PHẦN PHỤ LỤC
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
Đề mục
I.
I.1
I. 2
I. 3
I. 4
II.
II. 1
1. a
1. b
2
2. a
2. b
3
3.a
3.b
3. c
3. d
3.e
3.g
3. h
4
4. a
4. b
4. c
4. d
II. 2
2. a
2. b
2. c
2. d
2. e
II. 3
3. a
3. b
II. 4
4. a
4. b
4. c
III.
III. 1
III. 2
NỘI DUNG CỦA TIÊU ĐỀ
- MỞ ĐẦU
- Lý do chọn đề tài
- Mục đích nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu
- NỘI DUNG
- Cơ sở lý luận của vấn đề
- Nguyên nhân và bối cảnh xảy ra chiến tranh
- Bối cảnh của cuộc chiến
- Tương quan lực lượng tham chiến
- Phía Campuchia Dân chủ
- Phía Việt Nam
- Các giai đoạn của chiến tranh
- Đánh chiếm bờ đông sông MeKong
- Đánh chiếm PhnomPenh
- Hướng nam, Sihanoukville
- Truy quét tàn quân Khmer Đỏ, Đánh Siem Reap và Battambang
- Khu vực Tây Nam
- Thành lập chính quyền mới
- Căng thẳng biên giới với Thái Lan
- Giai đoạn bình định lãnh thổ
- Hoa Kì, Trung Quốc, Thái Lan hổ trợ Khmer Đỏ
- VN hổ trợ chính quyền mới và truy quét tàn quân...
- Hoạt động hổ trợ dân sự của quân tình nguyện VN
- Lời kết cho cuộc chiến
- Thực trạng của vấn đề
- Tính tích cực
- Tính tiêu cực
- Sự mâu thuẫn của vấn đề
- Khó khăn
- Thuận lợi
- Giải pháp và tổ chức thực hiện
- Tổ chức giảng dạy
- Hoạt động ngoại khóa
- Hiệu quả của đề tài
- Với giáo viên nói chung
- Với bản thân
- Với học sinh
- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- Kết luận
- Kiến nghị
Trang
2-3
2
2-3
3
3
3 - 20
3
3-4
4-5
5-6
5
6
6 - 14
7-8
8-9
9 - 10
10 - 11
11 - 12
12
12 - 13
13 - 16
13
13 - 14
15
15 - 16
16 - 18
16 - 17
17
17
17 - 18
18
18 - 19
18
18 - 19
19 - 20
19
19
19 - 20
20 - 21
20 - 21
21
1
I. MỞ ĐẦU
I.1. Lí do chọn đề tài
Xuất phát từ thực tiễn của lịch sử dân tộc, yêu cầu thực tế của môn học,
quyền được hiểu và biết của thế hệ trẻ liên quan đến tình hình có phần bất ổn về
địa, chính trị đang và diễn biến ngày càng phức tạp trên thế giới nói chung và
trong khu vực cũng như các quốc gia với nhau nói riêng trong đó có Việt Nam
chúng ta và nước láng giềng Campuchia và đã được công bố tại đợt tập huấn cho
cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên Giáo dục Quốc phòng – An ninh năm 2017
do Bộ GD&ĐT tổ chức , đó là: “ Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam ”.
Và đã là lịch sử thì phải nhìn nhận nó với sự thật đầy đủ. Sẽ không thể không nhắc
đến những tháng ngày, ngày mà cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam đã nổ ra;
ngày mà hàng ngàn người dân chúng ta bị sát hại, đã hy sinh để bảo vệ biên cương
của Tổ quốc. Nhắc để dân ta nhớ, biết ơn và tôn vinh những chiến sĩ và đồng bào
đã hy sinh xương máu để bảo vệ từng tấc đất biên cương tổ quốc, như chúng ta đã
và sẽ vẫn tôn vinh bao nhiêu anh hùng liệt sĩ trong cuộc chiến tranh bảo vệ và giải
phóng dân tộc. Không những dân ta cần hiểu, mà nhân dân Campuchia cũng như
nhân dân yêu chuộng hòa bình, các nước trên thế giới cũng phải hiểu đúng: Đâu là
sự thật, đâu là lẽ phải, ý nghĩa lịch sử chân chính và coi đó là bài học. Không thể
quên lãng nó, đó là quyền tự hào dân tộc Việt Nam.
- Đã có nhiều câu hỏi được nhắc đến về lịch sử “ Chiến tranh bảo vệ biên
giới phía Tây Nam ”. của đông đảo nhân dân trong xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ,
những chủ nhân tương lai của đất nước, các em có quyền được hiểu, biết về giá trị
lịch sử, nhân văn, tính nhân đạo, nghĩa vụ quốc tế, đâu là cốt lõi của sự thật…
nhưng chưa tài liệu, sách báo, mạng xã hội nào cập nhật một cách sòng phẳng, đầy
đủ, ý nghĩa về cuộc chiến này.
- Đó là cơ sở, là lý do tôi lựa chọn đề tài “ Nâng cao hiểu biết và nhận thức
cho học sinh THPT về “ Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam ” để giáo
dục cho học sinh Trường THPT Ngọc Lặc năm học 2017 – 2018 và các năm học
tiếp theo
I. 2. Mục đích nghiên cứu.
- Phổ biến những kiến thức về “ Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây
Nam ” mang tính lịch sử hào hùng mà ông cha ta đã đổ mồ hôi, sương máu để bảo
vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ngày nay, để thế hệ trẻ
( Tuổi trẻ Trường THPT Ngọc Lặc) không quên và khắc cốt, ghi tâm truyền thống
đấu tranh bất khuất của dân tộc , nâng cao niềm tin, niềm tự hào, xây dựng ý thức,
trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước , sẵn sàng chiến đấu, hy sinh
bảo vệ tổ quốc.
- Không chỉ đưa vào sách giáo khoa những sự thật lịch sử về Hoàng Sa,
Trường Sa, cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, “ Chiến tranh bảo vệ biên
giới phía Tây Nam” cũng cần được nhắc đến đầy đủ. Con em chúng ta cần biết và
có quyền biết lịch sử, biết những gì mà ông cha đã làm, để tự hào và tiếp nối
truyền thống . Ta tôn trọng, sòng phẳng với lịch sử không có nghĩa là chúng ta kích
động hận thù. Chúng ta biết sự thật, khẳng định với cộng đồng Quốc tế rằng:
2
“ Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam là bảo vệ Tổ quốc và hoàn
thành nhiệm vụ Quốc tế cao cả ” để hiểu đâu là lẽ phải và để rút ra bài học cho
các mối quan hệ quốc tế trong bối cảnh phức tạp ngày nay
I. 3. Đối tượng nghiên cứu.
- Khách thể: Quá trình giảng dạy môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh
bậc THPT
+ Thực trạng tiếp thu kiến thức, quyền được biết về một phần lịch sử dân tộc
của học sinh Trường THPT Ngọc Lặc - Huyện Ngọc Lặc - Tỉnh Thanh Hóa trong
năm học 2017 – 2018.
- Chủ thể: Giáo viên và học sinh Trường THPT Ngọc Lặc.
I. 4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
+ Điều tra, khảo sát thực tế, thu thập tài liệu
+ Tổng hợp và phân tích tài liệu
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn,
+ Điều tra dư luận ( ý kiến tiếp thu, phản hồi của giáo viên và học sinh)
+ Kiểm chứng bằng thực nghiệm
- Phương pháp toán học xắc suất thống kê .
+ Đưa ra số liệu
+ Phân tích và tổng hợp số liệu.
II. NỘI DUNG
II. 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
1.a. Nguyên nhân và bối cảnh xảy ra chiến tranh giữa Việt Nam và
CamPuChia Dân chủ?
* Nguyên nhân bên ngoài:
- Hãy nói thử xem, người dân Việt Nam đang đọc bài viết này. Khi tôi thống kê
những tội ác này của Khmer Đỏ dành cho nước ta?
1/ Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu, đốt
phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương và mất tích ở Tây
Ninh, nã pháo vào Châu Đốc – An Giang, cầm dao quắm qua biên giới cắt đầu dân
ta, rồi cắt đầu cả dân Campuchia rồi đổ tội là bộ đội ta làm.
2/ Bạn có biết không một vụ thảm sát tên là Ba Chúc ở huyện Tri Tôn - An Giang?
Nơi hơn 3000 người dân thường vô tội của ta bị Khmer Đỏ giết chết. Thống kê tất
cả: Từ 1975 cho tới năm 1978, có tới 30 ngàn người Việt Nam bị Khmer Đỏ sát hại
trong các cuộc tấn công dọc biên giới.
3/ Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch thay mặt cho chính phủ ta đã cố gắng đàm phán
ngoại giao, nhưng Khmer Đỏ từ chối đàm phán, Trung Quốc ở giữa không chịu
làm trung gian hòa giải, còn Liên Hiệp Quốc làm lơ trước các phản đối của chính
quyền Việt Nam về các hành động gây hấn của Khmer Đỏ.
- Không ai ở cạnh ta, còn xương máu đồng bào thì đổ mỗi ngày và sẽ không dừng
lại vì Pol Pot từng viết câu này nghị quyết của họ: "Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục,
mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20
năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu
người Việt Nam"
3
- Ngày 18/4/1975, ngay sau khi Khmer Đỏ chiếm được thành phố Ta Keo. Seoun,
con rể của Ta Mok, tư lệnh quân đội Khmer Đỏ, tuyên bố thế này: “Chúng ta phải
đánh Việt Nam vì 18 tỉnh của chúng ta, kể cả Prey Nokor (Sài Gòn) đang ở đó”.
- Những điều minh chứng trên cho thấy: Việt Nam tấn công Campuchia không sai!
* Nguyên nhân bên trong:
Để đi tìm nguyên nhân chiến tranh của cuộc chiến này một cách cốt lõi nhất,
chúng ta phải lật lại cả một quá trình lịch sử vô cùng lớn. Bắt đầu có lẽ phải kể từ
khi chúa Nguyễn Hoàng sợ anh rể Trịnh Kiểm giết hại mà nghe lời của Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm chạy vào nam, các đời chúa Nguyễn đã mở rộng lãnh
thổ dần về phía Nam, và phần lãnh thổ được mở rộng ấy chính là Champa của
miền Nam Trung Bộ hôm nay và một phần của đế quốc Khmer tức Nam Bộ. Cuộc
trường chinh “Từ độ mang gươm đi mở cõi / Ngàn năm thương nhớ đất Thăng
Long” ấy được Gia Long Nguyễn Ánh hoàn thiện toàn bộ vào năm 1802
- Campuchia Dân chủ mường tượng rằng: “ Cây thốt nốt mọc ở đâu thì đất đai và
con người Campuchia đến đó” Nên việc cho quân tấn công vào lãnh thổ Việt Nam
đòi lại đất là việc làm trọng yếu vào thời điểm đó.
