Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Pháp luật về tố cáo trong lĩnh vực đất đai từ thực tiễn tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
---------------

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG

THÂN VĂN LỢI
Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã ngành: 8380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN CƢƠNG

HÀ NỘI - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn Pháp luật về tố cáo trong lĩnh vực đất đai từ
thực tiễn tỉnh Bắc Giang là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Nguyễn Văn Cương.
Các số liệu, các kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất cứ một công trình nào khác. Nếu sai, tôi hoàn toàn
chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Tác giả luận văn

Thân Văn Lợi


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện Luận văn tốt nghiệp, tôi xin được bày tỏ lòng


biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo và cán bộ của Trường Đại học Mở Hà
Nội, về sự hướng dẫn nhiệt tình, khích lệ và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học
tập và nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới Thầy TS. Nguyễn Văn
Cương người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ trung tâm trợ
giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bắc Giang đã giúp đỡ, hỗ trợ và cung cấp các tài
liệu, số liệu liên quan phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn

Thân Văn Lợi


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CÁM ƠN
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỐ CÁO VÀ PHÁP LUẬT VỀ
TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI .............................................................. 7
1.1. Khái quát chung về tố cáo và giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai ......... 7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tố cáo ..................................................... 7
1.1.2. Giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai ................................................. 14
1.1.3. Ý nghĩa của công tác giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai ............... 18
1.2. Tổng quan pháp luật về tố cáo trong lĩnh vực đất đai ................................. 19
1.2.1. Sơ lược lịch sử phát triển của pháp luật về tố cáo trong lĩnh vực đất đai ... 19
1.2.2. Nội dung của pháp luật về tố cáo trong lĩnh vực đất đai........................ 23
Kết luận Chƣơng 1 .................................................................................................. 28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT
VỀ TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG..... 30

2.1. Qui định của pháp luật về giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai ............ 30
2.1.1. Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo và người giải quyết
tố cáo ................................................................................................................ 30
2.1.2. Điều kiện thụ lý đơn tố cáo trong lĩnh vực đất đai ................................. 33
2.1.3. Thẩm quyền giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai ............................. 34
2.1.4. Qui trình giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai .................................. 35
2.2. Khái quát chung về đất đai và quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực đất đai
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang ................................................................................... 43
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên và hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang .............................................................................. 43
2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật tố cáo và giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang ..................................................................................... 48
2.3.1. Tình hình tố cáo về đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Giang ........................ 48
2.3.2. Tình hình thực hiện pháp luật tố cáo về đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Giang..... 51
2.3.3. Đánh giá kết quả giải quyết tố cáo về đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Giang ..... 52
Kết luận Chƣơng 2 ................................................................................................... 58


Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG .................................................................. 59
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về tố cáo trong lĩnh vực đất đai .............. 59
3.1.1. Bám sát và quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng trong việc hoàn thiện pháp luật tố cáo và pháp luật đất đai ................... 59
3.1.2. Giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai phải đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội và bảo vệ quyền công dân ......................................................... 60
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật tố cáo
trong lĩnh vực đất đai ............................................................................................. 61
3.2.1 Hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết tố cáo. ........................ 61
3.2.2. Đẩy mạnh tổ chức thực hiện các quy định về quản lý đất đai và giải

quyết tố cáo về đất đai ...................................................................................... 62
3.2.3. Nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ giải quyết tố cáo tại
tỉnh Bắc Giang .................................................................................................. 63
3.2.4. Tăng cường giám sát của các cơ quan chức năng và đoàn thể .................. 64
3.3. Kiến nghị nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tố cáo t i tỉnh Bắc Giang ........ 66
3.3.1. Đối với các cấp ủy Đảng tại tỉnh Bắc Giang .......................................... 66
3.3.2. Đối với UBND tỉnh Bắc Giang và UBND cấp huyện thuộc tỉnh Bắc Giang . 67
3.3.3. Đối với Thanh tra tỉnh Bắc Giang và thanh tra cấp huyện ..................... 69
3.3.4. Đối với Sở Tài nguyên và Môi trường, thanh tra Sở và các đơn vị quản
lý đất đai tại tỉnh Bắc Giang ............................................................................. 70
Kết luận Chƣơng 3 .................................................................................................. 72
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................... 75


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát
triển đất nước, được quản lý theo pháp luật. Việt Nam đang từng bước hướng
tới xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đất đai trở thành
nguồn nội lực quan trọng để thực hiện Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất
nước. Do đó, việc quản lý đất đai được Đảng, nhà nước, các cấp, các ngành
đặc biệt quan tâm, chú trọng.
Với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai, đặc biệt
là Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003,
mới đây nhất là Luật Đất đai năm 2013, hệ thống quy phạm pháp luật về đất
đai đã từng bước được hoàn thiện, cơ bản đáp ứng yêu cầu công tác quản lý
nhà nước về đất đai trong các thời kỳ, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế,
xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân,
hộ gia đình, cơ quan, tổ chức trong quản lý, sử dụng đất đai. Vì vậy, quản lý

