiết, đúng phân phối
chương trình. Vì vậy các tiết học giáo dục quốc phòng - an ninh học sinh tham
gia học cần đầy đủ tích cực sôi nổi và hào hứng.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.1. Thực trạng của đơn vị, thuận lợi và khó khăn
* Thuận lợi:
Trường Trung học phổ thông Thiệu Hóa luôn được các cấp lãnh đạo quan
tâm sâu sát nhất là về vấn đề chuyên môn, là đơn vị có bề dày về chất lượng
trong nhiều năm. Trường có một đội ngũ sư phạm tay nghề vững vàng đều đạt
chuẩn và trên chuẩn về kiến thức, có chuyên môn, nhiệt tình, tận tụy với công
tác quản lý và giảng dạy.
Tập thể sư phạm nhà trường về tuổi đời công tác được dàn trải qua nhiều
thế hệ, và luôn có sự đoàn kết gắn bó mật thiết với nhau.
Đối với môn Giáo dục quốc phòng – an ninh. Nhà trường cùng các cấp
lãnh đạo luôn quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi. Đội ngũ giáo viên giáo dục
quốc phòng – an ninh đều được đào tạo vững về chuyên môn, nhiệt tình và tâm
huyết với môn học. Nề nếp, kỷ cương của nhà trường đối với học sinh chặt chẽ
qua từng cấp, từng khâu nên đa phần các em chăm ngoan và có ý thức học tập
tốt.
Trường THPT Thiệu Hóa là một trong những đơn vị trong huyện có điều
kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, tương đối đảm bảo giáo dục quốc phòng –
an ninh cho gần 1200 học sinh.
* Khó khăn:

Thao trường không đủ điều kiện để tập luyện
Kinh phí còn hạn chế, dụng cụ, trang thiết bị cho môn học đã có từ nguồn
được Sở Giáo dục – Đào tạo cấp và một số tự trang bị nhưng vẫn còn thiếu :
Tranh ảnh giảng dạy còn hạn chế ở một số nội dung.
2.2. Thực trạng giảng dạy

5


Đây là môn học có tỉ lệ lí thuyết chiếm hơn 60% nội dung chương trình
môn học
- Về học sinh: chưa say mê, yêu thích môn học, các em còn dành nhiều
thời gian cho các môn học khác ( như Toán, Lí, Hóa, tiếng Anh, Ngữ văn..) để
thi đại học và cao đẳng cho nên các em còn xem nhẹ môn này
- Về giáo viên: Chưa đầu tư nhiều thời gian về phương pháp, hình thức
tổ chức dạy học nên chưa thu hút các em yêu thích môn học này.
Bản thân tôi đã từng đảm nhiệm dạy môn học GDQPAN cho học sinh cả
3 khối lớp 10,11,12. Qua quá trình công tác đến nay tôi đã không ngừng học
tập nâng cao trình độ chuyên môn, tìm ra các phương pháp mới để giúp các em
học tốt hơn và rút ra kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy.
Trước khi thực hiện đề tài tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học tập
của học sinh ở môn học này ở 3 khối, kết quả như sau:
Xếp loại
Năm học
2018-2019

Đạt

Chưa Đạt


93%

7%

Từ những thực tiễn trên, tôi đã trăn trở làm thế nào để thu hút học sinh
yêu thích môn học, vì thế tôi đã nghiên cứu và thực hiện đề tài “ Bốn giải pháp
đổi mới trong Dạy và Học môn Giáo dục quốc phòng nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh ở trường THPT Thiệu Hóa”
3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
3.1. Tổ chức cho học sinh viết chuyên đề để học tốt và yêu thích bộ môn giáo
dục Quốc phòng- An ninh
a. Giáo viên hướng dẫn học sinh viết chuyên đề
Giáo dục quốc phòng-an ninh trong ngành giáo dục đã có những chuyển
biến mạnh mẽ từ nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý các cấp đến việc tổ
chức thực hiện ở từng cơ sở, nhà trường, đơn vị. Các cơ quan quản lý giáo dục
đã có sự chỉ đạo kiên quyết để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục quốc phòng - an
ninh trong toàn ngành. Giáo dục quốc phòng, an ninh cho học sinh các trường
ngày càng có chất lượng, hiệu quả đã tạo ra môi trường học tập, rèn luyện cho
học sinh.
Từ nhận thức trên tôi đã chọn lựa các câu hỏi làm chuyên đề nghiên cứu
giúp các em nắm vững kiến thức sâu rộng về chuyên đề từ chương trình mình
học, tôi đã chọn 4 câu hỏi sau làm đề tài hướng dẫn học sinh tự viết chuyên đề:
6


Câu 1: Anh ( Chị) hãy nêu những nội dung cơ bản của Luật Nghĩa vụ quân
sự Trách nhiệm của học sinh trong việc chấp hành Luật Nghĩa vụ quân sự ?
Câu 2: Anh (Chị) hãy nêu những nội dung cơ bản xây dựng nền quốc phòng
toàn dân vững mạnh thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá? Trách nhiệm của
học sinh trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.

