Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tích hợp kiến thức liên môn vào giảng dạy tác phẩm “ai đã đặt tên cho dòng sông” nhằm nâng cao chất lượng và tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT THẠCH THÀNH 4

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÍCH HỢP KIẾN THỨC LIÊN MÔN VÀO GIẢNG DẠY TÁC PHẨM
“AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ?” NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG VÀ TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH LỚP 12
TRƯỜNG THPT THẠCH THÀNH 4

Người thực hiện: Hoàng Thị Thắm
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

THANH HOÁ, NĂM 2018

1


MỤC LỤC
TT

NỘI DUNG

1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1



MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Cơ sở lí luận của vấn đề

2.2

Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến

TRANG
3
3
4
4
4
5
5
5

Những giải pháp thực hiện dạy học tích hợp tác phẩm
2.3
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” nhằm nâng cao chất
6
lượng và tạo hứng thú cho học sinh.
Giải pháp 1: Tích hợp trong việc chuẩn bị của Giáo
2.3.1

6
viên và học sinh
Giải pháp 2: Tích hợp với công nghệ thông tin trong
2.3.2
7
hoạt động khởi động bài học.
Giải pháp 3: Tích hợp trong quá trình hướng dẫn học
2.3.3
8
sinh đọc hiểu văn bản
Tích hợp kiến thức phân môn Lí luận văn học (về thể
2.3.3.1 loại kí) nhằm định hướng cho học sinh đọc hiểu văn
8
bản theo đặc rưng thể loại.
Tích hợp kiến thức địa lí giúp học sinh cảm nhận vẻ
2.3.3.2
9
đẹp đa dạng của sông Hương trong thủy trình của nó.
Tích hợp kiến thức lịch sử giúp học sinh cảm nhận vẻ
2.3.3.3 đẹp của sông Hương trong mối quan hệ với những
14
trang sử hào hùng của dân tộc
Tích hợp kiến thức văn hóa giúp học sinh cảm nhận vai
2.3.3.4
17
trò của sông Hương trong dòng chảy của văn hóa Huế
2.3.3.5 Tích hợp GDCD, viêt văn nghị luận
17
2.3.4
Giải pháp 4: Tích hợp trong quá trình củng cố bài học.

18
3
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
19
3.1
Kết luận
19
3.2
Kiến nghị
19
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Uyliam Batơdit từng nói: “Nhà giáo không phải là người nhồi nhét
kiến thức mà đó là công việc của người khơi dậy ngọn lửa cho tâm hồn”.
Cùng nhìn lại những phương pháp dạy học truyền thống, đặc biệt là trong bộ
môn Ngữ văn ta sẽ dễ dàng thấy rằng, người thầy với cách dạy truyền thống

2


chưa thực sự “khơi dậy ngọn lửa tâm hồn”, tạo hứng thú, say mê cho học
sinh. Với cách dạy truyền thống trong môn Ngữ văn, giáo viên chủ yếu là
thuyết giảng. Và như thế, trong quá trình dạy học, người thầy vẫn giữ vị trí
trung tâm, còn học trò tiếp thu kiến thức một cách thụ động.
Đó là cách dạy của một thời. Bước vào thời kì hội nhập như hiện nay,
đổi mới phương pháp dạy học luôn là một vấn đề mà tất cả các giáo viên
quan tâm. Luật giáo dục 2005, Điều 5 đã xác định “ Phương pháp giáo dục
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người
học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say
mê học tập và ý trí vươn lên”.

Những năm gần đây, trong việc đổi mứi phương pháp dạy học nói
chung, dạy học Ngữ văn nói riêng thì dạy học tích hợp liên môn đang là
phương pháp dạy học tích cực được nhiều giáo viên lựa chọn. Với phương
pháp tích hợp liên môn giáo viên có thể giúp học sinh tiếp nhận tác phẩm văn
học từ nhiều góc nhìn khác nhau. Hơn thế nữa phương pháp dạy học này còn
rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự học và vận dụng kiến thức liên môn vào
giải quyết những tình huống trong học tập và trong cuộc sống.
Trong số các tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình
Ngữ văn lớp 12 cơ bản “ Ai đã đặt tên cho dòng sông ” là một tác phẩm mới,
tiêu biểu cho thể kí hiện đại. Vì mới nên việc giảng dạy tác phẩm này không
phải công việc dễ dàng đối với nhiều giáo viên. Và việc tiếp nhận của học
sinh lại càng khó khăn. Tìm ra một cách tiếp cận mới đối với tác phẩm này
có lẽ là điều trăn trở của nhiều giáo viên dạy văn như tôi. Bởi ở môn Ngữ
văn tạo hứng thú học tập cho học sinh bằng phương pháp dạy học thích hợp
có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc tiếp nhận kiến thức của học sinh.
Ngữ văn là môn học vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật. Giáo viên
dạy văn không chỉ đơn thuần là truyền thụ kiến thức mà phải khơi dậy ngọn
lửa tâm hồn, tác động đến tình cảm, cảm xúc của học sinh. Từ đó, để tiếp cận
tác phẩm “ Ai đã đặt tên cho dòng sông” tôi thiết nghĩ giáo viên không chỉ
phải nắm những đặc trưng thể loại mà còn phải vận dụng tích hợp kiến thức
liên môn để giúp học sinh có cái nhìn toàn vẹn vẻ đẹp của tác phẩm.
Xuất phát từ lí do đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất
lượng và tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 12 như trình bày ở trên, tôi
mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: “ Tích hợp kiến thức liên môn vào giảng
dạy tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” nhằm nâng cao chất lượng và
tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 12 trường THPT Thạch Thành 4”
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Tích hợp kiến thức liên môn vào dạy học tác phẩm “ Ai đã đặt tên cho
dòng sông” giúp học sinh học tập hứng thú và có hiệu quả cao hơn đối với
bài học nói riêng và với bộ môn Ngữ văn nói chung.

- Giáo viên đổi mới phương pháp dạy học giúp học sinh tiếp cận phương
pháp học mới chủ động sáng tạo hơn.
3


