Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự đối với học sinh lớp 12 trường THPT lang chánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.45 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT LANG CHÁNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP RÈN LUYỆN
KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TỰ SỰ ĐỐI VỚI HỌC SINH LỚP 12
TRƯỜNG THPT LANG CHÁNH

Người thực hiện:
Phạm Thị Dung
Chức vụ:
Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh mực: Ngữ văn

THANH HOÁ NĂM 2019
0


MỤC LỤC
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài

2

1.2. Mục đích nghiên cứu

2



1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm

3

2. NỘI DUNG
2.1.Cơ sở lý luận: lý thuyết hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản tự sự
3
2.1.1. Khái niệm đọc hiểu

3

2.1.2. Khái niệm tác phẩm tự sự
2.1.3. Đặc trưng của tác phẩm tự sự

4
4

2.2. Thực trạng dạy đọc hiểu văn bản tự sự ở trường THPT Lang Chánh

4


2.3. Xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản tự sự ở trường
THPT Lang Chánh
6
2.4. Hiệu quả của đề tài

11

3. KẾT LUẬN

17

Tài liệu tham khảo

18

Danh sách SKKN đã được Hội đồng Sở GD&ĐT đánh giá

19

1


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
1.1. Lí do chọn đề tài:
Từ xưa đến nay, việc dạy và học văn trong nhà trường bao giờ cũng hết sức
quan trọng, nó góp phần hoàn thiện tâm hồn và nâng cao nhân cách cho các thế hệ học
sinh. Làm sao để học sinh (HS) có thể đọc hiểu và rung động trước những áng văn
hay? Đó là vấn đề đã được đặt ra từ lâu trong thực tiễn dạy học văn nói chung và dạy
học văn ở trường THPT Lang Chánh nói riêng.

Chúng ta đang bước vào ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, thời đại mà thế giới đã và
sẽ chứng kiến tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ. Do đó, không
quá khó hiểu khi giới trẻ hiện nay có xu hướng tìm đến Ngoại ngữ, Tin học và các môn
khoa học tự nhiên như là một sự bảo đảm cho tương lai. Có thể đây mà một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng HS ngày nay không quan tâm nhiều đến văn
học, kỹ năng đọc hiểu, cảm thụ văn học rất yếu.
Gần đây, trong xu hướng phát triển của quan điểm dạy học hiện đại, vai trò chủ
thể của HS được đề cao, HS chính là chủ thể cảm thụ nghệ thuật. Do đó, xây dựng hệ
thống bài tập là một trong những biện pháp có có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
quá trình phát huy tính chủ động, sáng tạo của HS; đồng thời, cũng là một trong những
biện pháp nhằm đảm bảo nguyên tắc tích hợp trong dạy học văn ở trường THPT hiện
nay. Vì những lí do trên mà trong năm học 2018 – 2019 tôi đã mạnh dạn nghiên cứu
vấn đề về “Xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự đối
với học sinh lớp 12 trường THPT Lang Chánh”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Thông qua hệ thống bài tập để HS tìm tòi, suy nghĩ và chiếm lĩnh tri thức, đồng
thời tăng cường tính thực hành trong quá trình dạy và học.
- Xây dựng hệ thống bài tập trong quá trình dạy học là một trong những biện
pháp góp phần hình thành và rèn luyện kỹ đọc hiểu văn bản văn học cho HS, giúp học
sinh có được những kỹ năng cơ bản khi đọc hiểu và tiếp nhận văn học. Từ đó, HS sẽ
không còn cảm thấy lúng túng, khó khăn khi đứng trước một tác phẩm văn học, tự bản
thân các em sẽ biết cách khám phá và cảm nhận thế giới muôn màu muôn vẻ của văn
chương.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Văn bản tự sự lớp 12 (Ngữ văn 12, Chương trình cơ bản): Vợ nhặt ( Kim Lân),
Vợ chồng A Phủ ( Tô Hoài), Chiếc thuyền ngoài xa( Nguyễn Minh Châu), Rừng xà nu
( Nguyễn Trung Thành).
- Học sinh khối 12 trường THPT Lang Chánh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: Điều tra khảo sát ban đầu, điều tra khảo

sát sau thực nghiệm. Kết quả điều tra khảo sát có phân tích, đánh giá và so sánh.
2


- Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức thực thực nghiệm và đối chứng tại hai lớp
12A6 và lớp 12A8.
1.5. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua thực tiễn dạy và học văn bản đọc hiểu những năm gần đây tôi nhận thấy
rằng việc dạy đọc hiểu không chỉ rèn luyện cho học sinh năng lực đọc hiểu văn bản mà
còn rèn luyện năng lực tạo lập văn bản, đặc biệt là năng lực viết sáng tạo. Trong
chương trình Ngữ Văn 12 học kì 2 có 4 tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn: Vợ nhặt (
Kim Lân), Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Chiếc thuyền ngoài xa( Nguyễn Minh Châu),
Rừng xà nu( Nguyễn Trung Thành). Đây là những tác phẩm trọng tâm đối với học sinh
lớp 12 trong kì thi THPT QG. Vì vậy giới hạn trong đề tài này tôi có đưa ra các cách
tiếp cận tìm hiểu văn bản đọc hiểu. Đó là:
- Tìm hiểu ý nghĩa nhan đề tác pẩm.
- Tìm hiểu hình tượng nhân vật trên các phương diện sau: tên nhân vật, ngoại
hình nhân vật, ngôn ngữ và nội tâm nhân vật.
- Mở đầu và kết thúc của truyện
Đặc biệt tôi có đưa ra cách đi sâu tìm hiểu về hai hay nhiều chi tiết trong tác
phẩm có ý nghĩa đến mạch phát triển của câu chuyện, đến sự phát triển và thay đổi nội
tâm của nhân vật. Qua đó làm rõ giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm mà tác
giả gửi gắm qua các chi tiết nghệ thuật.
PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lí luận: Lý thuyết về hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu
văn bản tự sự:
2.1.1. Khái niệm đọc hiểu:
Khái niệm đọc hiểu đã thoát khỏi nghĩa thông thường với hai thao tác đọc và hiểu
mà đã trở thành một thuật ngữ của phương pháp dạy học bộ môn và có nội hàm khoa
học phong phú, gắn với lí luận dạy học văn, lí thuyết tiếp nhận tác phẩm, lí thuyết giao