nhà nước bằng pháp luật về đất đai ngày càng hoàn thiện đã đạt được những
tiến bộ rõ rệt, hệ thống quản lý về đất đai được tăng cường, từng bước phân
cấp và phát huy tính tự chủ của địa phương.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tình hình quản lý và sử dụng
đất đai hiện nay đang có những yếu kém như vấn đề quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất chưa có tính chiến lược lâu dài và ổn định hoặc thiếu tính khả thi; cơ
chế quản lý về đất đai thiếu tính hiệu quả; cơ quan quản lý đất đai các cấp
nhìn chung còn nhiều yếu kém. Chính vì thế, tình trạng tranh chấp, khiếu nại,
tố cáo về quản lý và sử dụng đất đai có xu hướng diễn biến phức tạp. Việc
giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo còn chưa kịp thời, thiếu hiệu quả. Đây
là một trong những nguyên nhân dẫn đến ngày càng có nhiều vụ tranh chấp,
tố cáo liên quan đến đất đai trên toàn quốc. Theo số liệu thống kê, trong tổng
1


số các vụ tố cáo được các cơ quan chức năng thụ lý, giải quyết trên cả nước
có đến 70% số vụ việc liên quan đến đất đai
Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân được ghi nhận tại Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 “Mọi người có
quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về
những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân” [24, Điều
30]. Đây là hiện tượng phát sinh trong đời sống xã hội như là một phản ứng
của con người trước một quyết định, một hành vi nào đó mà người khiếu nại,
tố cáo cho rằng quyết định hay hành vi đó là không phù hợp với các quy tắc,
chuẩn mực trong đời sống cộng đồng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, trong những năm qua với sự tập trung chỉ
đạo của cấp ủy, chính quyền và sự phối hợp với các đoàn thể nhân dân, công
tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có chuyển biến tích cực, góp phần
phát triển kinh tế- xã hội, ổn định tình hình, củng cố niềm tin của nhân dân

đối với Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên những năm gần đây, công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế: Một số địa
phương, đơn vị còn chưa thấy hết được ý nghĩa quan trọng của công tác
này; hiệu quả công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo còn
chưa cao, có nơi còn hình thức. Điều đáng chú ý là khi nhận được khiếu
nại, tố cáo của công dân, không ít cán bộ, công chức còn thiếu tinh thần
trách nhiệm, không thực hiện đúng trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết;
chưa quan tâm đầy đủ đến việc tiếp dân, đối thoại và lắng nghe ý kiến của
nhân dân, còn biểu hiện né tránh, đùn đẩy trách nhiệm trong việc tiếp dân
và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
khiếu nại, tố cáo chưa thường xuyên, chưa sâu rộng. Không ít người dân chưa
hiểu đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình nên gửi đơn khiếu nại, tố cáo
vượt cấp khá nhiều.
2


Trong bối cảnh ấy, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về
tố cáo và giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai; đánh giá tình hình tố cáo
trong lĩnh vực đất đai, kết quả thực hiện công tác giải quyết tố cáo trong lĩnh
vực đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Giang để làm rõ những ưu điểm, hạn chế,
nguyên nhân của những hạn chế trong công tác giải quyết tố cáo về đất đai,
từ đó tìm ra quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tố
cáo trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận
và thực tiễn.
Xuất phát từ mục đích và ý nghĩa đó, tôi lựa chọn Đề tài "Pháp luật về
tố cáo trong lĩnh vực đất đai từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang" làm Luận văn
thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói chung và pháp luật về khiếu nại, tố
cáo trong lĩnh vực đất đai nói riêng cũng đã thu hút được sự quan tâm của

nhiều nhà khoa học pháp lý và các cấp chính quyền. Thời gian qua đã có các
công trình nghiên cứu, sách báo pháp lý và các bài viết liên quan đến vấn đề
này dưới góc độ lý luận và thực tiễn. Tiêu biểu có thể kể đến như:
Một số sách chuyên khảo của PGS.TS. Doãn Hồng Nhung: “Kỹ năng
áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam” (2014);
“Pháp luật về thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật đất đai ở Việt Nam”
(2013); Sách chuyên khảo của Viện khoa học thanh tra, Thanh tra Chính phủ,
“Khiếu nại, tố cáo hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính ở
Việt Nam hiện nay” (2012);
Một số luận văn thạc sỹ luật học có đề cập tới pháp luật tố cáo như:
Luận văn của Trần Ngân Hà: “Pháp luật về giải quyết khiếu nại tố cáo ở Việt
Nam” (2013), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Luật văn của Nguyễn
Thị Hồng Thơm: “Hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ
3


quan hành chính nhà nước ở Ninh Bình hiện nay” (2010), Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội; Luật văn của Phạm Anh Tuấn: “Cơ chế giải quyết khiếu nại
hành chính ở Việt Nam hiện nay và vấn đề hoàn thiện” (2011), Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội;
Một số bài viết được các tác giả công bố như: “Giải quyết khiếu nại, tố cáo
phải biến nhận thức thành hành động” trên trang www.thanhtra.gov.vn; “Cần đổi
mới mô hình giải quyết khiếu nại, tố cáo” trên trang www.thanhtravietnam.vn;
“Giải quyết khiếu nại, tố cáo luôn đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống
chính trị” trên trang www.noichinh.com; “Khiếu nại,tố cáo về lĩnh vực đất đai vẫn
tăng” trên trang www.dangcongsan.vn... đã thể hiện sự quan tâm của xã hội
đến vấn đề này.
Nhìn chung, nội dung của các công trình nghiên cứu kể trên khá chuyên
sâu và cũng đã đề cập nhiều nội dung liên quan đến pháp luật về khiếu nại, tố
cáo nói chung và pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai nói