1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Lí thuyết về tiếp nhận văn học và dạy học tích hợp liên môn.
- Học sinh lớp 12 trường THPT Thạch Thành 4 năm học 2017 – 2018.
- Văn bản “ Ai đã đặt tên cho dòng sông”, Ngữ văn lớp 12 cơ bản.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp thu thập thông tin, đúc rút kinh nghiệm từ thực tế giảng dạy
- Phương pháp phân tích- tổng hợp, thống kê toán học, so sánh....
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề.
Sách giáo khoa ngữ văn 12 cơ bản, bài Giá trị văn học và tiếp nhận
văn học đã chỉ ra rằng: “Tiếp nhận văn học là quá trình người đọc hòa mình
vào tác phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được
dựng lên bằng ngôn từ, lắng tai nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái
hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo”. Tiếp nhận văn học thực
chất là một quá trình giao tiếp. Vì vậy, gặp gỡ, đồng điệu hoàn toàn là điều
khó. Tuy nhiên để tiếp nhận văn học thực sự có hiệu quả, người tiếp nhận cần
nâng cao trình độ, tích lũy kinh nghiệm, tìm cách tiếp cận tác phẩm một cách
khách quan, toàn vẹn. Muốn vậy, hoạt động tiếp nhận phải diễn ra một cách
chủ động, tích cực, sáng tạo, hướng tới cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn
học.
Để đáp ứng nhu cầu tiếp nhận văn học, phương pháp dạy học tích hợp
sẽ là một trong những phương pháp dạy học hiệu quả nhằm trang bị cho học
sinh những kiến thức mang tính chất công cụ để học sinh có thể tiếp nhận tác

phẩm một cách chủ động, tích cực.
Tích hợp (tiếng Anh Integration) có các nét nghĩa: sự hợp lại thành
một thể thống nhất, sự bổ sung thành một thể thống nhất, sự hợp nhất. Ở bộ
môn Ngữ văn, quan điểm dạy học tích hợp được thể hiện ở nhiều bình diện.
Ở bình diện vĩ mô, đó là sự hợp nhất giữa phần Ngữ (tiếng việt, làm văn) với
phần Văn thành Ngữ văn. Ở bình diện khác, tích hợp còn là sự tổng hợp kiến
thức của nhiều môn, nhiều ngành khoa học khác nhau thành một thể thống
nhất. Trong thực tế dạy học Ngữ văn, có nhiều loại tích hợp như tích hợp
theo phân môn, liên môn. Thực chất của dạy học tích hợp là người giáo viên
phải biết lồng ghép kiến thức nhiều phân môn, nhiều môn để tạo sự phong
phú cho bài dạy.
Trong xu hướng đổi mới giáo dục hiện nay, dạy học tích hợp đang
mang lại nhiều hiệu quả thiết thực. Trong dạy học tích hợp, vai trò của giáo
viên không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra,
định hướng hoạt động học của học sinh. Vì vậy, giáo viên các bộ môn liên
quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong dạy
học. Như vậy, dạy học theo các chủ đề tích hợp liên môn có tác dụng bồi
4


dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo viên, góp phần phát
triển đội ngũ giáo viên bộ môn hiện nay thành đội ngũ giáo viên có đủ năng
lực dạy học kiến thức liên môn, tích hợp.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Những năm gần đây, do xu thế học và thi, nhiều giáo viên và đa số học
sinh đang dần thờ ơ với các môn xã hội trong đó có môn ngữ văn. Trong
hoàn cảnh đó tại trường THPT Thạch Thành 4 lại có truyền thống đa số các
em học sinh vẫn lựa chọn các môn xã hội trong đó có môn ngữ văn để học,
thi và định hướng cho tương lai. Điều này có nghĩa là, vẫn còn rất nhiều học
sinh “quan tâm” đến môn Ngữ văn. Nhưng từ “quan tâm” đến yêu thích,

hứng thú, say mê môn học lại là cả một chặng đường dài. Trên chặng đường
đó, việc đổi mới phương pháp dạy học của thầy cô là việc làm quan trọng
nhất. Bởi khi thầy có phương pháp dạy hay, dễ học, chắc chắn sẽ thu hút và
khơi gợi được hứng thú của học sinh đối với môn học, từ đó nâng cao được
chất lượng day học.
Ở trường THPT Thạch Thành 4 trong những năm gần đây, tập thể cán
bộ giáo viên nói chung, giáo viên Ngữ văn nói riêng đã và đang quan tâm
đến việc đổi mới phương pháp dạy học. Cuộc thi “Dạy học theo chủ đề tích
hợp liên môn” do bộ Giáo dục và Đào tạo phát động đã được đa số giáo viên
hưởng ứng, tham gia và cũng đã đạt nhiều giải cấp tỉnh, cấp quốc gia. Dạy
học tích hợp đã trở thành một trong những phương pháp tối ưu được đa số
giáo viên lựa chọn để đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học. Tuy nhiên, tôi
nhận thấy dạy học tích hợp vẫn chưa thưa thực sự trở thành nhu cầu thường
xuyên liên tục của giáo viên. Nó dường như cũng mới chỉ dừng lại ở những
dự án dự thi. Còn trong thực tế dạy học, do dạy học tích hợp đòi hỏi giáo
viên phải đầu tư thời gian công sức trong việc thiết kế bài học, chuẩn bị đồ
dùng dạy học, đặc biệt giáo viên phải có kiến thức, hiểu biết sâu rộng ở nhiều
lĩnh vực. Vì còn sợ “khó”, sợ “khổ” nên việc dạy học tích hợp trong môn
ngữ văn mới chỉ dừng ở việc tích hợp kiến thức phân môn đọc văn với tiếng
việt và làm văn. Còn việc tích hợp kiến thức liên môn chưa được vận dụng
nhiều và cũng chưa đạt kết quả cao. Qua khảo sát và dự giờ thăm lớp , tôi
vẫn thấy một thực trạng chung là học sinh vẫn ngại học văn và đa số các em
vẫn có suy nghĩ “văn là môn phải học thuộc lòng”. Việc tiếp thu kiến thức
của học sinh trong môn Ngữ văn còn lệ thuộc vào thầy cô, chưa có sự chủ
động trong việc tiếp nhận, đọc hiểu tác phẩm văn học. Bên cạnh đó, đa số
học sinh vẫn còn lạ lẫm với việc vận dụng các kiến thức liên môn để giải
quyết những vấn đề đặt ra trong bài học hoặc trong cuộc sống.
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi mong muốn rằng đề tài nghiên cứu
này sẽ chỉ ra được những giải pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao chất
lượng và tạo hứng thú cho học sinh khi học tác phẩm “Ai đã đặt tên cho

dòng sông?”. Có thể đây chưa hẳn là những “sáng kiến” mới mẻ nhưng chắc
chắn nó là những kinh nghiệm thực tế tôi đã áp dụng trong dạy học tích hợp
và đã thu được những kết quả khá khả quan.
5


2.3. Những giải pháp thực hiện dạy học tích hợp tác phẩm “Ai đã đặt tên
cho dòng sông” nhằm nâng cao chất lượng và tạo hứng thú cho học sinh.
2.3.1. Giải pháp 1: Tích hợp trong việc chuẩn bị của Giáo viên và học
sinh
2.3.1.1. Chuẩn bị của giáo viên
Để tiến hành dạy học tích hợp, giáo viên cần chuẩn bị :
- Phương tiện, thiết bị dạy học :
+ Máy chiếu đa năng, máy chiếu vật thể, máy tính: Được sử dụng vào việc
hỗ trợ giảng dạy bài học góp phần giải quyết nhanh, gọn các câu đặt ra và hỗ
trợ hình ảnh làm bài giảng sinh động, hấp dẫn đối với người học, đọc.
+ Bút màu, giấy A4, phấn, bảng.
+ Lược đồ sông ngòi Việt Nam ở Huế: Giúp học sinh xác định được vi trí địa
lí của sông Hương qua các địa danh cụ thể liên quan đến tác phẩm.
+ Tư liệu lịch sử về các địa danh ở Huế
+ Hình ảnh các lăng tẩm, đình miếu, cồn, bãi.
- Các nội dung Tích hợp kiến thức liên môn:
+ Phân môn lí luận văn học: Những tri thức về thể kí
+ Môn Địa lý: Sử dụng bản đồ sông Hương, vị trí địa lí của sông Hương ở
bốn khúc sông. Các dòng sông trên thế giới như sông: Xen, Đa-nuýp, Nê-va.
+ Môn Lịch sử: Xác định được thời điểm của Lăng Tự Đức, chùa Thiên Mụ,
Sông Hương trong các sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc
+ Môn Vật lí: Sự phản xạ ánh sáng dẫn đến mảng phản quang màu sắc ở
Huế: sáng xanh, trưa vàng, chiều tím.
+ Môn Sinh học: Quá trình thẩm thấu của nước và chống rửa trôi của nước,