Câu 3: Anh (Chị) hiểu thế nào là toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển đảo Việt
Nam; Quần đảo Hoàng sa, Trường sa thuộc tỉnh nào của nước ta? Trách nhiệm
của bản thân đối với việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển đảo?
Câu 4: Anh (Chị) hiểu thế nào là ma túy, tác hại của ma túy, trách nhiệm của
học sinh trong phòng, chống ma túy ?
Với 4 câu trên tôi đã phân ra thành 4 chuyên đề: ( mỗi lớp chia làm 3
nhóm, mỗi nhóm đảm nhiệm một chuyên đề)
* Đối với khối lớp 11 các em sẽ thực hiện 3 chuyên đề sau:
- Luật nghĩa vụ quân sự.
- Toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển đảo Việt Nam.
- Tác hại của ma túy, trách nhiệm của học sinh trong phòng, chống ma
túy.
* Đối với khối lớp 12 các em thực hiện 3 chuyên đề:
- Những nội dung cơ bản xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh
thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá?
- Toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển đảo Việt Nam
- Tác hại của ma túy, trách nhiệm của học sinh trong phòng, chống ma
túy.
Để thực hiện một chuyên đề trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh phần
trình bày, trình tự bố cục nội dung của chuyên đề. Học sinh viết trên giấy A4,
có trang bìa, trang mục lục, các thành viên của nhóm, cùng trao đổi cùng thực
hiện lấy ý kiến của từng thành viên và viết nội dung theo: lời mở đầu, nội
dung, và kết luận vấn đề
b. Học sinh thực hành
Một lớp chia thành 3 nhóm, mỗi nhóm sẽ chọn đề tài nghiên cứu và sẽ
đăng ký danh sách thành viên nhóm với lớp trưởng.
Khi một nhóm đăng ký viết chuyên đề: Nhóm trưởng sẽ phân công các
thành viên khác trong nhóm thu thập thông tin, các em sử dụng USB để lấy
thông tin, hình ảnh từ trên mạng, nếu nhóm nào không có điều kiện thu thập
7



thông tin trên mạng thì lấy thông tin trên sách, báo, tạp chí…trong nhóm chọn
ra em nào giỏi vi tính nhất sẽ chịu trách nhiệm thiết kế chuyên đề, và mỗi em
điều bắt buộc phải nêu ý kiến cá nhân về chuyên đề mà mình chọn, trong quá
trình lấy thông tin các em sẽ chọn lọc thông tin cho phù hợp với chuyên đề và
nhóm trưởng sẽ cùng các thành viên nhóm đưa ra ý kiến của chuyên đề, cuối
cùng chuyên đề được đóng thành cuốn (kèm theo đĩa CD nếu có).
* Giáo viên nhận chuyên đề và chấm điểm:
- Về cách trình bày chuyên đề
- Nội dung chuyên đề.
- Kết luận
- Ý kiến của từng thành viên nhóm.
- Giáo viên chấm điểm chuyên đề, khen thưởng tuyên dương lớp, nhóm
làm tốt
Sau đó tất cả các chuyên đề được đưa về phòng thư viện trường, phòng
đọc để tất cả các em có thể đến xem và tham khảo khi cần.
Tóm lại: Từ việc tổ chức cho các em viết chuyên đề giúp các em tự tìm
tòi nghiên cứu tài liệu, hiểu và nhận thức sâu hơn về quốc phòng – an ninh, từ
đó giúp các em thêm yêu thích môn học này hơn.
3.2. Ứng dụng CNTT trong dạy – học để nâng cao hiệu quả giờ dạy Giáo
dục Quốc phòng- an ninh
Việc chuyển từ phương pháp giảng dạy truyền thống sang giảng dạy
bằng giáo án điện tử là việc làm mà không còn là mới mẻ với xu hướng giáo
dục hiện nay, thiết kế bài dạy trình chiếu đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư về
thời gian, tìm tòi tài liệu thiết kế bài giảng cho phù hợp với nội dung bài dạy và
đối tượng học sinh
Bài giảng điện tử cần được thiết kế sao cho có nội dung và hình thức
trực quan, sinh động và lôi cuốn; vì vậy, phải lồng ghép thêm các tư liệu hình
ảnh, các đoạn phim ngắn hay âm thanh có liên quan đến nội dung bài giảng;

yếu tố thẩm mỹ cũng cần được coi trọng trong việc thiết kế bài giảng điện tử
sao cho có màu sắc, hình thức đẹp nhưng không rối mắt do tạo quá nhiều hiệu
ứng (chuyển trang, chạy chữ…) làm cho học sinh mất tập trung vào nội dung
chính của bài giảng và mất thời gian vô ích.
Các công đoạn thường theo một qui trình sau:

8


Công việc đầu tiên khi thiết kế slide cho bài giảng điện tử là phải chọn
màu nền, phông chữ, kiểu chữ và cỡ chữ cho bài giảng. Đây là khâu khá quan
trọng, nội dung kiến thức cần đưa lên ngắn gọn, dễ hiểu, trực quan, sinh động,
giúp học sinh hưng phấn hơn khi tiếp thu bài giảng
Ví dụ : Áp dụng vào bài cụ thể tôi thiết kế bài giảng trên Powerpiont.
Bài 3: Bảo vệ chủ quyền và biên giới quốc gia (GDQP-AN lớp 11), tiết
10 PPCT, để củng cố nội dung trọng tâm của bài “Một số quan điểm của Đảng
và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bảo vệ biên giới quốc
gia”, tôi sử dụng phương pháp củng cố bài bằng “Trò chơi ô chữ”. Cách thức
tiến hành cụ thể như sau:
- Chuẩn bị: Dựa vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của toàn bài và nội dung
trọng tâm của tiết 10, tôi thiết kế bài giảng trên Powerpiont. Phần củng cố bài
tôi thiết kế Trò chơi ô chữ với 7 ô hàng ngang, ô chữ đặc biệt có 7 chữ cái
( theo mẫu ). Biên soạn câu hỏi, gợi ý cho mỗi ô hàng ngang .
- Cách tiến hành: Chia lớp thành 4 đội, chọn đội trưởng. Chọn lớp
trưởng, Bí thư chi đoàn trợ giúp. Phát mẫu ô chữ cho các đội.
- Luật chơi: Mỗi đội được quyền lựa chọn một ô chữ bất kì. GV đọc câu
hỏi và gợi ý, trong thời gian 15 giây toàn đội suy nghĩ. HS trả lời bằng giấy
hoặc giành quyền trả lời bằng cách giơ tay (có thể sử dùng cờ), mỗi câu trả lời
đúng sẽ có một từ khóa in đậm xuất hiện. Các từ khóa xuất hiện không theo thứ
tự. Đội trả lời đúng được 10 điểm. Trả lời sai mất quyền ưu tiên cho các đội

còn lại. Trả lời xong 7 ô hàng ngang mới được giải ô chữ đặc biệt. Ô chữ đặc
biệt có 7 chữ cái (viết hoa không dấu). Phần thưởng có giá trị về tinh thần.
- Thời gian chơi: 5-7 phút. Kết thúc trò chơi GV tổng kết, nhận xét, qua
đó hệ thống lại các nội dung trọng tâm.
Câu hỏi gợi ý cho các ô hàng ngang như sau:
1. Hàng ngang số 1 có 7 chữ cái : Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện
biện pháp này trong giải quyết phân định biên giới?
( Đàm phán)
2. Hàng ngang số 2 có 5 chữ cái: “………xây Trường Sa” là tên một phong
trào do Báo Tuổi trẻ và Trung ương Đoàn phát động”.
( Góp đá)
3. Hàng ngang số 3 có 9 chữ cái: “Bộ đội ……..là lực lượng nòng cốt trong
quản lí, bảo vệ biên giới quốc gia”
9


( Biên phòng)
4. Hàng ngang số 4 có 8 chữ cái: “Sẵn sàng…..” là yêu cầu xây dựng lực
lượng vũ trang chuyên trách trong quản lí bảo vệ biên giới quốc gia. Đây còn
là biện pháp bất khả kháng để bảo vệ biên giới quốc gia.
( Chiến đấu)
5. Hàng ngang số 5 có 7 chữ cái : Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta: “ Xây
dựng, quản lí, bảo vệ biên giới quốc gia là trách nhiệm của…”
( Toàn dân)
6. Hàng ngang số 6 có 7 chữ cái : Đây là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ biển
đảo của Tổ quốc.
( Hải quân)
7. Hàng ngang số 7 có 7 chữ cái: Đây là quan điểm của Đảng, Nhà nước và là
mong muốn của nhân dân ta trong xây dựng biên giới với các nước láng
giềng? Cũng là tên của một của khẩu Quốc tế giữa Việt Nam và Trung Quốc,

trước đây còn có tên gọi là Ải Nam Quan?
( Hữu nghi)
* Ô chữ đặc biệt có 7 chữ cái (không dấu): Đây là quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta trong xây dựng biên giới, giải quyết các vấn đề về biên giới?
( Hòa bình)

Ð

À M P H
G Ó P Ð
B I
Ê N P
C H
I
? N
T O À N D
H ? I
Q U
H ?
U N G

1
2
3
4
5
6
7

H


O

A

B

Á
Á
H
Ð
Â
Â
H

N
Ò N
? U
N
N
?

I

G

N

H


Khung trò chơi ô chữ thiết kế trên Powerpiont

10


Tóm lại: Với việc dạy học bằng giáo án điện tử giáo viên sẽ hạn chế tối
đa việc viết bảng, giảng, học sinh hứng thú hơn thu hút các em học tập hơn,
tránh được sự tẻ nhạt và áp lực cho các em trong giờ học
3.3. Sử dụng các hình thức dạy học linh hoạt để phát huy tính tích cực của
học sinh
a. Tổ chức hình thức “thảo luận nhóm” giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến
thức
“Thảo luận nhóm” là một hình thức học tập mang tính hợp tác nhằm
nâng cao chất lượng của học sinh – học sinh đóng vai trò chủ động, giảm bớt đi
phương pháp học tập trước đây, thầy đọc – trò chép; thầy giảng – trò
nghe….giúp cho người học chiếm lĩnh kiến thức chứ không phải lĩnh hội kiến
thức. Học sinh có cơ hội giao lưu, trao đổi, thảo luận với nhau, tự chiếm lĩnh
được kiến thức, để đạt được kết quả cao trong học tập về nhiều mặt.
Đây là một hình thức để thay đổi phương pháp trong dạy và học. Nó đòi
hỏi những kĩ năng cơ bản về tính tự tin, kỹ năng làm việc, giao tiếp trong
nhóm. Học sinh được luân phiên làm nhóm trưởng, nhóm trưởng có nhiệm vụ
điều hành, phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm, thông qua HĐ
này đã trang bị cho các em kĩ năng quản lí điều hành ( tùy theo nội dung bài có
thể phân nhóm lớn hoặc nhóm nhỏ)
Ví dụ: Bài học ở lớp 10, ngay bài học đầu tiên
Bài 1: Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Phần I – Lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam
- Giáo viên nêu câu hỏi: Bằng những kiến thức lịch sữ đã học, em hãy lập
dàn ý về : “Lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam” ?
- Chia nhóm- thảo luận, yêu cầu các nhóm lập dàn ý trong thời gian do

