Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Kinh nghiệm nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trường tiểu học thị trấn nga sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.06 KB, 41 trang )

1. M U
1.1. L DO CHN TI
Nh chỳng ta ó bit, trên mạng xã hội và các phơng tiện thông
tin đại chúng nhan nhản các thông tin về kĩ năng sống của trẻ
em: Chị gái 8 tuổi cứu em trai lủng lẳng giữa tòa nhà cao
tầng; 8 HS chết đuối thơng tâm ở Hòa Bình; Cậu bé 13 tuổi
đạp xe hơn 100km từ Tây Bắc về Hà Nội thăm em; Nữ sinh bị
đánh hội đồng ở Hng Yên...
Mỗi câu chuyện là một bài học về rèn kĩ năng sống cho trẻ.
Với cậu bé Vì Quyết Chiến ý ngh v hnh ng ca cu bộ xut phỏt t
tỡnh thng em l iu rt ỏng quý. Tuy nhiờn cng chớnh vỡ cũn thiu k nng
sng, k nng bo v bn thõn m tr mi hnh ng khụng cú s chun b
cho hnh trỡnh ca mỡnh nh vy. K nng sng s giỳp tr khụng ng x ng
nghch, khụng y chớnh mỡnh v ngi khỏc vo vũng nguy him.Nhỡn chung
trong s cỏc k nng sng cú k nng sinh tn, bo v bn thõn, tr em Vit vn
cũn rt yu. Khụng ớt em bộ 6 - 7 tui vụ t thũ tay vo nỳt in, bnh vin cng
thng gp cỏc ca tr húc d vt. Thm chớ nhiu tr tui teen ui nc vỡ
khụng bit bi hay khụng bit cỏch cu ui.
tr thiu k nng sng, li chớnh xut phỏt vn l ngi ln khụng
trang b cho tr nhng k nng sng ti thiu, tn ti v bo v mỡnh. Khi
thy tr cú mt hnh ng nghch di a s cha m ch ngn cn con m khụng
ch bo, gii thớch cn k vỡ cho rng "tr cũn bộ thỡ bit gỡ m gii thớch". iu
ny li vụ hỡnh chung kớch thớch tr nh thờm tũ mũ.Giỏo dc k nng sng giỳp
cỏc em t tin, ch ng x lý cỏc tỡnh hung xy ra trong cuc sng. éú cũn l
vic to nn tng cỏc em cú nhng tri thc, k nng cn bn thớch ng
vi mụi trng sng. Qua ú, nu cú gp nhng tỡnh hung cú th dn n
nguy him tớnh mng, tr vn bit cỏch phũng trỏnh, thoỏt him, hn ch
nhng hu qu ỏng tic.
nõng cao k nng sng cho hc sinh tiu hc núi chung, hc sinh lp 4 núi
riờng, vi cng v l mt ngi giỏo viờn trc tip ging dy cỏc em hng ngy,
bn thõn ht sc bn khon v trn tr trong u cõu hi: Lm th no nõng


cao k nng sng cho hc sinh? Lm th no hc sinh bit cỏch vn dng k
nng sng vo trong cuc sng hng ngy? Vi mong mun gúp phn vo vic lớ
gii nhng vn núi trờn, bn thõn tụi chn ti: Kinh nghim nõng cao
cht lng giỏo dc k nng sng cho hc sinh lp 4 Trng Tiu hc Th Trn
1


Nga Sơn”. Vấn đề mà chắc hẳn không chỉ riêng bản thân tôi mà rất nhiều đồng
nghiêp khác đã và đang quan tâm, suy nghĩ là làm sao học sinh của mình có
những kĩ năng sống tốt cho tương lai sau này, trở thành những con người tốt,
có ích cho xã hội. Đây cũng là một vấn đề mà hiện nay phụ huynh và xã hội rất
quan tâm.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Nghiên cứu những cơ sở lí luận và thực tiễn việc rèn kĩ năng sống cho học
sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 4A Trường Tiểu học ThÞ TrÊn nói
riêng. Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng sống thông
qua hoạt động các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp.

