Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Top 1 Giải pháp tăng cường kiểm soát và chống thất thu thuế nhà thầu nước ngoài của hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của nước ngoài tại các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.61 KB, 14 trang )

(Mẫu: 05/SK)

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÁO CÁO
Kết quả thực hiện sáng kiến
Kính gửi: Hội đồng công nhận sáng kiến
- Tên sáng kiến:
Giải pháp tăng cường kiểm soát và chống thất thu thuế nhà thầu nước
ngoài của hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của nước ngoài tại các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn.
- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 01/4/201….
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặc điểm, tình hình trước khi có sáng kiến:
Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước (NSNN). Do vậy,
để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, Nhà nước cần có hệ thống thuế phù
hợp, trong đó quản lý thuế có vai trò quan trọng, bảo đảm cho việc thu đúng,
thu đủ, kịp thời, tránh thất thoát nguồn thu cho NSNN. Với các quy định của
pháp luật về thuế, pháp luật về kế toán ở nước ta, nếu như các tổ chức, cá
nhân hiểu và làm đúng, tích cực các quy định của chính sách pháp luật thì
quản lý thuế được hiệu lực, hiệu quả, hạn chế được các hành vi gian lận, hạch
toán sai, khai sai … làm thất thu cho NSNN.
Với việc phát triển kinh tế nhiều thành phần trên nhiều lĩnh vực, cùng
với đó là sự du nhập ngày càng ồ ạt của các thương hiệu, nhà đầu tư nước
ngoài với bề dày kinh nghiệm trong kinh doanh đã hình thành lên một xu
hướng đó là các doanh nghiệp tại Việt Nam kinh doanh lĩnh vực nhà hàng,
khách sạn nhận sử dụng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của nước ngoài .
Đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của du lịch cộng với mạng xã hội,
tại tỉnh ta, ngày càng có nhiều hơn các doanh nghiệp mạnh dạn tìm hiểu và
tiếp cận đầu tư vào việc kinh doanh nhận sử dụng chuyển quyền sử dụng nhãn
hiệu của nước ngoài để kinh doanh như thương hiệu khách sạn U (Hồng


Kông), khách sạn V (Pháp), nhà hàng G (Hàn Quốc)…..Và thực tế đã khẳng
định được rằng, việc kinh doanh này đang mang lại những hiệu quả rõ rệt về


mặt lợi nhuận cho các nhà đầu tư Việt. Sự chuyên nghiệp và kinh nghiệm
quản lý kinh doanh của các nước phát triển đã hỗ trợ rất lớn cho việc quản trị
hệ thống, một trong những lỗ hổng rất lớn của doanh nghiệp ở nước ta nói
chung và ở tỉnh ta nói riêng, một tỉnh đang được đánh giá là có tiềm năng về
phát triển kinh tế, nhưng yếu về quản trị doanh nghiệp và nhân sự.
Có thể thấy rằng, doanh thu của các doanh nghiệp có sử dụng hệ thống
phần mềm quản trị doanh nghiệp theo thương hiệu của nước ngoài tại tỉnh ta
ngày một tăng với tốc độ trung bình khoảng 25 đến 40%/năm trong hai năm
đầu bắt đầu kinh doanh, và với các năm tiếp theo là từ 18 đến 22%/năm, lợi
nhuận trong 2 năm đầu khoảng 10 đến 20%, nhưng các năm tiếp theo trung
bình từ 40 đến 50%, cao điểm có thể đạt tới 80% với việc đưa ra chiến lược
kinh doanh đột phá.
Vì vậy, nếu chúng ta không có những biện pháp kiểm soát và quản lý
thuế nhà thầu nước ngoài đối với khoản doanh thu cung cấp dịch vụ của các
đơn vị này thì sẽ vô hình chung không tạo điều kiện kinh doanh công bằng
cho các thương hiệu trong nước mà mặt khác còn gây nên tình trạng thất thu
thuế.
2. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến:
* Sự cần thiết của việc thực hiện sáng kiến:
Căn cứ Luật Sở hữu trí tuệ thì việc cho phép bên Việt Nam sử dụng
nhãn hiệu kèm theo việc thu tiền chuyển quyền sử dụng của bên nước ngoài
không phải là hoạt động nhượng quyền thương mại (thuộc phạm vi điều chỉnh
của Luật Thương mại), cũng không phải là hoạt động cung cấp dịch vụ khoa
học và công nghệ liên quan đến sở hữu trí tuệ (thuộc phạm vi điều chỉnh của
Luật Khoa học và công nghệ) mà là hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn
hiệu theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ nhưng không phải là hoạt động

chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ.