* Nguyên nhân khác:
- Được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là TQ
- Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ của đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhân
dân Việt Nam đã chấm dứt tình trạng thuộc địa trên Đông Dương. Lào, Campuchia
cũng từ chiến thắng ấy mà giành được độc lập với 2 quốc gia riêng biệt. Nhưng
cũng từ đó Bắc Kinh tuyên truyền cho đồng minh của mình là Campuchia biết về
sự nguy hại của Việt Nam, Việt Nam là kẻ xâm lược, Việt Nam là kẻ thù cướp đất
của lịch sử đế quốc Khmer. Cùng với đó là mâu thuân âm ỉ mà Pol Pot đã nhắm
vào Hà Nội từ trước đó, khi Hà Nội nhiều lần ủng hộ đối thủ của ông ta là ông
hoàng Sihanouk.
- Khmer Đỏ tiến hành cuộc tấn công ở biên giới, khi mọi việc vượt quá sức chịu
đựng của Hà Nội thì chiến tranh nổ ra. Việt Nam tấn công Campuchia của chính
quyền Pol Pot do Trung Quốc hậu thuẫn. Trung Quốc xem đó là hành động “vuốt
mặt không nể mũi”. Và họ có cái cớ đường đường chính chính để đưa quân đánh
xuống Việt Nam ( Chiến tranh bảo vệ Biên giới Bắc năm 1979).
1.b. Bối cảnh của cuộc chiến
Sau Chiến tranh Việt Nam giải phóng hoàn toàn và thống nhất đất nước ngày
30/04/1975, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Tranh chấp và
xung đột biên giới xảy ra liên tục trong các năm 1977 và 1978, nhưng cuộc xung
đột thực ra đã bắt đầu ngay sau khi giải phóng Sài Gòn. Ngày 4 tháng 5 năm 1975,
một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc, sáu ngày sau quân Khmer Đỏ
đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu và một số lần đột
kích nhỏ. Cuộc tấn công lớn đầu tiên diễn ra vào tháng 4 năm 1977, quân chính
quy Khmer Đỏ tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số vùng ở
tỉnh An Giang và tàn sát một số lớn dân thường. Cuộc tấn công thứ hai diễn ra vào
ngày 25 tháng 9 cùng năm, lần này 4 sư đoàn quân Khmer Đỏ đánh chiếm nhiều
điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành (tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471
ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích. Để trả đũa,
ngày 31 tháng 12 năm 1977, sáu sư đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh vào
4
sâu trong đất Campuchia đến tận Neak Luong rồi mới rút lui từ ngày 5 tháng 1
năm 1978, mang theo một số nhân vật quan trọng bên phía Campuchia, trong đó có
cả Thủ tướng tương lai Hun Sen. Cuộc tấn công này được xem là lời "cảnh cáo"
cho Khmer Đỏ. Phía Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập
một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối, và giao tranh tiếp diễn.
Ngày 1 tháng 2 năm 1978, Trung ương Đảng Cộng sản của Pol Pot họp bàn chủ
trương chống Việt Nam và quyết định thành lập 15 sư đoàn. Pol Pot đã điều 13
trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục tấn công vào
lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới 15- 20 km.
Ngày 13/ 12/ 1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc, Khmer Đỏ
đã huy động 19 trong 23 sư đoàn (khoảng 80.000 đến 100.000 quân) tiến công xâm
lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đánh vào Bến Sỏi với mục
tiêu chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn
đánh khu vực Bảy Núi (An Giang), 1 sư đoàn đánh Trà Phô, Tà Teng (xã Phú Mỹ
huyện Giang Thành tỉnh Kiên Giang). Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã
thực hiện sách lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer.
Quân đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến, đồng thời
tiêu hao sinh lực của quân Khmer đỏ. Các hướng tiến quân của Khmer Đỏ bị chặn
lại và không thể phát triển được. Ngoại trừ Hà Tiên bị chiếm giữ trong thời gian
ngắn, không một thị xã nào của Việt Nam bị chiếm. Theo thống kê từ Việt Nam, từ
tháng 6-1977 đến tháng 12-1978, họ đã tiêu diệt 38.563 quân Khmer đỏ, bắt sống
5.800 lính khác. Theo Tạp chí Time, quân Việt Nam tiến hành các cuộc không kích
và giao tranh trên bộ, đánh vào các đơn vị quân Khmer Đỏ dọc biên giới nhằm làm
suy yếu quân Khmer Đỏ trước khi quân Việt Nam bắt đầu chiến dịch đã tiêu diệt
khoảng 17 ngàn quân Khmer Đỏ.
2. TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG CỦA CUỘC CHIẾN
2.a. Phía CamPuChia Dân chủ
- Chỉ huy: Pol Pot; Ieng Sary; Khieu Samphan; Nuon Chea; Ta Mok
Số lượng quân: 23 sư đoàn với gần 200.000 quân, trong đó 19 sư đoàn đã tham gia
tấn công vào Việt Nam
Theo phía Việt Nam, lực lượng Khmer Đỏ gồm có 23 sư đoàn, các sư đoàn này
được trang bị tốt bằng vũ khí của Trung Quốc, được chỉ huy bởi các chỉ huy dày
dạn kinh nghiệm trong các cuộc chiến tranh vừa qua, gồm nhiều binh lính trung
thành đến cuồng tín, quân số mỗi sư đoàn chỉ chừng 4.000 - 7.000 người, bằng
một nửa quân số của sư đoàn Việt Nam.
- Các sư đoàn: 164, 170, 290, 310, 450, 703, 801, 902
+ Một số máy bay chiến đấu T-28.
+ Một phân đội MiG-19 do TQ sản xuất, số MiG-19 này không kịp tham chiến vì
không có phi công và rơi vào tay quân Việt Nam khi họ chiếm Phnom Penh
+ Một sư đoàn thủy quân lục chiến
+ Một sư đoàn hải quân
+ Một sư đoàn không quân, nhưng chiến đấu như bộ binh khi giao tranh nổ ra.
+ Nhiều đơn vị xe tăng và trọng pháo.
5
2.b. Phía Việt Nam
- Chỉ huy: Lê Trọng Tấn; Lê Đức Anh; Hun Sen; Chea Sim
Số lượng quân: 180.000 quân Việt Nam, hỗ trợ bởi khoảng 20.000 quân KNUFNS
( Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước CamPuChia )
+ Quân đoàn 2 do thiếu tướng Nguyễn Hữu An làm tư lệnh và thiếu tướng Lê
Linh làm chính ủy, gồm các Sư đoàn 304,325, được bổ sung Trung đoàn bộ binh 8,
cũng từ Tịnh Biên (An Giang - Hà Tiên) đánh theo hướng tây để hỗ trợ lực lượng
Quân khu 9. Sư đoàn 306, 304 được dùng làm trừ bị, có thể được dùng tăng cường
trong trường hợp Quân đoàn 4 tấn công Phnom Penh gặp khó khăn.
+ Quân đoàn 3 của thiếu tướng Kim Tuấn, gồm các Sư đoàn 10, 31, 320, được bổ
sung Sư đoàn 302
+ Quân đoàn 4 của thiếu tướng Hoàng Cầm, gồm các Sư đoàn 7, 9, 341, được bổ
sung thêm Sư đoàn 2, cùng Lữ đoàn 22 thiết giáp, Lữ đoàn 24 pháo binh, Lữ đoàn
25 công binh và 3 tiểu đoàn Khmer của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước
Campuchia (UFNSK) thân Việt Nam
+ Quân khu 7 của trung tướng Lê Đức Anh: gồm hai Sư đoàn 5, 302, 303, Trung
đoàn đặc công 117, được tăng cường thêm một số đơn vị của Quân đoàn 3 như Lữ
đoàn 12 thiết giáp, những trung đoàn chủ lực các tỉnh Tây Ninh, Long An,Sông Bé,
Trung đoàn 262 pháo binh, Trung đoàn 26 thiết giáp, Trung đoàn công binh E25
QK7 (gồm các tiểu đoàn D739 cầu đường trong đó tiểu đoàn D739 gồm các đại đội
C10, C11, C12, D278 bom mìn, D98 xe máy, D741 cầu phà), 3 tiểu đoàn Khmer
UFNSK từ phía bắc tỉnh Tây Ninh và khu căn cứ của UFNSK quanh Snuol +
Quân khu 9 của thiếu tướng Nguyễn Chánh: gồm các Sư đoàn 4, 330, 339, tấn
công từ khu vực Tịnh Biên ở hướng Bắc, qua tỉnh Ta Keo, hướng về Phnom Penh
+ Lực lượng đổ bộ đường biển gồm Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 và Lữ đoàn hải
quân đánh bộ 101 đổ bộ vào vùng duyên hải Đông Nam Campuchia
+ Đoàn 901 không quân: gồm Sư đoàn không quân 372 được trang bị máy bay F5, A-37, máy bay trực thăng UH-1,Mi-24, máy bay vận tải C-130, C-119, C-47, và
một phân đội MiG-21 từ Trung đoàn 921.
Các sư đoàn Việt Nam đều có các đơn vị cơ hữu thiết giáp, pháo binh, pháo
phòng không và một lữ đoàn công binh. Theo phía Việt Nam, có 10.000 - 15.000
quân UFNSK tham gia chiến dịch, tuy nhiên theo các phân tích viên quốc tế, đây là
con số phóng đại, chỉ có chừng vài trăm quân UFNSK trực tiếp tham gia chiến
dịch, còn lại đại bộ phận làm công tác liên lạc, đảm bảo hậu cần, phiên dịch...
3. GIAI ĐOẠN CHIẾN TRANH
Tới đầu tháng 12/1978, quân đội Việt Nam được hỗ trợ bởi một số tiểu đoàn
Khmer thân Việt Nam đã kiểm soát một vùng đệm dọc biên giới trong lãnh thổ
Campuchia, từ Mimot đến Snuol ở các tỉnh Kampong Cham và Kratié. Ở phía Bắc,
quân Việt Nam cũng kiểm soát một vùng rộng thuộc lãnh thổ Campuchia dọc theo
đường 19. Ngày 23/ 12/1978, sau khi được tăng viện, với 80.000 quân, quân đội
Việt Nam đã tiến hành phản công trên toàn bộ mặt trận, đẩy lùi quân Khmer Đỏ.
Sư đoàn 2 cùng trung đoàn chủ lực tỉnh Tây Ninh mở cuộc tấn công nhằm đánh bật
các Trung đoàn 23 thuộc Sư đoàn 304 và Trung đoàn 13 thuộc Sư đoàn 221 của
6
Campuchia ra khỏi các vị trí dọc theo tỉnh lộ 13. Tuy nhiên chiến cuộc chưa chấm
dứt, quân đội Việt Nam quyết định mở cuộc tấn công phòng ngừa vào Campuchia.
