Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng các biện pháp giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật, đặc biệt là hội chứng tự kỉ tại trường mầm non thị trấn thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.89 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HÒA NHẬP TRẺ
KHUYẾT TẬT, ĐẶC BIỆT LÀ HỘI CHỨNG TỬ KỈ TẠI
TRƯỜNG MẦM NON THỊ TRẤN THƯỜNG XUÂN

Người thực hiện: Lê Thị Bình
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường MN Thị Trấn
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý

THANH HOÁ, NĂM 2019


MỤC LỤC

STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9


10
11
12
13
14
15

CÁC PHẦN CHÍNH CỦA SKKN
Mục lục
1. Mở đầu.
1.1.Lý do chọn đề tài.
1.2.Mục đích nghiên cứu.
1.3.Đối tượng nghiên cứu.
1.4.Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận.
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến.
2.3. Một số biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.
Tài liệu tham khảo

SỐ
TRANG
1
1
2
2

2
2
2
4
6
14
15
15
16
17


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật hiện đang là xu thế của nhiều quốc gia
trong xã hội hiện đại ngày nay.Việt Nam là một trong những quốc gia đó. Nước
ta đã tham gia công ước quốc tế về quyền trẻ em và ban hành luật chăm sóc trẻ
em, đồng thời ngày 17/04/1995 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị định
26/CP giao trách nhiệm tổ chức giáo dục trẻ khuyết tật cho nghành giáo dục. Từ
đó, việc tổ chức giáo dục cho trẻ khuyết tật thuộc các độ tuổi được đặt ra như
một nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục.
Tuy nhiên, xuất phát từ tư tưởng nhân văn, đảm bảo sự bình đẳnggiữa trẻ
với trẻ, đồng thời nhìn nhận vấn đề từ góc độ mục tiêu giáo dục, kinh tế giáo dục
thì phương thức tổ chức giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật là một việc làm
đáng quan tâm.
Các chuyên gia về lĩnh vực giáo dục phục hồi chức năng trẻ khuyết tật
khuyến cáo: nếu được can thiệp sớm ngay ở lứa tuổi mầm non, quá trình hòa
nhập của trẻ sẽ đạt kết quả khả quan hơn. Việc phát hiện sớm, chăm sóc, nuôi
dưỡng và giáo dục hoà nhập cho trẻ từ độ tuổi mầm non sẽ tạo nên những “cơ
hội vàng” đối với mỗi trẻ không may bị khuyết tật vì các kết quả nghiên cứu đã

rất nhiều lần chỉ ra rằng những năm đầu tiên của cuộc đời rất quan trọng trong
việc học và phát triển. Bằng cách tham gia những lớp học hòa nhập ở trường
bình thường cùng với đội ngũ giáo viên hiểu cách ứng dụng những biện pháp
khác nhau vào hoạt động giáo dục, trẻ với những nhu cầu đặc biệt sẽ có một “bắt
đầu thuận lợi” trong việc thực hiện hóa tiềm năng dồi dào của mình.
Hiện nay, ở một số cơ sở mầm non đang tiếp nhận trẻ khuyết tật hòa nhập
nhưng chủ yếu là ở hội chứng trẻ tự kỉ, tuy nhiên trong các văn bản quy phạm
pháp luật đối tượng trẻ rối loạn tự kỉ chưa được đưa vào danh mục trẻ khuyết tật.
Thực tế tại Việt Nam trong khoảng 15 năm trở lại đây, số lượng trẻ mắc chứng
tự kỉ gia tăng đáng kể và trở thành một vấn đề xã hội rất đáng quan tâm. Trong
khi đó nhận thức của các gia đình, cộng đồng, xã hội về hội chứng này còn thiếu
đầy đủ, thậm chí sai lệch; điều đó gây ra rất nhiều khó khăn cho trẻ tự kỉ trong
việc tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ y tế, giáo dục và các chính sách an sinh xã
hội. Tại Mỹ tự kỉ được xếp vào danh mục 13 dạng khuyết tật và vấn đề trẻ tự kỉ
đã được khẳng định là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách y tế.
Trong bối cảnh của xã hội Việt Nam, do chưa có nhiều thông tin về hội chứng tự
kỉ và các dịch vụ dành cho người tự kỉ, nên có nhiều trẻ mắc chứng tự kỉ trong
một thời gian rất dài, nhưng không được phát hiện và can thiệp sớm. Trong khi
đó, phần lớn cán bộ các ngành y tế, giáo dục hoặc cha mẹ trẻ còn thiếu những
kiến thức chuyên môn để có thể phát hiện sớm và chăm sóc trẻ một cách tốt
nhất. Cùng với đó là nhận thức của cộng đồng, xã hội trong công tác chăm sóc,
bảo vệ và đảm bảo quyền cho các em còn gặp rất nhiều hạn chế, dẫn đến nhiều
trẻ dù đã lớn nhưng không nói được, không hòa nhập được với môi trường xã
hội xung quanh và phải sống phụ thuộc vào sự chăm sóc của người thân trong
gia đình. Đây là một vấn đề xã hội rất đáng được lưu tâm, bởi không chỉ riêng
1


trẻ em mà chính những người trưởng thành, cho đến nay vẫn chưa thể hòa nhập
cộng đồng do những rào cản, định kiến xã hội.