2


Năm 2014, khi Thông tư 103/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính về thuế
nhà thầu nước ngoài (NTNN) có hiệu lực từ ngày 01/10/2014, thay thế cho
Thông tư 60/2012/TT-BTC và công văn số 15888/BTC-CST ngày 07/11/2016
của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn chính sách thuế nhà thầu đối với hoạt
động chuyển nhượng quyền sử dụng nhãn hiệu được xác định:
Về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
- Tại Khoản 3 Điều 7 Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 6/8/2014
của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức,
cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam
(có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/10/2014) quy định: “Thu nhập từ tiền bản
quyền là khoản thu nhập dưới bất kỳ hình thức nào được trả cho quyền sử
dụng, chuyển quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, bản quyền phần
mềm (bao gồm: các khoản tiền trả cho quyền sử dụng, chuyển giao quyền tác
giả và quyền chủ sở hữu tác phẩm; chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp:
chuyển giao công nghệ, bản quyền phần mềm).”.
- Tại Điểm a Khoản 2 Điều 13 Thông tư số 103/2014/TT-BTC quy
định: Tỷ lệ (%) thuế TNDN tính trên doanh thu tính thuế đối với thu nhập bản
quyền là 10%.
Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp doanh nghiệp nước ngoài có
phát sinh khoản thu nhập được trả cho quyền sử dụng nhãn hiệu mà phù hợp
với quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ thì khoản thu nhập này thuộc đối
tượng chịu thuế TNDN và tỷ lệ (%) thuế TNDN tính trên doanh thu tính thuế
là 10%.
Về thuế giá trị gia tăng (GTGT)
Căn cứ quy định tại Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013

của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật Thuế GTGT, Nghị định số
209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều Luật Thuế GTGT và Thông tư số 103/2014/TT-BTC,

3


trường hợp doanh nghiệp nước ngoài nhận tiền từ hoạt động chuyển quyền sử
dụng nhãn hiệu mà phù hợp với quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ thì
phải chịu thuế GTGT và thuế suất thuế GTGT là 10% (nếu áp dụng theo
phương pháp khấu trừ) hoặc tỷ lệ (%) thuế GTGT tính trên doanh thu tính
thuế là 5% (nếu áp dụng theo phương pháp trực tiếp).
Nhưng do chính sách thuế nhà thầu nước ngoài là một chính sách thuế
đòi hỏi sự am hiểu kỹ và phân tích được bản chất của nghiệp vụ phát sinh để
áp dụng đúng vào việc tính số tiền thuế nộp thay cho nhà thầu nước ngoài của
các doanh nghiệp Việt Nam mà điều này lại còn đang là vấn đề chưa giải
quyết được triệt để do trình độ kế toán thuế tại các doanh nghiệp còn bộc lộ
nhiều sai sót khi không đọc kỹ và hiểu rõ về chính sách dẫn đến việc chưa
thực hiện đúng việc tự kê khai và tự nộp thuế theo đúng quy định.
Từ các vấn đề trên, nhóm nghiên cứu xác định việc rất cần thiết phải
thực hiện công việc kiểm soát để chống thất thu thuế nhà thầu nước ngoài của
hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của nước ngoài tại các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn nhằm thực hiện chức năng
của ngành một cách đầy đủ, chính xác.
* Mục đích của việc thực hiện sáng kiến:
Sáng kiến: “Giải pháp tăng cường kiểm soát và chống thất thu thuế nhà
thầu nước ngoài của hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của nước
ngoài tại các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn”của nhóm
nghiên cứu thực hiện với mục đích, đó là:
- Giải pháp kiểm soát thuế Nhà thầu nước ngoài của hoạt động chuyển

quyền sử dụng nhãn hiệu của nước ngoài tại các doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ nhà hàng, khách sạn được thực hiện thông qua các cuộc kiểm tra thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành, nhóm nghiên cứu sẽ căn cứ việc theo
dõi dòng tiền luân chuyển và xác định doanh nghiệp có nhận chuyển quyền sử
dụng nhãn hiệu của nước ngoài hay không?

