Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tích hợp giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc thái khi dạy bài “lời tiễn dặn” (tiễn dặn người yêu)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 32 trang )

1. Mở đầu ……………………………………………………….......…….
1.1. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………
1.2. Mục đích nghiên cứu ………………………………………….........
1.3. Đối tượng nghiên cứu ……………………………………………….
1.4. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………..
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm…………………………………….
2.1. Cơ sở lý luận ………………………………………………………..
2.2. Cơ sở thực tiễn ……………………………………………………..
2.3. Các biện pháp tích hợp giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc Thái cho
học sinh lớp 10 THPT ………………………………………………….
2.3.1. Tìm hiểu văn hoá dân tộc Thái qua phần chuẩn bị bài học “Lời tiễn
dặn”………………………………………………………………………
2.3.2. Tái hiện cảnh Anh tiễn Chị về nhà chồng trong đoạn trích “Lời tiễn
dặn”………………………………………………………………………
2.3.3. Một số biện pháp khác …………………………….…………….
2.4. Hiệu quả của sáng kiến …………………………………………….
3. Kết luận, kiến nghị …………………………………………………….
3.1. Kết luận……………………………………………………………….
3.2. Kiến nghị…………………………………………………………….
Tài liệu tham khảo……………………………………………………….
MỤC LỤC

Tran
g
1
1
2
2
2
3
3


3
5
5
9
11
14
15
15
15
16

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Văn học dân gian được ví như dòng suối mát lành tưới tắm, bồi đắp tâm
hồn mỗi người dân Việt Nam. Đó là kho tri thức đồ sộ, vô cùng phong phú về
mọi lĩnh vực của đời sống tự nhiên, xã hội, con người. Văn học dân gian còn
giáo dục đạo lí làm người, góp phần hình thành những phẩm chất tốt đẹp của
dân tộc từ bao đời nay. Đặc biệt, những tác phẩm văn học dân gian còn có giá trị
thẩm mĩ vô cùng to lớn. Dạy và học văn học dân gian là quá trình chúng ta tìm
về với cội nguồn dân tộc để cảm nhận những giá trị sâu sắc ấy. Hiểu được những
nét đặc sắc trong đời sống vật chất và tinh thần của người xưa từ đó nâng cao
lòng tự hào về truyền thống văn hóa của đất nước, góp phần lí giải các quy luật
phát triển của văn học. Trong nhà trường, di sản văn học này có khả năng bồi
dưỡng cho học sinh những năng lực, nhận thức thẩm mĩ, góp phần xây dựng
nhân cách con người, bồi đắp tâm hồn, tư tưởng, tình cảm ngày càng phong phú,
hoàn thiện. Từ niềm tự hào về văn hoá, văn học của dân tộc, mỗi học sinh sẽ
hiểu rõ hơn trách nhiệm của mình đối với việc gìn giữ và phát huy những di sản

vô giá ấy, trong đó có truyện thơ các dân tộc thiểu số.
Truyện thơ các dân tộc thiểu số là một thể loại văn học dân gian thuộc loại
hình tự sự, bao gồm những tác phẩm có hình thức văn vần, được kể, được hát,
được ngâm, đọc (kể cả trước và sau khi đã được ghi chép) và thường có nội
dung thể hiện thân phận con người và cuộc sống lứa đôi.
Trong số tám dân tộc có truyện thơ xuất bản, ba dân tộc có nhiều truyện
thơ nhất là Thái, Tày, Mường. Truyện thơ được công bố sớm nhất, nhiều lần
nhất và có nhiều bản dịch nhất là “Tiễn dặn người yêu” (Xống chụ xon xao) của
người Thái. Về truyện thơ này, khi bàn về văn học dân gian các dân tộc thiểu số
Việt Nam, PGS. TS. Lê Trường Phát đã viết: “Nếu cần một tác phẩm văn học cổ
truyền để đặt lên đó vòng nguyệt quế vinh quang thì không tác phẩm nào sánh
được với Xống chụ xon xao”.
Đối với truyện thơ của người Thái, mà đặc biệt là nói về cái hay cái đẹp,
sức lôi cuốn của Tiễn dặn người yêu, từ xưa nhân dân đã có câu ví: “Hát Tiễn
dặn lên, gà ấp phải bỏ ổ, cô gái quên hái rau, anh đi cày quên cày”. Đối với
những dân tộc đã có chữ viết như Thái, Tày, Chăm, họ ghi chép truyện thơ. Ở
người Thái, người ta chép bằng bút lông, mực nho trên giấy rướng (một loại
giấy dó, do nhân dân địa phương tự sản xuất): “Thời trước, nhiều người cạy cục
tìm người chép hộ Xống chụ xon xao và trả công chép bằng giá một con trâu.
Gia tài cha mẹ để lại cho con cái, trong những vật quý nhất có khẩu súng và
quyển sách; quyển sách quý nhất trong mọi quyển sách quý là Xống chụ xon
2


xao. Lúc kháng chiến, nhiều gia đình tản cư phải bỏ lại cả nồi niêu, chăn đệm
nhưng sách Xống chụ xon xao thì sống theo người, chết theo người, nhất định
không bỏ lại. Những người phải ở lại vùng địch tạm chiếm thì giấu sách vào
hang tránh địch đốt phá thiêu huỷ” (Nguyễn Xuân Kính).
Tuy nhiên, hiện nay việc tiếp nhận một tác phẩm truyện thơ các dân tộc
thiểu số đối với học sinh THPT gặp rất nhiều khó khăn. Tình trạng nắm bắt tác