riêng. Bằng việc kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công trình, bài
viết nêu trên, luận văn đi sâu tìm hiểu một cách có hệ thống và toàn diện pháp
luật về tố cáo trong lĩnh vực đất đai ở một địa bàn cụ thể là tỉnh Bắc Giang.
Địa bàn tỉnh Bắc Giang có những đặc điểm riêng biệt về nguồn tài nguyên đất
đai và quản lý sử dụng đất đai. Luận văn tìm hiểu thực tiễn thực thi pháp luật
và nguyên nhân dẫn đến tình trạng tố cáo kéo dài và phức tạp trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang trong những năm gần đây để đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về tố cáo trong lĩnh
vực đất đai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của luận văn là đánh giá đúng thực trạng pháp luật và thực
tiễn thi hành pháp luật về tố cáo trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc
4


Giang làm cơ sở đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thi hành pháp luật về tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích trên, luận văn có 03 nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về tố cáo và pháp luật về tố
cáo trong lĩnh vực đất đai;
Thứ hai, nghiên cứu thực trạng pháp luật và tìm hiểu thực tiễn thi hành
pháp luật về tố cáo và giải quyết về tố cáo trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang;
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về tố cáo trong lĩnh vực đất đai trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang
4. Đối tƣợng và ph m vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp
luật hiện hành về tố cáo và giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang.
Do tính chất phức tạp và rộng lớn của đề tài, luận văn giới hạn phạm vi nghiên
cứu ở việc phân tích, tìm hiểu các quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo được quy
định tại Luật Tố cáo năm 2011, Luật Đất đai năm 2013 và tình hình thực hiện pháp
luật về tố cáo trong lĩnh vực đất đai trong những năm gần đây của tỉnh Bắc Giang.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lê nin, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: phân tích - tổng hợp, logic, so sánh, khảo sát, thống kê trong quá trình
giải quyết các vấn đề đặt ra của đề tài.
5


6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài
Luận văn là nguồn tư liệu tổng hợp các quy định pháp luật về giải quyết
tố cáo trong lĩnh vực đất đai từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Giang, cung cấp thêm
các luận cứ khoa học trong công tác giải quyết tố cáo về đất đai trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
Các đề xuất tại Luận văn có thể là những gợi ý để tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật về tố cáo, giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai, đồng thời,
góp phần nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong thực hiện quyền tố cáo và giải quyết tố cáo.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tố cáo và pháp luật về tố cáo trong
lĩnh vực đất đai;
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về tố

cáo trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Giang;
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về tố cáo trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỐ CÁO VÀ PHÁP
LUẬT VỀ TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
1.1. Khái quát chung về tố cáo và giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tố cáo
1.1.1.1. Khái niệm tố cáo, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
"Tố cáo" có nghĩa là: "Báo cho cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm
quyền biết về hành vi trái pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức hoặc của cá
nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức" [34, tr.784].
Luật Tố cáo năm 2011 quy định: “Tố cáo là việc công dân theo thủ tục
do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về
hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, cơ quan, tổ chức” [22, Điều 2, Khoản 1].
Dưới góc độ xã hội, tố cáo là vạch rõ hành vi vi phạm pháp luật, đạo
đức xã hội của chủ thể khác, nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội,
của công dân hoặc các chủ thể khác.
Dưới góc độ pháp lý, tố cáo là quyền của công dân thông báo với cơ quan
có thẩm quyền và yêu cầu các cơ quan này xử lý các hành vi, quyết định trái
pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại cho lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân hoặc các chủ thể khác, cả trong
trường hợp không trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của cá nhân tố cáo. Tố cáo là

một trong những kênh thông tin phản hồi hữu hiệu để Nhà nước kịp thời phát
hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật [11, tr.158]. Cách hiểu
7


này cũng sát với định nghĩa về tố cáo trong Luật Khiếu nại, Tố cáo năm 1998
và Khoản 1 Điều 2 Luật Tố cáo hiện hành năm 2011.
Về bản chất, tố cáo là việc các chủ thể báo cho cơ quan chức năng biết
về một hành vi có thể gây thiệt hại tới các quyền lợi ích hợp pháp của mình
và các chủ thể khác. Do đó, tố cáo có thể góp phần ngăn chặc các hậu quả có
thể xảy ra, đồng thời bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của họ. Phạm vi của tố
cáo nên được khuyến khích và mở rộng, bởi việc đưa các hành vi xấu ra
trước pháp luật trước tiên sẽ giúp các chủ thể bị xâm hại quyền lợi lấy lại
được những gì mình đã bị mất, đồng thời trừng trị những chủ thể gây ra
những hậu quả đó. Đây cũng chính là nền tảng để xây dựng một xã hội tốt
đẹp và công bằng.
Trên cơ sở các quan điểm và định nghĩa pháp lý về tố cáo, theo tác giả
khái niệm “tố cáo trong lĩnh vực đất đai” có thể được hiểu như sau: “Tố
cáo trong lĩnh vực đất đai là việc công dân báo cho cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật về quản lý và sử
dụng đất đai của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, cơ quan, tổ chức”.
1.1.1.2. Đặc điểm của tố cáo
Một là, về chủ thể có quyền tố cáo:
Chủ thể có quyền tố cáo là cá nhân công dân vì tố cáo làm phát sinh
những hậu quả pháp lý và trách nhiệm pháp lý gắn với cá nhân công dân khi
tố cáo.
Hai là, về đối tượng của tố cáo:
Đối tượng của tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan,

tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Hành vi vi
phạm pháp luật có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc có thể không ảnh hưởng trực
8


tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tố cáo. Cá nhân có quyền tố cáo
ngay cả khi hành vi mới đe dọa gây thiệt hại nên khả năng phòng ngừa, ngăn
chặn và giảm các thiệt hại gây ra là rất cao [35, tr.161].
Ba là, về tính chất của hoạt động giải quyết tố cáo:
Giải quyết tố cáo là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, là trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước và được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy
phạm pháp luật. Việc giải quyết tố cáo được thực hiện theo các trình tự, thủ
tục nhất định tùy vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi
phạm. Tố cáo và giải quyết tố cáo được thực hiện theo hình thức và thủ tục
chặt chẽ, bắt buộc do pháp luật quy định đảm bảo sự hoạt động chặt chẽ,
chính xác thẩm quyền giải quyết của cơ quan nhà nước.
Trên cơ sở những đặc điểm của tố cáo, cho thấy sự khác biệt giữa tố
cáo và tố giác tội phạm; giữa tố cáo và khiếu nại. Cụ thể là:
Thứ nhất, sự khác biệt giữa tố cáo và tố giác tội phạm
Tố cáo

Tiêu chí so

Tố giác tội ph m

sánh
Có thể tố cáo ở nhiều hành vi Tố giác tội phạm chỉ bao
vi phạm pháp luật, không gồm việc tố cáo hành vi vi
phân biệt tính chất, mức độ vi phạm pháp luật có thể cấu

phạm. Có thể nói, khái niệm thành tội phạm đã được quy
tố cáo rộng hơn và cơ bản đã định trong Bộ luật Hình sự.
Khái niệm

bao hàm cả khái niệm tố giác Tố giác tội phạm vừa là
tội phạm theo Bộ luật Tố tụng quyền, vừa là nghĩa vụ của
hình sự;

công dân. Công dân bắt buộc

Tố cáo là quyền của công phải tố giác nếu đã biết rõ về
dân. Công

dân

quyền một tội phạm đang chuẩn bị



quyết định việc mình sẽ tố hoặc đã được thực hiện và

9


cáo hay không một hành vi vi có thể bị truy cứu trách
phạm pháp luật

nhiệm

hình


sự

về

tội:

Tố cáo chỉ phát sinh quan hệ “Không tố giác tội phạm”
pháp lý khi công dân trực tiếp theo quy định của Bộ luật
hoặc gửi đơn tố cáo đến cơ Hình sự, nếu biết mà không
quan, cá nhân có thẩm quyền

tố giác tội phạm.
Tố giác tội phạm trong một
số trường hợp phát sinh
quan hệ pháp lý ngay từ thời
điểm

tội

phạm

xảy

ra

(trường hợp phạm tội không
tố giác tội phạm).
Chủ thể tố cáo là cá nhân, có Chủ thể của tố giác là cá
tên tuổi, địa chỉ rõ ràng, nhân. Chủ thể này cho rằng

người bị tố cáo cũng phải có có một sự kiện vi phạm pháp
tên tuổi, địa chỉ, nội dung tố luật đã hoặc sẽ xảy ra ngoài
cáo phải chỉ rõ hành vi bị tố xã hội có dấu hiệu tội phạm,
cáo. Người tố cáo phải chịu là một hình thức cung cấp
trách nhiệm trước pháp luật nguồn tin, dấu hiệu hay sự
Chủ thể

về nội dung tố cáo của mình, việc vi phạm pháp luật bằng
trường hợp tố cáo sai sự thật cách báo cho cơ quan Nhà
(vu khống) thì tùy theo mức nước xem xét, làm rõ. Tố
độ có thể bị xử lý về hành giác tội phạm có thể bằng lời
chính hoặc hình sự. Việc tố hoặc bằng văn bản. Hành vi
cáo được thực hiện bằng đơn bị tố giác tội phạm phải
tố cáo hoặc tố cáo trực tiếp.

được quy định trong Bộ luật
Hình sự.