3.a. Đánh chiếm bờ đông sông Mekông
Sau khi đánh tan sức kháng cự của quân Khmer Đỏ, các lực lượng Việt Nam
thuộc Quân khu 5 nhanh chóng hành tiến theo đường 19, sư đoàn 309 quét
sạch tỉnh Ratanakiri, phía Bắc tỉnh Mondolkiri và tiến vào phía Bắc tỉnh Stung
Treng. Sư đoàn 307 tiến theo đường 19, dùng cầu phao vượt sông Srepok và sông
Mekong. Tới ngày 1/1/1979, lực lượng Quân khu 5 tiến dọc sông Mekong chiếm
được Stung Treng.
Cùng thời gian, Sư đoàn 5 thuộc Quân khu 7 tiến từ hướng đông, cùng Sư
đoàn 303 tiến theo hướng tây bắc từ Snuol cùng đánh vào Kratié do Sư đoàn 260
và 2 trung đoàn địa phương của đặc khu 505 phòng thủ. Các sư đoàn này gặp phải
sức kháng cự quyết liệt từ phía quân Khmer Đỏ. Trong cuộc tiến quân, hai Tiểu
đoàn 1 và 2 Trung đoàn 316 Sư đoàn 303 bị tập kích bất ngờ nên bị tiêu diệt. Trung
đoàn này, cũng như Trung đoàn 33, sau một tháng hành quân, quân số hao hụt mất
một nửa. Các đơn vị quân Khmer Đỏ tấn công Sư đoàn 303 gây nhiều tổn thất và
suýt chiếm được sở chỉ huy sư đoàn. Tuy nhiên, sau khi không chặn được quân
Việt Nam, quân Khmer Đỏ phải rút lui, và tới ngày 29/12, thành phố Kratié rơi vào
tay quân đội Việt Nam. Cùng lúc, Sư đoàn 302 tiến về phía Tây đã chiếm được
Kampong Cham. Sau đó, hai Sư đoàn 302 và 303 cùng quay lại đánh chiếm thị
xã Chhlong do Sư đoàn 603 Khmer Đỏ chống giữ. Ngày 4/1, họ chiếm được
Chhlong. Kể từ lúc đó, toàn bộ lãnh thổ Campuchia ở phía đông sông Mekong coi
như bị mất.
Sáng ngày 31 tháng 12, được pháo binh bắn yểm trợ, xe tăng và bộ binh
Quân đoàn 3 Việt Nam tiến công và nhanh chóng đánh tan 5 sư đoàn quân Khmer
Đỏ trên toàn tuyến phòng thủ dọc theo biên giới ở tỉnh Kampong Cham. Tới cuối
ngày, trừ sở chỉ huy quân Khmer Đỏ, toàn bộ các cứ điểm còn lại thất thủ, quân
Khmer Đỏ rút chạy về thị trấn Kampong Cham ở bờ tây sông Mekong, bị quân
Việt Nam truy kích ráo riết.
Không quân Việt Nam cũng tham chiến, tấn công vào tuyến phòng thủ của
Khmer Đỏ và ném bom phá hủy một sân bay mà từ đó máy bay T-28 Khmer Đỏ
xuất kích ném bom vào các toán quân tiền phương Việt Nam. Sáng ngày 1 tháng 1
năm 1979, sau khi tập hợp lại lực lượng, Quân đoàn 3 đánh chiếm sở chỉ huy
Khmer Đỏ sau một giờ giao chiến quyết liệt. Tướng Kim Tuấn hạ lệnh cho các đơn
vị dưới quyền truy quét và tiêu diệt các lực lượng Khmer Đỏ còn sót lại. Tới ngày
3 tháng 1, Sư đoàn 320 đã tiến tới bờ đông của bến phà Kampong Cham bên bờ
sông Mekong. Tại đây sư đoàn dừng lại, rồi dùng 2 đại đội xe bọc thép mở đường,
đánh về phía nam chiếm thủ phủ tỉnh Prey Veng.
Sau khi nhận được sự chấp thuận từ Bộ chỉ huy, sáng ngày 31 tháng 12, sư
đoàn 4 của Quân khu 9 và Trung đoàn 9 của Sư đoàn 304 phối thuộc mở cuộc phản
công. Sau 24 giờ giao tranh kịch liệt, quân Việt Nam đã đánh lui quân Khmer Đỏ
khỏi bờ tây kênh Vĩnh Tế. Chiều ngày 1 tháng 1, được pháo binh và không quân
yểm trợ, Lữ đoàn công binh 219 thuộc Quân đoàn 2 bắc cầu phao vượt sông. Sư
đoàn 304 và Lữ đoàn xe bọc thép 203 mở đường tiến vào đất Campuchia. Tới trưa
ngày 3 tháng 1, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 đã tiêu diệt hoặc đánh tan tất cả các
7
lực lượng Khmer Đỏ ở hạ lưu sông Mekong dọc biên giới. Sở chỉ huy Quân khu
Tây Nam của Khmer Đỏ phải rút về Takéo.
Sau ba ngày tấn công, tại hướng chủ yếu Tây Ninh, Quân đoàn 4 với sự yểm
trợ của không quân, trực thăng, pháo binh, hải quân, thiết giáp... quân Việt Nam
đánh bật được quân Khmer Đỏ khỏi các vị trí Năm Căn, Hòa Hội dọc theo tỉnh lộ
13, và các đơn vị của các Sư đoàn 703, 340, 221 của Khmer Đỏ phải rút về thành
lập một tuyến phòng thủ mới tại Svay Rieng, tập trung ở cầu Don So.
Tướng Hoàng Cầm hạ lệnh cho Sư đoàn 7 tung hết lực lượng dự bị vào trận.
Quân Khmer Đỏ kháng cự dữ dội, nhưng sau khi bị đánh thua ở Tây Ninh,
quân Khmer Đỏ đã bị mất tinh thần, hơn nữa, do phải chấp nhận một trận đánh quy
ước với một địch thủ có hoả lực, quân số và kinh nghiệm chiến trường trội hơn quá
nhiều, nên quân Khmer Đỏ bị tan rã. Tuyến phòng thủ Svay Rieng bị vỡ ngày 2
tháng 1 năm 1979, quân Khmer Đỏ phải rút về Prey Veng và Neak Luong, chỉ để
lại một số đơn vị đánh cầm chân Quân đoàn 4.
Tới ngày 2/1/1979, quân đội Việt Nam đánh tan các sư đoàn chủ lực của
Khmer Đỏ án ngữ các trục đường số 1,7 và 2 ở lối vào Phnom Penh. Chiều ngày
3/1, Sư đoàn 7 chiếm được cầu Don So và tới ngày 4/ 1 đã làm chủ toàn bộ vùng
phía đông sông Mekong. Tới ngày 5 tháng 1, Sư đoàn 7 tiến đến Neak Luong.
3.b. Đánh chiếm Phnom Penh
Ngày 6 tháng 1, các đơn vị Việt Nam vượt sông Mekong qua ngả Neak
Luong và bắc Kompong Cham. Chín sư đoàn quân Việt Nam làm thành hai gọng
kìm tiến vào Phnom Penh từ phía Đông Nam và phía Bắc: Sư đoàn 7 và Sư đoàn 2
di chuyển theo quốc lộ 1, Sư đoàn 9 tiến song song bảo vệ sườn phía nam và Sư
đoàn 341 bảo vệ sườn phía bắc. Một toán đặc công nhảy dù xuống Phnom Penh để
giải cứu Hoàng thân Sihanouk nhưng không thành công.
Tại Kompong Cham, Quân đoàn 3 của tướng Kim Tuấn cũng giao tranh
quyết liệt với quân Khmer Đỏ để vượt sông. Quân Khmer Đỏ thiết lập trận địa
phòng ngự dọc bờ tây sông Mekong với nhiều ổ súng máy, súng cối bắn trùm lên
mặt sông để ngăn thuyền chở quân Việt Nam đổ bộ. Tướng Kim Tuấn quyết định
dùng hỏa lực áp đảo bắn vào trận địa phòng thủ của quân Khmer Đỏ, rồi cho thả
khói mù, dùng thuyền chuyển quân sang bờ tây. Mặc dù rất nhiều thuyền bị trúng
đạn của quân Khmer Đỏ, Quân đoàn 3 cuối cùng cũng đã thiết lập được một đầu
cầu. Một đại đội xe lội nước vượt sông và tỏa ra để đánh vào thị trấn; 2 tiểu đoàn
bộ binh cũng vượt được sông, đến 8:30 sáng, Kampong Cham thất thủ.
Ngay trong sáng ngày 6 tháng 1, lực lượng đột kích Phnom Penh, gồm
Trung đoàn 28 của Sư đoàn 10 và các đơn vị phối thuộc, dẫn đầu bởi 6 xe lội
nước và một số xe thiết giáp M-113 vượt sông, tổng cộng lực lượng lên đến 120 xe
quân sự. Lực lượng đột kích vừa hành quân vừa giao chiến với các ổ phục kích của
quân Khmer Đỏ, tới chiều tối đã tới bờ sông Tonglé Sap và tổ chức đánh vượt sông
để tiến vào Phnom Penh.
Trong khi đó, ngày 6 tháng 1 năm 1979, những đơn vị đầu tiên của Sư đoàn
7 Quân đoàn 4 được 1 tiểu đoàn UFNSK hỗ trợ chiếm được bờ phía đông của bến
phà Neak Luong. Quân Campuchia trong khi rút lui vội vã đã không kịp thiết lập
công sự phòng thủ. Ngày 7 tháng 1, toàn bộ đội hình Quân đoàn 4 tiến hành vượt
sông. Do sự tan rã nhanh chóng của lực lượng phòng thủ biên giới và sự chủ quan
8
của Pol Pot, quân đội Việt Nam tiến vào Phnom Penh từ Neak Luong mà không
gặp sức chống cự đáng kể nào.
Việc quân Việt Nam tiến quá nhanh khiến cho Khmer Đỏ chỉ kịp sơ tán bộ
máy lãnh đạo. Son Sen chạy xuyên qua mặt trận ngược về phía Việt Nam để tập
hợp tàn quân của các sư đoàn thuộc quân khu miền Đông. Pol Pot, Nuon Chea và
Khieu Samphan được vài xe Jeep chở quân bảo vệ chạy về Pursat. Ieng Sary chạy
về Battambang trên một chuyến xe lửa đặc biệt chở vài trăm nhân viên Bộ ngoại
giao. Việc rút lui khẩn khiến nhiều Bộ khác cùng hàng ngàn nhân viên không được
thông báo về cuộc rút lui. Các chuyến xe tiếp theo sơ tán khỏi Phnom Penh bị tắc
nghẽn bởi quá nhiều người tìm cách bỏ chạy. Như vậy với việc ban lãnh đạo sơ
tán, binh lính Khmer Đỏ tại Phnom Penh, cũng như các đơn vị quân phòng thủ các
mục tiêu lân cận bị bỏ mặc tự thân vận động.