Tại Trường mầm non Thị trấn Thường Xuân chúng tôi, trong nhiều năm
vừa quanhà trường thường xuyên đón nhận trẻ em khuyết tật học hòa nhập trong
đó có trẻ ở dạng hội chứng tự kỉ. Cùng với tấm lòng yêu nghề, yêu trẻ đội ngũ
cán bộ, giáo viên, nhân viên của nhà trường đã đón nhận, chăm sóc, giáo dục trẻ
ở hội chứng tự kỉ với mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp
chung của toàn xã hội, hướng tới mục tiêu xây dựng một nền giáo dục có chất
lượng “vì con người” trong đó người khuyết tật nói chung và trẻ mắc chứng tự
kỉ nói riêng được trợ giúp để phát triển tối đa tiềm năng, từ đó có thể tham gia
và đóng góp tích cực cho xã hội.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chúng tôi còn gặp nhiều khó khăn
khác nhau: ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục hòa nhập chưa cụ thể, chưa
phù hợp, chế độ đãi ngộ dành cho giáo viên dạy hòa nhập chưa có; cơ sở vật
chất trang thiết bị, tài liệu dành cho giáo dục hòa nhập thiếu. Đặc biệt là nhận
thức của người dân và cộng đồng về tầm quan trọng của việc can thiệp sớm,
giáo dục hòa nhập cho trẻ mắc hội chứng tự kỉ ngay từ lứa tuổi mầm non còn
hạn chế.
Để thực hiện tốt công tác giáo dục hòa nhập, nhằm tạo cơ hội cho trẻ sớm
hòa nhập cộng đồng ngay từ lứa tuổi mầm non đang trở thành nhu cầu cuả xã
hội. Vậy làm thế nào để giảm bớt những khó khăn, vượt qua được những trở
ngại để đạt kết quả tốt nhất?
Xuất phát từ những lý do trên, cùng sự tâm huyết và kinh nghiệm của bản
thân nên năm học 2018- 2019, tôi mạnh dạn lựa chọn nội dung “Một số giải
pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng các biện pháp giáo dục hòa nhập trẻ
khuyết tật, đặc biệt là hội chứng tự kỉ tại trường mầm non Thị trấn Thường
Xuân” làm đề tài nghiên cứu cho sáng kiến kinh nghiệm của mình.
1.2. Mục đính nghiên cứu:
Giúpphát hiện và can thiệp sớm cho trẻ mắc hội chứng tự kỉ ngay từ lứa
tuổi mầm non được tốt hơn. Đồng thời giúp cộng đồng nhận thức sâu hơn về sự
cần thiết phải tạo cơ hội cho trẻ tự kỉ sớm hòa nhập cộng đồng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng là trẻ mắc hội chứng tự kỉ, công tác quản lý chỉ đạo các hoạt
động giáo dục hòa nhập tại Trường mầm non Thị trấn Thường Xuân năm học
2018- 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
1.4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Tham khảo một số văn bản quy định về giáo dục hòa nhập, các tài liệu về
giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật tại Việt Nam.
Đọc phân tích, tổng hợp, khát quát những tài liệu có liên quan đến các hội
chứng tự kỉ của trẻ em.
1.4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
* Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
2


- Mục đích: Thu thập các thông tin về trẻ mắc hội chứng tự kỉ ở trường
mầm non Thị trấn Thường Xuân.
- Cách tiến hành: sử dụng bài tập khảo sát, ghi chép nhật ký.
* Phương pháp trò truyện
- Mục đích: Nắm được chính xác các thông tin, tình hình, mức độ của trẻ
mắc hội chứng tự kỉ.
- Cách tiến hành: Trò chuyện trực tiếp.
1.4.3. Phương pháp so sánh thống kê: (Sử dụng số liệu của phương pháp
trên)
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của hoạt động giáo dục hòa nhập trẻ mắc hội chứng
tự kỉ ở trường mầm non Thị trấn Thường Xuân.
- Điều lệ trường mầm non
- Luật giáo dục năm 2005
- Luật người khuyết tật năm 2010, điều 3 chương 1 là một bước tiến quan
trọng hướng tới hoàn thiện luật pháp không còn rào cản đối với người tự kỉ để

nhóm người này nhận được sự quan tâm của hệ thống an sinh xã hội.
- Bộ GD&ĐT đã ban hành những văn bản quy địnhvề việc chăm sóc giáo
dục đối với người khuyết tật, tàn tật.
- Quyết định 23/2006/ QĐ- BGD&ĐT quy định về giáo dục hòa nhập cho
người khuyết tật, tàn tật.
+ Trẻ mắc chứng tự kỉ là những đứa trẻ bị tổn thương về cơ thể hoặc rối
loạn những chức năng nhất định gây nên những khó khăn đặc thù trong các hoạt
động học tập, vui chơi và lao động.
+ Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục, trong đó trẻ tự kỉ cùng học
tập với trẻ em bình thường ngay tại nơi trẻ sinh sống. Giáo dục hòa nhập xuất
phát từ quan điểm xã hội về giáo dục, coi nhà trường như một xã hội thu nhỏ và
phản ánh tính chất đa dạng của xã hội, Vì vậy, môi trường giáo dục trong đó
được chú ý cải thiện sao cho phù hợp với nhu cầu đa dạng của học sinh.
+ Khuynh hướng hòa nhập (Mainstreaming – tiếng Anh) có nghĩa là giúp
đỡ người khuyết tật sống, học tập và làm việc trong những điều kiện đặc thù, nơi
họ có cơ hội tốt nhất để trở nên độc lập tới mức mà họ có thể. Khuyng hướng hòa
nhập được định nghĩa như việc hòa nhập trẻ khuyết tật và bình thường trong cùng
một lớp học. Điều này mang lại cho trẻ tự kỉ cơ hội gia nhập “xu hướng chính của
cuộc sống” bằng việc hướng chúng đếnviệc lĩnh hội những kinh nghiệm ở lứa
tuổi mầm non từ những bạn bè bình thường đồng trang lứa, đồng thời cũng mang
đến cho trẻ bình thường có cơ hội học tập và phát triển thông qua việc học hỏi
kinh nghiệm từ những mặt mạnh và yếu của những bạn bè tự kỉ.
Do đó, ta có thể hiểu “hòa nhập” không chỉ mang lại lợi ích cho trẻ tự kỉ
mà còn cho trẻ bình thường. Sự hòa nhập mở ra cơ hội học tập cho cả hai đối
tượng trẻ: trẻ bình thường và trẻ tự kỉ.
3


Tuy nhiên, hòa nhập không chỉ đơn giản là đưa trẻ tự kỉ vào trong một
chương trình giáo dục chung với trẻ bình thường mà phải xây dựng kế hoạch

hoạt động rõ ràng để đảm bảo cho trẻ tự kỉ được tham gia một cách đầy đủ và
tích cực những hoạt động trong lớp học.
2.2 Thực trạng của hoạt động giáo dục trẻ hòa nhập, đặc biệt là hội
chứng tự kỉ tại trường mầm non Thị trấn Thường Xuân.
2.1.1 Thuận lợi, khó khăn
*Thuận lợi
- Trường mầm non Thị trấn Thường Xuân là trường đạt chuẩn quốc gia
mức độ 1 nên các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tương đối
đầy đủ theo yêu cầu giáo dục trẻ, vì vậy nhà trường rất thuận lợi trong việc giúp
trẻ học hòa nhập.
- Ban giám hiệu nhà trường năng động, mạnh dạn, có năng lực, dám nghĩ
dám làm.
- Đội ngũ giáo viên trẻ có trình độ, đào tạo cơ bản, nhiệt tình. Trong
công việc chăm sóc, giáo dục trẻ thì nhanh nhẹn, tháo vát, tận tình, chu đáo
và thực hiện một cách khoa học.Đặc biệt mỗi ngày đến trường các cô giáo
luôn chú ý đến trang phục cũng như tác phong lịch sự, phù hợp với nghề
nghiệp.
- Phụ huynh học sinh là những người quan tâm, thường xuyên phối hợp
chặt chẽ với nhà trường trong các hoạt động chăm sóc, giáo dục con.
* Khó khăn
- Cơ sở vật chất đầu tư cho giáo dục hòa nhập còn đang là vấn đề cần có
sự quan tâm của các cấp, các ngành: thiếu về số lượng, chủng loại ( trang thiết
bị, sách giáo khoa, đồ dùng dạy học đặc thù... )
- Đội ngũ giáo viên chưa có chuyên môn sâu về giáo dục hòa nhập để đáp
ứng nhu cầu học hòa nhập ngày càng tăng của trẻ khuyết tật.
- Nhận thức của cộng đồng về trách nhiệm của xã hội trong việc giáo dục
trẻ em mắc hội chứng tự kỉ chưa đầy đủ. Một số cha mẹ còn mặc cảm, chưa tin
tưởng vào khả năng của con mình. Một số phụ huynh có con bình thường lại hơi
e dè khi con mình học cùng lớp với bạn mắc chứng tự kỉ, đặc biệt là những trẻ
mắc ở mức độ nặng.