Đối tượng

Đối tượng của tố cáo là hành Đối tượng của tố giác về tội
10


vi vi phạm pháp luật trong
mọi lĩnh vực, không phân biệt
tính chất, mức độ vi phạm.
Thời hạn giải quyết tố cáo là
60 ngày, kể từ ngày thụ lý
giải quyết tố cáo. Đối với vụ

việc phức tạp thì thời hạn giải
quyết là 90 ngày, kể từ ngày
thụ lý giải quyết tố cáo.
Trường hợp cần thiết, người
có thẩm quyền giải quyết tố
Thời hạn giải
cáo có thể gia hạn giải quyết
quyết
một lần nhưng không quá 30
ngày, đối với vụ việc phức
tạp thì không quá 60 ngày

Hệ quả pháp


Tố cáo chỉ phát sinh quan hệ
pháp lý khi công dân trực tiếp
tố cáo hoặc gửi đơn tố cáo
đến cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền khi phát hiện hành vi
vi phạm. Nếu công dân không
tố cáo dù là đã phát hiện ra
hành vi vi phạm pháp luật của
cơ quan, cá nhân khác thì họ
cũng không phải chịu bất kỳ
hình thức xử lý theo pháp luật
nào.

phạm chỉ có hành vi vi phạm
pháp luật có thể cấu thành

tội phạm.
Thời hạn giải quyết tố giác:
trong thời hạn 20 ngày kể từ
ngày nhận được việc tố giác,
cơ quan điều tra phải kiểm
tra, xác minh và ra quyết
định khởi tố hay không khởi
tố vụ án hình sự, hoặc tạm
đình chỉ việc giải quyết tố
giác. Nếu sự việc bị tố giác
có nhiều tình tiết phức tạp
hoặc phải xác minh nhiều
nơi, thời hạn giải quyết tố
giác kéo dài không quá 2
tháng, hoặc Viện Kiểm sát
có thể gia hạn một lần
(nhưng cũng không quá 2
tháng).
Tố giác tội phạm trong một
số trường hợp phát sinh
quan hệ pháp lý ngay từ thời
điểm tội phạm có dấu hiệu
xảy ra. Khi công dân biết rõ
tội phạm đang đựơc chuẩn
bị, đang được thực hiện hoặc
đã được thực hiện mà không
tố giác, thì phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội không
tố giác tội phạm theo Bộ luật
Hình sự


Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

11


Thứ hai, sự khác biệt giữa tố cáo và khiếu nại
Tiêu chí

Khiếu n i

Tố cáo

Chủ thể

Cá nhân, cơ quan, tổ chức

Cá nhân

Đối tượng

Đối tượng của khiếu nại là
quyết định hành chính, hành
vi hành chính hoặc quyết
định kỷ luật đối với cán bộ,
công chức. Người khiếu nại
chỉ thực hiện quyền khiếu
nại khi có căn cứ cho rằng
quyết định hoặc hành vi đó
trái pháp luật, xâm phạm

đến quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.

Đối tượng của tố cáo rộng hơn rất
nhiều, là hành vi vi phạm pháp luật
của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân
nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại tới lợi ích Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Cá nhân có quyền tố cáo ngay
cả khi hành vi mới đe dọa gây thiệt
hại nên khả năng phòng ngừa, ngăn
chặn và giảm các thiệt hại gây ra là rất
cao.

Tính chất Là những hành vi xâm Là những hành vi nguy hiểm cho xã
của hành vi phạm đến quyền và lợi ích hội.
bị khiếu nại, hợp pháp của công dân.
tố cáo

Mục đích

Mục đích của khiếu nại
hành chính là hướng tới bảo
vệ và khôi phục quyền, lợi
ích hợp pháp của người
khiếu nại.

Mức quan tâm của tố cáo rộng hơn
khiếu nại, đối với lợi ích chung của

toàn xã hội. Mục đích của tố cáo
không chỉ nhằm bảo vệ và khôi phục
quyền, lợi ích hợp pháp của người tố
cáo mà còn bảo vệ quyền, lợi ích của
Nhà nước và xã hội.

Chủ thể thực hiện quyền
khiếu nại không phải chịu
Chủ thể thực hiện quyền tố cáo phải
Trách nhiệm
trách nhiệm pháp lý nếu căn chịu trách nhiệm về những thông tin
pháp lý
cứ pháp lý không đầy đủ,
tố cáo của mình (tội vu khống…).
chính xác.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
12


1.1.1.3. Phân loại tố cáo
Để giải quyết tố cáo của công dân có hiệu quả thì cần phải phân loại tố
cáo. Dựa trên thực tiễn thi hành thì tố cáo được phân thành ba loại sau:
Thứ nhất, tố cáo hành chính, tố cáo về các hành vi vi phạm pháp luật
thuộc phạm vi quản lý của cơ quan nhà nước.
Việc tố cáo và giải quyết tố cáo được điều chỉnh bởi các quy định pháp
luật hành chính. Đây cũng là dạng tố cáo hướng vào các hành vi vi phạm về
các quy định của pháp luật về quản lý hành chính nhà nước. Hậu quả pháp lý
mà người bị tố cáo phải gánh chịu chỉ có thể là chịu trách nhiệm hành chính
hoặc trách nhiệm kỷ luật.
Thứ hai, tố cáo về các hành vi vi phạm của các tổ chức, đoàn thể, cộng