4


- Trên cơ sở các quy định của pháp luật và nghiệp vụ, kỹ năng kiểm tra
của ngành, nhóm nghiên cứu sẽ đối chiếu lượng tiền chuyển ra nước ngoài,
tra soát tài khoản thuộc tổ chức kinh doanh dịch vụ gì và yêu cầu phía tổ chức
tại Việt Nam cung cấp thông tin theo quy định, nếu dòng tiền đó được xác
định là chuyển cho các doanh nghiệp nước ngoài để thanh toán tiền chuyển
quyền sử dụng nhãn hiệu của nước ngoài, nhưng tổ chức tại Việt Nam chưa
thực hiện kê khai thuế NTNN thay cho nhà thầu nước ngoài thì yêu cầu tổ
chức tại Việt Nam thông báo cho các nhà thầu nước ngoài việc phải nộp thuế
theo quy định của pháp luật Việt Nam và kiến nghị xử lý truy thu, xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi chưa kê khai nộp thuế theo quy định, góp
phần chống thất thu cho Ngân sách nhà nước.
3. Phạm vi triển khai áp dụng:
* Phạm vi về quy mô: Giải pháp tăng cường kiểm soát và chống thất thu
thuế nhà thầu nước ngoài của hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của
nước ngoài tại các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn
được nghiên cứu và thực hiện một cách nghiêm túc và áp dụng trong thực tế
các cuộc kiểm tra thuế, nhằm kiểm định chất lượng và kết quả của giải pháp.
* Phạm vi về không gian: Giải pháp tăng cường kiểm soát và chống thất
thu thuế nhà thầu nước ngoài của hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu
của nước ngoài tại các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn
được áp dụng từ Cơ quan quản lý thu, cụ thể tới từng phòng chức năng thực

hiện nhiệm vụ quản lý doanh nghiệp tới các tổ chức doanh nghiệp có kế
hoạch kiểm tra.
* Phạm vi về thời gian: Giải pháp tăng cường kiểm soát và chống thất
thu thuế nhà thầu nước ngoài của hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu
của nước ngoài tại các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn
áp dụng từ ngày 01/04/201... đến ngày 31/3/201....
II. NỘI DUNG

5


1. Mô tả sáng kiến:
Bước đầu, nhóm nghiên cứu thực hiện thống kê số lượng các doanh
nghiệp thuộc kế hoạch kiểm tra của năm 201... của cơ quan quản lý thu và
thực hiện thu thập thông tin về ngành nghề kinh doanh cụ thể của từng doanh
nghiệp, đối tác hợp tác kinh doanh của doanh nghiệp và nhãn hiệu mà doanh
nghiệp sử dụng để kinh doanh. Bằng các nghiệp vụ kiểm tra, thu thập và xử lý
thông tin dữ liệu của ngành, nhóm nghiên cứu đã xác định có 10 doanh
nghiệp thuộc kế hoạch kiểm tra có kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn có
sử dụng các nhãn hiệu của nước ngoài đã phát sinh doanh thu .
Hình thức hợp tác kinh doanh của các doanh nghiệp này với các nhãn
hiệu nước ngoài là doanh nghiệp tại Việt Nam ký kết hợp đồng quản lý khách
sạn, nhà hàng với công ty nước ngoài có trụ sở tại nước ngoài (thường là các
nhãn hiệu lớn) để quản lý nhà hàng, khách sạn và đặt theo thương hiệu của
nhà quản lý là các công ty nước ngoài. Theo định kỳ, hàng tháng hoặc theo
quý, theo năm, doanh nghiệp tại Việt Nam cung cấp số liệu về doanh thu của
toàn bộ hoạt động dịch vụ có sử dụng nhãn hiệu của công ty nước ngoài và
chuyển tiền theo tỷ lệ phần trăm quy định trên hợp đồng nguyên tắc ký kết
ban đầu giữa hai đơn vị qua ngân hàng trực tiếp vào tài khoản của công ty
nước ngoài.