Ngày 7 tháng 1, quân Việt Nam chiếm sân bay Kampong Chonang và bắt
được mười máy bay A-37, ba C-123K, sáu C-47, ba Alouette III cùng một số T-28.
Ngoài ra Khmer Đỏ cũng bỏ lại hàng trăm xe tăng và xe bọc thép, rất nhiều đạn
dược và lương thực dự trữ chiến lược mà họ không kịp mang theo.
Ngày 8 tháng 1, Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia do Heng
Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập với sự hậu thuẫn của Việt Nam.
Ở phía Bắc, các sư đoàn của Quân đoàn 3 cũng tiến xuống Phnom Penh, sau
đó Sư đoàn 320 theo quốc lộ 4 xuống bình định các tỉnh phía nam. Các sư đoàn
còn lại theo các quốc lộ 5 và 6 tiến về hướng Tây và hướng Bắc. Họ gặp sức chống
cự đáng kể của quân Khmer Đỏ tại Battambang và Siem Reap.
3.c. Hướng nam, Sihanoukville
Tại mặt trận phía nam, từ An Giang, quân Việt Nam bắt đầu vượt biên giới
vào ngày 3/1 /1979 và tấn công theo hai hướng. Hướng thứ nhất, Sư đoàn 325 và
Sư đoàn 8 tiến về phía Tây, dọc theo quốc lộ số 2. Ngày 5/ 1/ 1979, trong khi lực
lượng Quân khu 9 tiến đánh Takéo, sư đoàn 325 bắt đầu hành tiến theo hướng Tây
Bắc. Lực lượng Khmer Đỏ của Quân khu Tây Nam do Ta Mok chỉ huy khét tiếng
cuồng tín đã chuẩn bị công sự phòng thủ ở Tuk Meas trên đường 16, ở khoảng giữa
biên giới và Chhuk. Phải mất hai ngày giao chiến, Sư đoàn 325 mới có thể đánh
tan tuyến phòng ngự của Khmer Đỏ và chiếm được khu vực Tuk Meas.
Nắm quyền chỉ huy trực tiếp trung đoàn xung kích 24, tướng Nguyễn Hữu
An dẫn trung đoàn tiến từ Tuk Meas về Chhuk. Các quân xa của Việt Nam gồm xe
tăng hạng nặng, xe tải và trọng pháo di chuyển khó khăn trên đường đất và ruộng
lúa nên đã bị quân Khmer Đỏ phục kích phá hủy một số xe và pháo, sở chỉ huy của
tướng An cũng bị tổn thất và tạm thời mất liên lạc với các lực lượng còn ở phía
sau. Tới chiều ngày 7 tháng 1, lực lượng xung kích đã ra đến đường số 3, và trong
quá trình tiến công đã đánh tan sư đoàn quân Khmer Đỏ phòng ngự Chhuk.
Trong hai ngày 4 và 5/ 1/1979, từ đảo Phú Quốc, hai phân đội Hải quân Việt
Nam gồm một số tàu tuần tiễu loại lớn của Mỹ ( Việt Nam chiếm được ), hai tàu
khu trục Petya của Nga, cùng nhiều tàu chiến nhỏ chuẩn bị chuyển Lữ đoàn Hải
quân 101 và 126 đổ bộ. Hải quân cũng lập trận địa pháo 130mm ở mũi đảo Phú
Quốc để yểm trợ cho lực lượng đổ bộ.
Sẩm tối ngày 6 tháng 1, toán quân đặc công gồm 87 người bí mật đổ bộ và
tấn công chiếm một trận địa pháo Khmer Đỏ bảo vệ bờ biển, cùng lúc, pháo
9
130mm bắt đầu bắn phá các vị trí quân Khmer Đỏ. Lập tức các thuyền tuần tiễu
loại nhỏ của Khmer Đỏ xuất kích từ quân cảng Ream và các bến cảng nhỏ tấn công
vào Hải quân Việt Nam. Sau một trận giao chiến trên biển, do có ưu thế về số
lượng và hỏa lực, Hải quân Việt Nam đẩy lùi hoặc đánh chìm hầu hết các tàu
Khmer Đỏ trên vịnh Thái Lan và các vùng phụ cận.
Theo kế hoạch, lực lượng Hải quân đánh bộ phải triển khai một lực lượng
lớn, theo vùng ven biển đánh chiếm cùng lúc hai cây cầu quan trọng và giao
điểm Veal Renh dẫn về bán đảo Kampong Som. Đến đêm ngày 7 tháng 1, Hải quân
mới đổ bộ thêm được 3 tiểu đoàn của Lữ đoàn 126 và 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn 101
lên bãi biển, nhưng số xe tải phải đến ngày 8 tháng 1 mới lên bờ được vì vấp phải
sự đánh trả hết sức quyết liệt của Khmer Đỏ .
Sư đoàn 304 vốn được dùng làm dự bị để tham gia đánh về Phnom Penh,
nhưng do Quân đoàn 3 và 4 đã đánh được Phnom Penh từ ngày 7/ 1, nên tướng An
dùng sư đoàn này để nhanh chóng giải cứu lực lượng lính thủy đánh bộ và đánh
chiếm Sihanoukville. Ngày 9/ 1, Trung đoàn 66 sau khi gặp lực lượng Hải quân
đánh bộ, chuẩn bị giao chiến: không lặp lại sai lầm của Hải quân, Trung đoàn 66
tổ chức chiếm cao điểm xung quanh thành phố trước khi phối hợp với hải quân
đánh bộ đánh vào thành phố. Sau khi đánh tan được Sư đoàn 230 Campuchia Dân
chủ, quân Việt Nam chiếm được Kampot, Ream và hải cảng Kampong Som .
Hướng thứ hai, Quân khu 9 phụ trách, tiến về phía Bắc đánh chiếm hai thị
xã Tan và Takéo. Các sư đoàn Khmer Đỏ trấn giữ quân khu Tây Nam như Sư đoàn
2, 210, 230, 250, bị tan rã và rút lui vào rừng.
Cuối tháng 1 năm 1979 cuộc phản công kết thúc thắng lợi. Đến ngày 17
tháng 1 thị xã cuối cùng là Ko Kong rơi vào tay quân đội Việt Nam và chính quyền
mới của Campuchia. Cho tới cuối tháng 3, quân đội Việt Nam coi như chiếm được
hết những thành phố và tỉnh lỵ quan trọng của Campuchia dân chủ và tiến sát tới
biên giới Thái Lan. Tuy nhiên tàn quân Pol Pot vẫn tiếp tục chống cự và quấy
nhiễu, gây ra nhiều thương vong cho quân đội Việt Nam đồn trú tại Campuchia.
3.d. Truy quét tàn quân Khmer Đỏ và Đánh Siem Reap và Battambang
Trên chiến trường Campuchia, vì quân Việt Nam tiến quá nhanh chóng, nên
quân Khmer Đỏ chỉ bị tan rã chứ chưa bị tiêu diệt hẳn. Nhiều đơn vị đã tập trung
lại thành những đơn vị nhỏ, tiếp tục đánh du kích và quấy phá.
Sau khi Quân đoàn 4 chiếm được Phnom Penh, các đơn vị của Quân đoàn 3,
Quân khu 5 và Quân khu 7 cũng vượt sông Mekong tiến chiếm và bình định lãnh
thổ phía bắc Biển Hồ và sông Tonlé Sap. Quân Khmer Đỏ đã cố gắng kháng cự
gần tỉnh Battambang nhưng cũng chỉ có thể làm chậm đà tiến quân của Việt Nam.
Họ đã phân tán thành nhiều đơn vị nhỏ tiếp tục đánh du kích.
Quân đoàn 2 và các sư đoàn của Quân khu 9 sau khi chiếm được vùng duyên
hải cũng tiến dọc theo quốc lộ 4 về hướng Bắc. Mấy ngày sau khi Trung Quốc tiến
đánh biên giới Việt-Trung, Quân đoàn 2 rút về bảo vệ Hà Nội.
Ngày 8 tháng 1, Sư đoàn 10 theo lệnh của tướng Kim Tuấn thực hiện cuộc
hành quân chớp nhoáng truy kích quân Khmer Đỏ. Tới ngày 9, Trung đoàn 24 đã
chiếm được Kampong Thom, Trung đoàn 26 cũng đã kiểm soát được đường 6 nối
Kampong Thom và Phnom Penh, Trung đoàn 66 được lệnh vượt lên trước hai đơn
vị này đánh chiếm thành phố Siem Reap ở phía tây bắc biển hồ Tongle Sap. Dùng
10
36 xe tải chở quân, được xe tăng yểm trợ, trung đoàn nhanh chóng hành quân, tiến
được 100 km chỉ trong vòng 2 giờ, đồng thời đánh tan các trạm kiểm soát của
Khmer Đỏ dọc đường, tiêu diệt và chiếm toàn bộ đoàn xe gồm 23 xe tải chở quân
Khmer Đỏ. Tới khi trời tối thì Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 10 và Sư đoàn 5 của
Quân khu 7 cũng đã tới nơi.
Ngày hôm sau, Trung đoàn 24 lại hành quân 100 km nữa đánh chiếm thị
xã Sisophon nằm cách biên giới Thái Lan 50 km. Ngày 12 tháng 1, (sau khi trao lại
thị xã cho lực lượng Quân khu 5) trung đoàn 24 một tiểu đoàn của Trung đoàn 66
cùng một đại đội xe M-113, pháo phòng không và trọng pháo theo theo đường 5
phía nam Sisophon đánh vào các lực lượng Khmer Đỏ đang tập trung về
Battambang và chiếm thành phố ngay trong ngày hôm đó.
Ngày 13/ 3/ 1979, tướng Kim Tuấn di chuyển Bộ chỉ huy Quân đoàn 3 đến
Battambang để trực tiếp chỉ huy chiến dịch truy quét tàn quân Pol Pot tập trung ở
vùng tây nam gần biên giới Thái Lan. Ba ngày sau, ông rời Battambang để đi Siem
Reap, trên đường đi khoảng 40 km về hướng bắc Battambang, đoàn xe của ông bị
Khmer Đỏ phục kích. Mặc dù lực lượng phục kích bị đè bẹp, chiếc com-măng-ca
thứ 3 có Tư lệnh Kim Tuấn ngồi bên cạnh người lái xe bị trúng đạn M79 khiến ông
bị thương nặng vùng cột sống và mất ngày hôm sau, ngày 17/ 3. Ông là sĩ quan cao
cấp nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam hy sinh khi tham chiến ở Campuchia.