rừng có tác dụng trong việc bảo vệ đất giữ độ ẩm, lá phổi xanh.
+ Môn GDCD: Yêu quê hương đất nước, bảo vệ môi trường, bảo vệ những
di sản văn hóa phi vật thể.
2.3.1.2. Chuẩn bị của học sinh
Để học sinh có thể tiếp nhận tác phẩm một cách chủ động, sáng tạo và
hứng thú đối với giờ học, tôi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà và giao
nhiệm vụ cụ thể cho các em như sau:
- Soạn bài theo hệ thống câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài
- Tìm hiểu từ tài liệu, tra cứu mạng Internet một số nội dung có liên quan đến
bài học, cụ thể là:
+ Tri thức về thể loại kí (khái niệm, đặc trưng cơ bản, những thành tựu)
+ Thể loại kí trong sự nghiệp sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói
chung và tác phẩm kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông nói riêng”.
+ Những nhận định đánh giá hay về tác giả, tác phẩm
+ Tìm nghe bài hát Dòng sông ai đã đặt tên
+ Bản đồ địa lí sông Hương, xứ Huế
+ Một số kiến thức liên môn: kiến thức về đặc điểm địa hình Việt Nam qua
Chương trình địa lý lớp 12, bài 6 “Đất nước nhiều đồi núi” sách giáo khoa
trang 29 – 30; Địa lí 12, Bài 10 - Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa - SGK
6


trang 45; kiến thức lịch sử về vai trò của sông Hương trong sự nghiệp kháng
chiến của dân tộc; kiến thức về ca Huế; tìm hiểu về một số dòng sông trên
thế giới: Sông Xen (Pari), sông Đanuyp ; sông Nêva…
Trên cơ sở nội dung đã được tìm hiểu, chuẩn bị học sinh sẽ rèn luyện
cho mình kĩ năng tự học và trong giờ học trên lớp các em sẽ tiếp nhận bài
học một cách tích cực, chủ động.
2.3.2. Giải pháp 2: Tích hợp với công nghệ thông tin trong hoạt động
khởi động bài học.

Cho đến nay hoạt động khởi động bài học vẫn ít được giáo viên chú ý.
Trong dạy học tích hợp, việc giáo viên sử dụng kiến thức liên môn kết hợp
với hình ảnh minh hoạ, sử dụng công nghệ thông tin vào hoạt động khởi
động bài học sẽ tạo hiệu quả, gây hứng thú cho học sinh ngay khi bước vào
bài học. Cụ thể, giáo viên dùng của các video hoặc hình ảnh có nội dung phù
hợp với nội dung của bài học cùng với công nghệ thông tin để dẫn học sinh
vào bài mới thay thế cho các phương pháp truyền thống nhằm tạo ra được sự
hứng thú và tâm lý muốn khám phá bài học cho học sinh khi bước vào bài
mới.
Cụ thể để khởi động bài học “Ai đã dặt tên cho dòng sông” - Giáo
viên đưa hình ảnh nhà văn Nguyễn Tuân và con sông Đà, Yêu cầu học sinh
kể tên tác phẩm viết về dòng sông được nhắc đến trong hình ảnh và thể loại
tác phẩm đó?

- Học sinh kể tên tác phẩm đã được học viết về dòng sông và trả lời thuộc thể
loại nào.
Sau đó, GV cho học sinh nghe một đoạn bài hát: “Dòng sông ai đã
đặt tên” sau đó hỏi bài hát tên gì? viết về địa danh ở đâu? Trên cơ sở câu trả
lời của học sinh, giáo viên giới thiệu bài học.
2.3.3. Giải pháp 3: Tích hợp trong quá trình hướng dẫn học sinh đọc
hiểu văn bản
2.3.3.1. Tích hợp kiến thức phân môn Lí luận văn học (về thể loại kí)
nhằm định hướng cho học sinh đọc hiểu văn bản theo đặc rưng thể loại.
Trong chương trình Ngữ văn 11 cơ bản phần lí luận văn học, học sinh
đã được học các thể loại thơ, truyện, kịch, nghị luận, các em đã được trang bị
7


kiến thức lí luận về các thể loại này. Riêng kí là thể loại mới được đưa vào
giảng dạy nên chắc chắn cả giáo viên và học sinh vẫn chưa chú ý đúng mức

những kiến thức lí luận về thể loại này. Nhận thức được thực trạng đó, trong
phần hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà, tôi đã yêu cầu các em đọc tài
liệu tìm hiểu về thể kí. Trên cơ sở phần chuẩn bị bài của học sinh, tôi sẽ gọi
một học sinh thuyết trình trước lớp về thể loại của tác phẩm trong phần đọc
hiểu khái quát. Đây sẽ là kiến thức nền quan trọng, định hướng học sinh tiếp
nhận tác phẩm theo đặc trưng thể loại.
- Khái niệm: Kí là tên gọi cho một nhóm thể tài nằm ở phần giao nhau
giữa văn học và cận văn học (báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu các loại),
chủ yếu là văn xuôi tự sự.
- Tiểu loại: do hướng đến những phạm vi thông tin và nhận thức đa dạng, ký
cũng rất phong phú, bao gồm nhiều thể, nhiều tiểu loại trong đó có thể kể
đến một số tiểu loại kí tiêu biểu:
+ Ký sự: là một thể của ký thiên về tự sự, thường ghi chép các sự kiện, hay
kể lại một câu chuyện khi nó mới xảy ra. Ký sự có cốt truyện hoàn chỉnh
hoặc tương đối hoàn chỉnh, cũng là loại thể có yếu tố trữ tình và chính luận,
nhưng khuynh hướng của tác giả được toát ra từ tình thế và hành động (VD:
“Thượng kinh kí sự” của Lê Hữu Trác học sinh đã được học ở chương trình
ngữ văn lớp 11, học kì 1).
+ Phóng sự: là một thể ký nổi bật bằng những sự thật xác thực, dồi dào và
nóng hổi, không chỉ đưa tin mà còn dựng lại hiện trường cho mọi người quan
sát, đánh giá, do đó nó nghiêng hẳn về phía tự sự, miêu tả, tái hiện sự thật
+ Bút ký: là một thể của ký, nằm trung gian giữa ký sự và tùy bút. Bút ký
thiên về ghi lại một cảnh vật mà nhà văn mắt thấy tai nghe, thường trong các
chuyến đi. Bút ký tái hiện con người và sự việc một cách phong phú, sinh
động, nhưng qua đó biểu hiện khá trực tiếp khuynh hướng cảm nghĩ của tác
giả, có màu sắc trữ tình.
+ Tùy bút: Là một thể của ký đối lập với phóng sự. Nếu phóng sự thiên về tự
sự với điểm tựa là sự kiện, thì tùy bút nghiêng hẳn về trữ tình với điểm tựa
là cái tôi của tác giả. Hình thức thể loại này cho phép nhà văn phóng bút viết
tùy theo cảm hứng, tùy cảnh, tùy việc mà suy tưởng, nhận xét, đánh giá, trình