phẩm một cách chung chung, mơ hồ, thậm chí không hiểu tác phẩm đó nói về
cái gì ngày càng phổ biến ở các em học sinh. Vì vậy việc dạy truyện thơ các dân
tộc thiểu số nói chung và bài “Lời tiễn dặn” (trích Tiễn dặn người yêu) nói riêng
quả thực là vấn đề đáng suy nghĩ của các nhà giáo dục. Làm thế nào để mỗi giờ
giảng văn, người giáo viên không chỉ cung cấp cho học sinh những vốn hiểu biết
văn học mà còn lôi cuốn các em sống với những tâm tư, tình cảm, những suy
nghĩ, buồn vui của con người, trân trọng và gìn giữ những bản sắc văn hoá của
dân tộc, từ đó hoàn thiện nhân cách, làm phong phú tâm hồn, cách nhìn cách
nghĩ trước cuộc sống hiện tại. Bởi vậy có thể nói, để hiểu một cách sâu sắc và
toàn diện tác phẩm này, người dạy và người học phải đặt văn bản vào bối cảnh
văn hoá của đồng bào dân tộc Thái – nơi tác phẩm được sản sinh. Đó cũng là lí
do thôi thúc người viết chọn sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: Tích hợp giáo
dục bản sắc văn hoá dân tộc Thái khi dạy bài “Lời tiễn dặn” (Tiễn dặn người
yêu) đối với học sinh lớp 10 THPT.
Đây là vấn đề thiết thực đối với nghề nghiệp, bởi qua bài viết, người viết
muốn trình bày một số biện pháp nhằm tạo nên hứng thú, sự tích cực, chủ động
cho học sinh khi tiếp cận các tác phẩm văn học dân gian, góp phần nâng cao
chất lượng dạy học văn cho học sinh THPT, đặc biệt giúp các em biết yêu hơn,
trân trọng hơn với di sản văn hóa mà ông cha để lại.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Điều tra, khảo sát việc dạy học văn học dân gian, đặc biệt thể loại truyện
thơ của đồng bào dân tộc thiểu số nhằm phát hiện những khó khăn, trở ngại,
những tồn tại của học sinh và giáo viên khi dạy và học phần văn học này. Từ đó,
vận dụng tích hợp giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc Thái làm cơ sở cho việc rút
ngắn khoảng cách tiếp nhận, khơi gợi hứng thú học tập cho học sinh lớp 10
THPT khi tiếp cận bài “Lời tiễn dặn” (Tiễn dặn người yêu).
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài lấy những khoảng cách tiếp nhận mà học sinh gặp phải khi học
phần văn học dân gian Việt Nam, đặc biệt là bài “Lời tiễn dặn” (Tiễn dặn người
yêu) làm đối tượng nghiên cứu từ đó đề xuất biện pháp nhằm tích hợp giáo dục

văn hoá dân tộc Thái cho học sinh lớp 10 THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra, phỏng vấn
- Thống kê, đối chiếu, trao đổi kinh nghiệm
- Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp tài liệu
- Thực nghiệm sư phạm và tổng kết kinh nghiệm
3


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
a. Những khó khăn khi tiếp nhận thể loại truyện thơ của đồng bào
dân tộc thiểu số.
Nhận xét về thể loại truyện thơ, GS.Phan Đăng Nhật kết luận: “Truyện
thơ đánh dấu một bước phát triển cao của văn học cổ truyền các dân tộc thiểu số.
Ở loại hình này, các dân tộc đã đạt được những thành tựu xuất sắc về chất lượng
cũng như về số lượng. Truyện thơ đã tập hợp tinh hoa các loại, thể văn học,
đồng thời cũng ảnh hưởng sâu sắc đến các loại, thể phát triển sau nó”.
Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại với nền kinh tế thị trường, sự hội nhập
quốc tế và toàn cầu hóa, sự phát triển của công nghệ thông tin, tư tưởng dân chủ
và bình đẳng trong cuộc sống,... đã chi phối đến hiệu quả việc giảng dạy văn học
nói chung và truyện thơ nói riêng, đến cả người dạy và người học.
Bên cạnh đó, cách nói, cách cảm, cách nghĩ của đồng bào dân tộc thiểu số
có những đặc trưng riêng mà không phải người học nào cũng có thể hiểu một
cách sâu sắc, đầy đủ. Quan niệm về bản thân, về xã hội và về các giá trị nhân
sinh có những điều khác biệt.
Trong khi đó, tác phẩm văn học của đồng bào dân tộc thiểu số lại không
nhiều, tồn tại tản mát, “tam sao thất bản”, hầu hết tồn tại dưới dạng văn bản
truyền miệng. Nếu không có vốn hiểu biết về văn hoá, phong tục của đồng bào
thì cả người dạy và người học đều rất khó để tiếp nhận tác phẩm.

b. Lý thuyết về dạy học tích hợp trong môn Ngữ Văn
Khi giải quyết một vấn đề trong thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên và xã hội,
đòi hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp, liên quan đến nhiều môn
học. Vì vậy, dạy học cần phải tăng cường theo hướng tích hợp, liên môn. Một
trong những phương pháp dạy học tích hợp có hiệu quả là đưa những nội dung
giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học các môn học như: tích hợp giáo dục
văn hoá, đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về
biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ
môi trường, an toàn giao thông...
Việc vận dụng Phương pháp dạy học (PPDH) tích hợp là một trong những
cơ sở đánh giá hiệu quả của một tiết dạy về mặt phương pháp.
Khi dạy bài “Lời tiễn dặn” (Tiễn dặn người yêu - Xống chụ xon xao),
người dạy có thể tích hợp giáo dục bản sắc văn hoá của người dân tộc Thái. Đây
sẽ là nền tảng quan trọng để người học tiếp cận một văn bản truyện thơ của
người dân tộc thiểu số và bồi dưỡng tình yêu, vốn hiểu biết, ý thức trân trọng và
gìn giữ nét đẹp văn hoá các dân tộc trên đất nước Việt Nam.
4


2.2. Cơ sở thực tiễn
a.Thực trạng học sinh
Khoảng cách tiếp nhận là khoảng trống của bạn đọc - học sinh THPT về
một nền văn hóa (gồm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của con người)
được miêu tả trong tác phẩm văn chương nghệ thuật. Nói cách khác, đây là
những khó khăn, vướng mắc mà học sinh THPT gặp phải khi tiếp nhận một tác
phẩm là truyện thơ của đồng bào dân tộc thiểu số.
Để có cái nhìn toàn diện về thực trạng dạy - học văn tác phẩm của người
dân tộc thiểu số và truyện thơ “Tiễn dặn người yêu” nói riêng, người viết đã sử
dụng phiếu trắc nghiệm để đánh giá mức độ hiểu biết cũng như hứng thú của
học sinh THPT với phần văn học này. Việc khảo sát được tiến hành trên hai lớp