2.2.2 Kết quả khảo sát mức độ trẻ tự kỷ trong nhà trường năm học
2018 - 2019
Bảng 1:

Số trẻ khảo sát

Tự kỉ mức độ nhẹ

Tự kỉ ở mức độ
trung bình

Tự kỉ ở mức độ
nặng

15 trẻ

02 trẻ

09 trẻ

04 trẻ

Bảng 2: Các căn cứ của chỉ số mức độ biểu hiện.

4


Mức độ
TK
Tự kỉ

mức độ
nhẹ

Biểu
hiện tự
kỉ ở
mức độ
trung
bình

Biểu
hiện tự
kỉ ở
mức độ
nặng

Phản xạ
mắt

Sợ hãi
hoặc căng
thẳng
Trẻ có thể
Trẻ đôi khi
Trẻ đôi khi
thích nhìn
không phản
thể hiện
vào gương
ứng hoặc

quá nhiều
hoặc ánh
phản ứng quá hay quá ít
đèn hơn
đối với một
sự sợ hãi
chúng bạn, số loại tiếng
hoặc hồi
có thể chăm
động
hộp khi so
chú nhìn lên
sánh với trẻ
bầu trời,
bình
hoặc tránh
thường
nhìn vào
trong tình
mắt người
huống
lớn
tương tự
Trẻ có thể
Trẻ có thể
Trẻ đặc biệt
nhìn chằm
giật mình
thể hiện sự
chằm vào

hoặc che tai sợ hãi hoặc
bầu trời,
khi nghe thấy hơi nhiều
tránh không
những âm
hoặc hơi ít
nhìn vào
thanh thường ngay cả so
mắt người
ngày
với trẻ ít
lớn, giữ đồ
tháng hơn
vật rất gần
trong tình
với mắt
huống
tương tự

Trẻ luôn
tránh không
nhìn vào
mắt người
lớn

Phản xạ
nghe

Giao tiếp
không lời


Giao tiếp
có lời

Nhìn chung
Non nớt
nói chậm.
trong việc
Hầu hết lời
dùng các
nói có
đối thoại
nghĩa, tuy không bằng
nhiên có
lời, hoặc
thể xuất
với tay tới
hiện sự lặp
cái trẻ
lại máy
muốn
móc hoặc
phát âm bị
đảo lộn

Có thể
không nói,
khi nói
giao tiếp
bằng lời có

thể lẫn lộn
giữa những
lời nói có
nghĩa và
những lời
nói khác
biệt như là
không rõ
nghĩa
Trẻ quá phản Luôn sợ hãi Không có
ứng hoặc
ngay cả đã
lời nói có
phản ứng
gặp lại
nghĩa. Trẻ
dưới mức
những tình có thể kêu
bình thường
huống và thét như trẻ
với âm thanh đồ vật vô
mới sinh,
ở một mức
hại
kêu những
độ khác
tiếng kêu kì
thường cho
lạ hoặc như
dù đó là âm

tiếng kêu
thanh nào
của động
vật

Thông
thường trẻ
không thể
diễn đạt
bằng lời cái
trẻ cần
hoặc mong
muốn và
không thể
hiểu được
giao tiếp
không lời
của những
người khác
Trẻ chỉ có
thể thể hiện
những cử
chỉ kì quái
hoặc khác
thường mà
không rõ
nghĩa và
thể hiện sự
không nhận
thức được

các ý nghĩa
liên quan
đến cử chỉ
5


hoặc biểu
hiện nét
mặt của
những
người khác
Bảng 3: Kết quả khảo sát trên trẻ

STT

Số trẻ
tự kỉ
KS

1

2

3

15 trẻ

Mức độ
tự kỉ


Phản
xạ
mắt

Phản
xạ nghe

Sự sợ
Giao
hãi
tiếp
hoặc
không
căng
lời
thẳng
Tự kỉ mức 5/15trẻ 6/15 trẻ
10/15
8/15 trẻ
độ nhẹ
=
= 40%
trẻ =
= 53,3
33,3%
66,6 %
%
Tự kỉ mức 6/15 4/15 trẻ 3/15 trẻ 2/15 trẻ
độ trung
trẻ = = 26,7% = 20% = 13,4%

bình
40%
Tự kỉ mức 4/15trẻ 5/15 trẻ 2/15 trẻ 5/15 trẻ
độ nặng
= 26,7 = 33,3% = 13,3% = 33,3%

Giao
tiếp có
lời

8/15 trẻ
= 53,3%
4/15 trẻ
= 26,7%
3/15 trẻ
= 20%

2.3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục hòa
nhập trẻ tự kỉ tại trường
Xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn trên, trong quá trình thực hiện
tôi đã áp dụng một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi
dưỡng, giáo dục hòa nhập trẻ tự kỉ tại trường.
* Giải pháp 1. Xây dựng kế hoạch giáo dục hòa nhập và sắp xếp giáo
viên, phân chia trẻ
* Xây dựng kế hoạch giáo dục hòa nhập
Việc chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục một trẻ bình thường đã khó, chăm sóc
nuôi dưỡng giáo dục trẻ khuyết tật càng khó hơn nhiều. Đó là một quá trình
không phải một tháng, không phải một năm mà trong nhiều năm tháng liên tục.
Kế hoạch là chương trình hành động tổng quát, là kế hoạch triển khai và
phân bố các nguồn lực cơ bản quan trọng để đạt được các mục tiêu cơ bản, toàn

diện và lâu dài của nhà trường nói chung. Với giáo dục hòa nhập cũng vậy, việc
xây dựng kế hoạch thực hiện trong cả năm học là việc cụ thể hóa các mục tiêu
cần đạt được trong cả năm học và các phương thức đạt được các mục tiêu ấy.
Việc xây dựng kế hoạch dài hạn cho cả năm học sẽ giúp cho người cán bộ quản
lý chủ động trong công tác chỉ đạo. Thông qua đó có thể triển khai các hoạt
động theo đúng lộ trình một cách khoa học, đồng thời có thể bổ sung, điều chỉnh
cho phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường. Nhận thức được tầm quan
trọng của vấn đề này, với mục tiêu là huy động 76% trẻ khuyết tật trong độ tuổi
6