bày v.v. Những chi tiết, con người cụ thể trong tác phẩm chỉ là cái cớ để tác
giả bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá.
- Lịch sử ra đời và phát triển thể loại kí: Trước khi có hoạt động báo chí,
trong lịch sử văn học từ nghìn xưa đã có những tác phẩm ký, như Sử ký của
Tư Mã Thiên cách đây mấy nghìn năm vừa là tác phẩm sử học vừa có thể coi
là ký. Ở Việt Nam, những tác phẩm ký nổi tiếng cũng đã xuất hiện từ sớm
như Thượng kinh ký sự, Vũ trung tùy bút. Những năm 1930-1945, kí phát
triển mạnh mẽ với các tác phẩm phóng sự của Ngô Tất Tố (với Việc làng,
Tập án cái đình), Nguyễn Đình Lập với Ngõ hẻm ngoại ô, Tam Lang với Tôi
kéo xe; Vũ Trọng Phụng với Vỡ đê v.v.

8


Trong văn học cách mạng, loại thể ký bắt đầu từ sáng tác của Nguyễn Ái
Quốc những năm 20 của thế kỷ 20. Sau Cách mạng Tháng Tám đến nay có
nhiều tác phẩm ký có giá trị nhất định như Truyện và ký sự của Trần Đăng,
Ở rừng của Nam Cao, Ký sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Rất nhiều
ánh lửa của Hoàng Phủ Ngọc Tường v.v.
- Đặc trưng cơ bản của thể kí:
+ Viết về người thật, việc thật, kí đòi hỏi sự trung thực, chính xác
+ Sức hấp dẫn của kí nằm ở khả năng tái hiện sự thật một cách sinh động của
tác giả. Kí ít chấp nhận sự hư cấu, do đó để làm nên cái hay, cái đẹp cho tác
phẩm kí, phải dựa vào những liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, tài hoa của tác
giả khi phản ánh sự vật, cuộc sống.
+ Đặc điểm nổi bật của tác phẩm kí là chất trữ tình. Tác phẩm kí thường thể
hiện những cái tôi tác giả: uyên bác, tài hoa, độc đáo…
- Thể loại kí trong sự nghiệp sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
Sáng tác ở nhiều thể loại: truyện ngắn, thơ, kí…thể loại nào Hoàng
Phủ Ngọc Tường cũng có những thành công nhất định, nhưng những tác

phẩm kí của ông vẫn luôn là những tác phẩm thành công nhất. Kí của ông
mang dấu ấn riêng, vừa mê đắm vừa tài hoa, vừa bộc lộ bản lĩnh sáng tạo của
người nghệ sĩ. Ông tìm đến thể loại kí như là một phương tiện để trải lòng
mình với những suy tư, trăn trở về con người, cuộc sống. Lời văn của Hoàng
Phủ Ngọc Tường được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng,
ám ảnh, đậm chất trữ tình của cái tôi uyên bác, tài hoa. Ông đã đem đến cho
thể kí một diện mạo mới, một sức sống mới. Và chính thể văn này cũng đã
đem đến cho Hoàng Phủ Ngọc Tường vị trí là nhà viết kí tiêu biểu của văn
xuôi Việt Nam hiện đại. Tính đến nay ông đã có 9 tập bút kí được xuất bản.
Như vậy, từ trước đến nay học sinh vốn quen với các tác phẩm văn
xuôi thiên về tự sự. Đến với thể kí qua tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng
sông, các em phải cảm thụ một tác phẩm văn xuôi giàu chất trữ tình, ít nhiều
các em sẽ cảm thấy lúng túng và không mấy hứng thú. Việc trang bị cho học
sinh những kiến thức về thể loại là hết sức cần thiết. Nó phản ánh đúng bản
chất của phương pháp dạy học tích hợp, đó là hướng dẫn cách học, trang bị
một chiếc chìa khóa để mở cửa vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
2.3.3.2. Tích hợp kiến thức địa lí giúp học sinh cảm nhận vẻ đẹp đa dạng
của sông Hương trong thủy trình của nó.
Sông Hương nói riêng, xứ Huế nói chung đã đi vào thơ ca, âm nhạc
hội họa từ bao đời nay với biết bao vẻ đẹp say mê lòng người. Thế nhưng
với những học sinh đa số là dân tộc ở trường THPT Thạch thành 4, điều kiện
tiếp xúc thực tế với những danh thắng xứ Huế hầu như là chưa có. Bởi thế,
trước khi hướng dẫn học sinh khám phá vẻ đẹp sông Hương qua trang văn
của Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi sẽ cung cấp cho các em những kiến thức cơ
bản về vị trí địa lí qua lược đồ dòng chảy sông Hương.

9


Bản đồ dòng chảy của sông Hương

- Sông Hương hay Hương Giang là con sông chảy qua thành phố Huế và các
huyện, thị xã: Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang đều thuộc tỉnh Thừa Thiên
- Huế, miền Trung Việt Nam.
- GV trình chiếu hình ảnh sông Hương, chỉ trên lược đồ và giới thiệu nguồn
gốc dòng chảy: Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên
nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua
vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu
nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của
nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn
mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng
Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn
nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An. Từ Bằng Lãng đến cửa
sông Thuận An, sông Hương dài 33 km và chảy rất chậm (bởi vì mực nước
sông không cao hơn mấy so với mực nước biển). Khi chảy quanh dọc
chân núi Ngọc Trản, sắc nước sông Hương xanh hơn – đây là địa điểm Điện
Hòn Chén. Tại đây có một vực rất sâu. Sông Hương được cho là rất đẹp khi
chiêm ngưỡng nó từ nguồn và khi nó chảy quanh các chân núi, xuyên qua
các cánh rừng rậm của hệ thực vật nhiệt đới. Con sông chảy chậm qua các
làng mạc như Kim Long, Nguyệt Biều, Vỹ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, chợ
Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh. Các công trình kiến trúc hai bên bờ sông
gồm thành quách, thị tứ, vườn tược, chùa chiền, tháp và đền đài... ánh phản
chiếu của chúng trên dòng nước khiến con sông mang theo nhiều chất thơ và
tính nhạc.
Như vậy với những kiến thức về địa lí và sử dụng lược đồ dòng chảy
của sông Hương, học sinh sẽ có cái nhìn trực quan về hành trình của sông
Hương qua ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường: “qua điện Hòn
Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc,vòng qua thềm bãi
10