tiếp, thi pháp học... Nó được hiểu như là phương thức đọc văn nhằm mục đích cảm thụ
và hiểu biết chính xác, cặn kẽ tác phẩm văn chương, khám phá và chiếm lĩnh những
giá trị văn chương. Theo Giáo sư Trần Đình Sử “Đọc hiểu văn bản như một khâu đột
phá trong việc đổi mới dạy học và thi môn Ngữ văn, là yêu cầu bức thiết đối với việc
đào tạo nguồn nhân lực mới cho đất nước tiến theo các nước tiên tiến” [2, tr.56]
Có thể nói, đọc hiểu là một hình thức hoạt động có tính chất đặc thù của nhận
thức về văn học. Giữa đọc và hiểu tác phẩm có mối quan hệ biện chứng: do hiểu đúng
mà đọc đúng, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hơn. Đầu tiên là đọc để nắm bắt được văn
bản, làm cơ sở cho việc tìm hiểu văn bản. Hiểu nội dung tức là người đọc đã phát hiện
ra các thông tin mà tác giả gửi gắm trong văn bản tác phẩm, kể cả việc nhận diện các
yếu tố nghệ thuật đã được sử dụng nhằm chuyển tải thông tin tới người đọc một cách
ấn tượng. Như vậy, hiểu là việc chạm tới nội dung bề mặt của ngôn từ nghệ thuật (còn
3


gọi là hiển ngôn), để từ đó có thể hiểu rung cảm trước những gì mà ngôn từ gợi ra để
nhận thức được chiều sâu ý nghĩa của văn bản (còn gọi là hàm ngôn).
Trong chương trình Ngữ văn bậc THPT hiện nay, đọc - hiểu được xem như một
khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy văn.
2.1.2. Khái niệm về tác phẩm tự sự:
Tự sự là thể loại văn học phản ánh cụ thể hiện thực đời sống một cách khách
quan bằng cách kể lại sự việc, sự kiện, miêu tả tính cách nhân vật, chi tiết... có đầu có
đuôi thông qua cốt truyện tương đối hoàn chỉnh và được kể lại bởi một người kể
chuyện nào đó (truyện có thể được kể ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ 3).
2.1.3. Đặc trưng của tác phẩm tự sự:
Tình tiết là dấu hiệu đặc trưng đầu tiên của truyện. Tình tiết là sự việc, là biến cố
đang vận động, đang phát triển. Tình tiết làm cho những sự việc ngẫu nhiên hằng ngày
kết tinh ngưng đọng lại thành truyện. Dù biến hoá trăm màu nghìn vẻ, tình tiết luôn
luôn tồn tại trong truyện. Tình tiết truyện có khi đơn tuyến, có khi đa tuyến, có khi một
chiều, có khi nhiều chiều.

Nhưng trung tâm của sự việc, của biến cố là con người, trung tâm của tình tiết là
nhân vật. Đối tượng chủ yếu của văn học là những con người với cuộc sống bên trong
và cuộc đời bên ngoài của họ. Truyện không phải chỉ kể về các sự việc, các biến cố mà
còn kể về con người, về vận mệnh của những con người.
Đã là truyện thì phải có lời kể chuyện. Lời kể là một yếu tố rất quan trọng của
truyện. Cốt truyện, nhân vật, toàn bộ hình tượng của truyện được dệt nên qua lời kể
đó. Lời kể một mặt là phương tiện để phản ánh cuộc sống thành hình tượng trong
truyện, mặt khác cũng lại là phương tiện để biểu hiện thái độ, tình cảm, tư tưởng, sự
đánh giá của tác giả đối với cuộc sống.
Một tác phẩm tự sự tất nhiên cũng giống như bất kì một tác phẩm nào khác, đòi
hỏi phải được phân tích toàn diện cặn kẽ và đúng phương hướng. Điều đặc biệt ở tác
phẩm thuộc thể truyện là cấu tạo hình tượng tác phẩm dựa vào ba yếu tố: Tình tiết,
nhân vật và lời kể như đã nêu. Cho nên khi phân tích cấu tạo hình tượng của truyện,
không thể không lưu tâm đến ba yếu tố đó. Đó cũng là nét phân biệt cấu tạo một tác
phẩm truyện với một bài thơ trữ tình hay một bài văn chính luận.
2.2. Thực trạng dạy đọc hiểu văn bản tự sự ở trường THPT Lang Chánh:
Đọc hiểu là hoạt động đọc và giải mã các tầng ý nghĩa của văn bản thông qua khả
năng tiếp nhận của học sinh. Đọc hiểu là tiếp xúc với văn bản, hiểu được nghĩa hiển
ngôn, nghĩa hàm ẩn, các biện pháp nghệ thuật, thông hiểu các thông điệp tư tưởng, tình
cảm của người viết và giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật. Tuy nhiên, từ thực tế
giảng dạy tôi nhận thấy hoạt động đọc hiểu văn bản tự sự của học sinh Trường THPT
Lang Chánh chưa thực sự hiệu quả.
2.2.1. Về phía GV phổ biến và cũng là một trong những nhược điểm lớn cần
khắc phục trong dạy học văn bản tự sự hiện nay là GV “áp đặt” những kiến thức cách
4