10C4,10C2 ở trường THPT Như Xuân (Nội dung phiếu khảo sát được trình bày
ở phần Phụ lục). Kết quả thu được qua phiếu trắc nghiệm, cho thấy:
Đa phần học sinh không có hứng thú với phần văn văn bản này, có rất
nhiều lí do, như:
- Học sinh ngày nay có vốn hiểu biết về bản sắc văn hoá của dân tộc rất
hạn chế, đặc biệt là văn hoá vùng cao vốn có một khoảng cách nhất định đối với
đại đa số các em học sinh ở miền xuôi, ở thành phố.… Điều này là một nguyên
nhân làm giảm đi sự yêu thích, hứng thú ở các em
- Học sinh còn học tập một cách khuôn mẫu, thụ động, chưa phát huy tính
chủ động, tích cực khi tiếp cận tác phẩm. Một bộ phận giáo viên cũng xem nhẹ
tầm quan trọng của phần văn học dân gian Việt Nam, những lí do này khiến
truyện thơ các đồng bào dân tộc thiểu số trở thành một món ăn tinh thần thiếu
tính hấp dẫn với cả người dạy lẫn người học.
Trong đó phải kể đến nguyên nhân khoảng cách văn hoá khá lớn, khiến
không chỉ học sinh mà cả giáo viên cũng khó hình dung được bối cảnh tác phẩm
ra đời, khó nắm bắt được những quan niệm cũng như suy nghĩ của tác giả, từ đó
hạn chế trong tiếp nhận và cảm thụ những giá trị quý báu của các tác phẩm văn
học này.
b. Thực trạng giáo viên
Văn học dân gian Việt Nam, nhất là truyện thơ không phải là mảng kiến
thức mới mẻ, nhưng cũng chưa thu hút sự đầu tư toàn diện, đồng đều của đội
ngũ giáo viên, bởi:
- Phần nhiều những tác phẩm văn học dân gian có thời lượng dạy học
chưa tương xứng với vị trí, vai trò của mình trong toàn bộ tiến trình phát triển
của văn học. Nhiều bài bị lược bỏ, trong đó bài “Lời tiễn dặn” (trích Tiễn dặn
người yêu) đã chuyển sang phần đọc thêm… Đây là một phần lí do khiến bộ
phận này chưa được quan tâm thực sự.
- Phần văn học dân gian không nằm trong cấu trúc đề thi THPT quốc gia,
đây là một trong những lí do quan trọng khiến nhiều giáo viên có xu hướng xem
nhẹ.

Chính những lí do cơ bản ấy khiến cho bài “Lời tiễn dặn” hầu hết được
dạy qua loa, chiếu lệ, ít đầu tư thời gian, công sức, trí tuệ để đổi mới. Vì vậy,
5


học sinh đã không hứng thú lại khó khăn khi tiếp nhận, điều này dẫn đến việc
học văn một cách nhàm chám, kém thú vị.
Những tác phẩm truyện thơ của người dân tộc Thái là di sản quý giá của
nền văn học nói riêng và nền văn hoá Việt Nam nói chung. Những sáng tác này
không chỉ cung cấp cho chúng ta cái nhìn sâu sắc, chân thực về đời sống các dân
tộc mà còn góp phần thúc đẩy sự pháp triển của văn học viết. Thiết nghĩ với
tầm quan trọng như thế, việc tìm ra những biện pháp phù hợp để khơi gợi hứng
thú cho học sinh khi tiếp cận các tác phẩm này là một điều rất có ý nghĩa.
2.3. Các biện pháp tích hợp giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc Thái
cho học sinh lớp 10 THPT khi dạy bài “Lời tiễn dặn”.
2.3.1. Tìm hiểu văn hoá dân tộc Thái qua phần chuẩn bị bài học “Lời
tiễn dặn”.
Để có một tiết học thành công, phần chuẩn bị bài của thầy và trò vô cùng
quan trọng. Trước khi học bài “Lời tiễn dặn”, giáo viên phân công nội dung tìm
hiểu cho học sinh, tập trung vào các vấn đề sau:
* Tìm hiểu khái quát về dân tộc Thái ở Việt Nam
Dân tộc Thái là một trong 54 dân tộc có mặt, sinh sống trên đất nước Việt
Nam từ hơn 1000 năm trước trong các cuộc thiên di trong lịch sử. Dân tộc Thái
ở Việt Nam có số dân đứng thứ 3 cả nước sau người Kinh và người Tày với số
dân hơn 1,3 triệu người, chủ yếu sống ở vùng núi phía Tây Bắc và các tỉnh
Thanh Hóa, Nghệ An. Trải qua hàng trăm năm sinh sống và lao động sản xuất,
người dân tộc Thái đã tạo dựng nên được những nét văn hóa độc đáo và đặc sắc
cho dân tộc và vùng miền, với những nét đặc sắc về bản sắc văn hóa kiến trúc
nhà ở, trang phục thổ cẩm, văn hóa ẩm thực, phong tục tập quán, chữ viết,
truyền thống lao động sản xuất vật chất… Tất cả góp phần làm nên sự phong

phú và đa dạng của văn hóa Việt Nam.
Người Thái có mặt ở Việt Nam có ngôn ngữ và chữ viết riêng. Người Thái
nói các thứ tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ gốc Thái, thuộc ngôn ngữ Thái – Kadai.
Trong nhóm này có tiếng Thái của người Thái Lan, tiếng Lào của người Lào,
tiếng Shan của người Myanmar và tiếng Choang ở miền Nam Trung Quốc. Tại
Việt Nam chúng ta, 8 dân tộc ít người, bao gồm Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán
Chay, Tày, Thái đều được xếp chung là nhóm ngôn ngữ Thái. Người Thái cư trú
ở một số tỉnh chủ yếu sau đây tại Việt Nam: Hòa Bình, Lai Châu, Điện Biên,
Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An. Người Thái ở 8 tỉnh này chiếm
97,6% dân số. Theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Thái ở nước
ta có 1.550.423 người, là dân tộc đứng thứ 3 về dân số tại Việt Nam. Con số
thống kê này so với 10 năm trước, năm 1999 tăng hơn 200.000 người. Đó là một
tỉ lệ tăng vừa phải trong cộng đồng cư dân các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
* Tìm hiểu tục ở rể của người Thái
Để hiểu được những gian truân, trắc trở của nhân vật Anh và Chị trong
đoạn trích “Lời tiễn dặn”, giáo viên và học sinh cần được tìm hiểu một trong
những phong tục rất lâu đời của người Thái, đó là tục ở rể.
6


Chàng trai Thái khi đến tuổi lấy vợ sẽ tự đi tìm người con gái mà mình
ưng ý, sau đó được bố mẹ nhờ một ông mối đến nhà cô gái để làm mối. Nếu gia
đình cô gái ưng ý, chàng trai sẽ bắt đầu cuộc đời ở rể.

Chàng trai đem lễ vật đến nhà cô gái xin ở rể. Nguồn internet.

