Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Sử dụng hệ thống hình ảnh, âm thanh khi giảng dạy tiết 1 bài “rừng xà nu” nguyễn trung thành để khơi dậy hứng thú học tập môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (956.98 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO
DỤCHÓA
VÀNĂM
ĐÀO2017Mục
TẠO THANH
HÓA
HANH
lục
TRƯỜNG THPT LÊ LỢI
Mục lục..............................................................................................................1
A. Mở đầu.........................................................................................................1
I. Lí do chọn đề tài..................................................................................... .......2
II. Mục đích nghiên cứu....................................................................................2
III. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................3
IV. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................3
B. Nội dung.......................................................................................................4
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lí luận...................................................................................................4
II. Thực trạng:....................................................................................................5
III. Các giải pháp và tổ chức thực hiện..............................................................5
HÌNH ẢNH, ÂM THANH KHI GIẢNG DẠY TIẾT 1
1.SỬ
GiảiDỤNG
pháp.......................................................................................................5
BÀI
“RỪNG

NU”
- NGUYỄN
TRUNG
ĐỂghép


KHƠI
1.1 Cho
học sinh
thấy
rõ vai
trò quan trọng
của việcTHÀNH
tìm hiểu lồng
kiến
DẬY
HỨNG
THÚ
HỌC
TẬP
MÔN
NGỮ
VĂN
CHO
HỌC
thức văn hóa, xã hội ở vùng đất Tây Nguyên, nơi có nhiều tác phẩm sử thi có giá
SINH LỚP 12 THPT
trị.................................................................................................5
1.2. Xây dựng nội dung, môi trường lồng ghép..........................................6
1.3. Tăng cường vận dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực......... 7
1.4. Đọc kĩ văn bản và phần chú giải từ khó..............................................7
1.5. Dạy đọc - hiểu kết hợp với đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học
tập
của
học
sinh…………………………………………………………………...7

2. Tổ chức triển khai thực hiện trong giờ dạy Đọc hiểu: Chiến thắng Mtao
Mxây(Trích Đăm Săn - sử thi Tây Nguyên)...................................................7 2.1.
Người
thực
Hoàng
Thị Châm
Xác định cho học sinh nắm
được
mụchiện:
tiêu bài
học.........................9
Chức vụ:
Giáo viên
2.2. Tạo tâm thế học bài cho học sinh ở phần kiểm tra bài cũ và giới thiệu
SKKN thuộc môn: Ngữ Văn
bài mới.................................................................................................9
2.3. Tổ chức hoạt động dạy học..............................................................9
IV. Hiệu quả của sáng kiến...................................................................................18
C. Kết luận, kiến nghị...................................................................................19
I. Kết luận........................................................................................................19
II. Kiến nghị....................................................................................................19
Tài liệu tham khảo...........................................................................................21
Danh mục các đề tài SKKN …………………………………………………22
Phụ lục.............................................................................................................23
THANH HÓA NĂM 2018

0


Mục lục

A. Mở
đầu.............................................................................................................1
MỤC LỤC.
I.Mở đầu: ........................................................................................................1
1. Lí do chọn đề
tài: ........................................................................................1
2. Mục đích nghiên
cứu: .................................................................................1
3. Đối tượng nghiên cứu: ...............................................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu: ..........................................................................
2
II.
Nội dung sáng
kiến: ................................................................................. 2
1. Cơ sở lí luận: ............................................................................................. 2
2. Thực trạng: ................................................................................................ 5
3. Một số biện pháp sử dụng: ........................................................................ 6
3.1.Trình chiếu tư liệu, đặt câu hỏi gợi mở nhằm tạo hứng thú cho học
sinh ...................................................................................................................... 6
3.2. Sử dụng tranh ảnh kết hợp trong quá trình giảng dạy ......................... 7
3.3. Vận dụng kiến thức liên môn............................................................... 8
4. Giáo án thực nghiệm bài “ Rừng xà nu”(Nguyễn Trung Thành)-Tiết 1..... 9
5. Kết quả thu được: ..................................................................................... 14
5.1. Kết quả: ............................................................................................. 14
5.2. Nhận xét: ........................................................................................... 14
III. Kết luận và kiến nghị: ......................................................................... 14
1. Kết luận: .................................................................................................. 14
2. Kiến nghị: ................................................................................................ 15
IV. Tài liệu tham khảo: .............................................................................. 17
V. Danh mục SKKN được xếp loại: .......................................................... 18

VI. Phụ lục: .............................................................................................19-21

1


2


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Chiến tranh đã đi qua hơn 40 năm nhưng những hình ảnh kiêu hùng cũng
như những đau thương về một giai đoạn lịch sử ấy vẫn còn in đậm mãi trong
lòng bao thế hệ người con đất Việt. Chiến tranh - một thời đoạn vô cùng hào
hùng và khốc liệt trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Nó đã tạo ra cho
con người một cuộc sống khác khiến bất kì ai từng trải qua chẳng thể nào quên
được. Và từ đó, chiến tranh đã trở thành một đề tài không thể thiếu trong dòng
chảy của nền văn học Việt Nam.
Ngày nay, thế hệ trẻ chỉ có thể sống trong không khí hào hùng, sôi động
của một thời đại qua các trận đánh từ tư liệu lịch sử, qua lời kể của thế hệ cha
anh và qua tác phẩm văn học. Họ nhìn về lịch sử khác với thế hệ từng “xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước” nên khó có được tâm thế, khí thế để cảm nhận bản
chất thực sự của một thời đại đau thương nhưng hào hùng của dân tộc. Vì vậy,
việc “truyền lửa” cho hậu thế thông qua dòng Văn học thời kì chống Mĩ là việc
vô cùng quan trọng. Điều đó đã phần nào làm sống dậy tinh thần đấu tranh kiên
cường, bất khuất và anh dũng của dân tộc ta trong những năm tháng chiến tranh.
Đồng thời nhằm tiếp thêm sức mạnh, ý chí cho thế hệ trẻ ngày nay.
Sau nhiều năm giảng dạy Ngữ văn ở trường THPT, tôi nhận thấy việc
giảng dạy Văn học nói chung và Văn học thời kì chống Mĩ nói riêng chủ yếu chỉ
được tiến hành theo lối truyền thụ một chiều: thầy đọc - trò chép. Giáo viên còn
lúng túng trong việc truyền đạt nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Làm thế nào để