giáo viên quy định. Giáo viên quan sát hoạt động của các nhóm,
- Nhóm trình bày kết quả, nhóm khác nhận xét
- Học sinh hệ thống lại nội dung kiến thức. GV chốt lại nội dung bài
Ví dụ: Bài học ở lớp 11
Bài 2: Luật nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm của học sinh
Phần II, mục 3: Trách nhiệm của học sinh.
- Giáo viên nêu câu hỏi: Em hãy trình bày trách nhiệm của học sinh trong
việc thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự ?
- Học sinh thảo luận về trách nhiệm của bản thân đối với việc thực hiện luận
NVQS. Các em và trình bày kết quả- Nhận xét, chốt kiến thức
Bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia
11


Phần III: Bảo vệ Biên giới quốc gia nước CHXHCN Việt Nam, mục 2:
trách nhiệm của công dân.
- GV đặt câu hỏi: Là một công dân của nước CHXHCN Việt Nam bản
thân em phải làm gì để xây dựng và quản lí, bảo vệ biên giới quốc gia ?
- Nhóm cùng thảo luận
- Đại diện nhóm học sinh trình bày kết quả - các nhóm khác nhận xét.
- Chốt nội dung.
Ví dụ: Bài học ở lớp 12
Bài 2: Một số hiểu biết về nền Quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Giáo viên cho các em thảo luận về những biện pháp chủ yếu để xây
dựng nền QPTD-ANND vững mạnh trong giai đoạn hiện nay và trách nhiệm
của học sinh trong xây dựng nền QPTD-ANND.
Qua những cách này chúng ta đã dần giúp cho các em chủ động, tự tin
làm quen với cách học mới và quan trọng là các em tự nói ra được những điều
mình hiểu, nhận thức được quyền, bổn phận , trách nhiệm của 1 công dân đối
với quê hương đất nước qua tiết học quốc phòng- an ninh

b. Củng cố bài giảng bằng thiết kế và sử dụng các sơ đồ, bảng biểu, tranh
ảnh, phim tài liệu
Phương pháp này giúp HS nắm được kiến thức thông qua khả năng phân
tích, so sánh và móc nối, liên hệ các kiến thức.
Thường áp dụng với những bài lý thuyết, mang tính so sánh hay tổng
quát, có thể sử dụng các sơ đồ, bảng biểu , tranh ảnh, phim tài liệu….để hệ
thống lại kiến thức như: Triệu chứng của các tai nạn thông thường (Bài 6 lớp
10); Điểm giống và khác nhau giữa lựu đạn Phi 1 và lựu đạn chày (Bài 6 lớp
11); Phân biệt các loại chảy máu (Bài 7 lớp 11); Sơ đồ các vùng nước (Bài 3
lớp 11); Chức năng nhiệm vụ của các tổ chức QĐND, CAND (Bài 3 lớp 12),
giúp các em có kiến thức hệ thống và lôgic.
c. Củng cố bài giảng bằng cách cho học sinh tự tổng kết kiến thức
Phương pháp củng cố này rèn cho học sinh kĩ năng trình bày vấn đề
trước đám đông và kĩ năng tóm lược vấn đề. Phương pháp này thường áp dụng
với những bài nội dung đơn giản, dễ tổng kết lại kiến thức.
Sau khi đã học phần nội dung bài, GV có thể cho cá nhân học sinh tự tổng
kết kiến thức thông qua câu hỏi mở để các em tự hệ thống lại và nêu trước lớp,
hoặc cóp thể cho học sinh nêu miệng cá nhân. Sau khi học sinh củng cố cố nội
dung kiến thức đúng, giáo viên chốt lại để khắc sâu hơn cho các em
d. Củng cố bài giảng bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan

12


Phương pháp này giúp kiểm tra đánh giá nhận thức của HS, khảo sát
được số lượng lớn HS,và cho kết quả khảo sát nhanh. Qua đó cũng giúp HS
nắm lại những nội dung kiến thức trọng tâm của bài một cách cô đọng, tạo sự
hứng thú cho HS và sự sinh động của tiết học. Phương pháp này cũng phù hợp
với yêu cầu đổi mới kiểm tra, đánh giá hiện nay.
- Chuẩn bị: GV căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng để biên soạn hệ

thống câu hỏi trắc nghiệm khách theo các dạng: câu trắc nghiệm đúng sai, câu
trắc nghiệm có nhiều lựa chọn, câu trắc nghiệm ghép hợp, điền khuyết vào chỗ
trống. GV có thể biên soạn trên giấy khổ lớn A0 hoặc soạn trên Powerpiont để
tăng tính sinh động.
Để tạo sự sinh động, thi đua và rèn luyện kĩ năng làm việc tập thể. Thời
gian cho phần củng cố thường từ 5 đến 7 phút vì vậy khi soạn câu hòi trắc
nghiệm, GV nên chọn những nội dung trọng tâm, có hệ thống, đầy đủ các dạng
câu trắc nghiệm và chỉ có 1 đáp án đúng, số lượng câu hỏi phù hợp từ 10 đến
12 câu. (Làm phiếu trả lời nếu muốn kiểm tra nhận thức của cả lớp, hoặc trả lời
trực tiếp khi câu hỏi trình chiếu xuất hiện).
- Thời gian suy nghĩ và trả lời cho mỗi câu khoảng 15 giây.
- GV công bố đáp án, tổng kết, đánh giá, sửa sai và phát thưởng động
viên nếu có.
- Củng cố lại toàn bộ kiến thức
Câu 1: Quân đội nhân dân Việt Nam bao gồm:
A. LL thường trực và LL dự bị, dân quân tự vệ, LL an ninh
B. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng; LL thường trực
và LL dự bị
C. LL an ninh, LL cảnh sát, dân quân tự vệ
D. Dân quân tự vệ, QĐND, CAND
Câu 2: Quân nhân chuyên nghiệp trong quân đội nhân dân Việt Nam có:
A. 1 cấp, 4 bậc; B. 2 cấp, 8 bậc;
C. 3 cấp, 12 bậc; D. 12 bậc
Câu 3: Hệ thống nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam có tất cả là bao
nhiêu Học viện?
A. 10
B. 9
C. 11
D. 12
Câu 4: Quân đội nhân dân Việt Nam có mây Quân khu?

A. 5;
B. 6;
C. 7;
D. 8
Câu 5: Để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân cần lưu ý
bao nhiêu đặc điểm ?
A. 3
B. 4
C. 6
D. 5
Câu 6: Công an nhân dân Việt Nam bao gồm:
13


A. Dân quân tự vệ, QĐND, CAND
B. LL thường trực và LL dự bị, dân quân tự vệ, LL an ninh
C. LL an ninh và LL cảnh sát
D. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng; LL thường
trực và LL dự bị
Câu 7: Hệ thống nhà trường Công an nhân dân có mấy trường Đại học?
A. 2
B. 3
C. 4
D. 5
Câu 8: Trong hệ thống tổ chức Công an nhân dân Việt Nam Sĩ quan kỹ thuật
có tất cả là bao nhiêu bậc ?
A. 5
B. 7
C .8
D. 12

Câu 9: Ngày - tháng - năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam ?
A. 22/12/1946
B. 22/12/1944
C. 22/12/1945
D. 27/7/1945
Câu 10: Tập hợp đội hình tiểu đội 1 hàng dọc có mấy bước?
A. 3
B. 4
C. 5
D. 6
Câu 11: Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam có bao nhiêu bậc ?
A.5
B. 2
C. 12
D. 8
Câu 12: …......… là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ
nghĩa và nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc
lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc là khái niệm về vấn
đề gì ?
A. Quốc phòng toàn dân.
B. An ninh quốc gia
C. An ninh nhân dân.
D. Quốc phòng
Câu 13: …...... là công việc giữ nước của một Quốc gia, gồm tổng thể các hoạt
động đối nội, đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học là:
A: Quốc phòng toàn dân.
B: Quốc phòng.
C: An ninh Quốc gia.
D: An ninh nhân dân
e. Củng cố bài giảng bằng các trò chơi tổ chức trong phòng học

Phương pháp này tạo sự hứng thú, huy động sự tham gia của nhiều HS, tạo
bầu không khí tích cực, tươi vui, đoàn kết cho lớp học, giải tỏa áp lực của tiết
học, giúp HS khắc sâu kiến thức “Chơi mà học, học mà chơi”. Qua đó GV
cũng có thể kiểm tra được mức độ nhận thức của HS để bổ sung những khiếm
khuyết, hệ thống được nội dung trọng tâm của bài, góp phần hình thành, rèn
luyện, bồi dưỡng kĩ năng cho HS.
g. Củng cố bài giảng bằng “trò chơi quân sự”
Đây là phương pháp đặc thù của bộ môn. Áp dụng cho các nội dung thực
hành như: Đội ngũ từng người không có súng; Đội ngũ đơn vị; Cấp cứu ban
14