Chọn ngày lành tháng tốt, bố mẹ chàng trai chuẩn bị sính lễ để chàng trai
đến nhà cô gái ở rể. Lễ vật gồm: một chiếc áo, một con gà mổ sẵn, một gói cơm,
một chai rượu và một cái “Toong bai”- dụng cụ “đựng vía” được làm bằng một
sợi dây mây, một đầu được cuộn xoắn lại. “Toong bai”, theo quan niệm của

người Thái là để cho vía chú rể trú ngụ ở đó. Ông mối sẽ là người trực tiếp đưa
chàng trai đến nhà cô gái. Sau khi kiểm xong lễ vật, nhà gái đưa lễ vật lên bàn
thờ để báo cho tổ tiên biết nhà đã có chàng rể. Trong thời gian ở rể, chàng trai
được đối xử như một thành viên của gia đình. Công làm việc hàng năm của
chàng rể được quy ra bạc trắng hoặc hiện vật cưới sau này.
Tục ở rể thường (ở rể tạm thời): Chú rể ở cho đến ngày cưới thì thôi,
thường là mười lăm ngày, bởi vì ngày cưới cũng không xa. Đây là tục ở rể của
con nhà giàu, ở cho có lệ. Có nơi chàng rể không sang ở mà cho “côn hươn”
(người làm trong nhà) sang ở rể thay.
Ở rể định ngày: khoảng vài ba năm, việc này do nhà gái định. Đây là
những chàng rể ít tiền của, phải ở làm công để thế của, chàng rể này được coi
như con trai trong gia đình.
Ở rể lâu dài: tục ở rể này không định kỳ. Đây là những chàng rể nghèo, ở
để làm công cho cha mẹ vợ và cũng để nhà gái thử thách khả năng lao động, thử
thách khả năng cáng đáng mọi công việc trong gia đình. Dù là chàng trai nào,
7


khi ở rể cũng không được ăn cơm cùng mâm với mẹ vợ và các chị dâu, chị gái,
em dâu, em gái trong gia đình vợ. Khi chưa được chính thức là chồng cô gái,
chàng rể phải ngủ riêng ở gian ngoài.
* Tìm hiểu tục cưới hỏi của người Thái
Một trong những phong tục nữa của người Thái được phản ánh trong đoạn
trích “Lời tiễn dặn”, đó là tục cưới hỏi.
Theo truyền thống, việc cưới hỏi là việc hệ trọng của cả đời người nên
được cả cộng đồng và các gia đình rất coi trọng. Con trai, con gái dân tộc Thái,
khi trưởng thành, muốn lấy vợ lấy chồng đều được tự do tìm hiểu, ít có sự sắp
đặt của cha mẹ. Đồng bào quan niệm con trai muốn lấy vợ thì phải chăm chỉ lao
động, đặc biệt là đan lát. Con gái thì phải biết thêu khăn piêu, biết dệt vải. Khi
đôi nam nữ đã thương nhau, muốn nên vợ chồng, nhà trai cho bà mối với 1

người bà con trong họ hàng mang lễ vật gồm chuối và mía sang nhà gái dạm hỏi,
xin cho con trai mình được đi lại bên nhà gái để tìm hiểu. Người con trai nếu
ưng người con gái phải đi làm rể (tục ở rể ).

Theo phong tục người Thái đen, cô dâu làm lễ búi tóc “Tằng cẩu”. Nguồn internet.

Qua thời gian thử thách, nếu ưng ý nhà gái sẽ gửi lời báo cho nhà trai ðã
ưng thuận người con trai và đồng ý cho tổ chức lễ thành hôn. Nhà trai sẽ chọn
ngày lành tháng tốt cho ông mối, bà mối cùng một số người đại diện nhà trai
sang nhà gái làm lễ ăn hỏi (gọi là vay trai). Đồ lễ là một con lợn 20 kg, 1 đôi gà
trống, mái để nhà gái thờ cúng tổ tiên, 10 lít rượu, 10 kg gạo nếp để làm cỗ mời
họ hàng gia đình bên nhà gái. Mai mối hai bên bàn bạc chọn ngày lành tháng tốt
để tổ chức lễ cưới.
8


Theo phong tục, khi tổ chức lễ cưới nhà trai sẽ phải mang đến nhà gái 1 đôi gà, 1 đôi
tóc độn, 1 đôi vòng, 1 trâm cài bằng bạc, 4 sải vải khít (tức là vải thổ cẩm dệt bằng tay).
Những thứ này được hai người phụ nữ có cuộc sống gia đình hạnh phúc bên nhà trai mang
đến trước hôm tổ chức cưới làm lễ khửn cảu cho con dâu (tức là làm lễ búi tóc giữa đỉnh đầu).
Búi tóc lên giữa đỉnh đầu là dấu hiệu người phụ nữ đã có chồng. Ngày hôm sau đoàn nhà trai
sẽ mang một con lợn từ 70 đến 80 kg, rượu 70 lít, gạo 70 kg tùy theo lượng khách nhà gái
nếu nhiều thì phải mang nhiều. Ngoài ra không thể thiếu 2 đôi gà, cùng các đồ lễ khác gọi là
tánh hắp hó gồm một gói muối, một gói gừng, một gói trầu cau, một gói thuốc lào, một gói cá
(2 con). Số lượng tánh hắp hó nhiều hay ít là tùy thuộc bên nhà gái yêu cầu. Ngoài ra còn có
tiền công nuôi dưỡng người con gái nhà trai phải trả cho bên nhà gái. Số tiền này tùy thuộc
vào 2 bên gia đình bàn bạc thống nhất. Có một số nơi tiền công nuôi dưỡng sẽ là 5 đồng tiền
bạc trắng. Tất cả các lễ vật đều được bàn giao cho bên nhà gái và đặt trước bàn thờ để ông
mối báo cáo với tổ tiên..


Áo Coóng và lễ vật tặng cô dâu. Nguồn internet.

Sau lễ cưới, người con trai tiếp tục ở rể (thời gian tùy từng gia đình), sau
đó bên nhà trai mới mang lợn, rượu, gạo để tổ chức lễ xin đón dâu về nhà chồng.
Lúc đó, bố mẹ vợ chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng sử dụng trong gia đình cho con
gái như: dao, súng, chăn đệm, khăn piêu, các con giống, hạt giống, xoong, nồi,
bát, đũa... Những đồ lễ này sẽ được giao cho bên gia đình nhà chồng khiêng về
và làm lễ nhập gia cho cô dâu. Nhà trai lại tổ chức cỗ đông vui mời bà con hai
họ, bạn bè đến ăn chúc phúc cho đôi vợ chồng.
Tuy nhiên, nhân vật Anh và Chị trong đoạn trích “Lời tiễn dặn” phải chịu
nhiều bất công, ngang trái bởi cha mẹ cô gái tham phú phụ bần. Chỉ vì khinh
Anh nghèo hèn, nên khi Anh nhờ người làm mối dẫn đến cho xin ở rể thì cha mẹ
9


cô gái gạt phắt. Ngược lại, vì tối mắt trước tiền bạc, họ lại bằng lòng cho một
người đàn ông lạ ở rể dù cho người này cư xử thiếu lễ độ, ứng xử lại hèn hạ.
Anh vì vậy mà đau khổ bỏ nhà đi, quyết làm giàu rồi sẽ trở về cưới Chị. Nhưng
khi Anh trở về, cũng là lúc người đàn ông kia hết hạn ở rể. Chị đã thuộc về
người khác. Anh đau đớn đi theo tiễn dặn người yêu đã cùng gắn bó từ lâu.
2.3.2. Tái hiện cảnh Anh tiễn Chị về nhà chồng trong đoạn trích “Lời
tiễn dặn”
“Tiễn dặn người yêu” là câu chuyện kể về sự trắc trở trong tình yêu và
hôn nhân của đôi bạn tình người Thái. Hai người làm bạn với nhau từ nhỏ. Lớn
lên lại yêu thương gắn bó nhưng lại không lấy được nhau vì gia cảnh của Anh
quá nghèo hèn. Chị bị cha mẹ gả cho một nhà giàu rồi tiếp tục Chị lại bị bán vào
cửa quan. Cuối cùng tàn tạ, chị bị đem ra chợ bán. Lúc ấy đâu ngờ, Anh đã
“mua” được Chị với giá chỉ bằng một cuộn dong. Cuối cùng họ nhận ra nhau rồi
về sống với nhau cho trọn lời ước cũ : “Không lấy được nhau mùa hạ, sẽ lấy
nhau mùa đông. Không lấy nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già”.