truyền được cái “thần”, cái “hồn”, cái “khí thế” sục sôi của cả một thời đại lịch
sử cho người học nhất là khi nhìn vào bối cảnh thực tại của đất nước lúc này, khi
“tổ quốc chập chờn bóng giặc (“Tổ quốc nhìn từ biển” - Nguyễn Việt Chiến) là
điều mà bất cứ người giáo viên dạy Văn nào khi đứng trên bục giảng cũng trăn
trở. Đứng trước những tồn tại đó, tôi mạnh dạn đề xuất kinh nghiệm dạy học các
tác phẩm văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ qua đề tài: “Sử dụng hệ thống
hình ảnh, âm thanh khi giảng dạy tiết 1 bài “Rừng xà nu” - Nguyễn Trung
Thành để khơi dậy hứng thú học tập môn Ngữ văn cho học sinh lớp 12
THPT”
2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm ra những đặc trưng Văn học thời kì kháng
chiến chống Mĩ về cả hai mặt nội dung và nghệ thuật trên cơ sở đó tìm ra một số
biện pháp dạy học có hiệu quả các tác phẩm văn học giai đoạn kháng chiến
chống Mĩ trong chương trình Ngữ văn 12.


3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là các tác phẩm Văn xuôi thời kì kháng chiến
chống Mĩ trong chương trình sách giáo khoa THPT lớp 12 cơ bản (không tính
tác phẩm đọc thêm), Trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này, cá nhân tôi
xin được tập trung đi sâu thêm vào một tiết học cụ thể trong chương trình Ngữ
văn 12, đó là tiết 63 tác phẩm văn xuôi “ Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn
Trung Thành.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Với đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp những phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp lí luận chung, phương pháp phân
tích tổng hợp, phương pháp thống kê và xử lí số liệu (thông qua bài kiểm tra).
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Cơ sở lý luận.
Quá trình dạy học là quá trình dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của

người giáo viên, người học tự giác, tích cực chủ động tự tổ chức, tự điều khiển
hoạt động nhận thức, học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy
học. Quá trình dạy học bao gồm hai hoạt động: dạy và học. Trong đó, hoạt động
dạy là sự điều khiển, tổ chức của người giáo viên tối ưu quá trình học sinh lĩnh
hội tri thức để hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động dạy có chức năng
là truyền đạt thông tin và điều khiển hoạt động học.
Hoạt động học là sự tự giác, tích cực và sáng tạo của người học dưới sự tổ
chức, điều khiển của người dạy (thầy, cô giáo) nhằm chiếm lĩnh tri thức khoa
học. Từ đó, hình thành cấu trúc tâm lý mới, phát triển nhân cách của người học.
Trong quá trình dạy học người dạy phải tìm ra phương pháp, cách thức,
phương tiện nhằm giúp người học dễ dàng chiếm lĩnh được tri thức.
Đối với một tác phẩm văn học nói chung nếu biết khám phá, hiểu sâu và
lĩnh hội hết giá trị tư tưởng cũng như nghệ thuật của tác phẩm thì người học sẽ
nhận thấy chức năng đặc thù của nó trong việc bồi đắp tâm hồn, hình thành nhân
cách. Nó trang bị những cảm xúc nhân văn, giúp con người hướng tới Chân Thiện - Mĩ. Nhờ có Văn học mà đời sống tinh thần của con người ngày càng
phong phú, tinh tế hơn. Tâm hồn trở nên bớt khô khan, thờ ơ, bàng quan trước
những số phận, cảnh đời diễn ra xung quanh mình, trước thiên nhiên và tạo vật.
Điều này càng quan trọng khi chúng ta đang sống trong nhịp sống sôi động, hối
hả của cuộc sống hiện đại, quá khứ dần bị lãng quên. Văn học chống Mĩ cũng
vậy! Nó bồi đắp cho học sinh tình yêu quê hương đất nước, thái độ trân trọng
truyền thống lịch sử, lòng tự hào dân tộc; giúp các em sống có lí tưởng, mục
đích, đạo đức và biết quý trọng tình nghĩa… Thông qua giá trị nhân văn từ
2


những tác phẩm văn học chống Mĩ giúp khơi dậy tinh thần đấu tranh bất khuất,
anh dũng của dân tộc ta trong quá khứ trở thành nguồn sức mạnh tinh thần là
điều cần thiết và có ý nghĩa lớn lao tiếp thêm sức mạnh cho thế hệ trẻ ngày nay.
Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trải qua nhiều cam go, khốc liệt để đi
tới thắng lợi trọn vẹn ngày 30 - 4 - 1975. Cuộc kháng chiến chống Mĩ đã thúc

đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Văn học Việt Nam. Từ văn học kháng chiến
chống Pháp đến chống Mĩ là sự kế tục và phát triển liền mạch của Văn học chiến
tranh. Văn học thời kì chống Mĩ cứu nước (1955 - 1975) có một vị trí trong lịch
sử văn học dân tộc. Dòng văn học này luôn dạt dào tuôn chảy nhờ sự góp sức
của nhiều giọng văn, nhiều tiếng thơ độc đáo, sôi nổi. Nó đã góp một tiếng nói
nhỏ vào cuộc đời lớn. Có thể khẳng định sự phát triển của văn học thời kì này
trước hết là ở đội ngũ sáng tác. Chưa bao giờ lực lượng sáng tác lại tập hợp
được nhiều thế hệ và nhiều phong cách, vừa thống nhất vừa bổ sung cho nhau
như thời kì này. Thế hệ các nhà thơ, nhà văn xuất hiện từ trước năm 1945 như
Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Nam Cao, Lưu Trọng Lư, Nguyễn
Tuân, Vũ Trọng Phụng, Kim Lân … vẫn tiếp tục sáng tác khá dồi dào và nhiều
người đạt được đỉnh cao mới, tạo ra chặng đường mới trên con đường sự nghiệp
của mình. Các tác giả trẻ xuất hiện đông đảo trong thời kì chiến tranh chống Mĩ,
đã đem đến cho nền Văn học cách mạng sức sáng tạo mới, trẻ trung, sôi nổi mà
trong đó có không ít tài năng đã được chú ý và khẳng định: Xuân Quỳnh,
Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật… Đặc biệt, lớp nhà văn, nhà
thơ - chiến sĩ là những người trực tiếp cầm súng đi vào chiến trường và viết nên
tác phẩm bằng sự trải nghiệm, cảm xúc chân thực của bản thân: Nguyễn Trung
Thành, Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm

Giá trị nổi bật và bền vững của Văn học kháng chiến chống Mĩ là ở nội
dung tư tưởng - cảm xúc. Nó tập trung biểu hiện những tư tưởng, tình cảm lớn
của thời đại, phát hiện và sáng tạo những hình tượng đẹp về Tổ quốc, dân tộc và
nhân dân về những thế hệ con người Việt Nam anh dũng trong công cuộc chiến
đấu vì độc lập, tự do và thống nhất Đất nước. Đó cũng là sự kế tục truyền thống
tốt đẹp của văn học dân tộc qua nhiều thời đại.
Văn học kháng chiến chống Mĩ đã đưa nền Văn học cách mạng đến giai
đoạn phát triển cao và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Chặng đường ấy đã
đáp ứng được những đòi hỏi của thời đại mình, đồng thời cũng là một giai đoạn
không thể bỏ qua trong tiến trình phát triển của Văn học Việt Nam hiện đại.

Tuổi trẻ cả nước nói chung, thế hệ trẻ Thọ Xuân nói riêng là thế hệ ra đời
sau 1975 nên chỉ biết đến chiến tranh qua sách vở, báo chí. Họ nhận thức về
3


chiến tranh chống kẻ thù xâm lược chủ yếu qua kí ức của cha anh, qua tác phẩm
văn chương cách mạng, qua những kỉ vật kháng chiến ít ỏi… Thế hệ trẻ ngày
nay không ít người hiểu chưa đầy đủ, toàn diện thậm chí còn hiểu sai về văn học
của một thời bão lửa. Vì thế, việc “truyền lửa” cho hậu thế thông qua các tác
phẩm văn học chiến tranh nhằm khơi dậy tinh thần đấu tranh bất khuất, anh
dũng của dân tộc ta trong quá khứ, trở thành nguồn năng lượng lịch sử là điều vô
cùng cần thiết và có ý nghĩa lớn lao tiếp thêm sức mạnh cho thế hệ học sinh
ngày nay.
Thơ văn chống Mĩ là tiếng nói tâm tình, đằm thắm, là khúc anh hùng ca
hào hùng; là lời tự bộc lộ chân tình, là ý chí, nghị lực của cả một dân tộc quyết
chiến và quyết thắng. Văn học chống Mĩ phát triển trong một hoàn cảnh đặc biệt
- hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Ngoài ra, nó còn chịu sự chi phối của quy
luật hiện đại hóa. Do đó, văn học lúc này thực hiện tốt nhiệm vụ hàng đầu là
phục vụ chính trị, yêu nước, cổ vũ cho cuộc kháng chiến vĩ đại ở miền Nam và
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nền văn học chống Mĩ đạt
được nhiều thành tựu lớn về số lượng tác phẩm cũng như nghệ thuật biểu hiện.
Trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt ấy văn học chống Mĩ mang những đặc
điểm riêng:
- Về nội dung:
+ Văn học chống Mĩ làm nổi bật hình ảnh người lao động, ngợi ca những
đổi thay của đất nước và con người trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, tình cảm
sâu nặng với miền Nam trong nỗi đau chia cắt.
+ Văn học tập trung thể hiện những tình cảm và tư tưởng lớn, bao trùm
trong đời sống tinh thần của con người thời đại chống Mĩ cứu nước.
+ Đề cao tinh thần yêu nước, yêu tổ quốc, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng

cách mạng (Đoạn trích Trường ca mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm,
Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành, Những đứa con trong gia đình - Nguyễn
Thi).
+ Thể hiện khát vọng tình yêu, khát vọng hạnh phúc trong cuộc sống đời
thường (Sóng - Xuân Quỳnh)
- Về nghệ thuật:
+ Văn học chống Mĩ mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
+ Mở rộng, đào sâu chất liệu hiện thực, tăng cường sức khái quát, chất
suy tưởng và chính luận.
+ Mang đậm cảm hứng anh hùng ca.
Văn học chống Mĩ mang nội dung yêu nước, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng,
tinh thần xả thân vì Đất nước. Bằng những giọng điệu riêng, mỗi tác giả góp một
4


tiếng nói vào bản hùng ca về Tổ quốc. Trên đây là những đặc điểm cơ bản tạo
nên diện mạo riêng của nền văn học này.
2. Thực trạng.
Mặc dù văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ có vai trò, vị trí đặc biệt
quan trọng trong tiến trình phát triển của Văn học Việt Nam hiện đại nhưng hiện
nay xuất hiện tình trạng nhiều học sinh không hứng thú học vì nó đơn điệu, khô
khan. Vị trí của các tác phẩm này ngày càng mờ nhạt trong tâm thức học sinh.
Đa số học sinh THPT tỏ ra không có hứng thú khi nghe lại thời đại lịch sử đã
qua. Học sinh thờ ơ với những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Số phận nhân vật,
tiếng nói tâm tình của tác giả ít gây được sự đồng cảm với chúng. Các em không
cảm nhận được hết cái hay, cái đẹp mà tác phẩm mang lại. Đây cũng là tình
trạng chung đối với những giờ học Văn trong nhà trường.
Thực trạng đáng buồn này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Do nhận thức
của học sinh về vấn đề học tập, việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai, sự bất
cập của chương trình và sách giáo khoa, sự nặng nề và cứng nhắc trong thi cử…