đầu tai nạn thông thường và băng bó vết thương; Kỹ thuật bắn súng tiểu liên
AK và súng trường CKC; Kỹ thuật sử dụng lựu đạn; Kỹ thuật cấp cứu và
chuyển thương; Các tư thế, động tác cơ bản vận động trên chiến trường; Lợi
dụng địa hình, địa vật. Thường dùng để củng cố kĩ năng cho từng tiết nhưng
chủ yếu là cho toàn bài.
Phương pháp này đặc biệt tạo ra sự hứng thú, phấn khích của HS trong
tiết học, là một phương pháp củng cố bài nhẹ nhàng nhưng hiệu quả, rèn luyện
cho HS các kĩ năng quân sự và kĩ năng sinh hoạt tập thể.
Tuy nhiên để thực hiện được phương pháp này đòi hỏi GV phải nắm
vững mục tiêu, kiến thức trọng tâm của bài. GV cũng cần có một số kĩ năng
như: Kĩ năng thiết kế trò chơi, kĩ năng quản trò, kĩ năng sinh hoạt tập thể… GV
phải đầu tư thời gian, công sức để thiết kế, tổ chức trò chơi.
- Chuẩn bị:
Đối với GV: GV căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài để thiết kế
trò chơi. Đảm bảo nguyên tắc đơn giản, dễ chơi, phù hợp với thời gian, đúng
trọng tâm của bài (có thể liên hệ với các kĩ năng quân sự HS đã được trang bị ở
các tiết trước, bài trước, lớp trước), phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của HS.
Biên soạn luật chơi, chuẩn bị vật chất, thiết kế sân chơi, bãi tập, tập huấn đội

mẫu (nếu cần), chuẩn bị phần thưởng (nếu có) và các công tác chuẩn bị khác.
Đối với HS: Nghiên cứu trước nội dung, tự rèn luyện các kĩ năng đã
được GV hướng dẫn, chuẩn bị những vật chất do GV qui định. Tham gia thảo
luận đóng góp ý kiến.
- Tiến hành: Thường củng cố vào cuối tiết học hoặc cuối bài. GV phổ
biến ngắn gọn luật chơi, giới thiệu điều kiện sân chơi bãi tập. Chọn một số
thành viên ban cán sự lớp để hỗ trợ GV. Sử dụng đội mẫu nếu cần. Tiến hành
theo kế hoạch. Cuối trò chơi GV đánh giá, sửa sai, tổng kết, phát thưởng.
Ví dụ : Bài 7 Kĩ thuật cấp cứu và chuyển thương ( GDQP-AN lớp 11)
Để củng cố các kĩ năng cầm máu tạm thời, cố định tạm thời xương gãy,
chuyển thương, ôn luyện kĩ năng thực hiện tư thế động tác bắn súng tiểu liên
AK, tư thế động tác đứng ném lựu đạn, tôi vận dụng phương pháp củng cố bài
giảng bằng “Trò chơi quân sự” như sau:
* Tên trò chơi: “Đồng đội”
* Chuẩn bị: Chọn vị trí sân rộng, bố trí các chướng ngại vật, bia số 4a
tượng trưng cho mục tiêu địch.
- Súng tiểu liên AK, lựu đạn, âm thanh mô phỏng, dây văng, trụ gỗ, bao
cát, bia số 4a, băng , bộ nẹp gỗ.
- Số đội chơi: 4 đội. Số thành viên mỗi đội 6. HS trên vai trò chiến sĩ.
15


- Thời gian: 7 phút.
- Cách tính thành tích: Đội hoàn thành sớm nhất, đúng kĩ thuật nhất sẽ
được tuyên dương khen thưởng
* Luật chơi: Điểm xuất phát: Chiến sĩ ( CS) số 1 được trang bị sử dụng
súng tiểu liên AK, vận động vượt qua chướng ngại vật đến vị trí qui định (ụ
cát), dùng súng tiêu diệt mục tiêu ở tư thế nằm bắn có bệ tì. Sau loạt đạn đầu
tiên CS số 1 bị trúng hỏa lực của địch, gãy xương cánh tay. Tiếp theo CS số 2
được trang bị súng tiểu liên AK và 1 quả lựu đạn, vận động vượt qua chướng

ngại vật, tiếp cận vị trí CS số 1 đang bị thương, dùng lựu đạn ném tiêu diệt mục
tiêu địch, tạo điều kiện cho các CS số 3 và CS số 4 vận chuyển CS số 1 về
trạm quân y. Khi thấy CS số 2 ném lựu đạn, ra tín hiệu đã tiêu diệt được mục
tiêu thì CS số 3 và CS số 4, mang cán thương (võng và gậy dài) vận động lên
tiếp cận và chuyển CS số 1 về vị trí trạm quân y.
Tại vị trí trạm quân y, CS số 5 và CS số 6 sẽ thực hiện cầm máu tạm thời và cố
định gãy xương cánh tay cho CS số 1.
* Tiến hành chơi: GV cho tập trung lớp, giới thiệu sơ đồ sân chơi, giới
thiệu ngắn gọn luật chơi, qui ước kí tín hiệu, mục tiêu. Lập các đội chơi (từng
tiểu đội). Tiến hành theo kế hoạch.
Tổng kết, đánh giá, trao đổi với HS, rút kinh nghiệm.
Tóm lại: Thông qua các hình thức trò chơi học tập GV hướng dẫn HS
củng cố kiến thức bài học, tổ chức các hoạt động nhóm, hoạt động cá nhân. để
tiết học phát huy tối đa hoạt động của các em, đảm bảo tất cả các thành viên
trong lớp đều tự tin tham gia và tham gia một cách tích cực.
3.4. Chú trọng đến công tác tuyển chọn- ôn luyện tham gia Hội thao GDQP
cấp tỉnh
GDQP là một trong những nội dung thi được đánh giá tương đối khó, đòi
hỏi mỗi vận động viên cần phải có sức khỏe tốt, tinh thần cao, kỹ năng, bản
lĩnh vững vàng, tự tin.... trong quá trình tham gia thi đấu.
Hội thao GDQP cấp Tỉnh được tổ chức 2 năm/1lần, tổ trưởng chuyên
môn lập kế hoạch, và thực hiện kế hoạch
Phân công giáo viên chịu trách nhiệm từng môn thi, tập luyện đội hình
đội ngũ, ném lựu đạn, chiến thuật chiến đấu, cấp cứu thương, mỗi môn chọn
học sinh ở cả nội dung của 3 khối lớp. Các bước tiến hành khi bồi dưỡng HS
tham gia hội thao:
- Chọn giáo viên có năng lực, có nhiều kinh nghiệm để dạy đội tuyển
- Chọn HS đội tuyển dự thi các phần
- Lập thời gian biểu tập luyện
16