hiểu văn chương của mình cho HS. Trong khi lẽ ra, GV phải là người bạn đọc lớn tuổi
có kinh nghiệm, người bắc cầu cho quá trình đối thoại giữa nhà văn và học sinh, tổ
chức, định hướng để tự HS từng bước chiếm lĩnh tác phẩm và tự phát triển dần.

Hiện nay, không ít GV chỉ “chạy” theo khối lượng kiến thức có trong sách giáo
khoa, dạy sao cho đủ, cho đúng phân phối chương trình, cho kịp thời gian, mà không
quan tâm đến việc tìm ra những biện pháp tác động đến quá trình nhận thức của HS,
rèn luyện cho các em những kỹ năng cơ bản để đọc - hiểu, cảm thụ văn bản.
2.2.2. Về phía học sinh: Thực trạng dạy học văn bản tự sự ở trường THPT Lang
Chánh đã cho chúng ta thấy được hầu hết HS chỉ đến với tác phẩm văn chương thông
qua bài giảng của thầy cô. HS lâu nay chỉ được coi như một khách thể, một đối tượng
tiếp thụ của GV, GV truyền đạt như thế nào thì HS hiểu như thế ấy theo kiểu áp đặt.
HS không cần thiết phải nói lên cách hiểu, cách nghĩ của mình trước một tác phẩm.
Hơn nữa, các em chạy theo mốt học các môn phục vụ cho khối thi, chọn ngành nghề
tương lai nên có thái độ thờ ơ, không yêu thích học môn Văn.
Phần lớn HS hiện nay kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự rất yếu nên các em cảm
thấy lúng túng, khó khăn khi tự mình đọc - hiểu, tiếp nhận văn bản. Một bộ phận HS
dù rất thích, nhưng lại không có những phương pháp, những kỹ năng cơ bản để tìm
hiểu văn bản tự sự nên các em cũng không thể khám phá và hiểu sâu sắc được cái hay,
cái đẹp của văn bản, cũng như những thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm đến bạn
đọc. Giờ học văn bản tự sự vì thế vẫn chưa thu hút được sự chú ý của người học.
Trong năm học 2018-2019, tôi đã tiến hành cho học sinh 3 lớp khối 12 làm bài
khảo sát về khả năng làm bài tập đọc hiểu văn bản tự sự và đã thi được kết quả ban
đầu như sau:
2.2.3 Kết quả khảo sát ban đầu:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Đối tượng đối
Sĩ số
chứng
SL
%

SL
%
SL
%
SL
%
12A8
41
0
0
12
29,3
28
68,3
1
2,4
12A9
41
0
0
8
19,7
30
73,0
3
7,3
12A7
41
0
0

7
17,1
29
70,7
5
12,2
Từ kết qủa khảo sát ban đầu cho thấy rằng:
- Số lượng và tỉ lệ % học sinh đạt loại giỏi ở 3 lớp 12A8, 12A9, 12A7 là không
có.
- Số lượng học sinh đạt loại khá ở 3 lớp trên đang còn rất thấp : Lớp 12A8 là
12/41 học sinh chiếm 29,3%; Lớp 12A9 và 12A7 thì chỉ có 7-8/41 học sinh chiếm tỉ lệ
thấp từ 17,1-19,7%.
- Số lượng và tỉ lệ học sinh trung bình ở 3 lớp trên đang còn rất cao chiếm hơn
68%. Đặc biệt là tỉ lệ học sinh yếu đang còn, nhiều nhất là lớp 12A7 chiếm 12,2%.
5


Từ thực trạng dạy và học, kết quả khảo sát việc đọc hiểu văn bản tự sự của học
sinh Trường THPT Lang Chánh như trên tôi nhận thấy cần đặt ra vấn đề rèn luyện kỹ
năng đọc hiểu văn bản tự sự cho HS. Đó là một trong những vấn đề cần được quan tâm
hơn cả trong qúa trình dạy học văn hiện nay để giúp các em có thể hiểu, cảm nhận
được cái hay, cái đẹp của văn chương và đi sâu vào lí giải được các tầng ý nghĩa tác
giả gửi gắm trong tác phẩm.
2.3. Xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự ở
trường THPT Lang Chánh:
Hệ thống bài tập trước hết giúp HS hiểu đúng, cảm thụ đúng các văn bản tự sự
trong nhà trường, bổ sung những hạn chế mà thời lượng của một giờ đọc - hiểu không
cho phép giáo viên mở rộng.
Hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự sẽ hỗ trợ GV với tư
cách là người bạn đường tin cậy giúp HS hiểu đúng, cảm thụ đúng cái hay, cái đẹp của