Lời tiễn dặn là đoạn trích miêu tả rất rõ tâm trạng của Anh trên đường tiễn
Chị về nhà chồng và phải chứng kiến cảnh khi ở nhà chồng, Chị bị chính người
chồng đánh đập.
Để học sinh có thể cảm nhận sâu sắc nỗi đau đớn, tiếc nuối cũng như tình
yêu tha thiết mà Anh dành cho Chị, giáo viên có thể tổ chức cho các em tái hiện
cảnh Anh đi theo tiễn dặn Chị về nhà chồng. Từ đây, các em có thể thấy được
tình yêu thuỷ chung, son sắt là một nét văn hoá đẹp trong tâm hồn người dân tộc
Thái.
* Tổ 1 tái hiện hình ảnh chàng trai trên đường tiễn người yêu về nhà
chồng
Phải tiễn người yêu về với nhà chồng, lòng Anh vô cùng đau xót. Thế
nhưng trên đường đưa tiễn, Anh gọi chị là “người đẹp anh yêu”, khẳng định tình
yêu trong Anh vẫn còn thắm thiết. Nhưng cũng có lúc, tình cảm của Anh mâu
thuẫn với hiện thực khách quan là Chị đang “cất bước theo chồng” (thậm chí đã
có con với chồng). Lúc tiễn đưa, Anh có những cử chỉ, hành động dường như
muốn níu kéo cho dài giây phút được ở thêm bên Chị. Anh phải được dặn Chị
đôi câu thì mới “đành lòng” quay gót. Anh muốn ngồi lại bên Chị, âu yếm Chị
để “ủ lấy hương người” cho mai sau “khi chết”, lửa xác (của mình) vẫn đượm
hơi người thương yêu. Anh nựng con Chị mà như nựng chính con mình. Cách
ứng xử ấy nói lên tình thương yêu vô bờ mà Anh dành cho Chị.
* Tổ 2 tái hiện hành động, tâm trạng của cô gái trên đường về nhà
chồng
Đoạn thơ là lời của Anh, vì thế tâm trạng của Chị chỉ là gián tiếp. Tuy
được biểu hiện qua ánh mắt và suy nghĩ của Anh, thế nhưng, chúng ta vẫn có thể
tái hiện được những hành động và tâm trạng của Chị trên đường về nhà chồng.
Chị dường như cũng muốn níu kéo cho dài ra những giây phút cuối cùng ở bên
Anh. Chị chân bước đi mà đầu “còn ngoảnh lại” mắt còn “ngoái trông anh”,
10



chân bước càng xa thì lòng càng đau đớn,… chính từ các tâm trạng ấy mà cứ
mỗi lần qua một cánh rừng chị đều lấy đó là cái cớ để mà dừng lại đợi chờ Anh.
* Tổ 3 tái hiện thái độ, cử chỉ ân cần của chàng trai đối với cô gái
trong những ngày anh còn lưu lại ở nhà chồng của cô
Văn bản này đã lược đi đoạn mà Chị bị chồng đánh ngã lăn ra bên miệng
cối gạo, bên “máng lợn vầy”.
Đoạn trích bắt đầu từ hành động chạy lại nâng đỡ chị dậy, phủi áo, chải
tóc cho chị của Anh. Sau đó, Anh còn đi chặt tre về làm ống lam thuốc cho chị
“uống khỏi đau”. Những hành động ấy rõ ràng biểu lộ niềm xót xa thương cảm
của Anh đối với nỗi đau của Chị. Một sự cảm thông, đó là điều mà Chị đang rất
cần trong hoàn cảnh ấy.
Từ nỗi xót xa, trong lòng Anh bỗng bật lên ý chí quyết tâm đưa Chị về
đoàn tụ với mình. Từ câu thơ “Tơ rối đôi ta cùng gỡ” đến hết đoạn chính là
những câu thơ thể hiện cho cái ý chí và quyết tâm ấy.
* Tổ 4 tìm những từ ngữ, hình ảnh, cách ví von mang đặc trưng của
người dân tộc Thái có trong đoạn trích
Mỗi dân tộc có những nét đặc sắc riêng trong cách sử dụng ngôn ngữ, lựa
chọn lối diễn đạt,… Vì vậy, người học phải nhận diện được những đặc trưng ấy
trong văn bản.
- Truyện thơ của dân tộc Thái sử dụng phương pháp trùng điệp như một
phương pháp phổ biến, đặc thù. Một hành động, một tâm trạng ít khi chỉ được
diễn tả bằng một hình ảnh mà luôn có sự lặp lại của nhiều hình ảnh theo một cấu
trúc ngữ pháp nhằm khắc hoạ sâu sắc nội dung diễn tả. Tác giả dân gian muốn
nhấn mạnh sự thuỷ chung son sắt trong tình yêu của đôi bạn trẻ. Nó cũng đồng
thời khẳng định cái ý chí và ước mơ đoàn tụ không gì lay chuyển nổi của Anh và
Chị. Chọn cách diễn đạt như vậy, tác giả dân gian đã mã hoá ngôn ngữ một cách
thành công những cảm xúc đang trào dâng mãnh liệt trong lòng của những con
người sống chất phác, mạnh mẽ giữa thiên nhiên núi rừng cường tráng. Điều đó
tạo tính chất phô diễn, giãi bày đậm chất trữ tình đồng thời tạo sự cân đối, nhịp
nhàng, hài hoà về nhạc điệu:

- Vừa đi vừa ngoảnh lại
Vừa đi vừa ngoái trông…
- Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,
Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,
Tới rừng lá ngón ngóng trông.
- Chết ba năm hình con treo đó
Chết thành sông vục nước uống mát lòng
…Chết thành hồn, chung một mái song song.
- Yêu nhau , yêu trọn đời gỗ cứng
Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già…
- Trong thơ ca dân gian, người Thái hay nhắc đến cái chết. Đó là một thủ
pháp nghệ thuật để biểu hiện ý chí quyết bảo vệ tình yêu đến cùng. Cái chết là
giới hạn cuối cùng của thử thách, nhưng "cái chết" cũng chỉ là cách biểu hiện
11


quyết tâm (thực chất người trong cuộc không nghĩ đến cái chết và quả thực trong
truyện này hai người đã quyết sống một cách mạnh mẽ và họ đã tìm lại được
tình yêu):
Chết ba năm hình còn treo đó;
Chết thành sông, vục nước uống mát lòng,
Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,
Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung,
Chết thành muôi, ta múc xuống cùng bát,
Chết thành hồn, chung một mái, song song.
- Phương pháp so sánh được sử dụng đậm nét trong phần kết của đoạn
trích. Hình ảnh so sánh được chọn lọc đa dạng, biểu hiện phong tục, bản sắc văn
hoá tinh thần, cảnh sắc thiên nhiên dân tộc Thái. Lấy thiên nhiên để so sánh, để
giãi bày tâm trạng, nên thiên nhiên thân thuộc của núi rừng Tây Bắc tràn vào lời
ca : Rừng cà, rừng ớt, tháng Năm lau nở, nước đỏ cá về, như bán trâu ngoài chợ,

như thu lúa muôn bông,...
Đôi ta yêu nhau, tình Lú - Ủa mặn nồng,
Lời đã trao thương không lạc mất;
Như bán trâu ngoài chợ,
Như thu lúa muôn bông.
Lòng ta thương nhau trăm lớp nghìn trùng,
Bền chắc như vàng, như đá.
- Đại từ nhân xưng "người đẹp anh yêu", "anh yêu em", "đôi ta yêu nhau";
các hô ngữ, mệnh lệnh thức "xin hãy", "dậy đi em", "hỡi gốc dưa yêu",... làm
tăng tính trữ tình, thể hiện tình yêu tha thiết, cháy bỏng của Anh và Chị.
2.3.3. Một số biện pháp khác
Bên cạnh các cách thức trên, tuỳ tình hình thực tế và đặc điểm học sinh,
giáo viên có thể lựa chọn kết hợp một số biện pháp sau để hỗ trợ quá trình giảng
dạy:
* Đi tham quan thực tế cuộc sống của đồng bào dân tộc Thái
Tham quan, dã ngoại là một hình thức tổ chức học tập thực tế hấp
dẫn đối với học sinh. Mục đích của tham quan, dã ngoại là để các em học sinh
được đi thăm, tìm hiểu và học hỏi kiến thức, tiếp xúc trực tiếp giúp các em có
được những kinh nghiệm thực tế, từ đó có thể áp dụng vào cuộc sống của chính
các em. Nội dung tham quan, dã ngoại có tính giáo dục tổng hợp đối với học
sinh như: giáo dục lòng yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước, giáo dục truyền
thống cách mạng, truyền thống lịch sử, giáo dục niềm tự hào về bản sắc văn hoá
dân tộc…
Như Xuân là một huyện miền núi của tỉnh Thanh Hoá ghi dấu lịch sử lâu
đời của đồng bào dân tộc Thái. Chiếm hơn 40% dân số toàn huyện (theo số liệu
khảo sát dân số 12/2013), đồng bào dân tộc Thái giữ vị trí quan trọng trong quá
trình chung tay phát triển KT-XH ở huyện miền núi Như Xuân trong đó có cả
việc hình thành nên bản sắc văn hóa riêng có của địa phương. Để hiểu hơn về
văn hoá người Thái, giáo viên có thể đưa học sinh đến thăm đền Chín Gian –
12



biểu tượng tâm linh của người Thái ở Như Xuân. Đền tọa lạc trên đỉnh đồi Pú
Pỏm (Đồi Tròn) cao 250m thuộc thôn Thống Nhất, xã Thanh Quân, cách thị trấn
Yên Cát của huyện Như Xuân khoảng 38km. Nơi đây xung quanh là đồng
ruộng, đồi núi và bản làng của đồng bào người Thái sinh sống.

 

Đền Chín Gian tại xã Thanh Quân. Ảnh: Lê Hồng.

Các em có thể thăm quan vùng sáu Thanh với các xã: Thanh Quân, Thanh
Sơn, Thanh Phong, Thanh Lâm, Thanh Xuân và Thanh Hòa -nơi tập trung nhiều
nhất người Thái sinh sống. Vùng đất này còn được ví như cái nôi nuôi dưỡng
văn hóa truyền thống của người Thái huyện Như Xuân giữa lúc văn hóa tộc
người đang mai một dần. Người Thái ở sáu Thanh có phong tục tập quán, tiếng
nói, chữ viết riêng, có truyền thống trồng lúa nước, chăn nuôi và dệt thổ cẩm.

Học sinh được tham gia trò chơi ném còn, tham gia lễ hội dâng trâu tế trời của người Thái.
Ảnh: Lê Hồng.

13


Đây là những trải nghiệm rất thú vị giúp học sinh hiểu biết và trân trọng
hơn những nét văn hoá đặc sắc của đồng bào nơi đây.
* Múa hát các bài dân ca dân tộc Thái

Học sinh múa điệu khua luống (một loại hình diễn xướng của người Thái). Ảnh: Lê Hồng.


Học sinh múa điệu khua luống (một loại hình diễn xướng của người Thái. Ảnh: Lê Hồng.

Dân tộc Thái có một kho tàng dân ca đồ sộ và vô cùng đặc sắc. Giáo viên
có thể hướng dẫn học sinh tham gia các tiết mục văn nghệ mang đậm bản sắc
văn hóa dân tộc. Những hình ảnh phía trên là bài múa Khua Luống do học sinh
lớp 10C5 trường THPT Như Xuân thể hiện. Tiết mục đã để lại những cảm nhận
vô cùng sâu đậm trong lòng người xem và đặc biệt góp phần quảng bá một nét
văn hóa độc đáo của quê hương.
14


Trên đây là một số biện pháp người viết đưa ra nhằm tích hợp giáo dục
bản sắc văn hoá dân tộc Thái, hướng tới mục tiêu gần là giúp học sinh có hứng
thú với bài học. Sâu xa hơn, người viết hi vọng với cách thức này sẽ góp phần
bảo tồn những nét đẹp văn hoá của các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Để
chúng không bị mai một, cách tốt nhất là chúng ta hãy nâng cao ý thức giữ gìn
ngay từ thế hệ trẻ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến với bản thân, với nhà trường
- Lớp 10C2: Không vận dụng những biện pháp tích hợp giáo dục bản sắc
văn hoá:
Tiết học trầm, học sinh ít hoạt động, không có hứng thú tìm hiểu bài, kiến
thức hời hợt, chưa sâu, một số em không tập trung và có biểu hiện chán học.
- Lớp 10C4: Vận dụng những biện pháp tích hợp giáo dục bản sắc văn
hoá:
Lớp học sôi nổi, học sinh hoạt động nhiều, có hứng thú trong học tập, khả
năng tiếp thu kiến thức cao hơn, các em cảm thấy yêu thích môn học.
Sau khi dạy tôi đã thực nghiệm để kiểm tra thái độ của em đối với tiết
học:
Kết quả thu được như sau:


Lớp

Sĩ số

Hứng thú

Bình thường

Không hứng
thú
SL
%

SL

%

SL

%

42

10

23,8

12

28,5


20

48

10C4(thực nghiệm) 43

25

58

13

30

05

12

10C2(đối chứng)

Kết quả này cho thấy, sau khi vận dụng những biện pháp tích hợp giáo
dục bản sắc văn hoá dân tộc Thái cho học sinh trong việc dạy học bài “Lời tiễn
dặn” (trích Tiễn dặn người yêu), các em đã có hứng thú hơn trong việc tìm hiểu
bài, chủ động, tích cực trong việc tiếp nhận, đề xuất phương hướng giải quyết
vấn đề. Việc học sinh tham gia một cách sôi nổi các hoạt động thảo luận, những
hoạt động trải nghiệm thực tế chứng tỏ tác phẩm văn học đã có sức ảnh hưởngvà
trở thành một hình tượng sống động trong tâm trí các em.
Như vậy, sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp giáo dục bản sắc văn hoá dân
tộc Thái khi dạy bài “Lời tiễn dặn” (Tiễn dặn người yêu) đối với học sinh lớp

10 THPT không chỉ có tác dụng trong việc khơi dậy tình yêu văn chương ở các
em học sinh, mà đối với giáo viên, đây là những gợi ý tích cực có tính khả thi để
chúng ta tiếp cận và truyền tải những thông điệp thẩm mĩ của văn học dân gian
một cách hiệu quả nhất. Tính khả thi của sáng kiến cũng góp phần nâng cao chất
lượng dạy – học của nhà trường THPT Như Xuân trong thời kì đổi mới.

15


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
“Văn học là nhân học” nghĩa là học văn học là học về con người. Môn
Ngữ văn góp phần hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người. Tuy
nhiên trong những năm gần đây, chúng ta lại phải chứng kiến một thực tế thật
đáng buồn, đó chính là tình trạng học sinh quay lưng lại đối với môn Ngữ văn
ngày càng nhiều. Một người thầy chân chính chắc chắn sẽ không ngừng trăn trở
để tìm ra những phương pháp đổi mới và sáng tạo trong dạy và học.
Thiết nghĩ, một giáo viên dạy Ngữ văn giỏi phải là người biết tổ chức cho
học sinh hoạt động. Tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh, dạy học sinh
cách tìm ra chân lí. Muốn vậy giáo viên phải biết lựa chọn và vận dụng phương
pháp dạy học phù hợp với đặc điểm môn học, phải biết tổ chức cho học sinh
những hoạt động học tập thú vị, hấp dẫn, vừa tạo được niềm tin, niềm vui, hứng
thú trong học tập cho các em, đồng thời đạt được mục tiêu bài học. Việc đề xuất
những biện pháp tích hợp giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc Thái khi dạy bài
“Lời tiễn dặn” (Tiễn dặn người yêu) đối với học sinh lớp 10 THPT là một đề
tài theo cá nhân tôi là thiết thực và hiệu quả. Tuy nhiên, đây chỉ là những biện
pháp được đề xuất dựa trên những khó khăn gặp phải khi cá nhân người viết
giảng dạy phần truyện thơ dân tộc thiểu số. Trên thực tế không có cách dạy học
nào là tối ưu. Vì vậy, những cách thức trên cần được vận dụng linh hoạt, phù
hợp với đặc điểm cụ thể của học sinh. Để có một tiết học thành công, ngoài cái

tài còn cần có cái tâm của người thầy đứng trên bục giảng.Vì thế, khi vận dụng
nó vào giảng dạy ngoài sự dũng cảm và lòng nhiệt tình nghề nghiệp, giáo viên
cần phải hết sức linh hoạt, chủ động, sáng tạo, tránh rập khuôn, máy móc và nên
kết hợp với những phương pháp dạy học tích cực khác để giờ dạy Ngữ văn trở
nên hấp dẫn, lôi cuốn và đạt kết quả cao.
3.2. Kiến nghị
- Giáo viên giảng dạy cần chú tâm hơn nữa đến phương pháp dạy – học
phần văn học dân gian trong chương trình Ngữ văn THPT.
- Nhà trường cần bổ sung thêm tài liệu tham khảo về những tác phẩm văn
học dân gian. Tổ chức ngoại khóa, hoạt động tập thể để học sinh có dịp hiểu và
tiếp cận văn hóa – lịch sử ở các vùng miền.
- Tổ chức những kì thi tìm hiểu về văn học dân gian giữa học sinh các lớp,
các trường để các em có điều kiện giao lưu, tìm hiểu thêm những kiến thức
phong phú.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 19/ 05/ 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác

Lê Thị Hồng
16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nguyễn Thị
Việt Hương, Trường ĐH Văn hoá Hà Nội, 2009.
2. Lí luận văn học, Phương Lựu CB, NXBGD, 2003
3. Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường, Nguyễn
Viết Chữ, NXBGD, 2009

4. Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể, Nguyễn Viết
Chữ, NXBĐHQGHN, 2004
5. Văn học dân gian Việt Nam những công trình nghiên cứu, Bùi Mạnh
Nhị, NXBGD, 2010.

17


PHỤ LỤC
PHIẾU ĐIỀU TRA TRẮC NGHIỆM
Họ và tên học sinh:……………………………………………………………..
Trường:…………………………………………….Lớp………………………..
Câu 1: Trong những câu sau, câu nào nêu khái niệm đúng nhất về văn học dân
gian?
a. Văn học dân gian là những sáng tác tập thể, truyền miệng, lưu truyền trong
nhân dân.
b. Văn học dân gian là những sáng tác cá nhân, truyền miệng, lưu truyền trong
nhân dân.
c. Văn học dân gian là những sáng tác tập thể, mang tính sáng tạo của cá nhân
cao.
d. Văn học dân gian là những sáng tác tập thể, lưu truyền trong nhân dân, mang
dấu ấn cá nhân.
Câu 2: Đặc trưng nào không phải của văn học dân gian?
a. Tính cá thể. b. Tính truyền miệng. c. Tính tập thể.
d. Tính dị bản.
Câu 3: Văn học dân gian gồm mấy thể loại chính?
a.11.
b. 13.
c. 12
d.14.