- Tập luyện đội tuyển
- Kiểm tra, rút kinh nghiệm và sát hạch
Ví dụ: Môn điều lệnh quan trọng nhất là chọn cho được một học sinh làm
chỉ huy phải có dáng dấp quân đội, tiếng hô to, rõ, mạnh dạn và dứt khoát, sau
đó phân công làm Tiểu đội trưởng của một tiểu đội trong lớp, giáo viên hướng
dẫn sẽ bồi dưỡng trực tiếp theo nội dung kiến thức thi
Thông qua hội thao có thể khẳng định rằng, chất lượng môn học giáo dục QPAN tại trường THPT mang lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục, tuyên
truyền về quốc phòng, an ninh.
* Thành tích tham gia hội thao GDQP cấp tỉnh năm 2018-2019:
- Giải nhì cá nhân về đội hình đội ngũ.
- Giải nhì về điều lệnh.
- 6 giải ba về kĩ thuật vận động, chiến thuật trong chiến đấu.
- Tập thể đạt giải ba đồng đội , được tặng cờ toàn đoàn.
Có thể khẳng định, Hội thao là dịp để nhìn nhận, đánh giá một cách
thực chất về công tác giáo dục Quốc phòng an ninh trong nhà trường. Đồng
thời, Hội thao QP-AN còn là một trong những hoạt động rất có ý nghĩa đối với
việc giáo dục toàn diện học sinh, nhất là trong điều kiện đất nước hội nhập và
phát triển hiện nay, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân ngày càng
vững mạnh, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Kết quả đạt được: Với 4 giải pháp cơ bản tôi đã thực hiện:
- Giải pháp 1: Tổ chức cho học sinh viết chuyên đề để học tập tốt và yêu
thích bộ môn giáo dục Quốc phòng- An ninh
- Giải pháp 2: Ứng dụng CNTT trong dạy - học để nâng cao hiệu quả giờ
dạy GDQP-AN
- Giải pháp 3: Sử dụng các hình thức dạy học linh hoạt để phát huy tính
tích cực của học

- Giải pháp 4: Tuyển chọn - ôn luyện tham gia Hội thao GDQP cấp tỉnh
Tôi đã thực hiện như: Ứng dụng CNTT đưa hình ảnh vào bài giảng,
Phương pháp trình chiếu, viết bài thu hoạch, thảo luận nhóm, giúp học sinh tự
củng cố kiến thức bằng những hình thức khác nhau, học sinh dễ hiểu bài, dễ
nhớ, nhớ lâu và quan trọng là các em thích học môn học này hơn trước
So sánh trước và sau khi tiến hành áp dụng một số kinh nghiệm và giải
pháp của sáng kiến tôi đã thu được kết quả cụ thể như sau :

17


- Học sinh yêu thích và hứng thú hơn khi đến tiết học giáo dục quốc
phòng- An ninh
- Tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh sinh động hơn nhưng cũng nhẹ
nhàng hơn
- Học sinh phát huy được tính tự giác và tích cực trong giờ học
- Ý thức học tập, kỷ luật của học sinh được thể hiện ở mức độ cao hơn.
- Học sinh tự lĩnh hội được kiến thức nhanh và sâu rộng hơn.
- Rèn cho các em được tính kỉ luât, nhanh nhẹn tác phong khẩn trương và
tinh thần đoàn kết
- Các em hiểu trách nhiệm của công dân và bản thân trong xây dựng, quản
lí và bảo vệ quốc gia
- Chất lượng hội thao GDQP cấp tỉnh của học sinh cũng tăng lên
- Thông qua việc ứng dụng CNTT giáo viên tổ chức được nhiều hình thức
học tập cho học sinh hơn.
Qua thực tế những năm giảng dạy môn giáo dục quốc phòng – an ninh.
Với sự cố gắng nghiên cứu, trau dồi, học hỏi kinh nghiệm qua đồng nghiệp bản
thân tôi đã đúc kết được một số giải pháp trên và đã đưa vào áp dụng giảng dạy
cho các học sinh ba khối lớp 10, 11, 12 ở trường Trung học phổ thông Thiệu
Hóa có hiệu quả.