Việc xác định doanh thu của hoạt động chuyển quyền nhãn hiệu này là
các giao dịch chuyển tiền theo tỷ lệ phần trăm doanh thu thực tế tại Việt Nam
và các doanh nghiệp có nhà hàng, khách sạn này đều thực hiện ký kết hợp
đồng với các công ty có nhãn hiệu nước ngoài nên nhóm nghiên cứu xét thấy
cần yêu cầu cung cấp hợp đồng nguyên tắc cả bản tiếng Anh và bản dịch để
đảm bảo thông tin nhận được là chính xác.
Mỗi một cuộc kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp, nhóm nghiên cứu yêu
cầu cung cấp sổ chi tiết tài khoản tiền gửi ngân hàng (chi tiết theo từng ngân
hàng) và kèm theo bảng kê (có xác nhận của ngân hàng) cùng các Ủy nhiệm

6


chi hoặc phiếu kế toán để xác định nội dung của việc chuyển tiền. Nhằm kiểm
soát chặt chẽ hơn việc luân chuyển dòng tiền, nhóm nghiên cứu cũng tập
trung và các nghiệp vụ phát sinh có dấu hiệu chi bằng tiền mặt, nhưng nội
dung chi không rõ ràng, ghi chung chung và yêu cầu doanh nghiệp giải trình.
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng phác thảo sơ đồ về doanh thu từ
việc sử dụng các dịch vụ có nhãn hiệu nước ngoài theo từng tháng, và đồng
thời phân tích so sánh với các nhà hàng, khách sạn khác để xác định và có
cách nhìn khái quát nhất về sự phát triển của phần dịch vụ này cung cấp cho
lãnh đạo và các báo cáo phân tích phát triển kinh tế xã hội của cơ quan.
2. Tính mới của sáng kiến:
Sáng kiến "Giải pháp tăng cường kiểm soát và chống thất thu thuế nhà
thầu nước ngoài của hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của nước
ngoài tại các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn" có điểm
mới đó là:
- Hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của nước ngoài tại các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn là một hoạt động dịch
vụ mới phát sinh, được điều chỉnh và hướng dẫn bởi thông tư riêng về thuế

nhà thầu nước ngoài, cũng như được làm rõ trong các văn bản của Vụ Chính
sách - Tổng Cục thuế tới các doanh nghiệp lớn có phát sinh nghiệp vụ.
- Mặt khác, sáng kiến cũng thúc đẩy tính chủ động của cán bộ trong
công tác tìm kiếm, thu thập, khai thác và phân tích thông tin về dòng tiền luân
chuyển. Công việc này đòi hỏi cán bộ cần có cái nhìn bao quát, phán đoán, tỉ
mỉ trong từng phân tích để xác định doanh thu thực tế nhận được của các công
ty nước ngoài có phát sinh hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu cho
các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó tính ra thuế GTGT và thuế TNDN cuar nhà
thầu nước ngoài phải nộp tại Việt Nam.
Đặc biệt, thuế NTNN của hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu
của nước ngoài tại các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn

7


căn cứ theo công văn số 15888/BTC-CST ngày 07/11/2016 của Bộ Tài chính
về việc hướng dẫn chính sách thuế nhà thầu đối với hoạt động chuyển nhượng
quyền sử dụng nhãn hiệu, hiện tại là một nguồn thu từ chính sách mới, nhưng
trong tương lai sẽ là nguồn thu có tính phát triển tốt qua các năm, do có định
hướng kinh tế và là xu hướng phát triển tất yếu trong tương lai.
Mặt khác, qua việc rà soát, kiểm tra này, nhóm nghiên cứu cũng đã áp
dụng các biện pháp nhằm tuyên truyền và hướng dẫn các doanh nghiệp có
phát sinh hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng nhãn hiệu của nước ngoài
thực hiện kê khai và nộp thay thuế nhà thầu nước ngoài. Đây là một biện pháp
để đảm bảo tính nghiêm minh trong việc thực thi các quy định về pháp luật
thuế.
Bên cạnh đó, trong quá trình triển khai thực hiện sáng kiến, cán bộ cơ
quan quản lý thu đã chủ động tuyên truyền về ý nghĩa của chính sách mới,
trực tiếp lắng nghe những phản hồi, thắc mắc từ phía các doanh nghiệp và
trong tầm hiểu biết của mình, giải đáp một cách dễ hiểu nhất những thắc mắc