Nguyêt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía
đông bắc, ôm lấy châ đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông
Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu
dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi
giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”…
Cụ thể khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu vẻ đẹp tự nhiên trong thủy
trình của sông Hương, tôi có tích hợp một số kiến thức địa lí sau:
* Sông Hương ở thượng nguồn
Ở nơi khởi nguồn của dòng chảy, gắn với đại ngàn Trường Sơn hùng
vĩ, sông Hương toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, vừa hùng tráng,
vừa trữ tình, như bản trường ca bất tận của thiên nhiên: “...rầm rộ giữa
những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như
cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say
đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Sông
Hương vừa như cô gái Di- Gan phóng khoáng, man dại với vẻ đẹp vừa hoang
dại vừa tình tứ. Và rồi sông Hương lại hiện lên trong vẻ đẹp dịu dàng và trí
tuệ như một “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.
Ở phần này, giáo viên sử dụng kiến thức địa lí và sinh học để lí giải vẻ
đẹp đa thể của sông Hương vùng thượng nguồn:
Tích hợp Địa lí: Cấu trúc địa hình nước ta khá đa dạng, địa hình nước ta có
cấu trúc cổ được vận động Tân kiến tạo làm trẻ lại, tạo nên sự phân bậc rõ rệt
theo độ cao, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Dải Trường Sơn kéo dài
từ thượng nguồn sông Cả trên đất Lào giáp Nghệ An tới tận cực Nam Trung
Bộ. Trường Sơn được chia thành Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam, ngăn
cách bởi đèo Hải Vân và núi Bạch Mã. Trường Sơn Bắc gồm nhiều dãy núi
song song nhau theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Càng về phía Nam dãy
Trường Sơn càng sát bờ biển, có nhiều dãy núi đâm ngang thẳng ra biển
như Hoành Sơn (giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình), và Bạch Mã (giữa Thừa
Thiên - Huế và Quảng Nam). Trường Sơn Nam là hệ thống dãy núi và khối
núi đổ dốc xuống các đồng bằng duyên hải từ Quảng Nam đến Nha Trang.

Như vậy, việc trang bị các kiến thức địa lí giúp các em hiểu và lí giải
được, do đặc điểm địa hình Việt Nam, các dòng sông đều chảy từ Tây sang
Đông, hầu hết ở thượng nguồn đều là vùng núi cao, nhiều vực thẳm, rừng già
khiến cho nước chảy xiết dữ dội. Điều đó giúp các em hiểu vẻ đẹp của sông
Hương vùng thượng nguồn “là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa
bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những thác ghềnh, cuộn xoáy như những
cơn lốc vào vực đáy bí ẩn”.
Tích hợp Sinh học: Vì sông Hương chảy giữa rừng cây đại ngàn, rừng có
tác dụng giữ nước, chống rửa trôi, tạo vành đai chống gió bão, lũ lụt xói
mòn, sạt lở đất, bảo vệ hệ sinh thái, điều hoà khí hậu. Rừng già có cấu trúc
nhiều tầng, lớp nên khi dòng sông chảy qua đoạn này một lượng nước lớn đã
thẩm thấu dẫn đến tốc độ dòng chảy giảm, lưu tốc giảm.

11


Chính vì vậy xét về mặt khoa học sông Hương khi chảy qua đoạn này
đã bị chế ngự về sức mạnh bản năng. Việc học các kiến thức Sinh học giúp
các em lí giải được những liên tưởng, so sánh đầy bất ngờ của Hoàng Phủ
Ngọc Tường “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái
Di-gan phóng khoáng và man dại”. “ Nhưng chính rừng già nơi đây với cấu
trúc đặc biệt có thể lý giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản
năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng “sông Hương nhanh
chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của
một vùng văn hoá xứ sở”.
Tích hợp Địa lí lớp 8, bài 33 Đặc điểm sông ngòi Việt Nam: Nước ta có hệ
thống sông ngòi dày đặc, mưa nhiều và tập trung theo mùa, mặt khác địa
hình chủ yếu là đồi núi nên hầu hết các sông có lượng phù sa lớn. Sông
Hương cũng nằm trong số đó. Sông Hương góp phần bồi đắp phù sa cho
những vùng đồng bằng ven sông, vì thế trong cảm nhận của Hoàng Phủ

Ngọc Tường sông Hương được nhân hóa như “người mẹ phù sa của một
vùng văn hóa, xứ sở”.
* Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế
Giữa cánh đông Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương được hình dung
như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng”. Khi được người tình mong đợi đến
dánh thức, con sông như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Nó thể hiện một
vóc dáng mới, sức sống mới, đầy khao khát và lãng mạn. Hành trình đến với
người tình mong đợi của người gái đẹp khá gian truân và nhiều thử thách khi
nó phải vượt qua hàng loạt các chướng ngại vật: điện Hòn Chén, vấp Ngọc
Trản, thềm đất bãi Nguyệt Biều, lương Quán…Nhưng chính trong quá trình
ấy dòng sông lại có cơ hội phô khoe tất cả vẻ đẹp tuyệt mĩ của mình. Có thể
nói, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ nên bằng chất liệu ngôn từ cái dáng điệu
yêu kiều và rất tạo hình của sông Hương khi nó ở ngoại vi thành phố Huế.
Khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu nội dung này, tôi đã sử dụng bản đồ
sông Hương để học sinh nhận biết địa hình của dòng chảy một cách cụ thể,
học sinh dễ dàng hình dung các chi tiết, các địa danh mà sông Hương chảy
qua. Các chi tiết như “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn
Hến”, Vẽ hình cánh cung thật tròn về phía Bắc, Ôm lấy chân đồi Thiên
Mụ”…học sinh sẽ dễ dàng hình dung hơn khi nhìn trên bản đồ.
Tuy nhiên giáo viên cũng cần lưu ý khi tích hợp với bản đồ địa lí để
luôn giữ “chất văn” của một giờ giảng văn. Bởi qua những trang văn đầy mê
đắm, Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ tái hiện một cách chân thực dòng
chảy tự nhiên trên bản đồ địa lí của sông Hương mà quan trọng hơn, nhà văn
đã biến cái thủy trình ấy thành một hành trình của người con gái đẹp, duyên
dáng và tình tứ. Đó cũng chính là cảm nhận riêng, độc đáo và thi vi của nhà
văn về sông Hương trước khi nó chảy vào lòng thành phố thân yêu.
* Sông Hương giữa lòng thành phố Huế
Giữa lòng thành phố thân yêu, sông Hương hiện ra như một bức tranh
lụa huyền ảo với những đường nét mềm mại, hài hòa, tinh tế. Đến vùng
12