đồng dân cư thuộc phạm vi điều chỉnh của nội bộ các tổ chức, đoàn thể, cộng
đồng dân cư đó:
Đây là dạng tố cáo hướng vào các hành vi trái với tôn chỉ, mục đích đã
được thể hiện quy định của tổ chức, của cộng đồng; trái với luân thường đạo
lý đã mặc nhiên được thừa nhận. Xử lý tố cáo dạng này thực hiện theo quy
định của tổ chức, cộng đồng đã được ghi nhận trong quy chế, điều lệ hoặc
được hình thành mặc nhiên trong cộng đồng.
Thứ ba, tố cáo tội phạm, tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật hình sự:
Khi công dân cho rằng một cá nhân, một tổ chức đã hoặc sẽ thực hiện
hành vi gây nguy hiểm cho xã hội hoặc cho rằng có thể hành vi đó đã vi phạm
các quy định của pháp luật hình sự thì họ thực hiện tố cáo hành vi vi phạm
trước cơ quan có thẩm quyền. Hành vi là đối tượng của tố cáo dạng này được
quy định cụ thể trong pháp luật hình sự. Việc xử lý, giải quyết tố cáo tội phạm
được quy định chặt chẽ và thực hiện theo trình tự thủ tục tố tụng hình sự. Hậu
quả pháp lý là chịu trách nhiệm hình sự.” [31, tr.5]
Việc phân loại tố cáo hiện nay dựa trên thực tiễn giải quyết tố cáo. Việc
phân loại đúng các dạng tố cáo nhằm xác định đúng phương thức giải quyết tố
13


cáo cho phù hợp. Tố cáo thông thường có hai dạng tố cáo hành chính và tố
cáo tội phạm và hai dạng tố cáo này được pháp luật điều chỉnh tùy theo đối
tượng được tố cáo.
Tố cáo trong lĩnh vực đất đai hiện nay thường thể hiện ở các dạng tố
cáo chủ yếu sau:
Thứ nhất, tố cáo cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lợi dụng các
chương trình, dự án của nhà nước để bao chiếm ruộng đất, chia chác đất đai,
nhất là đối với chương trình trồng rừng, các dự án phát triển khu dân cư,các
dự án tái định cư.
Thứ hai, tố cáo cán bộ cửa quyền, nhũng nhiễu trong việc thực hiện các

thủ tục hành chính về đất đai, như: giao đất, cho thuê đất; cho phép chuyển
nhượng quyền sử dụng đất; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; không
thực hiện đăng ký trình tự, thủ tục thu hồi đất,đền bù,hỗ trợ.
Thứ ba, tố cáo Ủy ban nhân dân giao đất trái thẩm quyền; giao đất, cho
thuê đất không đúng đối tượng, không đúng quy hoạch; sử dụng tiền thu từ
quỹ đất công ích trái quy định của pháp luật.
Thứ tư, tố cáo hành vi gian lận trong việc lập phương án bồi thường về
đất đai để tham ô, như lập 2 phương án bồi thường ( cho người có đất bị thu
hồi riêng, để thanh toán với Nhà nước riêng).
Thứ năm, tố cáo hành vi trục lợi về đất đai thông qua việc lập phương
án hoặc điều chỉnh phương án quy hoạch xây dựng đô thị,quy hoạch điểm dân
cư nông thôn không phù hợp với thực tế, gây xáo trộn không cần thiết đối với
đời sống nhân dân.
1.1.2. Giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai
1.1.2.1. Quan niệm về giải quyết tố cáo và đặc điểm của giải quyết tố cáo
Theo quy định của Khoản 7 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011, “giải quyết
tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố
cáo của người giải quyết tố cáo”.
14


Giải quyết tố cáo được hiểu là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo, xác minh, kết luận nội dung tố cáo, xử
lý tố cáo của người giải quyết tố cáo và công khai kết luận nội dung tố cáo,
quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo. Theo đó, giải quyết tố cáo có các
đặc điểm chung cơ bản sau:
Thứ nhất, giải quyết tố cáo là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước.
Giải quyết tố cáo là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Việc giải quyết tố
cáo được thực hiện theo những thủ tục nhất định tùy vào tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. Những hành vi vi phạm ở mức độ

nhẹ thì bị xử lý bằng biện pháp hành chính và sẽ do cơ quan hành chính nhà
nước tiến hành, còn những hành vi vi phạm có tính chất nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện theo trình tự, thủ tục được pháp luật về tố tụng quy định.
Thứ hai, giải quyết tố cáo là hoạt động phải tuân theo những hình thức
và thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Trình tự thủ tục về giải quyết tố cáo
của công dân là nhân tố đảm bảo cho sự hoạt động chặt chẽ, chính xác thẩm
quyền giải quyết tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ ba, giải quyết tố cáo là hoạt động mang tính phối hợp giữa cơ quan
hành chính với cơ quan tổ chức khác. Đó là mối quan hệ giữa cơ quan hành
chính với cơ quan Tư pháp (cơ quan thanh tra với cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, tòa án); giữa cơ quan hành chính với cơ quan tổ chức khác (Ủy ban Kiểm
tra Đảng, các tổ chức đoàn thể) nhất là việc giải quyết tố cáo đối với cán bộ,
công chức nói chung, nhất là cán bộ, công chức là đảng viên hoặc thành viên
các tổ chức chính trị- xã hội khác.
1.1.2.2. Quan niệm về giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai và đặc điểm của
giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Giải quyết tố cáo về đất đai là một dạng giải quyết tố cáo. Giải quyết tố
cáo về đất đai được hiểu là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận,
15