Hơn nữa, theo thời gian cuộc kháng chiến chống Mĩ đã đi vào quá vãng, cách xa
thời đại chúng ta đang sống nên những câu chuyện về thời chiến không còn đủ
sức hấp dẫn đối với thế hệ trẻ ngày nay. Ngày nay, các em chỉ được nghe về
chiến tranh hào hùng qua lời kể của ông bà hay trên phương tiện truyền thông
đại chúng. Nó không đủ sức hấp dẫn so với các cám dỗ của thời đại công nghệ
thông tin hiện nay. Học sinh có thể dành thời gian cả ngày để chơi game, lướt
website, Facebook nhưng để ngồi yên trước màn hình vô tuyến 30 phút để xem
phim tài liệu về chiến tranh là điều vô cùng khó khăn. Do đó, các em khó có thể
“nắm” được tư tưởng, không “cảm”, không “hiểu” được cái hay, cái đẹp từ tác
phẩm. Từ đó, dẫn đến việc dạy và học Văn học chống Mĩ trong trường THPT
chưa đạt được hiệu quả cao.
Hiện nay, phần lớn giờ dạy Văn trong nhà trường nhìn chung chưa thực sự
tạo được sức cuốn hút, nếu không muốn nói đa phần là nhàm chán, đơn điệu và
cứng nhắc đối với học sinh. Dường như đã thành thông lệ, giáo viên lên lớp là
phải thực hiện đầy đủ các bước: Từ việc kiểm tra sĩ số, kiểm tra bài cũ, lời dẫn
vào bài, giảng bài cho đến củng cố bài và hướng dẫn bài mới. Thiếu một bước
xem như tiết học không thành công. Quy trình dạy học này đảm bảo sự kĩ lưỡng,
chỉn chu cho tiết dạy nhưng nó lại làm giảm khả năng sáng tạo, hạn chế sự thăng
hoa của người thầy. Cho nên, người dạy không đủ thời gian đi sâu vào bài giảng
để truyền được khí thế sục sôi của cả một thời đại văn học khiến cho học sinh
chưa có được những ấn tượng sâu sắc về văn học chống Mĩ.

5


Năm học 2017 - 2018, tôi được nhà trường phân công giảng dạy 3 lớp 12
gồm: 12A1, 12A4, 12A7 trong đó 12A1, 12A4 là lớp có năng lực cảm thụ văn
chương kém hơn, 12A7 là lớp có khả năng cảm thụ tốt hơn. Qua quá trình giảng
dạy tôi nhận thấy kiến thức Ngữ văn 12 tương đối nhiều mà khả năng ghi nhớ
của học sinh còn hạn chế khiến các em “ngại” học, “chán” học. Chính những

điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng giáo dục của nhà trường, tác
động trực tiếp tới giáo viên đứng lớp như chúng tôi. Do đó, việc tập trung cho
chuyên môn luôn được đề cao. Làm thế nào để thu hút các em trong những giờ
học văn? Làm thế nào để cung cấp kiến thức vừa phù hợp đối tượng học sinh lại
vừa theo kịp được xu thế giáo dục chung của cả nước? Làm thế nào để nâng cao
chất lượng giáo dục? Đó là những nội dung “làm nóng” các buổi sinh hoạt
chuyên môn của Tổ, họp BGH mở rộng và Hội đồng giáo dục nhà trường.
Cả một giai đoạn lịch sử dần bị mai một, lãng quên. Cả một nền văn học
yêu nước bị phai mờ trước nền kinh tế thị trường, trước sức nặng của những trò
chơi, giải trí mới như Facebook, Zalo, Game....Giờ đây trong các buổi sinh hoạt
của các em, trong các cuộc nói chuyện của các em ko phải là lịch sử cha ông,
không phải là lòng yêu nước mà là vô vàn các câu chuyện của cuộc sống, của
tuổi mới lớn.
Cơ sở vật chất (sách báo, thiết bị, tư liệu, tranh ảnh văn học) tuy đã được
nhà trường trang bị nhưng vẫn chưa thể đầy đủ, đa dạng để đáp ứng hết nhu cầu
của từng bài dạy. Vậy nên, trong một số tiết dạy còn gặp khó khăn, nhất là với
đội ngũ giáo viên trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm như chúng tôi. Bên cạnh đó,
còn một số thầy cô ngại sử dụng thiết bị nên tiết dạy không đạt hiệu quả như
mong muốn.
Thực trạng đó đã thôi thúc tôi tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao chất
lượng dạy và học Ngữ văn trong các tác phẩm văn học kháng chiến chống Mĩ.
3. Một số biện pháp sử dụng.
3.1. Trình chiếu tư liệu, đặt câu hỏi gợi mở nhằm tạo hứng thú cho học sinh
Trực quan là một trong những hình thức dạy học cơ bản của môn Ngữ văn
nói chung bởi "trăm nghe không bằng một thấy". Tuy nhiên ở trường THPT hiện
nay, vấn đề này không được coi trọng bởi giáo viên chủ yếu sử dụng phương
pháp dạy học theo lối truyền thụ một chiều. Học sinh thường chỉ được nghe
giảng ít có cơ hội được nhìn, được xem hình ảnh, video. Trong quá trình dạy
học, tôi nhận thấy, học sinh tiếp nhận kiến thức bằng nhiều kênh: thị giác, thính
giác và xúc giác, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Do đó, để giúp

học sinh tiếp nhận tốt tác phẩm, tôi trình chiếu tranh ảnh và video xen kẽ vào bài
dạy một cách hợp lí nhằm tạo hứng thú và giúp ghi nhớ nhanh kiến thức cho các
6


em. Bên cạnh đó, tôi ổ chức các trò chơi, hỏi – đáp các kiến thức trong bài học,
có phần thưởng nho nhỏ kích thích sự hứng thú trong các em.
Văn chương là nghệ thuật ngôn từ, toàn bộ thế giới nghệ thuật trong tác
phẩm không hiện lên một cách trực tiếp như trong phim ảnh mà hiện lên gián
tiếp qua ngôn từ nên để hiểu được tác phẩm người đọc phải có khả năng liên
tưởng, tưởng tượng. Do đó, việc sử dụng phim tư liệu, chiếu video có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong giờ giảng Văn giúp học sinh có cái nhìn trực quan khi
học .
Ví dụ khi dạy tác phẩm "Rừng xà nu": Vào đầu tiết học thay cho việc
kiểm tra bài cũ, tôi cho học sinh theo dõi đoạn video ca nhạc “Tháng 3 Tây
Nguyên” [Nguồn ?] sau đó đặt câu hỏi gợi
mở dẫn dắt các em đến bài học mới, giúp học sinh tự khám phá những điều
chưa biết về vùng đất và con người nơi đây. Bởi mảnh đất Tây Nguyên trên
thực tế là nơi quá xa xôi. Vùng đất và con người Tây Nguyên chỉ được tái
hiện thông qua những bài học ít ỏi từ môn Lịch sử, Địa lí, không đủ để bổ
sung vào vốn hiểu biết còn hạn chế của học sinh. Do đó, việc trình chiếu
video sẽ giúp các em quan sát trực diện, hiểu biết hơn về Tây Nguyên anh
hùng trong kháng chiến chống Mĩ.
- Câu hỏi: Sau khi xem phim em có ấn tượng gì về mảnh đất Tây Nguyên.
- Học sinh dựa vào video trả lời câu hỏi, giáo viên dẫn dắt vào bài học: “
Tây Nguyên - chốn đại ngàn hoang vu, mảnh đất hút hồn người đọc bởi những
con đường đất đỏ hun hút, những đồi cà phê bạt ngàn, những thác nước hùng vĩ,
những rừng xà nu xa tít tắp đến tận chân trời. Tây Nguyên - mảnh đất của núi
rừng hoang sơ và những con người cần cù, chịu thương chịu khó. Tây Nguyên mảnh đất của đau thương mà anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, đã
thực sự trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ, trong đó có nhà văn