ngoại ô Kim Long, giữa những biền bãi xanh biếc, sông Hương “vui tươi
hẳn lên" khi nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố “in ngần trên nền
trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”,. Cồn Giã Viên và Cồn Hến, đầu
và cuối thành phố đã làm cho dòng Hương uốn cong “mềm hẳn đi như một
tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Nó cũng là nguyên nhân làm giảm
lưu tốc dòng chảy của sông Hương khi chảy giữa thành phố Huế. Tác giả liên
tưởng đến sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, để nói lên vẻ
đẹp độc đáo của sông Hương. Cả ba con sông đều chảy qua giữa lòng thành
phố. Nhưng điều đặc biệt là sông Hương nằm giữa lòng thành phố cổ kính.
Nó giữ cho Huế “ trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc
hai bờ sông ”. Bên bờ sông có cây đa, cây cừa tỏa bóng. Những người
thuyền chài với ánh lửa lập loè, linh hôn mô tê. Như vậy không một thành
phố hiện đại nào còn nhìn thấy được những điều trên ở trên sông.
Bên cạnh đó, từ cách nhìn địa lí có thể lí giải được rằng, so với các
dòng sông khác ở Viêt Nam và thế giới, lưu tốc của sông Hương không
nhanh. Nhà văn đã liên tưởng, so sánh với con sông Nê - va băng băng lướt
qua trước cung điện Pê - téc - pua cũ để ra bể Ban - tích. Lưu tốc của con
sông này nhanh đến mức “ Không kịp cho lũ hải âu một điều gì với người
bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo”. Mượn câu nói của Hê - ra - clit nhà triết học Hi Lạp, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến một kiến giải khác
về dòng chảy lặng lờ của sông Hương giữa lòng thành phố thân yêu. Dưới
con mắt nhìn của người nghệ sĩ, sông Hương chảy chậm, điệu chảy lững lờ
vì nó quá yêu thành phố thân thương của mình như không nỡ rời xa.

Sông Nê-va
Ngoài ra, khi rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính
Bắc. Tuy nhiên do đặc điểm địa lí ở nước ta (hầu hết mọi con sông đều chảy
về hướng Đông đổ ra biển), thủy trình của con sông đã thay đổi. Nó phải


13


chuyển dòng sang hướng Đông và như vậy sẽ lại đi qua một góc của thành
phố Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ.
GV: Chiếu hình ảnh thôn Vĩ Dạ và thị trấn Bao Vinh.

Thôn Vĩ Dạ
Thị trấn Bao Vinh
Đó là đặc điểm địa lí tự nhiên của dòng sông. Nhưng trong con mắt
của người nghệ sĩ tài hoa, khúc ngoặt ấy lại là biểu hiện của nỗi “vương
vấn”, thậm chí có chút “lẳng lơ kín đáo” của tình yêu. Nhà văn hình dung
sông Hương như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước
khi đi xa. Đây là một sự liên tưởng thú vị, độc đáo và đậm màu sắc văn
chương của tác giả về dòng sông thân thương của xứ Huế.
2.3.3.3. Tích hợp kiến thức lịch sử giúp học sinh cảm nhận vẻ đẹp của
sông Hương trong mối quan hệ với những trang sử hào hùng của dân
tộc
Sông Hương là quà tặng vô giá mà tạo hóa đã dành riêng cho Huế, là
yếu tố có tính quyết định để người xưa chọn Huế làm kinh đô. Không chỉ
dừng lại ở những vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương, tác giả Hoàng Phủ Ngọc
Tường còn sâu sắc hơn khi ông phát hiện sông Hương mang vẻ đẹp của một
bản hùng ca ghi dấu những chiến công trong lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc. Từ thủa xưa, nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng)
trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông Hương đã là “dòng sông viễn
châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt
qua những thế kỉ trung đại”. Tiếp đó, “nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú
Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỉ mười tám, “nó sống hết
lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”,
nó chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến

mùa xuân Mậu Thân 1968 và bao chiến công rung chuyển qua hai cuộc chiến
tranh vệ quốc sau này…,
Khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu nội dung này, giáo viên nên mở
rộng, tích hợp thêm các kiến thức lịch sử để học sinh có được ấn tượng sâu
sắc về vẻ đẹp hào hùng của sông Hương qua những chiến công của dân tộc.
Cụ thể nội dung tích hợp lịch sử:
14


Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc
Việt Nam, Thừa Thiên Huế rất tự hào và vinh dự là vùng đất gắn liền với một
triều đại lẫy lừng - triều đại Tây Sơn; một vương triều đã làm nên những
chiến công hiển hách trong giữ nước và thống nhất đất nước cuối thế kỷ
XVIII mà công lao vĩ đại là của vị anh hùng lỗi lạc Quang Trung -Nguyễn
Huệ. Với thiên tài quân sự kiệt xuất Quang Trung Nguyễn Huệ đã làm nên
đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu (1789) lừng lẫy, quét sạch mấy chục vạn quân
xâm lược, giữ vững biên cương của Tổ quốc, mang lại cuộc sống hòa bình
cho nhân dân. Suốt hơn mười năm sau đó (1789-1802), Phú Xuân là kinh đô
của nước Ðại Việt thống nhất thời Tây Sơn. Tại đây vua Quang Trung đã ban
bố và thực hiện chỉ đạo nhiều chính sách quan trọng về nội trị và ngoại giao
nhằm xây dựng và phát triển đất nước. Vương triều Tây Sơn đứng đầu là
Hoàng đế Quang Trung, là triều đại phong kiến đã mang lại nhiều vinh quang
cho dân tộc ta, ở nửa sau thế kỷ XVIII mà trung tâm đầu não lúc bấy giờ là
kinh đô Phú Xuân. Di tích, di vật thời kỳ Tây Sơn trên đất Phú Xuân vẫn còn
tồn tại trong thư tịch và trên thực tế.
Ở thế kỉ XX, sông Hương đi vào thời đại cách mạng tháng 8 bằng
những chiến công rung chuyển, để rồi sau đó tiếp tục có mặt trong những
năm tháng bi hùng nhất của lịch sử đất nước với cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mĩ ác liệt, sông Hương tuy bị tàn phá nặng nề song vẫn kiên cường
chịu đựng nỗi đau mất mát không thể bù đắp khi thành phố Huế bị bom Mĩ

tàn phá, khi những di sản văn hóa mà chỉ ở Huế mới có bị hủy hoại. (Năm
1968, sau trận tổng công kích của đế quốc Mỹ kết thúc, Huế đã bị tàn phá tới
80% nhà cửa. Thành nội 2,5km hoàn toàn bị tàn phá. Nhiều công trình bị
thiệt hại trong hoàng thành. Cửa Ngọ Môn cùng các công trình khác bị hư
hại nặng nề, làm biến dạng mãi đến cuối thập niên 1970 mới được trùng tu
sửa chữa).
Dòng sông Hương được hiện lên trong nét đẹp, sự gắn bó với lịch sử,
như một nhân chứng từ quá khứ cho đến tận bây giờ. Cùng với Huế sông
Hương đã trở thành một "nét son" trong lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc. Vậy
nên Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lội ngược dòng về quá khứ để khẳng định
vai trò của sông Hương trong lịch sử dân tộc . "Sông Hương là vậy, là dòng
sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc, khi
nghe lời gọi nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở
về với cuộc sống bình thường làm một người con gái dịu dàng của đất
nước’’.
Với lối viết gợi cảm, giàu cảm xúc, tự hào với lịch sử quê hương, tác
giả đã tạo nên những trang viết đầy âm hưởng anh hùng ca, tạo cho sông
Hương một phương diện mới trong vẻ đẹp hoàn mỹ của nó. Sông Hương
không chỉ dịu dàng quý phái trong vẻ đẹp văn hóa cố đô mà còn là nhân
chứng nhẫn nại và kiên cường qua những tháng năm thăng trầm của cuộc
đời.