1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Các phương pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh.
- Thực trạng việc giáo dục kĩ năng sống của học sinh trường tiểu học Thị
Trấn nói chung, học sinh khối 4 nói riêng.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Tìm hiểu cơ sở lý luận, phân tích, đối chiếu với thực trạng của nhà trường
trong từng thời điểm để qua đó tìm ra các biện pháp, giải pháp mới có hiệu quả
hơn cho việc nâng cao kỹ năng sống cho học sinh.
Nghiên cứu: Nhằm đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao giáo dục
toàn diện cho HS.
Phương pháp:
+ Nhóm PP nghiên cứu lý luận.

+ Nhóm PP nghiên cứu thực tiễn
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN

2


Kỹ năng sống và vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho con người đã xuất hiện
và được nhiều người quan tâm từ xa xưa như học ăn, học nói, học gói, học mở.
Đó là những kĩ năng đơn giản nhất mang tính chất kinh nghiệm, phù hợp với
đời sống và giai cấp của xã hội ở những thời điểm khác nhau.
Kĩ năng sống chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu
cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả.
Có thể nói rằng kĩ năng sống bao gồm một loạt các kĩ năng cụ thể, cần
thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kĩ năng sống là kĩ
năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong
cuộc sống, học tập và làm việc hậu quả. Nói cách khác, kĩ năng sống là khả năng
làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng phù hợp với những người khác và
với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học là một việc làm hết sức cần
thiết của xã hội, các em không chỉ biết học để hiểu biết về kiến thức mà còn
phải được tôi luyện những kĩ năng sống,qua đó tạo cho các em một môi trường
lành mạnh, an toàn, tích cực, vui vẻ để trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ
năng, giá trị sống để bước vào đời tự tin hơn.
Nói cách khác là giúp các em có khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù
hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình
huống của cuộc sống và được chia ra thành các nhóm kĩ năng như sau:
* Nhóm kĩ năng giao tiếp hòa nhập - hòa nhập cuộc sống.
- Các em biết giới thiệu về bản thân, về gia đình, về trường lớp học và bạn bè
thầy cô giáo.

- Biết chào hỏi lễ phép trong nhà trường, ở nhà và nơi công cộng.
- Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi.
- Biết phân biệt hành vi đúng sai, phòng tránh tai nạn. Đây là kĩ năng quan
trọng mà không phải em nào cũng xử lí được nếu chúng ta không rèn luyện hàng
ngày.
* Nhóm kĩ năng trong học tập, lao động - vui chơi giải trí.
- Các kĩ năng nghe, nói, nói, đọc, viết, kĩ năng quan sát, kĩ năng đưa ra ý kiến
chia sẻ trong nhóm bạn.
- Kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung.
3


- Kĩ năng kiểm soát tình cảm, kĩ năng kìm chế thói hư tật xấu sở thích cá nhân
có hại cho bản thân và người khác.
- Kĩ năng hoạt động nhóm trong học tập vui chơi và lao động.
2.2. THỰC TRẠNG VIỆC GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CỦA HỌC SINH TRƯỜNG
TIỂU HỌC thÞ trÊn.
1. Công tác chỉ đạo và thực hiện giáo dục kĩ năng sống:
Trường học nơi bản thân tôi công tác là ngôi trường đã đạt chuẩn quốc gia
mức độ 2 nên thuân lợi trong viêc thực hiên nôi dung xây dựng môi trường giáo
dục sạch đẹp, an toàn cho học sinh. Ban giám hiệu nhà trường đã xác định vị trí,
tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là cần thiết, là tất yếu
của nhà trường, xác định được cần phải xây dung kế hoạch đầy đủ, kịp thời để
tổ chức dạy - học có hiệu quả đồng thời đã làm tốt công tác phối hợp với các tổ
chức, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường để nhận được sự ủng hộ.
Đối với giáo viên phụ trách lớp đã nhận thức rõ về giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp song vẫn còn một
số giáo viên còn mang tư tưởng xem nhẹ, chỉ coi trọng việc dạy trên lớp là cung
cấp kiến thức bài học cho học sinh, chưa chú ý đến việc rèn kỹ năng sống cho
các em nên chưa chịu khó tìm tòi các hình thức và phương pháp tổ chức cho