Nguyễn Trung Thành. Hôm nay, chúng ta sẽ tìm hiểu tiết 1 truyện ngắn Rừng xà
nu của ông để thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên và con người nơi đây”.
3.2. Sử dụng tranh ảnh kết hợp trong quá trình giảng dạy.
Để nâng cao chất lượng dạy và học đòi hỏi người giáo viên phải sử
dụng thành thạo các phương tiện dạy học, các phương tiện dạy học vừa là
nguồn cung cấp tri thức vừa là phương tiện minh họa cho bài học, vừa là
phương tiện để thực hiện các thao tác của quá trình dạy học, là nguồn kiến
thức khi nó được dùng để khai thác kiến thức, là phương tiện minh họa khi nó
chỉ được sử dụng để làm rõ nội dung đã được thông báo trước đó. Vì vậy,
ngoài sách giáo khoa và phim tư liệu, tôi chọn sử dụng tranh ảnh kết hợp với
hệ thống câu hỏi sao cho bài dạy đạt hiệu quả tối ưu nhất.
7


Tranh minh họa không chỉ dừng lại ở mức độ minh họa mà đã trở thành
công cụ nhận thức. Tranh ảnh được sử dụng linh hoạt trong quá trình dạy học.
Có thể đưa ngay ra lúc ban đầu để tạo tâm thế hứng thú cho học sinh, hoặc trong
quá trình phân tích văn bản đưa tranh minh họa để bổ sung, khắc sâu kiến thức.
Cũng có thể đưa tranh cho các em quan sát khi đã phân tích đầy đủ nội dung, ý
nghĩa văn bản nhằm mở rộng, liên hệ kiến thức. Nhưng cần lưu ý tránh đưa
tranh liên tục khiến cho học sinh mất tập trung.
3.3. Vận dụng kiến thức liên môn.
Đổi mới phương pháp dạy học là nhằm chú trọng phát triển năng lực của
học sinh. Định hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học trong
trường phổ thông nói chung và môn Ngữ văn nói riêng là phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh. Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học
xã hội, điều đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư
tưởng, tình cảm cho học sinh. Ngữ Văn còn là môn học thuộc nhóm công cụ.
Điều đó nói lên mối quan hệ giữa Ngữ văn và các môn khác. Học Ngữ văn sẽ có
tác động tích cực đến kết quả học tập các môn khác và các môn khác cũng góp

phần giúp học tốt môn Văn. Dạy và học theo hướng tích hợp, liên môn đang
được ứng dụng rộng rãi trong các trường THPT từ năm 2014.
Ví dụ khi dạy truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, ta có
thể tích hợp với phân môn Lịch sử ở chỗ nói về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:
Mùa hè năm 1965, đế quốc Mĩ đổ quân ào ạt đánh phá miền Nam Việt Nam bắt
đầu thực hiện chiến lược Chiến tranh cục bộ, liên tiếp mở hai cuộc phản công
lớn: chiến dịch mùa khô lần thứ nhất (1965-1966) và chiến dịch mùa khô lần thứ
hai (1966-1967). Quân và dân ta bắt đầu một cuộc chiến đấu mới vô cùng cam
go và ác liệt. Nguyễn Trung Thành viết “Rừng xà nu” như một biểu tượng cho
tinh thần đấu tranh anh dũng, kiên cường và truyền thống yêu nước, căm thù
giặc của con người Tây Nguyên, dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ
cứu nước.
Ta có thể tích hợp với môn Địa lí khi giới thiệu cho học sinh về vị trí địa
lí, điều kiện tự nhiên, đặc điểm địa hình với những nét độc đáo do thiên nhiên
ban tặng của vùng đất này thông qua Át lát Địa lí.
Ta có thể tích hợp với môn Công nghệ thông tin trình chiếu cho các em
xem thêm tuyển tập Những hình ảnh đẹp về Tây Nguyên qua trang Website:
để hiểu hơn lối sống và con người vùng đất Tây Nguyên.
Và có thể tích hợp với môn Giáo dục công dân khi ngợi ca những tấm
gương về lòng yêu nước, dũng cảm, gan dạ của con người Tây Nguyên những

8


năm chống Mĩ (Tnú, Mai, Dít). Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta từ xưa
đến nay.
4. Giáo án thực nghiệm bài “ Rừng xà nu” - Nguyễn Trung Thành ( Tiết 1)
TIẾT 63: ĐỌC VĂN

RỪNG XÀ NU

Nguyễn Trung Thành
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC: Giúp học sinh:
1. Kiến thức: Nắm vững đề tài, cốt truyện, các chi tiết, sự việc tiêu biểu và hình
tượng nhân vật chính; trên cơ sở đó nhận rõ chủ đề cùng ý nghĩa đẹp đẽ lớn lao
của thiên truyện.
- Thấy được tài năng của Nguyễn Trung Thành trong việc tạo dựng cho tác
phẩm một không khí đậm đà hương sắc Tây Nguyên; một chất sử thi bi tráng và
một ngôn ngữ nghệ thuật trau chuốt, kĩ càng.
2. Kĩ năng: Tìm hiểu truyện ngắn để thấy rõ phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Trung Thành.
3. Thái độ: Trân trọng và học tập những tấm gương cao đẹp như người anh hùng
Tnú.
II. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
- Sách giáo khoa, sách giáo viên
- Tài liệu tham khảo
- Tư liệu lịch sử, văn học, nghệ thuật
- Bài trình chiếu power point
- Các đồ dùng hỗ trợ: Máy projector, loa, màn hình, máy tính.
III. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
1. Ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh.
3. Bài mới:
KHỞI ĐỘNG:
GV cho HS xem đoạn phim ca nhạc : Tháng 3 Tây Nguyên, cho HS phát biểu ấn
tượng về đoạn video clip vừa xem.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ
NỘI DUNG CƠ BẢN
HS
Hoạt động 1 : Hướng dẫn tìm I. TÌM HIỂU CHUNG
hiểu chung