15


Như vậy việc tích hợp kiến thức lịch sử giúp học sinh khám phá một
vẻ đẹp sâu thẳm của sông Hương, đó là vẻ đẹp của một dòng sông bất khuất,
kiên cường.
2.3.3.4. Tích hợp kiến thức văn hóa giúp học sinh cảm nhận vai trò của
sông Hương trong dòng chảy của văn hóa xứ Huế.

Khi giảng dạy tác phẩm, giáo viên phải giúp học sinh hiểu sâu hơn về
văn hóa xứ Huế nhằm giúp các em thấy được sông Hương mang đậm linh
hồn văn hóa xứ sở. Dưới ngòi bút của tác giả, sông Hương không tách rời đời
sống văn hóa của đất cố đô. Nó chẳng những tạo nên vẻ đẹp của cảnh quan
thiên nhiên nơi sông Hương núi Ngự, mà còn góp phần tạo nên vẻ đẹp tâm
hồn của người Huế.
Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian
văn hoá làm nảy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là
không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không
ngừng. Cả một vùng sông nước, từ thượng nguồn đến tận cửa biển, những lễ
hội truyền thống luôn gắn liền với dòng sông. Đặc trưng nhất có lẽ là lễ hội
hoa đăng và những cuộc chơi thả đèn trên sông Hương gắn liền với thú nghe
ca Huế đêm đêm, tạo nên một nét đẹp rất riêng của dòng sông văn hoá.
Dưới góc nhìn văn hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến một cái
nhìn sâu sắc hơn về sông Hương, xem nó như người mẹ phù sa đã góp phần
tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên xứ sở. Sông
Hương chính là khởi nguồn của văn hóa Huế. Có lẽ không có sông Hương
thì khó có thể có văn hóa Huế ngày nay.
2.3.3.5. Tích hợp GDCD, viêt văn nghị luận
Từ nội dung bài học, giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài nghị luận
văn học về vẻ đẹp của sông Hương qua đó giáo dục ý thức trách nhiệm của
thế hệ trẻ trong việc xây dựng quê Hương đất nước.
Đề bài: Anh (chị) hãy viết một bài văn nghị luận nêu cảm nghĩ của mình về
vẻ đẹp của sông Hương, là học sinh lớp 12 em cần phải làm gì để góp phần
vào sự nghiệp xây dưng quê hương đât nước.
* Hướng dẫn viết bài
A/ Mở bài: - Nêu vài nét về tác giả
- Nêu được vấn đề cần nghị luận
- Giới thiệu khái quát về hoàn cảnh ra đời và vị trí đoạn trích
B/ Thân bài: GV hướng dẫn học sinh khai thác lần lượt từng luận điểm va

luận cứ
- Luận điểm 1: Vẻ đẹp tự nhiên trong thủy trình của sông Hương
+ Luận cứ 1: Sông Hương ở vùng thượng lưu
+ Luận cứ 2: Sông Hương khi chảy đến ngoại ô kinh thành Huế
+ Luận cứ 3: Sông Hương chảy qua kinh thành Huế
+ Luận cứ 4: Sông Hương ra khỏi phạm vi thành phố
- Luận điểm 2: Sông Hương trong quan hệ với lịch sử với cuộc sống và thi
ca
16


- Luận điểm 3: Trách nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đât nước
C/ Kết bài: Khái quát được nội dung và nghệ thuật đặc sắc của cả bài
Phát biểu cảm nghĩ đan xen lời bình. Từ đó rút ra bài học cho bản thân gắn
với lứa tuổi
2.3.4. Giải pháp 4: Tích hợp trong quá trình củng cố bài học.
Trong thực tế dạy học Ngữ văn, do hạn chế về thời gian nên nhiều giáo
viên thường không chú trọng nhiều đến phần củng cố bài học. Tuy nhiên, tôi
thiết nghĩ đây là phần khá quan trong trong tiến trình dạy học. Để khắc sâu
kiến thức, tạo dư âm cho bài học và để học sinh vận dụng kiến thức vừa được
học trong bài học, giáo viên có thể củng cố bài học theo nhiều hình thức. Cụ
thể Ở bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, tôi tích hợp cho học sinh một số kĩ
năng như thảo luận nhóm, trình bày một vấn đề, kĩ năng trả lời câu hỏi trắc
nghiệm…qua phần củng cố bài học.
* Thảo luận nhóm:
(GV chia lớp thành 4 nhóm)
Nhóm 1:Câu 1: Để viết được thiên bút ký này tác giả đã sử dụng kiến thức
của những lĩnh vực nào?
Gồm: Sinh học, lịch sử, địa lí, văn học, vật lí, âm nhạc, giáo dục công dân

Nhóm 2 Câu 2: Nội dung chính của bài học là gì?
- Vẻ đẹp tự nhiên trong thủy trình của sông Hương được tác giả miêu tả ở 4
góc cạnh:
+ Sông Hương ở vùng thượng nguồn: Mạnh mẽ, dữ dội, man dại
+ Sông Hương khi chảy đến kinh thành Huế: Như một người con gái đẹp
thích làm nũng, mang dáng vẻ trầm mặc, cổ xưa.
+ Sông Hương khi chảy giữa lòng thành phố Huế: Mộng mơ, trữ tình, thủy
chung
+ Sông Hương khi ra khỏi phạm vi thành phố: Kín đáo, vấn vương, lẳng lơ
- Sông Hương trong quan hệ với lịch sử, cuộc sống và thi ca
Nhóm 3 Câu 3: Để chuyển tải những nội dung trên, tác giả đã sử dụng
những biện pháp nghệ thuật đặc sắc nào?
Các biện pháp nghệ thuật: So sánh, nhân hóa, ẩn dụ, miêu tả, kể, vận dụng
những tri thức của Lịch sử, Địa lí, Vật lí,… từ ngữ giàu sức gợi, giọng văn
thâm trầm nhẹ nhàng.
Nhóm 4 câu 4: Qua bài học, anh(chị) hãy rút ra cách tiếp cận, đọc hiểu một
bài bút kí mang đậm màu sắc văn chương?
- Xác định đối tượng phản ánh
- Phân tích những cảm nhận phong phú, độc đáo của tác giả về đối tượng,
đồng thời khám phá giọng điệu trữ tình và sự tài hoa của người viết.
* Vấn đáp:
VD câu hỏi: Anh chị tâm đắc nhất đoạn văn nào trong bài ký? Qua đoạn văn
đó hãy chỉ ra nét đặc sắc về ý tưởng, hình ảnh và ngôn ngữ của tác giả.
17