văn bản. Bên cạnh đó, bài tập còn giúp GV mở rộng, bổ sung những hạn chế trong giờ
dạy chính khóa để HS chẳng những có thể hiểu đúng, cảm thụ đúng, còn có thể đánh
giá những vấn đề thuộc về tác phẩm một cách tinh tế, sâu sắc.
Hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự góp phần định hướng,
giúp HS phát hiện ra điểm sáng thẩm mỹ ấy. Nó là cơ sở giúp giải mã văn bản, khám
phá cái đẹp tiềm tàng, cũng như dụng ý nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm thông qua lớp
vỏ ngôn từ của văn bản ấy.
Thông qua hệ thống bài tập, tăng cường tính thực hành cho học sinh trong quá
trình dạy học vănvăn bản tự sự, giúp học sinh nhận thức vai trò của việc đọc hiểu văn
bản trong quá trình làm văn.
Một trong những tín hiệu có thể đem đến cho người đọc những thông tin phong
phú về tác phẩm là những chi tiết nghệ thuật. Chi tiết “là tiểu tiết của tác phẩm mang
sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng” .Chi tiết ấy có thể là một lời nói, một cử chỉ,
một hành động của nhân vật, hoặc một sự vật, một hình ảnh thiên nhiên, một nét chân
dung… Chi tiết càng có sức biểu hiện càng góp phần nâng cao giá trị tác phẩm. Do đó,
tìm hiểu tác phẩm phải luôn xuất phát từ chi tiết nghệ thuật, nhất là các chi tiết quan
trọng. Muốn khám phá những chi tiết ấy cần bám sát văn bản ngôn từ và thế giới hình
tượng của tác phẩm, chú ý giọng điệu, kết cấu tác phẩm.
2.3.1. Bài tập đọc hiểu chi tiết nghệ thuật về nhan đề của văn bản tự sự:
Nhan đề là yếu tố đầu tiên của văn bản mà người đọc được tiếp xúc, là yếu tố thể
hiện tập trung nhất, cô đọng nhất dụng ý nghệ thuật của nhà văn muốn gửi gắm.
Nhan đề là một trong những tín hiệu nghệ thuật quan trọng, nhưng một số giáo
viên vẫn còn coi nhẹ, bỏ qua hai yếu tố này. Từ thực trạng trên, chúng tôi xây dựng bài
tập đọc hiểu chi tiết nghệ thuật về nhan đề, lời đề từ của văn bản tự sự qua một số ví
dụ sau:
6


1. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã xây dựng một tình huống oái ăm:
Tràng - một người dân của xóm ngụ cư, nhà nghèo, xấu xí, ngờ nghệch, bấy lâu có

nguy cơ “ế vợ”, nay bỗng dưng nhặt được vợ chỉ nhờ mấy câu hò đùa và bốn bát bánh
đúc.
Theo như tình huống truyện, lẽ ra nhan đề truyện ngắn phải là “nhặt vợ”, tại sao
nhà văn lại đặt nhan đề cho truyện của mình là “Vợ nhặt”?
2. Tái hiện lại hình ảnh dân làng Xô – Man trong công cuộc đấu tranh chống lại
kẻ thù xâm lược, Nguyễn Trung Thành có thể đặt tên cho tác phẩm là “Làng Xô-man”
hay “Tnú” – theo tên nhân vật chính, nhưng nhà văn lại chọn nhan đề cho truyện ngắn
của mình là “Rừng xà nu”.
Theo anh (chị), tại sao Nguyễn Trung thành lại chọn nhan đề cho truyện ngắn của
mình như vậy?
 Bài tập cảm thụ chi tiết nghệ thuật về nhan đề của văn bản tự sự mà chúng tôi
xây dựng góp phần khơi gợi trí tò mò và mong muốn khám phá của người đọc. Đây là
một cách hay để tạo sự chú ý, kích thích hứng thú của các em.
2.3.2. Bài tập đọc hiểu chi tiết nghệ thuật về hình tượng nhân vật trong văn
bản tự sự:
Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong văn bản. Nhân vật văn
học có thể có tên riêng( Tấm, Cám…), cũng có thể không có tên riêng( thằng bán tơ
trong Truyện Kiều)…Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát tính cách
của con người.Vì tính cách là kết tinh của môi trường nên nhân vật văn học dẫn dắt
người đọc vào các môi trường khác nhau của đời sống. “Nhân vật văn học còn thể
hiện quan niệm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Vì thế, nhân
vật luôn gắn liền với chủ đề tác phẩm”. [1, Tr.236]
Bài tập đọc hiểu về hình tượng nhân vật mà chúng tôi xây dựng cũng dựa trên cơ
sở khai thác các chi tiết nghệ thuật về những biểu hiện đã nêu
♦ Kiểu 1: Chi tiết nghệ thuật về tên nhân vật
Tên nhân vật là một tín hiệu nghệ thuật mà nhà văn hết sức chú ý vì nó góp phẩn
phản ánh tính cách của nhân vật, không khí tác phẩm cũng như phong cách của tác giả.
Tuy nhiên, có một số trường hợp, nhà văn không đặt tên, mà gọi nhân vật của mình
bằng những danh từ, đại từ phiếm định. Cách gọi như vậy cũng nhằm thể hiện dụng ý
nghệ thuật riêng của tác giả.