1. Tác giả
GV tổ chức trò chơi có - Tên khai sinh : Nguyễn Văn Báu ( 1932)
9


thưởng :
-4 em học sinh lên bảng có
nhiệm vụ trả lời các câu hỏi của
các bạn phía dưới.
- Các bạn học sinh phía dưới sẽ
đặt câu hỏi cho 4 bạn phía trên
trả lời. Các câu hỏi sẽ xoay
quanh cuộc đời và sự nghiệp
của nhà văn Nguyễn Trung
Thành.
- Lớp trưởng là thư kí ghi lại
kết quả trò chơi. Bạn nào trả lời
đúng nhiều câu hỏi nhất sẽ nhận
một phần quà.
- GV nhận xét, chốt vấn đê.

- Chiếu cho hs theo dõi đoạn
phim tư liệu : Chiến dịch Tây
Nguyên.
- GV nêu câu hỏi : Hoàn cảnh
ra đời và nội dung tác phẩm liên
quan tới những sự kiện lịch sử
nào trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ của dân tộc ta ?


-HS tóm tắt tác phẩm

- Năm 1950: Nhập ngũ, chiến đấu tại chiến
trường Tây Nguyên (1950 - 1954), làm phóng
viên báo Quân đội nhân dân, sáng tác văn học
với bút danh Nguyên Ngọc.
- Năm 1954: Tập kết ra Bắc.
- Năm 1962: Tình nguyện trở về chiến trường
miền Nam, hoạt động chủ yếu ở Quảng Nam và
Tây Nguyên; viết văn với bút danh Nguyễn
Trung Thành.
- Sau năm 1975: có nhiều hoạt động thúc đẩy
công cuộc đổi mới nước nhà.
* Tác phẩm: Đất nước đứng lên ; Trên quê
hương những anh hùng Điện Ngọc ; Đất
Quảng…
- Năm 2000 được tặng giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật.
2. Tác phẩm Rừng xà nu
a. Hoàn cảnh ra đời
- Ngày 8/ 3/1965, Mỹ đổ quân ồ ạt vào bãi
biển Chu Lai, bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ
ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền
Bắc.
- Dân tộc ta bước vào cuộc đối đầu một mất
một còn với đế quốc Mỹ.
Cảm hứng lịch sử, cảm hứng sử thi về cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc
b/ Tóm tắt
- Rừng xà nu được kể theo một lần về thăm

làng của Tnú sau 3 năm đi bộ đội. Đêm ấy, dân
làng quây quần bên bếp lửa nhà rông nghe cụ
Mết kể lại câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú
và cuộc đời của dân làng Xô man.
- Rừng xà nu là sự lồng quyện hai cuộc đời :
cuộc đời Tnú và cuộc đời làng Xô man. Hai
cuộc đời ấy đều đi từ bóng tối đau thương ra
ánh sáng của chiến đấu và chiến thắng, từ bàn
tay không đến bàn tay cầm vũ khí, dùng bạo
10


Hoạt động 2: đọc – hiểu văn
bản
- GV nêu câu hỏi : Trước khi
đến với hình tượng nghệ thuật
rừng xà nu trong tác phẩm, em
biết gì về loài cây này ?
GV cho HS xem đoạn phim tư
liệu về rừng xà nu.
- Cây xà nu xuất hiện như thế
nào trong tác phẩm? (ở những
vị trí nào của tp?)
- Nhận xét đoạn văn mở đầu và
kết thúc tác phẩm?
- Trong suốt tác phẩm, xà nu
luôn hiện diện trong cuộc sống,
tham dự vào mọi sự kiện trọng
đại của làng Xô Man. Hãy tìm
những chi tiết trong tác phẩm

chứng tỏ điều này.

lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách
mạng.
- Cốt truyện Rừng xà nu căng ra trong xung đột
quyết liệt một mất một còn giữa một bên là
nhân dân, một bên là kẻ thù Mỹ - Diệm. Xung
đột ấy đi theo tình thế đảo ngược mà thời điểm
đánh dấu là lúc ngọn lửa của lòng căm thù ngùn
ngụt cháy trên 10 đầu ngón tay Tnú.
II. ĐỌC –HIỂU
1.Hình tượng rừng xà nu (tên gọi khác của
thông ba lá)
* Đặc điểm tự nhiên :
+ Loại cây thân gỗ, họ thông, mọc thành rừng ở
Tây Nguyên
+ Cây xà nu có dáng mọc thẳng, tán lá vươn
cao, thân cây vạm vỡ, có sức sống mãnh liệt.
-> Loài cây đặc thù tiêu biểu của núi rừng
Tây Nguyên
* Sự xuất hiện của cây xà nu trong tác phẩm
- Mở đầu và kết thúc truyện là những đồi xà nu,
rừng xà nu nối tiếp nhau đến tận chân trời
-> tạo nên điệp khúc xanh, không gian xanh
của núi rừng đại ngàn bao trùm tác phẩm
-> thủ pháp trùng điệp, kết cấu đầu cuối tương
ứng, tạo không khí sử thi cho tác phẩm.
- Xà nu hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú
và làng Xô man:
+ Xà nu có mặt trong đời sống hàng ngày như

tự ngàn đời nay của dân làng:
++ ngọn lửa xà nu trong mỗi bếp,
++ trong đống lửa nhà ưng tập họp dân làng
++ đuốc xà nu cháy sáng soi đường đêm;
++khói xà nu xông bảng đen cho Tnú và Mai
học chữ…
+ Xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại
của dân làng Xô Man:
++Ngọn đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ Mết
11


HS đọc đoạn đầu tác phẩm
-Đoạn đầu tác phẩm tác giả
miêu tả cây Xà nu như thế
nào?
(đau thương mà cây xà nu
phải chịu đựng và phẩm chất
của nó)

THẢO LUẬN NHÓM:
Nhóm 1
-Tìm những chi tiết miêu tả nỗi
đau của Xà nu dưới làn bom
đạn của kẻ thù? Nêu ý nghĩa
biểu tượng?
Nhóm 2
- Tìm những chi tiết miêu tả
phẩm chất của cây xà nu?
(những phẩm chất gì) Nêu ý

nghĩa biểu tượng?