đến trường, thực hiện việc chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục hòa nhập cho trẻ có
hiệu quả, trong kế hoạch tôi đã đề ra lịch trình cụ thể như sau:
- Tháng 6 + 7: Phân loại trẻ tự kỉ ở mức độ khác nhau, phát hiện kịp thời
những biểu hiện sớm để có biện pháp phối hợp cùng với cha mẹ.
- Tháng 8 + 9: Sắp xếp, ổn định đội ngũ giáo viên, biên chế trẻ tự kỉ vào
các nhóm, lớp phù hợp. Bồi dưỡng kiến thức về giáo dục hòa nhập cho giáo viên
trong lớp có trẻ tự kỉ. Chỉ đạo giáo viên điều tra những thông tin cơ bản về trẻ,
qua đó xây dựng kế hoạch nhóm, lớp và kế hoạch cá nhân cho trẻ tự kỉ.
Những tháng tiếp theo thực hiện chế độ tặng quà đối với trẻ tự kỉ học hòa
nhập tại trường.
+ Tiếp tục bồi dưỡng kiến thức về giáo dục hòa nhập cho giáo viên, quan
tâm nhiều hơn đến kĩ năng thực hành thông qua việc dự giờ, thăm lớp, tổ chức
các buổi kiến tập về giáo dục hòa nhập tại trường.
+ Hướng dẫn giáo viên cách ghi chép, đánh gia sự tiến bộ của trẻ qua mỗi
chủ đề.
- Tháng 4 + 5: Đánh giá trẻ cuối năm học, chuẩn bị hoàn thiện hồ sơ cá
nhân trẻ, bàn giao lại cho phụ huynh (đối với những trẻ tự kỷ chuyển lên học
tiểu học)
+ Đánh giá kết quả giáo dục hòa nhập của nhà trường trong cả năm học,

rút kinh nghiệm cho năm học tiếp theo.
Mặc dù đây là công việc thường làm nhưng so với trước đây trong kế
hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học của nhà trường chúng tôi vẫn đưa giáo dục
hòa nhập vào và coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm học chứ
chưa xây dựng kế hoạch riêng dành cho các hoạt động hòa nhập. Với việc thực
hiện kế hoạch như vậy chúng tôi vẫn tiến hành công tác giáo dục hòa nhập song
song với các nhiệm vụ khác. Tuy nhiên với biện pháp mới này sẽ giúp cho việc
triển khai các nhiệm vụ một cách cụ thể, chi tiết hơn, việc đánh giá kết quả cũng
đầy đủ hơn giúp cho hiệu quả giáo dục hòa nhập được tốt hơn. Qua thực tế một
năm học thực hiện biện pháp này giúp tôi quản lý các hoạt động giáo dục hòa
nhập có hiệu quả, khoa học hơn và cập nhật được thông tin kịp thời. Việc điều
chỉnh và bổ sung kế hoạch cũng dễ dàng hơn. Đặc biệt trẻ tự kỉ được theo dõi sát
sao hơn, đánh giá sự tiến bộ của trẻ được theo dõi có hệ thống đầy đủ hơn.
* Sắp xếp giáo viên, phân chia trẻ tự kỷ về các lớp hợp lý
Với đặc điểm chung của trường có 26 nhóm/ lớp, đội ngũ giáo viên đa số
lại trẻ tuổi đời, ít tuổi nghề, kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều, không ít đồng
chí lại chưa làm mẹ. Trẻ tự kỉ học hòa nhập trong trường lại có trẻ mới, có trẻ cũ
đã học tại trường. Vậy làm thế nào để vừa đảm bảo chất lượng chăm sóc giáo
dục chung mà vẫn tạo được cơ hội tốt nhất cho trẻ tự kỉ?
- Ngay từ khi mới nhận trẻ vào trường, tôi đã chỉ đạo ban tuyển sinh biên
chế trẻ khuyết tật vào một lớp theo đúng độ tuổi. Thực hiện theo hướng dẫn của
điều lệ trường mầm non, mỗi một lớp mẫu giáo không quá hai trẻ cùng một loại
khuyết tật. Việc giảm sĩ số học sinh trong lớp có trẻ tự kỉ để tạo điều kiện cho
7


giáo viên có thêm thời gian và cho trẻ khuyết tật có thêm cơ hội được chăm sóc
chu đáo hơn.
- Không chỉ có vậy, chúng tôi đã sắp xếp giáo viên vào các lớp đó sao cho
ít nhất từ 1-2 giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong chăm sóc trẻ nhỏ, lựa chọn

những giáo viên có tính tình nhẹ nhàng, kiên trì, chu đáo, tỉ mỉ vào những lớp có
trẻ tự kỷ. Bên cạnh đó không thay đổi 100% số giáo viên trong lớp. Thường là
chúng tôi giữ lại ít nhất một giáo viên theo trẻ chuyển lên lớp trên và tìm hiểu
xem trẻ yêu quý cô giáo nào nhất thì nếu có thể sẽ lựa chọn cô giáo đó theo trẻ
lên lớp trên.
Qua quá trình thực hiện biện pháp này. Tôi nhận thấy trẻ được chăm sóc
rất chu đáo, có tiến bộ, yêu quý cô và bạn, cô giáo cũng hết lòng thương yêu trẻ,
dành cho trẻ nhiều sự quan tâm hơn. Sau hơn một năm không có giáo viên hay
trẻ tự kỉ nào cần luân chuyển lớp. Cha mẹ trẻ cũng rất yên tâm và tin tưởng vào
cô giáo, vào sự sắp xếp của nhà trường.
* Giải pháp 2: Chỉ đạo giáo viên các lớp xây dựng nội quy bằng các
hình ảnh minh họa.
Trẻ em nói chung đều rất dễ bị thu hút bởi những hình ảnh hơn là lời
hướng dẫn, chỉ bảo của người lớn. Mà trẻ tự kỉ lại vốn khó tác động nên tôi nghĩ
dùng hình ảnh để hướng dẫn trẻ những nội quy cần thiết trong trường, lớp là một
việc làm cần thiết.
Nên mỗi năm học tôi đều yêu cầu các giáo viên xây dựng nội quy tại lớp
của mình, nội quy khu vực rửa tay, khu vệ sinh, khu vườn hoa, cây cảnh, khu vui
chơi để trẻ, đặc biệt là trẻ tự kỉ quan sát, rồi cùng với lới hướng dẫn của các cô
để các cháu từ từ hiểu và thực hiện.