* Kết quả đánh giá xếp loại cuối năm học của môn Giáo dục quốc phòng –
an ninh của từng năm học được nâng dần lên:
Xếp loại
Năm học
2018-2019

Đạt

Chưa Đạt

99%

1%

18


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Từ kết quả thu được tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp dạy học là
rất cần thiết, đặc biệt đối với môn GDQP-AN. Nếu giáo viên biết vận dụng tốt
các PPDH trong tiết dạy sẽ đem lại hiệu quả cao.
Dạy học nói chung và dạy học GDQP-AN nói riêng yêu cầu người giáo
viên phải biết linh hoạt sử dụng các phương pháp trong tiết dạy thì mới giúp
cho học sinh khắc sâu kiến thức một cách chủ động. Do đó yêu cầu người giáo
viên phải có nghệ thuật sư phạm và nắm được những nội dung cơ bản. Ngoài
ra, để tạo hứng thú và lôi cuốn học sinh đến với bộ môn GDQP-AN giáo viên
cần phải có nhiệt huyết trong quá trình giảng dạy, sưu tầm bổ sung tư liệu phục
vụ cho việc dạy, GV cần vận dụng tổng hợp và sáng tạo các phương pháp linh
hoạt hấp dẫn và đồng thời ứng dụng CNTT vào soạn giảng, học hỏi kinh

nghiệm và tìm cách truyền đạt để có được sự vững chắc trong kiến thức, sự lôi
cuốn trong phong cách nhằm lôi cuốn học sinh. Ngoài ra, hình thành cho học
sinh tính độc lập, sáng tạo và năng động để tiếp thu và lĩnh hội kiến thức trong
quá trình học.
Giáo viên say mê tìm tòi sáng tạo trong thực tiễn, để giảng dạy tốt, giáo viên
giáo dục quốc phòng trước hết phải có kiến thức sâu rộng. Cho nên, việc có ý
thức tự trau dồi, tích luỹ kiến thức qua việc tự học, tự nghiên cứu, nhằm làm
giàu tri thức phục vụ chuyên môn như tìm tòi trong sách vở, báo chí, mạng lưới
thông tin báo đài, internet…. Ngoài ra, việc cập nhật thông tin qua các phương
tiện thông tin đại chúng đóng vai trò hết sức quan trọng, giúp cho giáo viên có
nhiều kiến thức mới, phong phú.
Giáo viên phải thường xuyên đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy
cho phù hợp với từng đối tượng, tăng cường giáo dục truyền thống, lịch sử cho
học sinh thông qua bảo tàng cách mạng của trung ương, địa phương; thường
xuyên cập nhật thông tin để truyền đạt cho học sinh những tiêu chí mới về bảo
vệ Tổ quốc. . Nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng Dạy - Học môn giáo dục
quốc phòng trong trường THPT, thực hiện tốt chủ trương chính sách của
Đảng và nhà nước về nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân- an ninh
nhân dân vững mạnh.
19


2. Kiến nghị:
- Đối với tổ:
Cần tăng cường tổ chức các giờ ngoại khóa, các chuyên đề GDQP-AN
để học sinh và giáo viên có thể thông qua đó thảo luận góp ý để có phương
pháp dạy tốt hơn bộ môn GDQP-AN. Đồng thời mỗi một thành viên trong tổ
có thể có những sáng kiến hoặc sáng tạo trong việc tự làm các đồ dùng trực
quan dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của mình
- Đối với trường:

Cần tạo điều kiện về phòng, đèn chiếu để phục vụ giảng dạy. Tăng
cường hơn nữa trang thiết bị đồ dùng dạy học trong các tiết dạy GDQP-AN.
Cần bổ sung các tư liệu GDQP-AN có liên quan trong chương trình học
để giáo viên và học sinh tham khảo nhằm bồi dưỡng thêm tri thức và tăng tính
hiệu quả của bộ môn.
Đầu tư hơn về sân bãi luyện tập cho đúng quy chuẩn
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá giờ dạy GDQP-AN.
- Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo:
Cần cung cấp thêm nữa các đồ dùng trực quan : như mô hình học cụ,
tranh ảnh các băng đĩa, phim tài liệu nhằm phục vụ nhu cầu dạy - học của
giáo viên, học sinh ở trường trung học phổ thông. Nâng cao hơn nữa số lượng
cũng như chất lượng của các trang thiết bị, đồ dùng dạy học.
Trên đây là “ Bốn giải pháp đổi mới trong Dạy và Học môn Giáo dục
quốc phòng nhằm phát huy tính tích cực của học sinh ở trường THPT Thiệu
Hóa”, với kinh nghiệm chưa nhiều, những giải pháp tôi đưa ra chưa phải là
hữu hiệu, song đó là những giải pháp tôi đã thực hiện và mang lại hiệu quả nhất
định. Trong thời gian thực hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất
mong Hội đồng Khoa học, các bạn đồng nghiệp góp ý để đề tài của tôi ngày
càng hoàn thiện, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học môn giáo dục
quốc phòng- an ninh trong trường phổ thông.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 04 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Người viết

20



La Khắc Phùng

21



×