3.e. Khu vực Tây Nam
Trận đánh quan trọng đầu tiên trong chiến dịch bình định diễn ra
tại Kampong Speu, nằm trên quốc lộ 4 nối hải cảng Kampong Som với Phnom
Penh, cách Phnom Penh khoảng 50 km. Thị xã này, sau khi quân Khmer Đỏ di tản
vội vã, do Trung đoàn 10 thuộc Sư đoàn 339 Việt Nam chiếm đóng. Nhưng ít ngày
sau, các lực lượng còn lại của các Sư đoàn 703, 340, 221 từ tuyến phòng thủ Svay
Rieng chạy về đã tập trung lại và dự định tái chiếm thị xã. Trận đánh bắt đầu ngày
21/ 1/ 1979 đến ngày 7 tháng 2 mới kết thúc. Dù bị tổn thất nặng, quân Việt Nam
vẫn giữ được Kampong Speu.
Giữ vững được Kampong Speu, bảo đảm được giao thông trên quốc lộ 4,
quân Việt Nam tiến đánh căn cứ Amleng, nơi mà bộ chỉ huy quân sự của Pol Pot từ
Phnom Penh rút về trú đóng. Căn cứ này nằm trong một vùng rừng núi hiểm trở,
cách Phnom Penh khoảng 100 km về phía tây nam nhưng vẫn thất thủ, nhưng họ
tìm đủ cách để gây khó khăn và tổn thất cho quân Việt Nam khi họ rút lui khỏi căn
cứ bằng đủ mọi cách như phục kích, bắn tỉa, gài mìn, đốt rừng...
Chiếm xong được Amleng, quân Việt Nam mở chiến dịch đánh chiếm thị
xã Leach. Khmer Đỏ dự định biến Leach thành một căn cứ phản công. Một phần
lớn những lực lượng còn lại được tập trung tại đây. Tuy quân số gồm nhiều sư đoàn
(104, 210, 260, 264, 460, 502), nhưng trên thực tế, mỗi sư đoàn chỉ còn chưa tới
một ngàn quân. Lực lượng phòng thủ cũng có vài khẩu pháo 105 ly và vài xe thiết
giáp.
Để tấn công Leach, quân Việt Nam đã sử dụng một lực lượng lớn và tấn
công làm 4 hướng. Hướng thứ nhất, do Sư đoàn 341 thay thế Sư đoàn 330 đã bị
hao hụt quân số quá nhiều khi giải toả quốc lộ số 5, đánh chiếm thị xã Pursat để từ
đó đánh vào mặt bắc của Leach. Hướng thứ hai do Sư đoàn 9 từ căn cứ Amleng
mới chiếm được đánh vào phía đông. Hướng thứ ba do Quân khu 9 phụ trách được
11
tàu đổ bộ chở đến tỉnh Kokong . Hướng thứ tư, do Sư đoàn 31, Quân đoàn 3, từ
biên giới Thái Lan theo tỉnh lộ 56 đánh ngược về mặt tây của Leach.
Vì đây là một trận quyết định, nên trận đánh đã kéo dài trên một tháng. Tất
cả các sư đoàn tham chiến đều bị tổn thất nặng. Cuối cùng, vì hoả lực thua kém,
bệnh tật, bị hao hụt lực lượng mà không được bổ sung nên căn cứ Leach của
Khmer Đỏ bị Sư đoàn 9 chiếm được ngày 29/ 4/1979. Trận đánh tại căn cứ Leach
là trận đánh có quy mô lớn cuối cùng trên đất Campuchia. Sau khi Leach bị mất,
các đơn vị còn lại của Khmer Đỏ rút về các mật khu ở Pailin và Tasanh sát biên
giới Thái Lan. Một số khác phân tán thành những đơn vị nhỏ tiếp tục đánh du kích.
Giữa tháng 3, quân Việt Nam mở chiến dịch mới đánh chiếm căn cứ Tasanh,
nằm ở phía nam Pailin. Tới 28/3, căn cứ này thất thủ, khiến cho "đại sứ quán"
Trung Quốc đóng tại đây phải sơ tán về vùng núi cao. Ban lãnh đạo Khmer Đỏ tại
đây cũng bỏ chạy, bỏ lại một phần tài liệu, xe cộ, vũ khí, lương thực dự trữ và
3.000 tấn đạn dược.
Các đơn vị của Việt Nam bắt đầu phân nhiệm để hành quân bình định. Về
phía quân Khmer Đỏ dù bị thiệt hại nặng vẫn còn khoảng 30.000 quân có còn khả
năng quấy phá, phục kích, gây mất ổn định khiến Việt Nam phải duy trì một lực
lượng quân sự lớn tại Campuchia.
3.g. Thành lập chính quyền mới
Ngày 5/1/1979, 66 đại biểu Campuchia được triệu tập họp ở Mimot để bàn
về việc thành lập một đảng cộng sản Campuchia mới. Đảng này lấy lại tên Đảng
Nhân dân Cách mạng Campuchia có từ thời 1951. Pen Sovann, một cán bộ
Campuchia tập kết về Hà Nội năm 1954, được đề cử giữ chức chủ tịch đảng.
Những Uỷ viên thường vụ của đảng gồm Hun Sen, Bou Thang, Chan Kiri, Heng
Samrin và Chia Soth.
Ngày 8/ 1/ 1979, đài phát thanh Phnom Penh loan báo Phnom Penh đã được
giải phóng bởi những lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia. Một Hội đồng
cách mạng được thành lập do Heng Samrin làm chủ tịch. Khoảng mười ngày sau,
hội đồng này ký một hiệp ước với Việt Nam, hợp thức hóa sự hiện diện của quân
đội Việt Nam trên đất Campuchia.
Tới mùa xuân 1981, hiến pháp mới của Campuchia được thông qua, sau đó
là cuộc bầu cử toàn quốc để chọn ra 117 đại biểu quốc hội. Hun Sen được bầu làm
Bộ trưởng Ngoại giao, Heng Samrin làm Chủ tịch nước. Ba sư đoàn mới được
thành lập và đặt dưới Bộ Quốc phòng, nhưng an ninh vẫn được duy trì chủ yếu dựa
vào sự hiện diện của 180.000 quân Việt Nam.
Chính quyền mới của Campuchia chỉ được một số nước thuộc khối xã hội
chủ nghĩa công nhận. Chính phủ của Pol Pot tiếp tục được các nước phương Tây,
Trung Quốc và khối ASEAN công nhận và vẫn là thành viên Liên hiệp quốc.
3.h. Căng thẳng biên giới với Thái Lan ( Thái Lan-Việt Nam 1982-1988)
Campuchia bị mất, Thái Lan trở nên một địa bàn chiến lược quan trọng để
Trung Quốc có thể giúp đỡ cho Khmer Đỏ tiếp tục cuộc chiến. Sau khi họp xong
với Ieng Sary, Đặng Tiểu Bình bí mật cử Cảnh Biểu, Ủy viên Bộ Chính trị, cùng
Thứ trưởng ngoại giao Hàn Niệm Long sang Bangkok hội đàm với Thủ tướng
Thái Kriangsak Chomanan tại căn cứ không quân Utapao. Kriangsak đồng ý để
Trung Quốc dùng lãnh thổ Thái Lan tiếp tế cho Khmer Đỏ.
12
Thủ tướng Thái Kriangsak cũng tìm kiếm hỗ trợ từ Washington nhằm ngăn
ngừa Hà Nội. Để biểu thị sự ủng hộ Thái Lan, Hoa Kỳ chuyển giao cho Thái số
lượng đạn dược trị giá 11.3 triệu dollar tồn kho tại Thái từ thời chiến tranh Việt
Nam. Chính quyền Carter cũng hứa hẹn thúc đẩy việc chuyển giao chiến đấu cơ F5E và các loại vũ khí hiện đại khác mà Thái đã đặt mua, và tăng lượng vũ khí bán
cho Thái từ mức 30 triệu dollar một năm lên 50 triệu. Tuy vậy, trong trường hợp
chiến tranh nổ ra, quân Thái vẫn không phải là đối thủ của Việt Nam. Với lực
lượng 141.000 quân, số lượng quân Thái chỉ bằng 1/4 quân Việt Nam, và họ không
có được kinh nghiệm chiến đấu như quân Việt Nam.
4. GIAI ĐOẠN BÌNH ĐỊNH LÃNH THỔ (1980-1989)
4.a. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Thái Lan hỗ trợ Khmer Đỏ
Việt Nam hy vọng có thể nhanh chóng truy quét và tiêu diệt tàn quân Khmer
Đỏ trước khi mùa khô 1979-1980 kết thúc, nhưng tàn quân Khmer Đỏ đã phân tán
rải rác trong các trại tị nạn dọc biên giới Thái Lan - Campuchia.
Tổ chức cứu trợ khẩn cấp Campuchia của Mỹ, dựa vào đại sứ quán Mỹ tại
Bangkok, đã nuôi dưỡng và hỗ trợ Khmer đỏ để tiếp tục chống lại chính phủ mới
của Campuchia do Việt Nam hậu thuẫn. Dưới sức ép của Mỹ, Chương trình Lương
thực thế giới đã cung cấp lương thực cho 20.000 đến 40.000 lính Khmer đỏ.
Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng dùng quyền của mình ở Liên Hiệp quốc để giữ
ghế đại diện cho Khmer Đỏ. Chính quyền Pol Pot dù chỉ còn là một nhóm du kích
trong rừng nhưng lại được coi là đại diện hợp pháp duy nhất của người dân
Campuchia.
Trung Quốc tích cực hỗ trợ Khmer Đỏ với ngân khoản 80 triệu dollar hàng
năm, và vận động Hoa Kỳ viện trợ cho các phe đối lập. Thái Lan đồng ý cho lực
lượng Khmer Đỏ thiết lập căn cứ tại vùng biên giới. Để hỗ trợ Khmer Đỏ, liên
minh không chính thức giữa TQ và Thái Lan đã thiết lập một tuyến đường bí mật
trên đất Thái tiếp tế lương thực, vũ khí, thuốc men, hàng dân dụng cho Khmer Đỏ.
Ngoài hỗ trợ khổng lồ mà Bắc Kinh dành cho Khmer Đỏ và cung cấp viện trợ cho
các phe phái đối lập khác ở Campuchia như KPNLF. Nhờ đó, lực lượng quân sự
của các phái này có lúc đã phát triển lên gần 30 ngàn. Việt Nam vừa phải chống lại
Khmer Đỏ, vừa phải chống lại quân đội của các phe phái đối lập này.
4.b. Việt Nam hổ trợ chính quyền mới và truy quét tàn quân Khmer Đỏ
Được Việt Nam hậu thuẫn, ngày 8/1/1979 Hội đồng Nhân dân Cách mạng
nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành
lập. Nhưng tổ chức này mới được thành lập nên chưa đủ sức bảo vệ chính phủ mới
khỏi trước sức mạnh quân sự của Khmer Đỏ.