đó. Đây là một việc làm rất cần thiết trong việc triển khai chính sách mới tới
toàn thể các tổ chức, cá nhân kinh doanh, tránh gây những hiểu lầm hoặc hiểu
sai về chính sách.
3. Đánh giá lợi ích thu được:
Sáng kiến: "Giải pháp tăng cường kiểm soát và chống thất thu thuế nhà
thầu nước ngoài của hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của nước
ngoài tại các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn" đã được
triển khai trên thực tế và đạt được những lợi ích nhất định, cụ thể:
Thông tư 103/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính về thuế nhà thầu nước
ngoài (NTNN) có hiệu lực từ ngày 01/10/2014 và công văn số 15888/BTCCST ngày 07/11/2016 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn chính sách thuế
nhà thầu đối với hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng nhãn hiệu khi được
ban hành đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của không chỉ các cơ quan ngành

8


dọc mà kể cả các cơ quan trong tỉnh cũng đã nhận ra được tính cần thiết và
cấp bách của việc thực hiện các hướng dẫn để kiểm soát nguồn thu này.
Cụ thể tại kết luận số 123 của chủ tịch UBND tỉnh đã trực tiếp đề nghị
ngành có chức năng quản lý thu chủ động phối hợp cùng các cơ quan, các sở
ban ngành trong tỉnh thực hiện kiểm tra và rà soát lĩnh vực thuế nhà thầu nước
ngoài đối với hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của nước ngoài tại
các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn.
Kết quả sau 1 năm triển khai sáng kiến, thực hiện 10 cuộc kiểm tra tại
các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn có thương hiệu
nước ngoài, nhóm nghiên cứu đã có những kết quả như sau:
- Có 10/10 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn thuộc
danh sách kiểm tra đều có hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của
nước ngoài nhưng mới chỉ có 02/10 doanh nghiệp thực hiện kê khai và nộp
thuế thay NTNN (chiếm tỷ lệ 20%), còn lại 08/10 doanh nghiệp đều chưa

thực hiện kê khai và nộp thay thuế nhà thầu nước ngoài bao gồm thuế GTGT
và thuế TNDN của hoạt động dịch vụ này.
- Tại 02 doanh nghiệp có thực hiện kê khai, nhóm nghiên cứu đã kiểm
tra việc thực hiện kê khai của doanh nghiệp qua đối chiếu với sổ chi tiết tài
khoản tại các ngân hàng, sao kê có chứng thực của ngân hàng và kết quả là,
các doanh nghiệp có kê khai nhưng việc xác định doanh thu chưa đúng với
hướng dẫn của Thông tư 103/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính về thuế nhà
thầu nước ngoài (NTNN) có hiệu lực từ ngày 01/10/2014. Nhóm nghiên cứu
đã hướng dẫn doanh nghiệp đồng thời tính lại số thuế GTGT, TNDN của nhà
thầu nước ngoài truy thu thêm số tiền 58 triệu đồng và phạt vi phạm hành
chính do khai sai (20% số thuế truy thu) và tính tiền chậm nộp theo quy định.
- Tại 8 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn có hoạt
động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của nước ngoài đã thực hiện truy thu
thuế GTGT của nhà thầu nước ngoài, số tiền: 248,6 triệu đồng, thuế TNDN

9


của nhà thầu nước ngoài, số tiền: 208,4 triệu đồng, phạt vi phạm hành chính
do khai sai và tính tiền chậm nộp theo quy định.
- Tại 8 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn có hoạt
động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của nước ngoài đã thực hiện truy thu
Các doanh nghiệp khi được phổ biến về chính sách thuế nhà thầu nước ngoài
với đầy đủ các căn cứ do nhóm nghiên cứu nêu ra đều nghiêm chỉnh chấp
hành và thực hiện.
Qua việc áp dụng thực hiện sáng kiến trong 1 năm qua, nhóm nghiên
cứu đưa ra một số nhận xét cơ bản, cụ thể:
- Các doanh nghiệp kinh doanh nhà nghỉ, khách sạn do chủ quan,
không cập nhật kịp thời các công văn hướng dẫn chính sách thuế cũng như
chưa lắng nghe đầy đủ các hướng dẫn tại hội nghị đối thoại, dẫn đến chưa chủ