Tìm hiểu chi tiết nghệ thuật về tên nhân vât, chúng tôi định hướng học sinh dựa
trên các bài tập như sau:
1. Trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu:
- Theo anh (chị) tại sao tác giả không đặt tên cho nhân vật nữ chính, mà gọi bằng
một cụm từ phiếm định “người đàn bà hàng chài”?
- Có phải ngẫu nhiên không khi Nguyễn Minh Châu đặt cho nhân vật của mình
những cái tên như Phùng, Đẩu, Phác?
7


2. Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân có ba nhân vật chính, nhưng tác giả chỉ
đặt tên cho hai nhân vật là Tràng và bà cụ Tứ, còn người phụ nữ vợ Tràng - cô ta thậm
chí không có tên, lúc được gọi là “thị”, là “cô ả”, lúc là “người đàn bà”.
Theo anh (chị) tại sao nhà văn không đặt cho nhân vật, cách gọi tên nhân vật của
Kim Lân gợi anh (chị) suy nghĩ gì về số phận con người?
 Các bài tập trên đây góp phần hình thành cho học sinh kỹ năng tìm hiểu về ý
nghĩa của tên nhân vật khi gắn nó với cuộc đời số phận của nhân vật trong quá trình
tìm hiểu văn bản tự sự, từ đó, hiểu được dụng ý nghệ thuật của nhà văn qua việc đặt
tên cho nhân vật.
♦ Kiểu 2: Chi tiết nghệ thuật về ngoại hình nhân vật
Trong văn bản tự sự, miêu tả ngoại hình chính là một biện pháp của nhà văn
nhằm hé mở tính cách nhân vật. Nhà văn thường khắc họa nhân vật bằng cách miêu tả
vẻ bề ngoài như: cử chỉ, tác phong, diện mạo, đồ dùng, cách ăn mặc, nói năng của
nhân vật.
Các bài tập cảm thụ về ngoại hình nhân vật mà chúng xây dựng dựa trên những
chi tiết trên.
1. Trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” Nguyễn Minh Châu đã miêu tả
nhân vật người đàn bà hàng chài như sau:
“Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà
vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau

một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ” [3, Tr.71].
Vẻ bề ngoài ấy gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về cuộc đời, số phận nhân vật.
2. Trong tác phẩm " Rừng xà nu" Nguyễn Minh Châu đã miêu tả chân dung
ngoại hình cụ Mết rất cụ thể, chi tiết như sau:
" Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một kìm sắt. Anh quay lại: Cụ
Mết! Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng,
mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng. Ông ở trần, ngực
căng như một cây xà nu lớn" [3, Tr39]
Qua cách miêu tả về chân dung nhân vật cụ Mết như trên gợi cho anh/ chị suy
nghĩ về một già làng của dân làng Xô man?
♦ Kiểu 3: Chi tiết nghệ thuật về ngôn ngữ nhân vật
Trong các văn bản tự sự nói chung, lời nói của nhân vật thường chiếm tỉ lệ ít hơn
so với ngôn ngữ người kể chuyện nhưng lại có khả năng thể hiện sinh động và khơi
gợi cho người đọc hình dung về bản chất, tính cách của nhân vật. Qua lời ăn tiếng nói
của một người, chúng ta có thể nhận ra trình độ văn hoá, vốn sống, nhận ra tính cách
của người ấy.
1. Đọc đoạn trích sau trong tác phẩm " Chiếc thuyền ngoài xa" – Nguyễn Minh
Châu và trả lời câu hỏi: Tại sao người đàn bà hàng chài trong cuộc nói chuyện ở tòa án
8


huyện lại có sự thay đổi về thái độ và giọng điệu ngôn ngữ ? Qua đó cho thấy chị ta là
một người như thế nào?
Lúc đầu khi mới đến tòa án, người đàn bà hàng chài rụt rè, khúm núm, sợ sệt.
Khi được Đẩu khuyên:" Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu! Chị
nghĩ thế nào?
Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay vái lia lịa:
- Con lạy quý tòa...
- Sao, sao?
- Qúy tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đùng bắt con bỏ nó..."

Sau đó, chỉ mấy lời mào đầu, người đàn bà đã mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ
sệt. Điệu bộ khác, ngôn ngữ khác. Chị ta nói" - Chị cám ơn các chú!- Người đàn bà
đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết- Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn
các chú. Lòng các cú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các
chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc..." [3 , Tr74]
 Kiểu bài tập trên đây rèn luyện cho HS kỹ năng khi phân tích nhân vật ta cần
đặc biệt chú ý phân tích ngôn ngữ nhân vật. Khi tiếp xúc với văn bản tự sự, các em
không lướt qua ngôn ngữ nhân vật như trước đây nữa, mà dừng lại suy ngẫm, từ đó
hiểu và cảm nhận một cách toàn diện về con người nhân vật.
♦ Kiểu 4: Chi tiết nghệ thuật về nội tâm nhân vật
Thế giới nội tâm của con người rất sâu kín, phong phú, phức tạp. Ngòi bút của
nhà văn có khả năng miêu tả được những ngõ ngách xâu kín của nội tâm con người từ
những điều thuộc phạm vi ý thức đến những điều trong cõi tiềm thức, vô thức. Qua đó
ta có thể xét đoán được tính cách nhân vật.
Bài tập rèn luyện kỹ năng cảm thụ ngôn ngữ của nhân vật mà chúng tôi xây dựng
cũng chú ý khai thác khía cạnh trên.
1. Đọc đoạn trích sau trong tác phẩm “Vợ nhặt” – Kim Lân và trả lời câu hỏi nên
bên dưới:
“Hắn nhổ vu vơ một bãi nước bọt, cười tủm tỉm một mình. Nhìn thị ngồi ngay
giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi
đấy ư? Hà! Sự việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm phơ, tầm phào
đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng…” [3, Tr.26].
Theo anh (chị), tại sao ngay cả khi người phụ nữ kia đã vào trong nhà mình, đang
ngồi trên giường mình, nhân vật Tràng vẫn tự hỏi: “Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”?
2. Đoạn trích miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật Mị khi chứng kiến cảnh A Phủ bị
trói đứng trong đêm đông. Lúc đầu" Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng
nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như
thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy,
cũng thế thôi." [3]
9