Hàng ngàn công chức và kỹ thuật viên Việt Nam đã được đưa sang
Campuchia để khôi phục hệ thống điện, nước ở Phnom Penh, đưa hệ thống đường
sắt vào hoạt động trở lại. Các bệnh viện và trạm xá được mở lại với các bác sĩ dân
y và quân y Việt Nam cùng một số bác sĩ Campuchia còn sống sót qua thời Khmer
Đỏ. Hàng trăm người Campuchia được gửi sang Việt Nam học các khóa cấp tốc về
chăm sóc sức khỏe, giáo dục, ngân hàng, ngoại thương, và an ninh.
Từ năm 1979 đến giữa năm 1985, quân đội Việt Nam thực hiện các chiến
dịch quân sự truy quét đánh phá các căn cứ của Khmer Đỏ. Tháng 1 năm 1980,
13
chiến dịch quân sự nhằm vào Khmer Đỏ tại Phnom Chhat bắt đầu. Các cuộc đụng
độ giữa các lực lượng NCR và quân Việt Nam cũng diễn ra và lan sang cả lãnh thổ
Thái Lan. Thời gian này, Khmer Đỏ bắt đầu tái xâm nhập Campuchia từ Thái Lan
với khoảng 3-4 ngàn quân. Khi mùa mưa tới, Khmer Đỏ đã tái tổ chức lực lượng,
chỉ huy và huấn luyện, bắt đầu các cuộc giao tranh quy mô nhỏ như đánh du kích,
phục kích, pháo kích quấy rối.
Lực lượng Việt Nam và chính phủ Phnom Pênh tiếp tục truy đuổi và giáng
những đòn nặng nề vào các nhóm chống đối. Năm 1982, trong một chiến dịch dữ
dội nhất kể từ khi quân Việt Nam tiến vào lật đổ Khmer Đỏ, sư đoàn 7 Việt Nam
đánh vào trại Sokh San của KPNLF, buộc họ phải bỏ chạy vào Thái Lan. Tới tháng
7 năm 1982, Việt Nam tuyên bố sẽ rút quân từng phần khỏi Campuchia. Ngay lập
tức, các lực lượng đối lập tăng cường các hoạt động quân sự. Quân Khmer Đỏ tăng
cường hoạt động vũ trang tại các tỉnh Kampot, Takeo, Kampog Cham và Kampong
Thom . Sự yếu ớt của quân đội chính phủ Phom Penh khiến họ không thể chống đỡ
được sự trỗi dậy của Khmer Đỏ. Tình hình quân sự tại Campuchia trong năm 1983
trở nên xấu đi, buộc Việt Nam phải ngừng việc rút quân khỏi Compuchia.
Tương quan lực lượng năm 1984 là Việt Nam có khoảng 180 ngàn quân tại
Campuchia, so với khoảng 17 ngàn quân của KPNLF, và khoảng 30-50 ngàn quân
Khmer Đỏ và khoảng 5 ngàn quân thuộc lực lượng Sihanouk.
Tới mùa khô năm 1984 - 1985, Việt Nam huy động khoảng 60 ngàn quân
cho chiến dịch tấn công quyết định nhằm triệt hạ các căn cứ của Khmer Đỏ nằm
gần Thái Lan, cùng với hàng chục ngàn dân công Campuchia xây đường và mở
rộng các sân bay dã chiến tại khu vực biên giới. Cuối tháng 12/1984, khoảng 1.000
quân Việt Nam đánh hạ căn cứ Nong Samet. Tháng 1/ 1985, khoảng 4.000 quân
Việt Nam, với hơn 30 xe tăng và xe bọc thép hỗ trợ, đánh vào căn cứ Ampil của
lực lượng Mặt trận Nhân dân Giải phóng Quốc gia Campuchia (KPNLF) với 5.000
quân phòng ngự và triệt hạ hoàn toàn căn cứ này sau 36 giờ. Quân Việt Nam và
quân chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia cũng mở chiến dịch tấn công căn
cứ lớn có gần 10.000 quân Khmer Đỏ đóng giữ tại Phnom Malai và đã triệt hạ căn
cứ này sau 2 ngày giao tranh. Chiến dịch mùa khô năm 1984- 1985 là chiến dịch
lớn chưa từng có của Việt Nam kể cả về quy mô, thời gian và mức độ thành công.
Sau các chiến dịch 1984-1985 của Việt Nam, lực lượng đối lập bị nhiều tổn
thất. Liên quân KPNLF và Khmer Đỏ ước tính đã bị mất khoảng 1/3 lực lượng do
thương vong và đào ngũ. Liên minh này mất toàn bộ các căn cứ trên đất
Campuchia, trong đó có thủ đô lâm thời đặt tại một ngôi làng có tên Phum Thmei
trong rừng sát biên giới Thái Lan. Khmer Đỏ rút một phần về Thái Lan, một phần
chia nhỏ và ẩn trong nội địa. Hai phe Sihanouk và Son Sann rút hẳn vào trong lãnh
thổ Thái Lan. Chiến dịch truy quét quy mô lớn kéo dài 5 tháng của Việt Nam đã
chấm dứt hy vọng lật ngược tình thế của Khmer Đỏ và KPNLF.
Ngày 16 tháng 8 năm 1985, thông cáo của cuộc họp các bộ trưởng ngoại
giao ba nước Đông Dương tại Phnom Penh tuyên bố Việt Nam sẽ rút quân hoàn
toàn khỏi Campuchia, quá trình rút quân sẽ hoàn thành năm 1990.
Tháng 06 năm 1988, trên cơ sở trưởng thành của quân đội Campuchia và với
sự thỏa thuận của giữa Việt Nam và Campuchia, Việt Nam đã rút toàn bộ chuyên
gia dân sự và đến tháng 9 năm 1989, Việt Nam rút toàn bộ quân tình nguyện và
14
chuyên gia quân sự Việt Nam về nước. Campuchia vươn lên làm chủ tình hình,
kiểm soát trên 90% lãnh thổ.
Năm 1992-1993, lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc (UNTAC United Nations Transitional Authority in Cambodia) tạm thời quản lý Campuchia.
4.c Hoạt động hỗ trợ dân sự của quân tình nguyện Việt Nam
Trong thời kỳ đóng quân tại Campuchia, quân đội và chuyên gia Việt Nam
đã giúp hàng chục vạn, hàng triệu dân tiều tụy đói khát, trở về quê cũ, khôi phục
sản xuất, làm lại nhà cửa, trường học, chùa chiền. Nhân dân Campuchia đã dấy lên
một cao trào quần chúng hồi sinh từng người, từng gia đình, từng thôn ấp và hồi
sinh toàn dân tộc. Quân đội và chuyên gia Việt Nam đã giúp những người dân này
sửa lại nhà, ai không còn nhà thì dựng lại nhà, làm sạch giếng cho người dân
Campuchia uống, nhường gạo cho người dân Campuchia ăn, khôi phục và sửa
chữa lại trường học. Lực lượng ngành y của Việt Nam đi cùng bộ đội thời bấy giờ
thì chữa bệnh cho người dân Campuchia. Dần dần trường lớp, làng mạc, bệnh viên,
trường học… được khôi phục lại. Bộ quốc Phòng đã chỉ đạo hành động theo từng
giai đoạn. Theo đó, giai đoạn đầu do người dân Campuchia chưa có gì, Việt Nam
sẽ thực hiện “Việt Nam làm giúp Campuchia”- nghĩa là đánh giặc cũng Việt Nam,
giúp dân sản xuất cũng Việt Nam, xây dựng chính quyền cũng Việt Nam. Khi
người dân Campuchia đã có cơ sở, Việt Nam chuyển sang khẩu hiệu “Ta, bạn
cùng làm”. Giai đoạn ba là “Bạn làm ta giúp”- nghĩa là người dân Campuchia đã
đủ khả năng, người dân Campuchia yêu cầu tới đâu Việt Nam giúp tới đó. Cuối
cùng, khi người dân Campuchia thực sự lớn mạnh thì Việt Nam rút toàn bộ quân
tình nguyện về nước để người dân Campuchia tự đảm đương.
4.d. Lời kết cho cuộc chiến
- Khmer Đỏ trước khi tấn công biên giới Việt Nam đã gây ra nạn diệt chủng
là giết chết khoảng 2 triệu người (khi đó dân số Campuchia là 7,1 triệu), tức
Khmer Đỏ đã tiêu diệt 30% dân số Campuchia bằng các biện pháp tử hình, bỏ đói
và lao động cưỡng bức. Máu xương của nhân dân và những người lính Việt Nam
ngã xuống ngày ấy và hàng vạn những nấm mồ vô danh đang còn nằm lại sương
gió trên đất nước Campuchia ngày nay chính là ngăn cái nạn diệt chủng trong các
trại tập trung do Pol Pot, Nuon Chea, Ieng Sary … lập ra hơn 40 năm về trước.
- Trong lễ mít tinh ( 7/1/1979 - 7/1/2014 ) kỷ niệm 35 năm do Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì tổ chức với sự phối hợp của Bộ Quốc
phòng, Bộ Ngoại giao hai nước. Chủ tịch Quốc hôi Hun Sen đã phát biểu rằng : “
chính cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam mà Pol Pot gây ra, sự tàn sát của Pol Pot
với người Việt là cơ hội để ông ấy hi vọng VN sẽ giúp người dân Campuchia được
giải phóng. Đúng thế, VN đã không còn con đường nào khác khi buộc phải đưa
con cháu mình cầm súng để bảo vệ biên giới, bảo vệ đồng bào mình và đứng về
phía quân cách mạng Campuchia để giải phóng dân tộc Campuchia khỏi thảm họa
diệt chủng… ” Chủ tịch Quốc hội Heng Samrin xem lễ mittinh này là dịp hội ngộ
quan trọng để nhân dân Campuchia bày tỏ sự ghi nhớ công lao giúp đỡ to lớn của
quân tình nguyện Việt Nam và một số nước bạn bè trên thế giới vì đã góp phần
chia sẻ nỗi đau với nhân dân Campuchia.
- Ngày 5-1, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị TPHCM, Hội Hữu nghị Việt Nam Campuchia TPHCM tổ chức gặp mặt kỷ niệm 39 năm ngày Chiến thắng chiến
15
tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ
diệt chủng Khmer Đỏ (7-1-1979 -7-1-1-2018)
- Cuộc chiến biên giới Tây Nam là cuộc chiến tranh tự vệ chính đáng theo
điều 51 Hiến chương Liên Hợp Quốc. Đây là cuộc chiến nhân đạo giúp Campuchia
thoát khỏi nạn diệt chủng và giúp họ xây dựng chính quyền Campuchia mới.