Ảnh: Biển chỉ dẫn bằng hình cho trẻ tự kỉ

8


Ví dụ như tại những chậu cây cảnh trước lớp, tôi chỉ đạo giáo viên làm
biển chỉ dẫn với hình ảnh cấm ngắt hoa bẻ cành. Hay tại trong lớp các giáo viên
sẽ có biển chỉ dẫn với hình ảnh cấm vẽ bậy lên tường,…..
Kết quả sau khi áp dụng giải pháp này, chúng tôi thấy rằng trẻ tự kỉ đã

thực hiện rất tốt những nội quy mà cô giáo đề ra.Đặc biệt việc làm này cũng
có tác động rất tốt đến những trẻ bình thường. Và một điều rất ưu việt nữa là
những trẻ bình thường có thể trở thành những cộng tác viên đắc lực cho cô
giáo trong quá trình hướng dẫn trẻ tự kỉnội quy, bởi lẽ những trẻ bình thường
sẽ nhận biết nhanh hơn trẻ tự kỉ và khi cần trẻ chỉ cần nhìn vào hình ảnh là
nhớ ra ngay nội quy.
* Giải pháp 3. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng về
tầm quan trọng của giáo dục hòa nhập và vận động trẻ khuyết tật (tự kỉ) ra
lớp học hòa nhập.
Nhận thức của cộng đồng xã hội, của phụ huynh và giáo viên cũng là
một trở ngại trong công tác giáo dục hòa nhập trẻ tự kỉ trong trường mầm
non. Trên thực tế hiện nay, không phải trường, lớp nào cũng đón nhận trẻ tự
kỉ ra học hòa nhập.Trong khi đó do còn hạn chế về nhận thức nên không ít
phụ huynh có con bị khuyết tật đã không nghĩ đến việc chạy chữa cho con
mình ngay từ khi còn bé, một số do mặc cảm nên không chịu thừa nhận con
mình bị tự kỉ và không chịu đón nhận sự chia sẻ, giúp đỡ của cộng đồng.
Thậm chí có gia đình còn giấu kín, suốt ngày nhốt trẻ trong nhà không cho
đến trường. Do đó việc can thiệp sớm đối với những trẻ tự kỉ còn gặp nhiều
khó khăn.
Tại góc tuyên truyền của nhà trường, chúng tôi cũng có những bài viết
ngắn, những hình ảnh minh họa với những nội dung liên quan đến giáo dục hòa
nhập để tuyên truyền với những phụ huynh trong trường, lớp.
Không chỉ có vậy kết quả khảo sát đầu năm cho thấy số trẻ ở dạng tự
kỉ chiếm đa số trẻ khuyết tật trên địa bàn. Chúng tôi đã mời phụ huynh tham
dự các buổi trao đổi, tư vấn của các bác sĩ, chuyên viên nhằm sẻ chia những
nguyên nhân, biểu hiện và tầm quan trọng của việc phát hiện và can thiệp
sớm đối với trẻ khuyết tật nói chung và trẻ tự kỉ nói riêng, ngay sau buổi nói
chuyện rất nhiều phụ huynh đã chủ động đến gặp bác sĩ, gặp ban giám hiệu
nhà trường để chia sẻ một số nghi vấn và khó khăn. Một số phụ huynh đã
liên hệ với bác sĩ và đưa con đến khám để xác định bệnh. Đó là thành công

bước đầu của chúng tôi trong việc giúp cha mẹ trẻ tự kỉ vượt qua rào cản tự
ti và sẵn sàng dành cơ hội cho con mình có thể nhanh chóng hòa nhập với
cộng đồng.
Ngoài ra trong các cuộc họp của các ban ngành đoàn thể trên địa bàn,
chúng tôi đã phối hợp với đội ngũ cộng tác viên dân số kế hoạch hóa gia
đình, các hội viên của các chi hội phụ nữ, đoàn thanh niên trên địa bàn
huyện cùng tuyên truyền về tầm quan trọng của việc đưa trẻ tự kỉ sớm hòa
nhập với cộng đồng.
9


Ảnh: Họp với các cơ quan đoàn thể Thị Trấn
Kết quả sau một năm học nhờ việc thực hiện tốt công tác tuyên truyền nên
số trẻ khuyết tật ra lớp học hòa nhập tăng lên, cha mẹ trẻ tự kỉ tin tưởng hơn vào
khả năng của con mình và tin tưởng vào chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng giáo
dục hòa nhập trẻ tại trường.
* Giải pháp 4. Bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên.
- Tuyên truyền vận động được trẻ tự kỉ đến trường đã khó, song đó chưa
phải mục tiêu duy nhất của giáo dục hòa nhập. Làm thế nào để trẻ tự kỉ có cơ hội
được rèn luyện, được chăm sóc, làm thế nào để khơi dậy tiềm năng cá nhân ở
mỗi một con trẻ không may bị thiệt thòi? Đó là những vấn đề mà mỗi chúng tôi,
những người đã, đang và sẽ làm mẹ đều trăn trở. Tuy nhiên khó khăn ở trường
mầm non là giáo viên chưa được đào tạo, chưa được trang bị những kiến thức về
chăm sóc giáo dục trẻ tự kỷ. Hầu hết những người chúng tôi khi tiếp nhận trẻ
đều băn khoăn liệu mình có giúp gì được cho em bé này không? Nhưng rồi với
tấm lòng của người mẹ hiền thứ hai, bằng tình yêu đối với trẻ thơvà lòng nhiệt
huyết với nghề đã thôi thúc chúng tôi không ngừng tìm tòi, học hỏi và tìm hiểu
những thông tin liên quan đến vấn đề giáo dục hòa nhập. Biết những thông tin
đó nhưng không biết thế nào là đủ và phải áp dụng thế nào cho hiệu quả. Với
cương vị là người đứng đầu đơn vị tôi thấy việc trang bị những kiến thức sơ