GV: Gợi ý học sinh trả lời
HS trả lời: Em tâm đắc nhất đoạn: Sông Hương khi chảy qua kinh thành Huế.
- Nét đặc sắc về ý tưởng của tác giả là
+ Về hình ảnh sông Hương miêu tả giống người con gái khi yêu gặp

được người yêu vui tươi hản lên. Sông Hương mềm mại như một tiếng vâng
không lời của tình yêu.
+ Tác giả liên tưởng sông Hương với sông Xen của Pari và sông Đanuýp của Buđa -pét để nói lên vẻ đẹp độc đáo của sông Hương.
+ So sánh lưu tốc dòng chảy của sông Hương với sông Nê-va của
nứơc Nga.
- Ngôn ngữ tác giả vừa kể vừa tả chủ yếu là gợi tả đã làm nổi bật đựơc
cảnh đẹp của sông Hương giữa thiên nhiên.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Để đánh giá hiệu quả của đề tài, tôi đã tiến hành thực nghiệm ở 2 lớp:
12C4, 12C5 trường THPT Thạch Thành 4 ngay sau bài học bằng phiếu khảo
sát, kết hợp kiểm tra 15 phút. Hai lớp có sĩ số gần bằng nhau, mặt bằng kiến
thức và ý thức học tập tương đương nhau. Người viết vận dụng tích hợp liên
môn tại lớp 12C4, còn lớp 12C5 thì không. Kết quả thông qua xử lí như sau:
Lớp 12C4:
ND Tích cực xây Cảm thấy hứng Biết huy động Nắm nội dung
khảo dựng bài
thú
kiến thức liên bài học (đạt
sát
môn
Khá-Giỏi)
Tỉ lệ

75%

100%

78%

70%


Lớp 12C5:
ND Tích cực xây Cảm thấy hứng Biết huy động Nắm nội dung
khảo dựng bài
thú
kiến thức liên bài học (đạt
sát
môn
Khá-Giỏi)
Tỉ lệ

55%

62%

45%

43%

Từ kết quả học tập của học sinh, tôi nhận thấy việc tích hợp liên môn
vào các tiết Ngữ văn là rất cần thiết và mang lại hiệu quả rõ rệt đối với học
sinh. Vì vậy, bản thân sẽ tiếp tục vận dụng kiến thức liên môn trong các tiết
dạy khác và các năm học sau.
3. KÊT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận

18


K. Gibran đã từng nói “Con người không phải là một bình nước cần

được đổ đầy mà là một ngọn đèn cần được thắp sáng ”. Với việc đổi mới
phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, người giáo viên đã và đang
thắp sáng ngọn lửa của niềm đam mê, khát vọng chiếm lĩnh tri thức trong
lòng mỗi học trò. Đặc biệt với phương pháp dạy học tích hợp trong dạy học
nói chung, môn ngữ văn nói riêng, người giáo viên đã tạo cho học sinh có
một tâm thế tiếp nhận bài học hoàn toàn chủ động bằng việc dạy cách học,
trang bị kiến thức công cụ để phục vụ cho việc tự học. Và trong bất cứ việc
gì, kể cả việc học, khi học sinh đã chủ động lĩnh hội kiến thức, chủ động tiếp
nhận tác phẩm, thì chắc chắn các em sẽ có được sự hứng thú, say mê đối với
môn học, từ đó mà kết quả học tập sẽ được cải thiện, nâng cao.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông ” là một tác phẩm mới được đưa vào
giảng dạy nhưng với phương pháp dạy học tích hợp, tôi thiết nghĩ đã gỡ được
phần nào cái khó của cả người dạy và người học. Với phần hỗ trợ của những
kiến thức phân môn, liên môn, học sinh sẽ có cái nhìn sâu sắc đa chiều về vẻ
đẹp của dòng Hương giang, của xứ Huế mộng mơ, đồng thời thấy được tài
nghệ văn chương độc đáo của nhà viết kí Hoàng Phủ Ngọc Tường. Từ đó,
qua bài học này, Học sinh sẽ được trang bị những phương pháp học tập mới,
giúp các em định hướng cách tiếp nhân các tác phẩm khác trong chương
trình một cách hứng thú, chủ động hơn.
Cuối cùng tôi mong rằng, sáng kiến kinh nghiệm của mình sẽ là tài
liệu tham khảo hữu ích cho bạn bè đồng nghiệp khi ạy học ngữ văn theo
phương pháp tích hợp liên môn nói chung và ki dạy tác phẩm “Ai đã đặt tên
cho dòng sông” nói riêng.
3.2. Kiến nghị
- Về phía Sở giáo dục và đào tạo:
+ Tôi kiến nghị Sở nên có nhiều hơn những đợt tập huấn về dạy học tích hợp
liên môn không chỉ cho giáo viên cốt cán mà cho tất cả giáo viên.
+ Những dự án dự thi dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn đạt giải trong
các năm học, cần được cập nhật trên trang wet của sở để giáo viên có điều
kiện tham khảo.

- Về phía nhà trường:
+ Nên đầu tư thêm trang thiết bị phục vụ cho dạy và học, đặc biệt là máy
chiếu đa năng. Hiện nay cả trường THPT Thạch Thành 4 mới chỉ có một
phòng máy chiếu, nên việc dạy học ứng dụng công nghệ thông tin của giáo
viên còn gặp nhiều khó khăn.
+ Đầu tư thêm tài liệu tham khảo về các tác giả, tác phẩm mới được đưa vào
chương trình Ngữ văn THPT trong đó có bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.
- Về phía giáo viên giảng dạy bộ môn ngữ văn: nên xem việc tích hợp kiến
thức liên môn là việc làm thường xuyên liên tục trong suốt quá trình dạy học
để đổi mới phương pháp dạy học chứ không phải chỉ đầu tư cho những dự án
tích hợp liên môn để dự thi.

19


Trong phạm vi nghiên cứu còn nhỏ hẹp, cũng như những hạn chế về
kinh nghiệm, chắc chắn đề tài sẽ còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Tôi hi vọng
nhận được nhiều sự góp ý, trao đổi của đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn.

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Hoàng Thị Thắm


TÀI LIỆU THAM KHẢO

20


1. Phân Tích Tác Phẩm Ngữ Văn 12 – Nhà Xuất Bản Giáo Dục – Tác giả:
Trần Nho Thìn.
2. Kĩ Năng Đọc Hiểu Văn Bản 12 – Nhà Xuất Bản Giáo Dục - Tác giả:
Nguyễn Kim Phụng – Đặng Tương Như.
3. Bình Giảng Văn Học 12 Chọn Lọc – Tác giả : Trần Đình Sử.
4. Địa Lí 12 – Nhà Xuất Bản Giáo Dục – Tác giả: Lê Thông – Nguyễn Viết
Thịnh.
5. Ngữ Văn 12 – Nhà Xuất Bản Giáo Dục –Tác giả: Phan Trọng Luận.
6. Lý luận văn học, tập 2, Trần Đình Sử chủ biên, Nhà xuất bản Đại học Sư
phạm, H. 2008,
7. Lý luận văn học, Trần Đình Sử chủ biên, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm,
Hà Nội 2008.

21



×