- Tháng 12/1999, Ta Mok và các thủ lĩnh còn lại đầu hàng, Khmer Đỏ trên
thực tế chấm dứt sự tồn tại. Năm 2006 phiên tòa xét xử tội ác Khmer đỏ được
thành lập, ngày 26/7/2011 phiên tòa xét xử phiên đầu tiên. Cuộc chiến 10 năm của
Việt Nam có kết quả. Và trên hết, thế giới đã nợ Việt Nam một lời xin lỗi !
II. 2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.
2. a. Tính tích cực:
Theo hồi ký của Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam - Trần Quang Cơ, cơ bản
lập trường của phái đoàn Việt Nam gồm 10 điểm sau:
- Vạch trần tội ác của Khmer Đỏ đối với nhân dân Campuchia và hành vi xâm lược
của Khmer Đỏ đối với các tỉnh Tây Nam Bộ của Việt Nam
- Đưa ra các bằng chứng về những tội ác chiến tranh, tội ác diệt chủng, tội ác xâm
lược, tội ác chống lại loài người của Khmer Đỏ và hành động của Việt Nam là tự
vệ và là can thiệp nhân đạo
- Kiên quyết loại trừ bọn diệt chủng Polpot (trong khi Trung Quốc đưa ra yêu sách
phe Pol Pot phải có ghế trong chính phủ liên hiệp)
- Coi sự tham gia của Khmer Đỏ tại Hội nghị là vật cản chính và duy nhất của Hội
nghị...do phe này phục vụ lợi ích của một số nước tham gia Hội nghị chứ không
phục vụ lợi ích của người Campuchia
- Tôn trọng nguyên tắc nước ngoài không được can thiệp vào công việc nội bộ
Campuchia
- Tôn trọng nguyên trạng ở Campuchia có 2 chính quyền,
- Tôn trọng quyền của nhân dân Campuchia tự quyết định chế độ chính trị của
mình và lập chính phủ của mình, thông qua tổng tuyển cử tự do.
- Phía Việt Nam chấp nhận sự đóng góp của Liên Hiệp Quốc nếu Liên Hiệp Quốc
chấm dứt những nghị quyết thiên vị, ủng hộ 1 bên chống 1 bên.
- Việt Nam cam kết sẽ rút quân khi các bên đạt được thỏa thuận chính trị ở
Campuchia và việc rút quân chậm nhất là năm 1990
- Thực tiễn chỉ rằng, nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi là đường lối chủ trương
đúng đắn của Đảng ta, là tư tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại mà câu nói nổi tiếng của
16
Người là "giúp nhân dân nước Bạn là mình tự giúp mình", là lòng yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội và tinh thần quốc tế trong sáng đã trở thành động lực chính
trị, tinh thần vô cùng mạnh mẽ của Quân tình nguyện, nhân dân ta.
2. b. Tính tiêu cực
- Hiện nay sự hiểu biết pháp luật về lịch sử và ý thức thực hiện pháp luật của một
số cán bộ, nhân dân ta còn mập mờ, chưa đầy đủ. Vì vậy mà có người chưa quan
tâm đúng mức đến sự hy sinh mất mát qua các cuộc chiến tranh trong đó có Chiến
tranh bảo vệ Biên giới phía Tây Nam. Một số cá nhân có người thân đã từng
chiến đấu, hy sinh chưa tìm thấy hài cốt hoặc mất tích lại nóng lòng thể hiện thái
độ, cách nhìn nhận chưa phù hợp.
- Hiện nay, một số lãnh đạo Đảng Cứu quốc Campuchia, đứng đầu là Sam Rainsy,
ra rả nói xấu Việt Nam và tình hữu nghị giữa 2 nước, ra sức kích động hằn thù dân
tộc giữa 2 bên và có biểu hiện đi lại vào vết xe đổ của chế độ Pol Pot năm xưa.
- Cũng nhân cơ hội này, nhiều thế lực phản động trong và ngoài nước đã lợi dụng
tình hình biên giới, biển đảo, để xuyên tạc, kích động, nói xấu, bôi nhọ chế độ và
làm một số người hiểu sai về các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước ta đối với chính sách ngoại giao trong khu vực.
- Âm mưu, ý đồ của họ là chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động hằn thù
dân tộc, gây chia rẽ quan hệ Việt - Campuchia hòng lợi dụng để tập hợp lực lượng,
gây mất an ninh trật tự và ổn định chính trị đất nước, đặc biệt là các địa phương
trên địa bàn các tỉnh biên giới phía tây nam.
* Bảng kháo sát thực trạng trước khi thực hiện đề tài: ( bảng 1)
Chưa biết về
Còn mơ hồ
Hiểu biết về
Khối
Số
chiến tranh
về chiến tranh
chiến tranh
TT
lớp
lượng Biên giới Tây
Biên giới Tây
Biên giới Tây
Nam
nam
Nam
391 hs - chiếm 30 hs – chiếm
4 hs – chiếm
1
10
425
92,00%
7,06%
0,94%
312 hs -chiếm 63 hs – chiếm
39 hs – chiếm
2
11
414
75, 36%
15, 22%
9, 42%
252 hs - chiếm 101 hs – chiếm
45 hs – chiếm
3
12
398
63, 32%
25, 37%
11, 31%
955 hs – chiếm 179 hs - Chiếm 115 hs – chiếm
Tổng
1.237
77, 21%
15, 68%
7, 11%
* Kết quả từ bảng khảo sát trên cho thấy sự thiếu hiểu biết của thế hệ trẻ
nói chung và tuổi trẻ Trường THPT Ngọc Lặc nói riêng về lịch sử “ Chiến tranh
bảo vệ Biên giới phía Tây Nam ”còn quá nhiều hạn chế nó thể hiện ở các mặt
sau:
2. c. Sự mâu thuẫn của vấn đề:
+ Công nghệ thông tin phát triển một cách mạnh mẽ kèm theo sự xâm nhập
nhanh chóng của các loại hình văn hóa, trò chơi không lành mạnh, xã hội hóa giáo
dục còn hạn chế, mặt trái của cơ chế thị trường…đã ảnh hưởng lớn đến hệ tư
tưởng, thiếu hiểu biết và nhận thức của thế hệ trẻ về lịch sử truyền thống đánh giặc,
giữ nước của dân tộc và mâu thuẫn này cần được giải quyết thông qua đề tài.
17
2. d. Khó khăn của vấn đề: ( Trước khi thực nghiệm đề tài )
+ Giáo dục Việt Nam chưa đưa phần lịch sử “ Chiến tranh bảo vệ Biên giới
phía Tây Nam ” vào sách giáo khoa môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh cũng
như các môn học có liên quan.
+ Tài liệu tham khảo khan hiếm.
+ Sự thật lịch sử còn chưa được công khai nhiều và cho rằng liên quan đến
chính sách ngoại giao, kinh tế, vấn đề địa chính trị trong khu vực.
+ Kiến thức về vấn đề này của giáo viên trực tiếp giảng dạy môn học có liên
quan còn hạn chế.
+ Học sinh chưa chịu tìm tòi, học hỏi cũng do môn học khó lại ít liên quan
đến vấn đề hướng nghiệp, định hướng nghề nghiệp sau này.
2. e. Thuận lợi: ( Trong và sau khi thực nghiệm đề tài )
+ Bản thân được Sở GD&ĐT cử đi Tập huấn cho cán bộ quản lý, giáo viên,
giảng viên Giáo dục Quốc phòng – An ninh do Bộ GD&ĐT tổ chức (tháng
9/2017), có một số nội dung liên quan đến cuộc chiến này, là Tổ trưởng CM.
+ Được Ban Giám hiệu, các tổ chức đoàn thể, giáo viên trong nhà trường
đặc biệt quan tâm, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện khi thực nghiệm đề tài này.
+ Phù hợp với các chương trình hoạt động ngoại khóa của nhà trường
+ Học sinh có hứng thú trong quá trình nhận thức, lĩnh hội kiến thức.
+ Khi thực nghiệm, đề tài mang tính thời sự, đáp ứng nhu cầu khám phá lịch
sử, mang tính tuyên truyền sâu rộng, hiểu biết đúng đắn và ý nghĩa đối với tuổi trẻ
Trường THPT Ngọc Lặc nói riêng cũng như tuổi trẻ trên địa bàn huyện Ngọc lặc
nói chung.
+ Phù hợp với đặc thù môn học, trình độ của giáo viên và học sinh và xu thế
đổi mới giáo dục ở nước ta và thế giới.
II. 3. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
3.
a. TỔ CHỨC GIẢNG DẠY .
* Về phía giáo viên:
- Triển khai đến toàn bộ giáo viên giảng dạy trực tiếp môn GDQP & AN
- Đ/c Tổ trưởng chuyên môn tổ chức một buổi hội thảo công bố đề tài đến
các thành viên trong tổ và mời thêm đại diện Ban giám hiệu, Đoàn thanh niên, giáo
viên các tổ bộ môn Lịch sử, Địa lý, Giáo dục Công dân…cùng tham gia và đóng
góp, xây dựng ý kiến để đề tài được hoàn thiện và thực thi.
- Bố trí giảng dạy lồng ghép nội dung hiểu biết “ Chiến tranh bảo vệ Biên
giới phía Tây nam ”
* Về phía học sinh:
- Tích cực học và ghi chép bài đầy đủ nội dung theo chương trình quy định.
- Nắm vững kỹ năng quân sự, kiến thức quốc phòng- an ninh, kiến thức về
lịch sử truyền thống đánh giặc giữ nước, niềm tự hào của dân tộc trong đó có
“Chiến tranh Biên giới phía Tây nam” đến đông đảo quần chúng nhân dân nơi cư
trú được rõ.
3. b. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA.
- Tổ chức tuyên truyền rộng rãi đề tài đến tất cả giáo viên và học sinh
trường THPT Ngọc Lặc để mọi người cùng nắm được, từ đó phối kết hợp tổ chức
các hoạt động về lịch sử “ Chiến tranh bảo vệ Biên giới phía Tây nam ”
18
- Phối hợp với Huyện Đoàn huyện Ngọc lặc và Đoàn Trường THPT Ngọc
Lặc tổ chức hội thi “ RUNG CHUÔNG VÀNG ” chủ đề về lịch sử “ Chiến tranh
bảo vệ Biên giới phía Tây nam ” với nội dung kiến thức:
- Nguyên nhân xảy ra lịch sử “ Chiến tranh bảo vệ Biên giới phía Tây nam ”.
+ Mối quan hệ giữa Việt Nam – Campuchia – Trung Quốc – Thái Lan.
- Vấn đề Biên giới
- Vấn đề về Việt Kiều tại Campuchia
- Mục đích và mục tiêu của Khmer Đỏ.
- Tương quan lực lượng tham chiến giữa hai bên.