đẳng nhất về giáo dục hòa nhập cho giáo viên là vô cùng cần thiết.
- Ngay từ đầu năm học, tôi đã sưu tầm một số tài liệu với nội dung về trẻ
tự kỉ, về vấn đề can thiệp sớm và tạo cơ hội cho trẻ tự kỉsớm hòa nhập ngay từ
lứa tuổi mầm non. Tôi đã tham khảo một số tài liệu của Viện chiến lược và
chương trình giáo dục dành cho các lớp tập huấn giáo viên dạy trong môi trường
hòa nhập.
- Sau khi tìm kiếm tài liệu, tôi chọn lọc những nội dung liên quan, tùy
thuộc vào loại tật của trẻ để hướng giáo viên nghiên cứu, tự học hỏi để hiểu hơn
về chương trình giáo dục hòa nhập, đặc biệt để tìm hiểu thêm những thông tin,
cập nhật những kiến thức cơ bản nhất giúp cho việc đón nhận, chăm sóc giáo
dục trẻ hòa nhập. Sau đó, tôi chủ động tổ chức những buổi sinh hoạt để các giáo
viên trao đổi những kiến thức về giáo dục trẻ tự kỉ mà mình thu nhận được để
đồng nghiệp đóng góp ý kiến, học hỏi.
10


Ảnh: Họp triển khai chuyên đề
- Công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên không chỉ dừng ở
những kiến thức về lý thuyết trên sách vở. Với những trẻ bình thường, trình độ
nhận thức của các trẻ tương đối đồng đều nên giáo viên có thể xây dựng một kế
hoạch dùng chung cho cả lớp. Tuy nhiên với trẻ tự kỉ thì khác, mỗi trẻ ở một
dạng khác nhau, lại có những trẻ tuy cùng một hội chứng tự kỉ nhưng mức độ
nặng nhẹ cũng khác nhau nên cần có biện pháp hỗ trợ can thiệp khác nhau phù
hợp với từng trẻ. Tôi đã hướng dẫn giáo viên tìm hiểu, tập hợp những thông tin
về bản thân trẻ. Qua đó, chúng tôi xác định được điểm mạnh, điểm yếu của
mỗi trẻ. Đây là căn cứ giúp cho việc xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân và
lập hồ sơ theo dõi trẻ trên cơ sở xác định đúng khả năng và nhu cầu của mỗi trẻ
ở mỗi dạng dị tật khác nhau. Bên cạnh đó cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương
tiện, đồ dùng dạy học đặc thù phục vụ cho việc thực hiện giáo dục hòa nhập
chưa có nên việc xác định đúng khả năng và nhu cầu của trẻ còn gặp nhiều khó

khăn, cũng như ảnh hưởng đến chất lượng của việc xây dựng kế hoạch giáo
dục cá nhân cho trẻ.
Ví dụ: Với cháu Lê Đình Long Vũ là học sinh của trường . Khi mới vào
trường chỉ phá đồ chơi, la hét, mọi hoạt động hằng ngày như có sự mặc định: chỉ
ngồi đúng một góc lớp, chỉ cho đúng một cô giáo chăm sóc và lại gần, không
nói, không để ý đến ai, sau một số năm học cháu đã có sự tiến bộ, đã biết vào
nhà vệ sinh khi cô hướng dẫn, bắt đầu đi lại trong lớp. Năm học này qua khảo
sát chúng tôi nhận thấy sở thích của cháu là nghenhạc, thích chơi các loại lô tô
nhiều màu sắc nhưng lại không có khả năng hợp tác, chỉ nói được một số từ đơn
giản có một tiếng như cô, mẹ, ăn ... Chúng tôi đã dựa vào đặc điểm này sử dụng
11


âm nhạc để hướng cháu vào một số hoạt động chung, chỉ đạo giáo viên lựa
chọn, sưu tầm, tự làm một số lô tô với những hình ảnh minh họa khác nhau. Lúc
đầu chỉ là những hành động như: rửa tay, rửa mặt, ăn cơm, đi ngủ, sau đó là ngồi
học, xếp hàng, tập thể dục...Dùng những lô tô cho cháu chơi và hướng cháu nói
theo cô để nhận được những lô tô đó.
Với cháu Lê Quý Việt Khanglại là một trường hợp khác. Là một trẻ tự kỉ
ở mức độ tương đối nặng. Suốt ngày cháu chỉ la hét, đập phá đồ chơi, lăn ra
khóc, không chơi với ai...Nói chung qua khảo sát ban đầu cháu thấy không có
điểm mạnh nào đặc biệt. Với trẻ này chúng tôi làm theo phương pháp thử và
sai:dùng nhiều cách thức khác nhau để thu hút cháu: cho cháu nghe nhạc, cho
cháu đồ chơi mới, cho xem phim, cho xem tranh ảnh....Sau đó xác định được
cháu thích nghe nhạc sôi động có lời. Chúng tôi đã chỉ đạo giáo viên sưu tầm,
lựa chọn các bài hát thiếu nhi ngắn, có lời, giai điệu sôi nổi kết hợp với các động
tác vận động như, tập lái ô tô, làm chú bộ đội...
Sau khi đã xây dựng được kế hoạch cá nhân, một điều không thể thiếu là
áp dụng và đánh giá hiệu quả của kế hoạch trên thực tế. Tôi đã trực tiếp xuống
dự giờ, góp ý cho giáo viên. Tổ chức những buổi kiến tập thực hành tại những

lớp có trẻ khuyết tật. Việc dự giờ không chỉ tập trung vào các hoạt động học
mà chúng tôi quan tâm đến mọi hoạt động: có thể là giờ đón trẻ, giờ thể dục
buổi sáng, hướng dẫn kĩ năng vệ sinh, kĩ năng sống đơn giản. Qua việc dự giờ
chúng tôi trau dồi hơn về kinh nghiệm thực tế, rút kinh nghiệm cho những hoạt
động khác.
Mặt khác chúng tôi đã chỉ đạo giáo viên xây dựngnhững nhóm bạn bè,
đây là những thành viên được lựa chọn từ những trẻ bình thường trong lớp. Trẻ
đó phải nhanh nhẹn, hoạt bát nhưng phải được trẻ khuyết tật tin tưởng và sẵn
sàng giúp bạn khi có khó khăn và khi không có cô. Một việc tưởng chừng như
đơn giản lại không hề đơn giản. Nhưng với sự quan tâm, lòng kiên trì nên ở mỗi
lớp giáo viên của chúng tôi đã gắn kết được một số trẻ bình thường với trẻ
khuyết tật. Trong nhóm bạn đó trẻ được quan tâm ở mọi hoạt động: được giúp
đỡ trong giờ chơi, giờ học, giờ ăn và bất cứ khi nào trẻ có nhu cầu. Nếu nhu cầu
đó đơn giản, trong khả năng thì nhóm bạn sẽ trợ giúp (ví dụ: nhắc nhở, dắt tay
xếp hàng tập thể dục, lấy đồ dùng...), nếu đó là việc khó làm thì nhóm bạn sẽ
nhờ cô giúp đỡ. Nhờ đó giáo viên sẽ kiểm soát được và kịp thời can thiệp khi trẻ
gặp khó khăn.
Kết quả công tác bồi dưỡng chuyên môn cho thấy: giáo viên đã tự tin hơn
khi tổ chức các hoạt động cho trẻ, chủ động đề xuất những thay đổi, điều chỉnh
kế hoạch cá nhân cho phù hợp với sự tiến bộ của trẻ. Đặc biệt giáo viên không
còn ngại vất vả hay lo sợ khi nhận trẻ khuyết tật vào lớp mình nữa. Dù sự tiến
bộ của trẻ chưa nhiều nhưng chúng tôi hiểu rằng việc giáo dục chăm sóc trẻ
khuyết tật cần có nhiều thời gian, nhiều sự cố gắng kiên trì của người giáo viên
cũng như có sự quan tâm của cả gia đình và xã hội.
* Giải pháp 5. Quản lý tốt hồ sơ cá nhân của trẻ tự kỷ.
- Xây dựng kế hoạch, tập hợp những thông tin cơ bản về trẻ tự kỉ là việc
làm vô cùng cần thiết. Nhưng mỗi năm cùng với việc thay đổi của thời gian, trẻ
12