động thực hiện nộp và kê khai thay thuế nhà thầu nước ngoài của dịch vụ đặt
phòng trực tuyến của các trang mạng nước ngoài. Khi được cán bộ của cơ
quan quản lý thu chủ động phổ biến, giải đáp thắc mắc thì đều nhận thấy sự
đúng đắn và đạo lý trong mỗi chính sách thuế mà cơ quan quản lý nhà nước
ban hành nên rất nghiêm túc thực hiện và triển khai trong các kỳ kinh doanh
sau.
-Về phía cơ quan quản lý nhà nước, đã có nhiều biện pháp tuyên
truyền, phổ biến pháp luật thuế, nhưng do nhiều yếu tổ khách quan và chủ
quan, một số doanh nghiệp chưa kịp thời nắm bắt chính sách, lúc này vai trò
của người cán bộ cơ quan quản lý thu thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tại các đơn
vị thực sự cần là tuyên truyền, hướng dẫn và giải đáp thắc mắc, giúp doanh
nghiệp hiểu rõ hơn về chính sách.
Đánh giá khách quan, nhóm nghiên cứu đã truy thu số tiền thuế GTGT
và TNDN của nhà thầu nước ngoài là: 515 triệu đồng trong năm thực hiện
sáng kiến .

10


Với công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách trực tiếp tới các tổ
chức, cá nhân kinh doanh trong quá trình thực hiện sáng kiến, nhóm nghiên
cứu chủ quan đánh giá tâm lý thoải mái của các doanh nghiệp này khi được
triển khai một khoản nộp mới, đa số các đơn vị đều nhận thấy đây là khoản
thu có ý nghĩa tích cực trên nhiều lĩnh vực nên sẽ cam kết thực hiện nộp đầy
đủ và đúng hạn theo thông báo của cơ quan quản lý thu, hạn chế tình trạng nợ
đọng.
III. KẾT LUẬN
1. Kết luận chung, kinh nghiệm trong áp dụng:
Trong điều kiện chính sách, pháp luật có xu hướng thông thoáng, tạo
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thành lập, phát triển... Trong bối cảnh

hiện nay khi NNT thực hiện theo cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp và tự chịu
trách nhiệm thì tỷ lệ nguy cơ rủi ro càng cao. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật
ở nước ta phần nào chưa hoàn thiện và đồng bộ nên không ít NNT thực hiện
trái quy định hoặc "lách luật" nhằm tránh né thuế.
Đã đến lúc cần phải quan tâm, vừa bổ sung, sửa đổi hoàn thiện hệ
thống pháp luật vừa giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật để xã hội phát triển,
thực hiện phương châm “sống thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật”. Công
tác quản lý thuế nói chung, thanh tra kiểm tra thuế nói riêng cần được quan
tâm, tăng cường đồng bộ, chặt chẽ vừa bảo đảm chống thất thu cho NSNN,
vừa răn đe, hạn chế ngăn ngừa các hiện tượng gian lận, trốn thuế.
Mặt khác, khi có kế hoạch về triển khai một chính sách mới, điều cần
thiết nhất là phải xác định được đối tượng mà chính sách đó ảnh hưởng trực
tiếp. Cần thu thập một cách có hệ thống các thông tin cơ sở làm căn cứ để áp
dụng chính sách và dự toán ước tính được con số từ chính sách mới đó từ đó
cân đối với các khoản thu khác trong tổng thể vĩ mô để báo cáo cơ quan cấp
trên. Như vậy sẽ giúp phần cân đối được thu chi, góp phần định hướng phát
triển kinh tế địa phương theo tốc độ tăng trưởng của số thu, thúc đẩy các

11


ngành kinh tế thị trường phát triển, kéo theo sự phát triển tổng thể của địa
phương.
- Trong toàn bộ các chính sách mới, chủ thể đóng góp luôn là các tổ
chức, cá nhân kinh doanh. Nhiệm vụ của cán bộ quản lý thu là cần dùng hiểu
biết của mình để tuyên truyền và phổ biến chính sách mới tới toàn thể các đơn
vị, cá nhân đó. Quan tâm, lắng nghe và tiếp thu những ý kiến, vướng mắc,
phản hồi để tham mưu cho lãnh đạo và các cơ quan cấp trên xem xét giải
quyết, tránh tình trạng chống đối dẫn đến nợ đọng thuế và cướng chế.
- Với vai trò quan trọng và nhiệm vụ chính là thu ngân sách, cán bộ