- Vấn đề ngoại giao để phát động cuộc chiến.
- Diễn biến của cuộc chiến tranh
- Phản ứng của cộng đồng Quốc tế:
- Kết quả của cuộc chiến
- Thương vong và thiệt hại của hai bên
- Nhìn nhận, đánh giá chung về cuộc chiến
- Bài học lịch sử về cuộc chiến tranh
* Sưu tầm các video clip liên quan đến vấn đề mang tính tích cực có nội
dung giáo dục, tính pháp lý cao tuân thủ luật pháp quốc tế, phù hợp luật pháp Việt
Nam trình chiếu cho học sinh xem một cách rộng rãi, có tính chất tuyên truyền.
* Phát đề cương ôn tập, tìm hiểu cho học sinh 3 khối 10,11,12 nghiên cứu
sau đó viết bài thu hoạch hiểu biết về cuộc chiến này
* Thành lập ban giáo khảo chấm các bài thu hoạch, công bố cơ cấu giải
thưởng mang tính động viên và trao giải thưởng vào sáng thứ 2 tiết chào cờ.
II. 4. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI (Tác dụng của SKKN)
4. a. Giáo viên: Tổ chức tập huấn về kiến thức “Chiến tranh bảo vệ Biên
giới phía Tây Nam ” với lượng kiến thức đầy đủ, công khai cho toàn bộ giáo viên
một cách đại trà, đây là lực lượng nòng cốt trong việc tuyên truyền một cách sâu
rộng và cụ thể đến mỗi đối tượng học sinh trong mỗi vùng miền khác nhau.
4. b. Với bản thân: Đã nâng cao một cách rõ rệt chất lượng giờ dạy chính
khóa cũng như ngoại khóa, tự tin, vững vàng đứng trên bục giảng, khẳng định tầm
quan trọng của môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh, tạo được hứng thú cho
người dạy và người học hiểu biết một phần lịch sử của dân tộc nói riêng, xây dựng
tình yêu quê hương, đất nước một cách bền vững và sâu sắc, góp phần vào việc
giáo dục toàn diện cho học sinh THPT
- Đã có 84/ 85 cán bộ giáo viên là đoàn viên Công đoàn, Chi đoàn giáo
viên, Đoàn thanh niên trường THPT Ngọc Lặc tham gia học tập và tổ chức các
hoạt động, phong trào về Giáo dục lịch sử “ Chiến tranh bảo vệ Biên giới phía Tây
Nam ”. chiếm 94,50%, họ đã tỏ ra rất hào hứng và nhận thức được ý thức trách
nhiệm của bản thân một cách sâu sắc hơn về tầm quan trọng của lich sử dân tộc.
- 100% cán bộ GV tham gia, xem đây là bài học hết sức bổ ích sau khi kết
thúc đợt hoạt động và đề nghị sang năm học tới tiếp tục hoạt động tuyên truyền.
4.c. Học sinh: Đã góp phần nuôi dưỡng ý thức trách nhiệm công dân tình
yêu quê hương, đất nước, quý trọng lịch sử trong tâm hồn mỗi học sinh, sẵn sàng
đứng lên chung tay góp sức của mình bảo vệ và xây dựng biên giới trên bộ, quyền
và quyền chủ quyền Biển đảo, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
19
* KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC KHI ĐỐI CHIẾU VỚI ( bảng1)
* Bảng kháo sát thực trạng sau khi thực hiện đề tài: ( bảng 2)
Chưa biết về
Còn mơ hồ
Hiểu biết về
Khối
Số
chiến tranh
về chiến tranh chiến tranh
TT
lớp
lượng Biên giới Tây
Biên giới Tây Biên giới Tây
Nam
Nam
Nam
0 hs - chiếm 16 hs – chiếm 409 hs – chiếm
1
10
425
0,00%
3, 76%
96, 24%
0 hs - chiếm 0, 11 hs – chiếm 403 hs – chiếm
2
11
414
00%
2, 66%
97, 34%
0 hs - chiếm
05 hs – chiếm 393 hs – chiếm
3
12
398
0, 00%
01, 26%
98, 74%
32 hs - Chiếm 1.205hs – chiếm
Tổng
1.237
0%
2, 59%
97, 41%
* Đối chiếu 2 bảng số liệu thực trạng trước và sau khi thực hiện đề tài:
- Đã có 1.237/ 1.237 học sinh học tập và tham gia các phong trào do Giáo
viên lựa chọn đề tài này khi phối hợp với cán bộ giáo viên các tổ chức đoàn thể
trong nhà trường tổ chức thực hiện chiếm 100%.
- Quá trình nhận thức của học sinh Trường THPT Ngọc Lặc khi thực hiện đề
tài: Khảo sát trước khi thực nghiệm và sau khi thực nghiệm thông qua 2 bảng
thống kê số liệu ( Bảng 1 và 2 ) cho thấy sự thành công của đề tài hiểu biết thêm
về lịch sử “ Chiến tranh bảo vệ Biên giới phía Tây Nam ” với sự hiểu biết đạt trung
bình đến 97,41% tổng số học sinh toàn trường, được hầu hết Ban Giám hiệu, các tổ
chức đoàn thể và cán bộ giáo viên hưởng ứng và tham gia, đặc biệt là giáo viên 2
tổ bộ môn Giáo dục Quốc phòng- An ninh và Lịch sử.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
III. 1. KẾT LUẬN.
- Thực tế hiện nay, đa số học sinh phổ thông đều còn thiếu hiểu biết, kiến
thức về lịch sử Việt Nam, trong đó có lịch sử “ Chiến tranh bảo vệ Biên giới phía
Tây Nam ” với nhiều lý do khác nhau . Với số lượng bài học về lịch sử còn hạn chế
trong chương trình môn GDQP & AN, Địa lí, Lịch sử… chưa thể giúp học sinh có
cái nhìn toàn diện và hiểu biết cụ thể, sâu sắc về các vấn đề lịch sử chiến tranh Việt
Nam. Mặt khác, các bài học này chỉ nêu vài nét mang tính chất khái quát hoặc đã
bị cắt giảm tải chứ không nói lên được giá trị lịch sử một cách toàn diện mang tính
chất nhân đạo, nhân văn, chính trị sâu sắc “ dân ta là phải biết sử ta” để học sinh
có thể hiểu biết hơn từ đó các em mới ý thức trách nhiệm của bản thân trước vận
mệnh của đất nước, định hướng nghề nghiệp…cho nên khi đưa ra lý do chọn và
triển khai vận dụng đề tài này cho giáo viên và học sinh trường THPT Ngọc Lặc
thực hiện, bản thân thấy cũng hợp lý và được đồng nghiệp, học sinh đánh giá cao
và hưởng ứng nhiệt tình, đầy đủ.
- Thông qua giáo viên và học sinh đề tài có thể là công cụ để tuyên truyền
rộng rãi đến quần chúng nhân dân trên địa bàn huyện Ngọc Lặc hiểu biết hơn về
20
giá trị, bài học lịch sử và giá trị phi vật thể, tinh thần, sự cảnh giác cao độ trước sự
chống phá nước ta về mọi mặt khi tình hình diễn biến phức tạp, bất ổn về địa chính
trị trên Thế giới, trong khu vực và các nước với nhau. “Không một ai có thể quên
được những ngày tháng lịch sử cách đây 40 năm trước trong cuộc chiến tranh biên
giới phía Tây Nam, khi đông đảo đồng bào, chiến sĩ quân tình nguyện của ta đã
ngã xuống bảo vệ biên giới; giữ lấy biên cương của Tổ quốc” Khơi dậy niềm tự
hào, tình yêu quê hương đất nước, để thế hệ trẻ vững tin trước chủ trương, đường
lối, chính sách ngoại giao của Đảng, nhà nước ta về việc giải quyết các tranh chấp
chủ quyền về biên giới trên bộ, biển đảo với các nước trong khu vực trên cơ sở hòa
bình và tuân thủ luật pháp Quốc tế.
Tình đoàn kết, hữu nghị truyền thống Việt Nam- Campuchia, Việt NamLào, được xây dựng qua những năm tháng đấu tranh gian khổ vì độc lập dân tộc và
hạnh phúc của nhân dân mỗi nước trong thế kỷ XX là tài sản vô giá của nhân dân
ta và nhân dân hai nước Lào và Campuchia anh em. Tình đoàn kết hữu nghị đó sẽ
được giữ gìn, bảo vệ và phát triển mãi mãi.
III. 2. KIẾN NGHỊ
- Các Bộ, Nghành có liên quan cần tổ chức nhiều lớp tập huấn và công khai
một cách sòng phẳng về lịch sử “Chiến tranh bảo vệ Biên giới phía Tây Nam”
cho toàn bộ GV một cách đại trà, đây là lực lượng nòng cốt trong việc tuyên
truyền về giá trị lịch sử và nhân văn sâu sắc của nhân dân Việt Nam chống giặc
ngoại xâm một cách sâu rộng và cụ thể đến mỗi đối tượng học sinh trong mỗi vùng
miền, mỗi địa phương, đặc biệt các tỉnh/ thành giáp biên giới trên bộ và trên biển,
nâng cao cảnh giác cách mạng trước các thế lực thù địch chống phá nước ta.
- Tăng cường in ấn các ấn phẩm, xuất bản nhiều sách viết về “ Chiến tranh
bảo vệ Biên giới phía Tây Nam ”. Mở các trung tâm triển lãm tranh ảnh về cuộc
chiến. Giới thiệu các bộ phim, video, phóng sự, các ca khúc cách mạng về cuộc
chiến mang tính tích cực để đông đảo nhân dân và thế hệ trẻ được hiểu, biết.
- Trong chương trình cải cách giáo dục nên đưa thêm phần lịch sử “ Chiến
tranh bảo vệ Biên giới phía Tây Nam ”chủ quyền Biển đảo Việt Nam vào sách
giáo khoa để học sinh năm rõ kiến thức và hiểu rõ vấn đề hơn về lịch sử chiến
tranh như các quốc gia vẫn làm.
- Do quy định về số trang đối với việc viết sáng kiến kinh nghiệm nên còn
hạn chế về quy mô, nội dung kiến thức, chưa phản ánh một cách đầy đủ nhất khi
phổ biến về đề tài. Nếu có thể sẽ phát triển thành “ Đề tài nghiên cứu khoa học”để
làm cơ sở tác giả có thể lựa chọn, phân tích nội dung một cách toàn diện và sâu
sắc hơn!!!
21
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Mai Đình Võ
Tôi xin chân thành cảm ơn!
2. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu Tập huấn GDQP & AN tháng 9 năm 2017
2. Wikipedia Tiếng việt
3. Lịch sử quân sự Việt nam
4. Báo CAND online.
5. Việt báo.vn
6. Nhip sống xã hôi.vn
7. Báo QĐND online.
22
23
24
25