++ Đêm đêm làng Xô man thức giấc dưới ánh
đuốc xà nu mài vũ khí;
++ Giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm
nhựa xà nu;
++ Lửa xà nu cũng rực lên trong cái đêm làng
nổi dậy, soi rõ xác mười tên ác ôn bị giết nằm
ngổn ngang quanh đống lửa lớn giữa nhà
ưng…
-> Xà nu gắn bó với niềm vui, nỗi đau, giao
hòa, ứng chiếu với cuộc sống của người dân
người Tây Nguyên.
-> Được lặp lại nhiều lần trở thành 1 hình
tượng trung tâm gửi gắm ý đồ nghệ thuật của
nhà văn.
* Rừng xà nu trong bão táp chiến tranh
Cây xà nu
Làng Xô man
- Cây xà nu chịu Nằm trong sự hủy
nhiều đau thương, diệt bạo tàn của Mĩbởi sự tàn phá của Diệm
giặc:
Hứng chịu biết bao
+ Mở đầu tác phẩm, đau thương mất mát
nhà văn tập trung (cái chết của anh
giới thiệu cụ thể về Xút, bà Nhan, mẹ
rừng xà nu: "nằm con Mai, Tnú bị đốt
trong tầm đại bác 10 đầu ngón tay)
của đồn giặc", ngày
nào cũng bị bắn hai

lần, "Hầu hết đạn đại
bác đều rơi vào đồi
xà nu cạnh con nước
lớn".
 Nằm trong sự hủy
diệt bạo tàn, trong tư
thế của sự sống đang
đối diện với cái chết.
+ Cả rừng xà nu
hàng vạn cây không
12


cây nào không bị
thương....đặc quyện
thành từng cục máu
lớn…
+ Có những cây con
vừa lớn ngang tầm
ngực người .....năm
mười hôm thì cây
chết.
*Xà nu- loại cây ham Yêu tự do, trung
ánh sáng mặt trời, thành với cách mạng
hướng tới sự sống:
( làng Xô Man thay
Cũng có loại cây nhau nuôi giấu cán
ham ánh sáng mặt bộ. Cụ Mết nói: cán
trời đến thế. ....vô số bộ là Đảng, Đảng
hạt bụi vàng từ nhựa còn, núi nước này

cây bay ra thơm mỡ còn)
màng.
- Cây xà nu có sức Kiên cường, bất
sống mãnh liệt, kiên khuất chiến đấu và
cường anh dũng chiến thắng
không gì tàn phá nổi: (các thế hệ dân làng
+ Sức sinh sôi khỏe Xô Man tiếp nối
cạnh một cây xà nu nhau đứng lên bất
mới ngã gục đã có khuất, anh hùng
bốn năm cây con T nú thay anh Quyết
mọc lên, ngọn xanh Dít thay thế Mai
rờn, hình nhọn mũi Bé Heng tiếp bước
tên lao thẳng lên bầu những
người đi
trời,
trước)
+ Có những cây vượt
lên được cao hơn
đầu người, ... Chúng
vượt lên rất nhanh
thay thế những cây
- GV hỏi: Miêu tả rừng xà nu, đã ngã.
tác giả sử dụng những thủ pháp -> cây xà nu vừa mang ý nghĩa tả thực vừa
mang ý nghĩa biểu tượng
13


nghệ thuật nào?

* Nghệ thuật:

- Kết cấu độc đáo, thủ pháp trùng điệp mang
chất sử thi
- Sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa và ẩn dụ
- Biện pháp tả thực kết hợp tượng trưng
- Lời văn đậm chất sử thi
- Câu văn tạo hình, giàu nhạc điệu
Tiểu kết: Xà nu là một hình tượng ẩn dụ được
xây dựng theo thủ pháp nghệ thuật ứng chiếu
rừng cây – đời người, có ý nghĩa biểu tượng
cho đời sống, số phận và phẩm chất anh hùng
của con người Tây Nguyên. Đồng thời, cây xà
nu là một bức họa thiên nhiên núi rừng Tây
Nguyên với vẻ đẹp hùng vĩ và nên thơ, tạo
không khí sử thi cho tác phẩm.

IV. Củng cố:
- Có thể đặt tên cho tác phẩm là Tnú/ Làng Xô man, nhưng tác giả chọn Rừng xà
nu làm tên gọi cho tác phẩm. Theo em nhan đề này có những ý nghĩa nào ?
Dự kiến trả lời :
Rừng xà nu là nhan đề giàu sức khái quát, gợi mở:
- Gợi vẻ đẹp hùng tráng, man dại của núi rừng Tây Nguyên.
- Gợi lên vẻ đẹp của con người Tây Nguyên bất khuất, kiên cường.
Nhan đề Rừng xà nu mang nhiều tầng nghĩa: tả thực và tượng trưng. Hai lớp
nghĩa này xuyên thấm vào nhau, tạo khí vị Tây Nguyên đậm đà cho tác phẩm.
V. Hướng dẫn học bài
- Soạn tiết 64: Tập thể dân làng Xô Man
5. Kết quả thu được
5.1. Kết quả
Sau khi kết thúc tiết học tôi cho các em làm bài bài kiểm tra trắc nghiệm
10 phút. Thông qua kết quả bài kiểm tra tôi đánh giá mức độ hiểu bài và sự say

mê hứng thú với thời kì văn học này. Từ sự cố gắng của cô và trò tôi thu nhận
được kết quả điểm thi của học sinh như sau:
Lớp
Tổng số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
học sinh
12A1
43
10 (23,3%)
25(58,1%)
8(18,6%)
0
12A4

43

12 (27,9%)

18 (41,9%)

13 (30,2%)

0
14


12A7


44

20 (45,5%)

23 (54,5%)

0

0

Tổng

130

42 (32,3%)

66 (50,8%)

21 (16,9%)