quản lý thu có nhiệm vụ tham mưu cho lãnh đạo và các cấp, các ngành về chủ
thể của nguồn thu, trên cơ sở thông tin của đơn vị, thực hiện ước tính số liệu
đảm bảo đúng chính sách, đúng quy định của Pháp luật.
- Cần xác định sự nghiêm túc thực hiện và giải quyết phối hợp trong
thời gian sớm nhất có thể, cụ thể là: cơ quan quản lý thu với lợi thể nắm bắt rõ
tình hình sản xuất kinh doanh và thông tin về đơn vị, đã chủ động đóng góp,
cung cấp thông tin, phối hợp các ngành nhằm triển khai có hiệu quả chính
sách thuế nhà thầu nước ngoài.
* Khả năng ứng dụng, triển khai của sáng kiến là có thể và thực tế
chắc chắn khi áp dụng sẽ đạt kết quả, không chỉ riêng trong chính sách thu
thuế nhà thầu nước ngoài hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của
nước ngoài mà còn linh hoạt trong các cuộc kiểm tra sau này, nếu được triển
khai sẽ đạt được nhiều hiệu quả bằng số liệu hay bằng sự hợp tác của các tổ
chức, cá nhân với Cơ quan quản lý thu. Sáng kiến nếu được triển khai rộng rãi
sẽ là một biện pháp hiệu quả tăng cường và kiểm soát số thu, chống thất thu
cho ngân sách nhà nước.
2. Kiến nghị, đề xuất:
- Nhóm nghiên cứu kiến nghị, đề xuất triển khai sâu hơn nữa sáng
kiến: "Giải pháp tăng cường kiểm soát và chống thất thu thuế nhà thầu nước

12


ngoài của hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của nước ngoài tại các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn", cụ thể: bằng việc chủ
động áp dụng sáng kiến vào các cuộc kiểm tra sau này, không chỉ đơn thuần là
các cuộc kiểm tra đơn lẻ mà có thể thực hiện kiểm tra theo chuyên đề nhà
hàng, khách sạn có phát sinh hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của
nước ngoài nhằm đánh giá một cách tổng quát nhất việc thực hiện chính sách
thuế của các doanh nghiệp kinh doanh. Khi tiếp tục triển khai sáng kiến này

và áp dụng linh hoạt trong các năm sau, sẽ góp phần chống thất thu cho Ngân
sách nhà nước.
- Trong quá trình thực hiện sáng kiến, nhóm nghiên cứu đặt quan tâm
tuyệt đối với vấn đề dòng tiền của các doanh nghiệp trong nước chuyển ra
nước ngoài nhằm quản lý được các khoản thu của các đơn vị nước ngoài là
vấn đề cần được quan tâm và cần có biện pháp tốt hơn để thu thập thông tin,
sớm phát hiện nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Kiến nghị, cần thiết lập cơ chế phối hợp giữa các ngân hàng trên địa
bàn với cơ quan quản lý thu về việc cung cấp số liệu cụ thể về việc các doanh
nghiệp trong tỉnh chuyển tiền ra nước ngoài, căn cứ vào số liệu đó, cơ quan
quản lý thu sẽ chủ động sớm phát hiện ra các khoản doanh thu của các tổ chức
nước ngoài và yêu cầu doanh nghiệp chủ động kê khai và nộp thuế thay (nếu
có).
Trên đây là Báo cáo sáng kiến “Giải pháp tăng cường kiểm soát và
chống thất thu thuế nhà thầu nước ngoài của hoạt động chuyển quyền sử dụng
nhãn hiệu của nước ngoài tại các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà hàng,
khách sạn” do tác giả và nhóm tác giả sáng kiến viết báo cáo. Do trình độ và
thời gian có hạn nên việc trình bày có thể chưa được sâu và khó tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng sáng
kiến và toàn thể cán bộ công chức ……để Báo cáo sáng kiến được hoàn thiện
hơn.

13


Tác giả sáng kiến cam kết không sao chép hoặc xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào.

XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH
HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

(ký tên, đóng dấu)

Lào Cai, ngày 28 tháng 8 năm 201..
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
(ký tên)

ĐỒNG TÁC GIẢ:

14



×