tự kỉ cũng lớn dần lên và ít nhiều trẻ cũng có sự chuyển biến, thay đổi về tâm lý,
tính cách, hành vi cá nhân. Nhưng có một điều rất khó thay đổi ngay, đó là khả
năng thích nghi của trẻvới môi trường mới, với những người mới. Làm thế nào
để sau mỗi năm khi có sự luân chuyển trẻ, luân chuyển giáo viên thì việc chăm
sóc, giáo dục trẻ không bị gián đoạn?
- Để giải quyết khó khăn vướng mắc trên chúng tôi đã lập cho trẻ một bộ
hồ sơ riêng, chỉ đạo giáo viên lưu giữ đầy đủ những thông tin về trẻ, những kế
hoạch đã thực hiện, kết quả ghi chép những tiến bộ của trẻ, cả những sản phẩm
của trẻ làm ra chúng tôi cũng lưu giữ lại. Sau mỗi một tháng và cuối năm học
chúng tôi photo lại một bản gửi về cho cha mẹ, bản gốc sẽ được lưu giữ lại để
chuyển giao cho giáo viên sau. Hồ sơ này sẽ được chuyển giao lại cho phụ
huynh vào năm cuối khi trẻ rời trường mầm non chuyển cấp hoặc vì một lý do
nào đó trẻ đến một ngôi trường khác trong quá trình học tập.
- Với cách làm như vậy, tôi nghĩ sau mỗi năm cơ hôi dành cho mỗi trẻ tự
kỉ sẽ nhiều lên, giáo viên cũng đỡ vất vả hơn khi đón nhận trẻ vào lớp, phụ
huynh sẽ yên tâm hơn vào khả năng của con, tin tưởng hơn vàogiáo viên khi gửi
con đến trường. Đồng thời đối với nhà trường nó giúp cho công tác quản lý đầy
đủ, khoa học, toàn diện hơn trong công tác giáo dục hòa nhập.
* Giải pháp 6. Phối hợp với phụ huynh và cộng đồng trong chăm sóc,
giáo dục trẻ tự kỉ học hòa nhập.
- Cũng giống như bao trẻ em khác, trẻ tự kỉ ở lứa tuổi mầm non yếu ớt,
còn non dại và đa số các em thường có biểu hiện kém về mặt thể chất. Hơn mọi
trẻ em khác, trẻ tự kỉ cần nhiều hơn sự yêu thương, đùm bọc, quan tâm của cha
mẹ, người thân và của cả cộng đồng. Để giúp trẻ phát triển bình thường, vượt
lên số phận cần cho trẻ nhiều cơ hội can thiệp sớm: cơ hội được học tập, được
hòa nhập cộng đồng, được hưởng dịch vụ chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội
khác mà thiếu một trong những cơ hội đó trẻ sẽ không thể vượt qua được những
khó khăn của mình để sống bình thường như những trẻ khác.
- Nhận thức rõ điều này nên khi nhận mỗi trẻ đến trường, điều đầu tiên
sau khi quan sát các con, chúng tôi đã gặp ngay cha mẹ để tìm hiểu thông tin.

Qua đó để nắm bắt những đặc điểm riêng, những thói quen của trẻ để trước khi
giúp trẻ hòa nhập được với môi trường ở trường, lớp mầm non chúng tôi sẽ cố
gắng tạo cho trẻ một cảm giác an toàn vì được che chở, được yêu thương và đỡ
cảm thấy xa lạ khi mới đến trường. Đồng thời chúng tôi sẻ chia kinh nghiệm
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ với phụ huynh để tạo nên mối liên hệ mật
thiết, đồng nhất về quan điểm, cách thực hiện kế hoạch một cách có hiệu quả
nhất.
- Bên cạnh phụ huynh có con bị tự kỉ, chúng tôi còn dùng những tấm
gương của các trẻ em khác cùng lớp trong những việc làm quan tâm chia sẻ,
giúp đỡ các bạn khuyết tật. Chúng tôi cũng giải thích để phụ huynh thông cảm
rằng: việc học và chơi hòa nhập không chỉ mang lại cơ hội tốt đối với những trẻ
em tự kỉ mà còn là cơ hội để giáo dục đạo đức cho mọi trẻ em, là việc làm
hướng tới mục tiêu xây dựng một nền giáo dục nhân văn trong vòng tay nhân ái.
13


- Hằng ngày khi nhìn hình ảnh trẻ tự kỉ chơi và học hòa nhập bên cạnh
những trẻ em khác phụ huynh đã mỉm cười trìu mến. Nhiều cha mẹ trẻ tự kỉ đã
chủ động đề xuất những biện pháp, những cách làm và xin tài liệu để kết hợp
chăm sóc con tại nhà. Những ngày hội, ngày lễ trẻ khuyết tật cũng được quan
tâm nhiều hơn của hội cha mẹ học sinh trong trường, của các ban ngành đoàn
thể khác. Dù sự quan tâm đó chưa có giá trị lớn về mặt vật chất nhưng đó là
món quà vô giá về mặt tinh thần và mang giá trị nhân văn.
2.4. Hiệu quả của công tác nâng cao chất lượng giáo dục trẻ tự kỉ học
hòa nhập trong nhà trường.
* Kết quả khảo sát đầu năm.