0

5.2. Nhận xét chung
Từ thực tiễn dạy học tôi nhận thấy:
- Một số học sinh đầu năm còn đọc kém qua đầu học kì 2 năm đã đọc
thành thạo văn bản và tự tóm tắt được tác phẩm văn xuôi.
- Học sinh yêu thích văn học chiến tranh hơn và chủ động mượn tư liệu
trong thư viện về để tìm hiểu thêm.
- Nhiều em phát huy được tính sáng tạo khi làm bài kiểm tra và đạt điểm

cao.
- Đa số học sinh tích cực tham gia thảo luận trong tiết học tự chọn về
chủ đề chiến tranh.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Tìm ra những đặc trưng của văn học thời kháng chiến chống Mĩ về cả hai
mặt nội dung và nghệ thuật trên cơ sở đó tìm ra những biện pháp dạy học có
hiệu quả cho từng tác phẩm trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 12. Tức
là xác định được những hoạt động của thầy và trò trong giờ học từng tác phẩm.
Để những tác phẩm đó tác động tới thế hệ trẻ ngày nay, khiến thế hệ trẻ có được
sự hiểu biết đầy đủ và lòng tự hào về lịch sử dân tộc thời kì này.
Cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta đi qua hơn 40 năm, dù là quá
khứ chưa xa nhưng thế hệ trẻ ngày nay bao gồm cả giáo viên và học sinh không
phải đã có những hiểu biết đầy đủ về sự hi sinh, mất mát đớn đau và những
chiến công hào hùng của ông cha ta thời đánh Mĩ. Vì thế, nâng cao chất lượng
dạy học các tác phẩm văn học thời kì chống Mĩ ở trường THPT là điều cần thiết.
Muốn nâng cao chất lượng dạy học cần đưa ra những biện pháp cụ thể và có sự
kết hợp thực hiện đồng bộ của nhiều yếu tố, đối tượng trong đó hai đối tượng
quan trọng là người dạy (thầy cô giáo) và người học (học sinh).
Người giáo viên dạy văn không chỉ là người thầy mà còn là một nghệ sĩ
trên bục giảng. Thầy/cô phải truyền cho học sinh mình ngọn lửa, nhiệt huyết của
cuộc sống, tình yêu thương con người, yêu Tổ quốc, sống có trách nhiệm hơn
với bản thân, gia đình và xã hội; cùng học sinh trải qua nhiều cung bậc cảm xúc
khác nhau (buồn vui, yêu ghét, căm thù) qua tác phẩm văn học, giúp học sinh
thoát khỏi vùng trũng kiến thức, hướng đến hứng thú thích học môn Văn.
2. Kiến nghị.
Từ kết quả trên, tôi có một số kiến nghị sau:
15



Thứ nhất: Nhà trường luôn phải bổ sung vào thư viện nguồn tranh ảnh,
video, sách tham khảo về giai đoạn văn học này.
Thứ hai: Giáo viên Ngữ văn cần vận dụng phương pháp linh hoạt trong
quá trình dạy học. Ngoài ra, người dạy cần tìm hiểu, thu thập nhiều tài liệu, đặc
biệt kể các câu chuyện có thực về chiến tranh mình đã từng nghe, từng thấy
trong thực tế để tiết dạy sinh động, hấp dẫn hơn.
Thứ ba: Học sinh phải nỗ lực, cố gắng hơn nữa trong hoạt động học tập
bộ môn Ngữ văn nói chung, Văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ nói riêng.
Trên đây là một số kinh nghiệm có thể áp dụng để nhằm nâng cao chất
lượng dạy học các tác phẩm văn học chống Mĩ trong chương trình Ngữ văn 12.
Tuy nhiên chỉ là những ý kiến cá nhân được rút ra từ quá trình giảng dạy ở
trường THPT Lê Lợi. Trong thực tế còn có rất nhiều các kinh nghiệm từ các
đồng nghiệp. Rất mong sự đóng góp của các quý thầy cô để bản SKKN đạt được
hiệu quả cao trong thực tế giảng dạy
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ:

LỜI CAM ĐOAN:
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Thọ Xuân, ngày 20/05/2018
Người cam đoan:

Hoàng Thị Châm

TÀI LIỆU THAM KHẢO
16



[1]. Hà Minh Đức (1988), Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
[2]. Nhiều tác giả (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[3]. Nhiều tác giả, (2007), Những nhà thơ Việt Nam thời kì chống Mĩ, Nxb Kim
Đồng, Hà Nội.
[4]. Phan Trọng Luận (2008), Sách giáo khoa ngữ văn 12 tập 1-2 (cơ bản), Nxb
Giáo dục.
[5]. Phan Trọng Luận (2008), Sách giáo viên ngữ văn 12, Nxb Giáo dục.
[6]. Phan Trọng Luận (2008), Thiết kế bài học Ngữ văn 12, Nxb Giáo dục.
[7]. Nguyễn Kim Phong (2008), Kĩ năng đọc – hiểu văn bản 12, Nxb Giáo dục.
[8]. Sử dụng nhiều nguồn tư liệu trên mạng Internet.
[Nguồn />
17


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Hoàng Thị Châm
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường THPT Lê Lợi

TT
1.

2.

3.

4.


Tên đề tài SKKN

Sử dụng một số phương pháp theo đặc
trưng bộ môn để nâng cao hiệu quả kiểm
tra, đánh giá môn Ngữ văn ở bậc THPT
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua
đoạn trích “ Số phận con người” ( Sô-lôkhốp) bằng việc đổi mới phương pháp dạy
học và sử dụng những kĩ thuật dạy học
Khai thác hệ thống hình ảnh - một cách
tiếp cận hiệu quả trong dạy và học bài “
Đàn ghi ta của Lor-ca” ( Thanh Thảo)
Hành trình khám phá nhận thức về con
người của Nguyễn Khải qua truyện ngắn “
Một người Hà Nội”

Cấp đánh
giá xếp
loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

Ngành

C


2011

Ngành

B

2014

Ngành

C

2015

Ngành

C

2017

PHỤ LỤC
18


Một số hình ảnh về sinh hoạt văn hóa cộng đồng của đồng bào các dân tộc
Tây Nguyên.
19



Hình ảnh nhà Rông

Hình ảnh nhà dài của người Ê Đê

20


Hình ảnh rừng xà nu ở Tây Nguyên

Tây Nguyên gắn liền với những con đường đất đỏ, những thác nước hùng vĩ
và những đồi cà phê bạt ngàn với sắc trắng tinh khôi đẹp đến mê đắm lòng
người.

21



×