Câu 4: Những tác phẩm sau, tác phẩm nào không phải là tác phẩm văn học dân
gian?
a. Truyện người con gái Nam Xương.
c. Đẻ đất đẻ nước.
b. Cây tre trăm đốt.
d. Tiễn dặn người yêu.
Câu 5: Nối cột: Chọn lựa tên tác phẩm phù hợp với thể loại:
a. Thần thoại.
1. Thần Trụ trời.
b. Sử thi dân gian.
2. Đăm Săn.
c. Truyền thuyết.
3. Thánh Gióng.
d. Tryuyện cổ tích.
4. Tam đại con gà.
e. Truyện cười dân gian.
5. Đeo nhạc cho mèo.
f. Truyện ngụ ngôn.
6. Sọ Dừa
g. Vè.
7. Tiễn dặn người yêu.
h. Truyện thơ
Câu 6: “Tiễn dặn người yêu” là:
a. Truyện thơ của dân tộc Thái.
b. Sử thi anh hùng của dân tộc Ê-đê
c. Sử thi thần thoại của dân tộc Mường.
d. Truyện thơ của dân tộc Tày
Nùng.
Câu 7: Đoạn trích “Lời tiễn dặn” thường nhắc tới cái chết. Cái chết ở đây mang
ý nghĩa chủ yếu là?

a. Dù phải chết, hóa thành gì, anh vẫn quyết tâm ở bên người yêu.
b. Cái chết là sự thử thách tột cùng, tình yêu mãnh liệt của anh vượt qua cả sự
thử thách đó.
c. Nói đến cái chết chính là nói đến khát vọng mãnh liệt được sống cùng nhau .
d. Dặn dò người yêu không quên mối tình cũ, cùng sống chết bên nhau.
18


Câu 8: Câu nào không đúng khi nhận xét về hình ảnh thiên nhiên trong “Lời
tiễn dăn”?
a. Thiên nhiên vừa là những hình ảnh quen thuộc đối với nếp cảm, nếp nghĩ của
con người, vừa góp phần thể hiện tâm tư tình cảm nhân vật.
b. Thiên nhiên thử thách con người, vừa như khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu
của tình yêu.
c. Thiên nhiên không chỉ thể hiện tâm trạng, tình cảm của nhân vật mà còn thấm
đẫm màu sắc dân tộc trong tác phẩm.
d. Thiên nhiên vừa là những hình ảnh tượng trưng vừa là những hình ảnh phóng
đại
Câu 9: “Lời tiễn dặn” nhắc đến sự chờ đợi: “Đợi tới tháng năm lau nở - Đợi
mùa nước đỏ cá về - Đợi chim tăng ló gọi hè…Ta sẽ lấy nhau mùa đông - Ta sẽ
lấy nhau khi góa bụa về già”
Sự chờ đợi đó không mang ý nghĩa nào sau đây?
a. Hẹn nhau sẽ chờ đợi ở kiếp sau.
b. Thời gian chờ đợi được tính bằng mùa vụ.
c. Thời gian chờ đợi được tính bằng cả đời nguời.
d. Chấp nhận thực tại không thể gần gũi, chỉ còn hi vọng ở tương lai.
Câu 10: Điền khuyết: “Truyện thơ là những truyện kể dài bằng thơ, có sự kết
hợp hai yếu tố……….và………, phản ánh số phận của người nghèo khổ, khát
vọng tình yêu tự do, hạnh phúc, công lí.”
a. tưởng tượng, kì ảo.

b. tự sự, trữ tình.
c. tự sự, biểu cảm
d. Miêu tả, biểu cảm.
Câu 11: Chủ đề nổi bật trong truyện thơ là gì?
a. Tình yêu giữa những người cùng hoàn cảnh.
b. Chế độ hôn nhân gả bán.
c. Khát vọng yêu đương tự do và hạnh phúc lứa đôi.
d. Số phận đáng thương của người phụ nữ.
Câu 12: Cốt truyện chính của thể loại truyện thơ thường theo ba chặng, đó là?
a. Đôi ta yêu nhau tha thiết - Tìm cách thoát khỏi cảnh ngộ - Tình yêu đau khổ
tan vỡ.
b. Gặp gỡ yêu nhau - Xa cách, đau khổ - Tìm cách thoát khỏi cảnh ngộ.
c. Gặp gỡ yêu nhau - Tình yêu tan vỡ đau khổ - Tìm đến cái chết.
d. Đôi ta yêu nhau tha thiết - Tình yêu tan vỡ, đau khổ - Tìm cách thoát khỏi
cảnh ngộ.
Câu 13: Truyện thơ “Tiễn dặn người yêu” có thể tóm tắt theo những trật tự nào
sau đây?
a. Tình yêu tan vỡ - Lời tiễn dặn - hạnh phúc
b. Gặp gỡ yêu nhau - Tình yêu tan vỡ, chia lìa - Đoàn tụ
c. Tình yêu tan vỡ - Chia cách, đau khổ - Cùng nhau thoát khỏi cảnh ngộ.
d. Gặp gỡ yêu nhau - Lời tiễn dặn- Chia cách
Câu 14: Nhận xét nào không đúng khi nói về tâm trạng của chàng trai trong
đoạn trích “Lời tiễn dặn”?
19


a. Cảm nhận nỗi đau khổ tuyệt vọng của cô gái.
b. Khẳng định lòng chung thủy của mình.
c. Tuyệt vọng vì không thể cùng người yêu hạnh phúc.
d. Khát vọng được tự do yêu đương, khát vọng giải phóng.

Câu 15: Đoạn thơ “Vừa đi vừa ngoảnh lại - Vừa đi vừa ngoái trông - Em tới
rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ - em tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi - Tới rừng lá
ngón ngóng trông” là lời của nhân vật nào? Diễn tả tâm trạng gì?
a. Chàng trai, cảm nhận về nỗi đau khổ tuyệt vọng của cô gái.
b. Cô gái, thể hiện nỗi đau khổ tuyệt vọng của mình.
c. Chàng trai, Thể hiện sự yêu thương, lo lắng cho cô gái.
d. Cô gái, đau khổ vì phải xa người yêu.
Câu 16: Truyện thơ “Tiễn dặn người yêu” tiếng Thái đọc là gì?
a. Xống chụ son xao b. Xống chụ xon xao
c. Chống chụ xon xao d. Giống trụ xon xao
Câu 17: Em có thích học bài “Lời tiễn dặn” (trích Tiễn dặn người yêu) không?
Vì sao?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………
Câu 18: Khi học truyện thơ dân tộc thiểu số, em thấy khó khăn nhất là điều gì?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………

20


21



22


23


24


25


×