STT

Số trẻ

tự kỉ
KS

1

2

15 trẻ

3

Mức độ
tự kỉ

Phản
xạ
mắt

Phản
xạ nghe

Sự sợ
Giao
hãi
tiếp
hoặc
không
căng
lời
thẳng

Tự kỉ mức 5/15trẻ 6/15 trẻ
10/15
8/15 trẻ
độ nhẹ
=
= 40%
trẻ =
= 53,3
33,3%
66,6 %
%
Tự kỉ mức 6/15 4/15 trẻ 3/15 trẻ 2/15 trẻ
độ trung
trẻ = = 26,7% = 20% = 13,4%
bình
40%
Tự kỉ mức 4/15trẻ 5/15 trẻ 2/15 trẻ 5/15 trẻ
độ nặng
= 26,7 = 33,3% = 13,3% = 33,3%

Giao
tiếp có
lời

8/15 trẻ
= 53,3%
4/15 trẻ
= 26,7%
3/15 trẻ
= 20%


* Kết quả khảo sát cuối năm

STT

Số trẻ
tự kỉ
KS

1

2

3

4

15 trẻ

Sự sợ
hãi
Mức độ tự Phản
Phản
hoặc
kỉ
xạ mắt xạ nghe
căng
thẳng
Mức độ 6/15 trẻ 5/15 trẻ 7/15 trẻ
biểu hiện = 40%

=
=
bình
33,3%
46,6%
thường
Tự kỉ mức 5/15 trẻ 5/15 trẻ 6/15 trẻ
độ nhẹ
=33,3%
=
= 40%
33,3%
Tự kỉ mức 3/15 trẻ 3/15 trẻ 1/15 trẻ
độ trung
= 20% = 20% = 6,7%
bình
Tự kỉ mức 1/15 trẻ 2/15 trẻ 1/15 trẻ
độ nặng
= 6,7%
=
= 6,7%
13,4%

Giao
tiếp
không
lời

Giao
tiếp có

lời

6/15 trẻ
= 40%

6/15 trẻ
= 40%

5/15 trẻ
=
33,3%
4/15 trẻ
=
26,7%
0

6/15 trẻ
= 40%
3/15 trẻ
= 20%
0

14


Sau một năm thực hiện một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng các
hoạt động giáo dục hòa nhập trẻ tự kỉ tại trường mầm non thị trấn Thường Xuân,
tôi đã đạt được một số kết quả như sau:
- Việc xây dựng kế hoạch và đề ra các giả pháp phù hợp với yêu cầu và
tình hình thực tế của trường, lớp. Chính điều đó đã giúp công tác giáo dục hòa

nhập trong nhà trường đi đúng hướng, đúng tiến độ đến nay đã đạt được mục
tiêu đề ra
- Nhận thức của cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường, phụ huynh
và cộng đồng được nâng lên. Các hoạt động của giáo dục hòa nhập trong nhà
trường được thực hiện phù hợp, được chính quyền địa phương, gia đình và trẻ
em chấp nhận, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện. Hoạt động chăm sóc giáo
dục trẻ tự kỉ trong nhà trường đã nhận được sự quan tâm của cộng đồng và được
coi là nhu cầu của các gia đình có trẻ kém may mắn.
- Công tác hiệu quả giáo giục của nhà trường đã đạt được hiệu quả cao
hơn, giúp người quản lý nắm rõ hơn tình hình thực tế, kiểm soát chặt chẽ các
hoạt dộng giáo dục hòa nhập trong trường.
- Đã hình thành được mối liên hệ chặt chẽ gia đình, nhà trường và cộng
đồng trong hợp tác, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ khuyết tật.
- Trình độ chuyên môn của giáo viên được nâng lên, kinh nghiệm chăm
sóc giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật được tích lũy nhiều hơn. Người giáo viên
đã tự chủ hơn trong việc xây dựng kế hoạch giáo dục và cách thức tiếp cận phù
hợp hơn với trẻ tự kỉ trong lớp mình.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Qua chỉ đạo và tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục hòa nhập tại
trường trong năm học vừa qua, tôi đã rút ra một số bài học kinh nghiêm như sau:
- Muốn giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật nói chung và giáo dục hòa nhập
trẻ tư kỉ trong trường mầm non nói riêng thành công trước hết phải nói đến sự
quan tâm, nhận thức đúng, đủ và trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy
Đảng, chính quyền, sự vào cuộc của các cấp các ngành và của toàn xã hội.
- Cần không ngừng đẩy mạnh, nâng cao chất lượng các hoạt động truyền
thông, tư vấn cộng đồng nhận thức được tầm quan trọng, ý nghĩa và sự cần thiết
để phát hiện sớm và can thiệp sớm về mọi mặt trong đó có giáo dục hòa nhập
ngay từ độ tuổi mầm non để tạo “cơ hội vàng” cho trẻ tự kỉ.
- Công tác bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên

rất quan trọng, quyết định chất lượng giáo dục hòa nhập. Việc lựa chọn giáo viên
nòng cốt trong việc xây dựng và thực hiện các hoạt động chuyên môn là tiền đề
quan trong cho sự thành công của giáo dục hòa nhập.
- Một điều không thể thiếu đó là sự trang bị cho cha mẹ trẻ tự kỉ những
kiến thức, kĩ năng chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ khuyết tật ngay tại nhà để
công tác chăm sóc giáo dục trẻ kỉ được thống nhất về quan điểm, đồng nhất
trong cách làm và đồng tâm hướng tới mục tiêu chung là đưa trẻ tự kỉ sớm hòa
15


nhập với cộng đồng xã hội. Bên cạnh đó cũng cần xây dựng đội ngũ cộng tác
viên trong các tổ dân phố, những người sẽ giúp cho cha mẹ, giúp cho cộng đồng
phát hiện, có biện pháp can thiệp sớm kịp thời với trẻ tự kỉ
3.2. Kiến nghị
- Để công tác giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật nói chung và hòa nhập trẻ
tự kỉ nói riêng thực sự đi vào chiều sâu và đạt kết quả cao như mong đợi, tôi xin
có kiến nghị sau:
+ Cung cấp thêm nguồn sách hướng dẫn, tài liệu tham khảo để phục vụ
giáo viên trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ tự kỷ học hòa nhập.
+ Quan tâm hơn nữa đến việc bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm quản lý
và giảng dạy cho đội ngũ cán bộ giáo viên các trường mầm non có trẻ tự kỉ học
hòa nhập.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thường xuân, ngày 2 tháng 3 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết không sao chép nội
dung của người khác
Người viết:


Lê Thị Bình

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.Luật giáo dục năm 2005.
2.Điều lệ trường mầm non.
3. Luật người khuyết tật năm 2010.
4. Văn bản quy định về giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật, tàn tật.
5. Văn bản quy định về việc chăm sóc đối với người khuyết tật, tàn tật.
6. 10 dấu hiệu trẻ tự kỉ mong muốn bạn biết – Ellen Notbohm (NXB Phụ nữ).
7. Thấu hiểu và hỗ trợ trẻ tự kỉ - Firstnew (NXB Trẻ).

17



×