Và đêm cuối ở Hồng Ngài, khi Mị dậy thổi lửa hơ tay" Ngọn lửa bập bùng sáng
lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai con mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt
lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt
nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc,
nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói
đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà
ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là
người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta
về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc
gì phải chết. A Phủ... Mị phảng phất nghĩ như vậy" [ 3, 13]
Tại sao trong hai lần nhìn thấy A Phủ trong cảnh bị trói đứng nhưng diễn biến
tâm lí của Mị lại khác nhau? Dụng ý của Tô Hoài khi miêu tả tâm lí Mị là gì?
2.3.3. Bài tập đọc hiểu chi tiết nghệ thuật mở đầu, kết thúc văn bản tự sự:
Một tác phẩm văn chương hoàn chỉnh về mặt nội dung và hình thức bao giờ cũng
phải có mở đầu và kết thúc. Mở đầu tác phẩm thường là sự phát hiện, chi tiết mở đầu
một tác phẩm luôn mang đến cho người đọc những khám phá thú vị. Còn kết thúc tác
phẩm là những gì sẽ đọng lại nhiều nhất trong tâm trí người đọc. Dựa vào cơ sở trên,
chúng tôi xây dựng các bài tập đọc hiểu chi tiết nghệ thuật mở đầu và kết thúc văn bản
tự sự qua ví dụ sau:
Mở đầu và kết thúc truyện ngắn “Rừng xà nu”, Nguyễn Minh Châu đều viết về
hình ảnh rừng xà nu:" Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng
không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời" [3, 38]và kết thúc
tác phẩm "Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác
ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến tận chân trời."[3 , 48]
Theo anh (chị), Nguyễn Minh Châu có dụng ý gì khi mở đầu truyện bằng hình
ảnh rừng xà nu?
Tóm lại, hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự mà tôi xây
dựng trên đây nhằm mục đích hình thành và phát triển kỹ năng cảm thụ đọc hiểu cho

học sinh THPT Lang Chánh, tạo cho các em những phản xạ có điều kiện, những kĩ
năng khi tiếp xúc với tác phẩm văn chương.
2.4. Hiệu quả của đề tài:
2.4.1. Mô tả thực nghiệm:
- Mục đích: Tôi triển khai thực nghiệm hệ thống bài tập trên để có được những
cơ sở bước đầu nhằm kiểm tra tính khả thi và khẳng định hiệu quả hệ thống bài tập bổ
trợ rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự mà đề tài xây dựng.
- Đối tượng và phạm vi thực nghiệm: Khi triển khai vận dụng một số bài tập
theo phương án mà đề tài đề xuất vào thực tiễn giảng dạy, tôi chọn 2 lớp ở khối 11 tại
trường THPT Lang Chánh.
10


- Thời gian: tôi tiến hành thực nghiệm trong năm học 2018-2019
2.4.2. Nội dung và quy trình thực nghiệm:
- Tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm theo hướng: cho HS làm những bài tập đọc
hiểu theo phương án mà đề tài xây dựng
- Cách thức tiến hành:
+ Bước 1: Chọn 2 lớp khối 12, lớp thực nghiệm là 12A6, lớp đối chứng là 12A8
Trường THPT Lang Chánh
+ Bước 2: Cho HS lớp thực nghiệm làm bài. Kiểm tra chất lượng bài của HS sau
khi thực nghiệm
+ Bước 3: Thống kê, xử lý kết quả phiếu khảo sát, bài kiểm tra của HS và rút ra
kết luận.
2.4.3. Cách thức đánh giá:
Kiểm tra 90 phút như hình thức kiểm tra định kỳ của học sinh nhằm đánh giá khả
năng hiểu hình tượng nhân vật thông qua các chi tiết nghệ thuật đã học trong văn bản.
- Đề kiểm tra:
Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, ở phần mở đầu truyện,nhà văn Tô Hoài tả
nhân vật Mị: “một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa.Lúc

nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe
suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” . Đến cuối truyện, khi chứng kiến
“dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ khi bị trói, Mị
suy nghĩ: “Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. Nó
đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Chỉ
đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó
đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì
mà phải chết. A Phủ...”
(Tô Hoài - Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr.4 và tr.13)
Phân tích hình ảnh nhân vật Mị trong hai lần được miêu tả như trên, từ đó làm
nổi bật sự thay đổi của nhân vật này.
- Yêu cầu cần đạt.
PHẦN
Ý
NỘI DUNG
ĐIỂM
LÀM
VĂN

11


Phân tích Mở
hình ảnh bài
nhân vật
Mị trong
hai

lần


được
miêu tả,
từ

đó

làm

nổi

bật

sự

thay đổi
của nhân
vật này.