xử lý thông tin tố cáo về đất đai, xác minh, kết luận nội dung tố cáo; xử lý tố cáo
của người giải quyết tố cáo và công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử
lý hành vi vi phạm bị tố cáo trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai.
Trên cơ sở khái niệm này, giải quyết tố cáo về đất đai có những đặc
điểm cơ bản sau đây:
Một là, giải quyết tố cáo về đất đai phải đảm bảo nguyên tắc đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Kiên quyết bảo vệ
những thành quả cách mạng về ruộng đất, đồng thời xử lý kịp thời, đúng pháp

luật những trường hợp có hành vi vi phạm trong quá trình quản lý và sử dụng
đất đai.
Hai là, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải nắm vững quan
điểm lấy dân làm gốc, phải dựa vào dân, bàn bạc dân chủ công khai quỹ đất
với dân để giải quyết và phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ trong nội bộ
nhân dân tìm ra giải pháp, không có ép mệnh lệnh.
Ba là, giải quyết tố cáo về đất đai nhằm mục đích phát triển sản xuất,
ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
Bốn là, giải quyết tố cáo về đất đai một mặt phải tuân thủ quy định của
Luật Tố cáo, mặt khác phải tuân thủ quy định của Luật Đất đai và các văn bản
pháp luật khác có liên quan. Đây là điểm đặc biệt trong giải quyết tố cáo về
đất đai.
1.1.2.3. Các nguyên tắc giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Luật Tố cáo năm 2011 và Điều 3 Thông tư số 06 2013 TT-CP ngày
30/9/2013 về “Quy trình giải quyết tố cáo” quy định về nguyên tắc giải quyết tố
cáo, theo đó:
“1. Việc giải quyết tố cáo phải bảo đảm kịp thời, chính xác, khách quan,
đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn theo quy định của pháp luật; bảo
đảm an toàn cho người tố cáo; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân.
16


2. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, người giải quyết tố cáo, cơ quan,
tổ chức, đơn vị, cá nhân được giao xác minh nội dung tố cáo phải áp dụng các
biện pháp theo thẩm quyền hoặc báo ngay cho cơ quan công an, cơ quan có
thẩm quyền để áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo, ngăn chặn kịp thời
hành vi vi phạm pháp luật” [22, Điều 4].
Như vậy, để hoạt động giải quyết tố cáo đạt hiệu quả cần tuân thủ các
nguyên tắc sau đây:

Một là, nguyên tắc đúng pháp luật
Đây là nguyên tắc cơ bản, bao trùm toàn bộ quá trình giải quyết tố cáo.
Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động giải quyết tố cáo phải tuân thủ đúng trình
tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật quy định. Không một cơ quan, tổ chức,
cá nhân nào có thể tham dự trái pháp luật vào quá trình và kết quả giải quyết
tố cáo và quyết định giải quyết tố cáo đã có hiệu lực pháp luật phải được tôn
trọng và thực hiện.
Hai là, nguyên tắc kịp thời, khách quan
Kịp thời trong giải quyết tố cáo nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân và trong việc phát hiện, phòng ngừa những hành vi vi
phạm trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai.
Tính khách quan trong hoạt động giải quyết tố cáo đòi hỏi cơ quan có
thẩm quyền giải quyết tố cáo phải xem xét, đánh giá trung thực tình hình vụ
việc, khách quan trong việc thu thập, xem xét các tài liệu, bằng chứng và
khách quan trong kết quả giải quyết tố cáo. Qua đây, thể hiện sự quan tâm của
nhà nước đối với quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Ba là, nguyên tắc chính xác, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, đúng
thời hạn
Khi thụ lý giải quyết tố cáo phải xác định đúng thẩm quyền theo chức năng,
nhiệm vụ và khi giải quyết tố cáo, người có thẩm quyền hoặc người được giao xác

17


minh nội dung tố cáo phải đảm kết quả xác minh là chính xác, trung thực, khách
quan; trình tự giải quyết tố cáo tuân thủ đúng các bước tiến hành và đúng thời hạn
đã được quy định.
Bốn là, nguyên tắc đảm bảo an toàn cho người tố cáo
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc người được giao xác minh nội
dung tố cáo, khi cần thiết, phải áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc

báo ngay cho cơ quan công an, cơ quan có thẩm quyền để áp dụng các biện
pháp bảo vệ người tố cáo, ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm pháp luật.
Năm là, nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo
Không chỉ quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo hay lợi ích của nhà
nước, của xã hội cần được bảo vệ, mà quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
tố cáo cũng rất quan trọng và cần được đảm bảo để tránh tình trạng vu khống,
bôi nhọ danh dự công dân, không đúng sự thật làm ảnh hưởng đến uy tín,
danh dự của người bị tố cáo.
1.1.3. Ý nghĩa của công tác giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Tố cáo là quyền chính trị - pháp lý cơ bản của công dân, gắn liền với
các quyền tự do khác của công dân trong tổng hòa quyền và nghĩa vụ của
công dân. Vì vậy, thực hiện quyền tố cáo và giải quyết tố cáo của công dân là
hoạt động đảm bảo quyền làm chủ của công dân, góp phần mở rộng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa và bảo đảm pháp chế.
Hoạt động tố cáo khẳng định mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân
trong quản lý nhà nước, đặc biệt là trong quản lý nguồn tài nguyên đất đai.
Khiếu nại, tố cáo nói chung và tố cáo trong lĩnh vực đất đai nói riêng hiện nay
đang là vấn đề “nóng” trong xã hội. Nếu không giải quyết nhanh chóng, kịp
thời và dứt điểm các khiếu kiện, tố cáo về đất đai sẽ gây hậu quả nghiêm
trọng đến tình hình kinh tế - xã hội nói chung của cả nước, của từng địa
phương, từng dự án nói riêng.
18