-Tô Hoài là nhà văn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện
0,5
đại;
- Sáng tác theo xu hướng hiện thực, thiên về phản ánh
những sự thật của cuộc sống đời thường của con người,
nhất là người dân miền núi trong những trang viết bình dị,
tinh tế và giàu chất thơ.
-Truyện tiêu biểu của ông là tập Truyện Tây Bắc, trong đó
có truyện Vợ chồng A Phủ ;
- Trong truyện, ở đầu và cuối truyện, nhà văn tập trung
miêu tả hình ảnh nhân vật Mị, tiêu biểu cho số phận và vẻ
đẹp tâm hồn của người phụ nữ miền núi Tây Bắc.


Thân a. Khái quát tác phẩm: Truyện “Vợ chồng A Phủ” được 0,5
bài

nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, tin trong tập “Truyện
Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu kể về cuộc
sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ nhà
thống lí Pá Tra; cuối phần một là cảnh Mị cứu và chạy
theo A Phủ. Phần sau kể về Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. Họ
trở thành vợ chồng, được giác ngộ cách mạng.

12


b. Phân tích nhân vật Mị qua 2 lần miêu tả:
3,5
* Về nội dung:
-Nhân vật Mị trong lần miêu tả thứ nhất:
+ Quãng đời quá khứ:
+ Mị là một cô gái trẻ đẹp, yêu đời, chăm chỉ lao động,
nhà nghèo và rất hiếu thảo
+ Đang tuổi thanh xuân, vì món nợ truyền kiếp của gia
đình mà cô trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá
Tra;
+ Từ đó, Mị sống trong đau khổ tột cùng. Có đến hàng
mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Có lúc, cô định tìm cái
chết, nhưng không đành lòng. Mị chết thì bố Mị còn khổ
hơn bao nhiêu lần bây giờ.
+Cuộc sống hiện tại
+ Mị xuất hiện ngay đầu truyện. Tô Hoài đã phác họa chân

dung nhân vật để gợi mở nội tâm: mặt buồn rười rượi. Bên
cạnh nhà thống lí giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều
bạc, nhiều thuốc phiện nhất vùng đối lập và in đậm một
hình bóng im lìm, tăm tối, nhọc nhằn của Mị.
+ Từ lúc bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, Mị đã bị bóc lột sức
lao động đến cùng cực, chịu khổ nhục triền miên: quay
sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới
khe suối…
+ Mị bị giam hãm trong không gian chật hẹp và tù đọng,
giữa căn buồng lúc nào cũng âm u, cửa sổ là một lỗ vuông
bằng bàn tay, trong thời gian ngưng đọng như không dĩ
vãng, không hiện tại và không tương lai, lùi lũi như một
con rùa nuôi trong xó cửa.
+ Cùng với ách áp bức nặng nề ấy là sự mê tín, thần
quyền. Mị đã bị trình ma nhà thống lí thì chỉ còn biết đợi
ngày rũ xương ở đây thôi…
+ Cuộc sống đó hoàn toàn cùng khổ về vật chất, bế tắc về
tinh thần. Mị nghĩ rằng: … đến bao giờ chết thì thôi.
- Nhân vật Mị trong lần miêu tả thứ hai: diễn biến tâm
trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ:
+ Chính tác động của ngoại cảnh: đêm tình mùa xuân ở
Hồng Ngài đã làm cho Mị có sức sống tiềm tàng, khao
khát tự do
+ Sức sống ấy đã thổi bùng lên ngọn lửa của tinh thần
phản kháng mãnh liệt: đêm đông nơi rẻo cao, Mị đã cứu và
chạy theo A Phủ:
+ Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ :
13



Kết - Tóm lại vấn đề đã nghị luận;
0,5
bài
- Cảm nghĩ bài học cuộc sống từ nhân vật Mị.
Tuy nhiên, đáp án trên đây khá chi tiết, do đó, cũng cần cân nhắc, linh hoạt
không nên quá nguyên tắc, cứ dựa trên đáp án, đếm đầy đủ các ý để đánh giá bài làm
của HS.
2.4.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm:
- Kết quả bài kiểm tra cảm nhận của HS hình ảnh nhân vật Mị trong hai lần được
miêu tả, từ đó làm nổi bật sự thay đổi của nhân vật này.
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số
Đối tượng
lượng
SL
%
SL
%
SL
%
SL %
Lớp thực nghiệm
41
2
4,8
15
36,6