Giải quyết tố cáo về đất đai góp phần phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp
thời những hành vi tham nhũng, sai phạm trong quản lý nhà nước về đất đai.
Thông qua quá trình giải quyết đó, những hành vi tham nhũng, lãng phí, vi
phạm pháp luật được làm sáng tỏ, trong sạch bộ máy quản lý nhà nước về đất
đai đồng thời củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Giải quyết tố cáo về đất đai đảm bảo tính dân chủ, đảm bảo quyền và

lợi ích hợp pháp của công dân. Nếu hoạt động tố cáo của công dân chỉ dừng
lại ở việc phát hiện và thông tin các hành vi vi phạm pháp luật của các cá
nhân, tổ chức, cơ quan trong hoạt động quản lý đất đai thì chưa hoàn toàn
đảm bảo quyền và lợi ích của công dân. Kết quả của giải quyết tố cáo về
đất đai còn khôi phục quyền và lợi ích của công dân bị xâm phạm, đáp ứng
mong mỏi chính đáng của công dân khi khiếu kiện, tố cáo lên các cơ quan có
thẩm quyền.
Tóm lại, giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai đáp ứng đầy đủ các vai
trò, trách nhiệm của của hoạt động giải quyết tố cáo nói chung; đặc biệt là vai
trò trong quản lý nhà nước về đất đai – nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của
đất nước. Hay nói cách khác, giải quyết tố cáo về đất đai có ý nghĩa quan
trọng để ổn định tình hình trật tự ở địa phương. Giải quyết tốt tố cáo trong
lĩnh vực đất đai sẽ làm ổn định tình hình địa bàn nơi có xung đột, mâu thuẫn.
Giải quyết tốt khiếu nại tố cáo về đất đai sẽ nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước đối với đất đai.
1.2. Tổng quan pháp luật về tố cáo trong lĩnh vực đất đai
1.2.1. Sơ lược lịch sử phát triển của pháp luật về tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Hiến pháp năm 1959 là bản Hiến pháp đầu tiên quy định cụ thể về
quyền khiếu nại của công dân và là bước phát triển quan trọng trong quản lý
Nhà nước, củng cố địa vị của công dân trong xã hội. Điều 29 Hiến pháp năm
1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền khiếu
nại và tố cáo với bất cứ cơ quan Nhà nước nào về những việc làm vi phạm
19


pháp luật của nhân viên cơ quan Nhà nước…”. Sau khi giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, Hiến pháp năm 1980 tiếp tục quy định và nâng cao về
quyền tố cáo của công dân. Điều 73 Hiến pháp 1980 quy định: “Công dân có
quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc
làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân

dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức, đơn vị đó…”.
Sau Hiến pháp này, quyền tố cáo của công dân được ghi nhận và quy định cụ
thể trong những quy định pháp luật. Bản Hiến pháp mới nhất của nước ta cũng
khẳng định quyền tố cáo của mọi người tại Điều 30 Hiến pháp năm 2013: “Mọi
người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Ngày 27/11/1981, Pháp lệnh quy định về việc xem xét và giải quyết các
khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1981 được ban hành và là văn bản pháp lý
đầu tiên qui định một cách tập trung, đầy đủ và chi tiết việc tiếp nhận và giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Sau khi Pháp lệnh này được ban hành,
ngày 29/3/1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 58 HĐBT về
việc thi hành Pháp lệnh đã qui định cụ thể về thẩm quyền và trách nhiệm của
công dân trong việc khiếu nại, tố cáo. Tiếp tục thừa kế những thành tựu đạt
được của Pháp lệnh năm 1981 và bổ sung những thiếu sót, khắc phục những
tồn tại, ngày 2/5/1991, Pháp lệnh Khiếu nại, Tố cáo được ban hành thay thế
Pháp lệnh năm 1981. Trong Pháp lệnh Khiếu nại, Tố cáo năm 1991, lần đầu
tiên quyền khiếu nại và quyền tố cáo được quy định riêng biệt. Ngày
28/01/1992, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 38 HĐBT về việc thi
hành Pháp lệnh Khiếu nại, Tố cáo.
Ngày 02/12/1998, Quốc hội đã thông qua Luật Khiếu nại, Tố cáo và
Luật có hiệu lực từ ngày 01/01/1999 thay thế Pháp lệnh năm 1991. Đây là văn
bản có hiệu lực cao nhất về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân so với các
văn bản trước đó.
20


×