24
58,6
0
0
12A6
Lớp đối chứng
41
0
0
12
29,3
28
68,3
1
2,4
12A8
Căn cứ vào kết quả tổng hợp ở bảng trên, so sánh kết quả bài làm của HS lớp
thực nghiệm và lớp đối chứng chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
- Tỉ lệ HS hiểu sâu sắc các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, hiểu hình tượng nhân vật
Mị của các lớp thực nghiệm (4,8%) cao hơn lớp đối chứng (0%).
- Tỉ lệ HS nắm bắt các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, hiểu hình tượng nhân vật Mị
của các lớp thực nghiệm (36.6%) cao hơn lớp đối chứng (29,3%).
- So với lớp đối chứng, tỉ lệ HS hiểu chưa sâu sắc, mức độ trung bình ở lớp thực
nghiệm có giảm từ 2,4% xuống 0%..
Trên đây là những kết luận được rút ra dựa trên kết quả bài làm của HS hai lớp
thực nghiệm và hai lớp đối chứng. Nếu như căn cứ vào từng bài làm cụ thể của HS
trong quá trình chấm bài, chúng tôi có một số nhận xét như sau:
HS ở lớp đối chứng, các em chủ yếu tái hiện lại đúng kiến thức đã học về hình
tượng nhân vật Mị, chỉ có một số HS khá giỏi mới nêu những suy nghĩ, cảm nhận
riêng của bản thân về các yếu tố có liên quan đến quá trình tái hiện hình tượng nhân

vật, hoặc cảm nhận chung về hình tượng đó. Trong quá trình làm bài, nhiều HS vẫn
làm theo kiểu nhớ gì, viết đó, thậm chí sa vào việc kể lại câu chuyện về nhân vật chứ
không phải cảm nhận về hình tượng nhân vật như đề yêu cầu. Bên cạnh đó, phần nhiều
học sinh chưa có kỹ năng chọn lọc những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu quan trọng để
khai thác, làm sáng rõ hình tượng.
HS ở lớp thực nghiệm, các em biết chọn lọc những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu,
quan trọng, có liên quan đến nhân vật cũng như quá trình phát triển tính cách nhân vật
để bày tỏ suy nghĩ, quan điểm của bản thân. Các em có thể hiểu và lí giải các vấn đề
có lên quan đến hình tượng nhận vật một cách toàn diện, sâu sắc hơn.

14


Mặc dù, kết quả giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng chênh lệch không nhiều,
nhưng nó giúp chúng tôi có cơ sở để bước đầu khẳng định hiệu quả của hệ thống bài
tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự cho HS THPT. Tuy nhiên, như đã nói ở
trên, mục đích thực nghiệm của chúng tôi không phải là chỉ qua một vài tiết dạy để
khẳng định ưu thế của hệ thống bài tập bổ trợ mà đề tài xây dựng. Rõ ràng, để đánh giá
kết quả một giờ dạy cũng như thẩm định hiệu quả thực tiễn của hệ thống bài tập bổ trợ
không phải là chuyện đơn giản, thực hiện trong một sớm một chiều, cũng không phải
chỉ dựa vào các con số định lượng trên bảng thống kê.
Kết quả thực nghiệm nhằm giúp chúng tôi bước đầu đánh giá, kiểm chứng tính
khả thi và hiệu quả của hệ thống bài tập bổ trợ từ đó rút kinh nghiệm để hoàn thiện đề
tài nhằm tạo ra một phương án mới cho việc đổi mới phương pháp giảng dạy và rèn
luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự cho HS.
3. KẾT LUẬN
Hệ thống bài tập mà đề tài xây dựng có tính khả thi cao và có thể vận dụng nó
vào thực tiễn giảng dạy văn học ở trường THPT Lang Chánh. Tuy nhiên, đây cũng chỉ
là kết quả ban đầu, mặc dù có khả quan nhưng để tránh sự lý tưởng hoá tôi cho rằng hệ
thống bài tập đó cần có nhiều thời gian để thực tế kiểm nghiệm và cần nhiều sự đóng

góp chân thành từ nhiều phía trong thời gian gần nhất hệ thống bài tập mà đề tài xây
dựng thật sự là một phương án thiết thực, mang tính sư phạm và có giá trị thực tiễn
cao.
Trên đây chỉ là một số kinh nghiệm bước đầu mà tôi đã đúc rút, thực hiện trong
quá trình dạy tác phẩm tự sự. Mặc dù bản thân áp dụng sáng kiến này đã đạt hiệu quả
ở mức độ nhất định song chắc chắn vẫn còn những thiếu sót như nội dung chưa thật
đầy đủ, trình bày chưa thực sự khoa học… Bởi vậy tôi luôn đặt cho mình nhiệm vụ
không ngừng học hỏi, nghiên cứu để hoàn thành tốt mục đích đề ra trong sáng kiến.
Kính mong được hội đồng khoa học nhà trường, Ban giám hiệu và các đồng nghiệp
giúp đỡ, góp ý, bổ sung cho sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thiện hơn để có thể phổ
biến rộng rãi trong nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

NGƯỜI VIẾT SKKN
(Đã ký)

(Đã ký)

15


Nguyễn Đình Bảy

Phạm Thị Dung


16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử- Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật
ngữ văn học, NXB GD, 2004.
2. Trần Đình Sử (1998), Thi pháp học trung đại Việt Nam, NXB GD.
3. Sách giáo khoa Ngữ Văn 12, NXB GD, 2011.

DANH MỤC
17


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ
XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN
XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:

Phạm Thị Dung

Chức vụ và đơn vị công tác:

Giáo viên Trường THPT Lang Chánh

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá

xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

1.

Dạy bài “Chuyện chức phán sự
đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ
theo đặc trưng thể loại truyện
truyền kì

Sở GD&ĐT
Thanh hóa

18

Kết quả đánh
giá xếp loại
(A, B, hoặc
C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

C

2014-2015




×