các hoạt động này, làm mất sự hứng thú của học sinh,có lúc cũng mang tính
chiếu lệ, đối phó, chưa nhiệt tình. Bên cạnh đó còn giáo viên quá trình lên lớp ít
đầu tư chuyên sâu vào rèn kỹ năng sống mà mới dạy kiến thức cho học sinh.
Nội dung, hình thức dạy - học và tổ chức dạy học của một số giáo viên còn
nghèo nàn, tẻ nhạt, đơn điệu, đôi khi mang tính hình thức, chiếu lệ gọi là có,
chưa có sự sáng tạo, hầu như còn lệ thuộc nhiều vào sự chi phối của công văn.
2. Thực trạng kĩ năng sống của học sinh:
Phần lớn học sinh rất say mê, yêu thích và ham học. Các em sẵn sàng
tham gia hoạt động với mọi hình thức mà được thầy cô hướng dẫn. Song vẫn
còn rất nhiều học sinh chưa nhận thức rõ được ý nghĩa của kỹ năng sống. Nhiều
học sinh còn rụt rè, nhút nhát chưa mạnh dạn, thiếu tự tin khi đứng trước đông
người. Có những em khi được gọi lên tham gia các hoạt động thì từ chối hoặc
khóc. Học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô giáo, ít
sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động. Học sinh chỉ có học kiến thức,
khả năng ứng phó với các tình huống trong cuộc sống kém, tính tự tin ít, tự ti
nhiều, thường nóng nảy, gây gỗ lẫn nhau. Kỹ năng giao tiếp hạn chế, còn nói
tục, chửi bậy. Nhiều em không có thói quen chào hỏi, thậm chí có em còn
4


khụng dỏm núi hoc khụng bit núi li xin li khi lm sai, cũn cú hin tng hc
sinh cói nhau, chi nhau, ỏnh nhau, cha l phộp, gõy mt on kt trong tp th
lp, trn hc i chiCũn cú em núi khụng rừ rng, tr li trng khụng, khụng
trũn cõu v ớt núi li cm n, xin li vi cụ, bn bố. Nhiu em n trng t ra
núi nhiu vỡ nh cỏc em khụng cú ngi trũ chuyn, chia s ...
Nhng nm gn õy, nhiu tr em rt thiu k nng lm vic nh, k nng t
phc v, k nng giao tip vi ụng b, cha m. Nhiu em khụng t dn dp phũng
ca chớnh mỡnh, khụng giỳp b m bt kỡ vic gỡ ngoi vic hc. i ra ng
gp ngi ln tui hoc thy, cụ giỏo cú khi khụng cho. iu ny dn n tỡnh
trng hc sinh tr nờn ớch k, khụng quan tõm n cng ng. Cõu hi m chỳng

ta thng t ra cho hc sinh tiu hc l ngoi nhng kin thc ph thụng v
Toỏn, Khoa hc v Nhõn vn, hc sinh cn hc iu gỡ giỳp cỏc em hi nhp
vi xó hi, tr thnh cụng dõn cú ớch cho cng ng. õy cng l ni lo lng, t
ra cho giỏo viờn ng lp nhng suy ngh, trn tr. Vỡ vy giỏo dc k nng sng
cho th h tr l rt cn thit, giỳp cỏc em rốn luyn hnh vi cú trỏch nhim i
vi bn thõn, gia ỡnh, cng ng v T quc, giỳp cỏc em cú kh nng ng phú tớch
cc trc cỏc tỡnh hung ca cuc sng, xõy dng mi quan h tt p vi gia ỡnh,
bn bố v mi ngi, sng tớch cc, ch ng, an ton, hi hũa v lnh mnh.
Mt quan im cũn lch lc trong giai on hin nay ca khụng ớt cỏc ụng
b b m tr l h luụn mong con gii m khụng cn bit con cú ngoan
khụng? H luụn núng vụi trong viờc dy con; h ch chỳ trng n vic con
mỡnh v nh m cha c, vit ch, hoc cha bit lm Toỏn thỡ lo lng mt
cỏch thỏi quỏ. Ngoi ra, mt tr ngi na l ph huynh trong lp cú mt s b
m thỡ quỏ nuụng chiu,
Một số ít phụ huynh có điều kiện nuụi o tng con s thay i
vt bc sau khi học nhng khúa o to ngn hn vào dịp hè. Th nhng,
phn ln s nhanh chúng tht vng vi kt qu thu c. trong mụi trng
rốn luyn vi mnh lnh, ch huy ỳng gi gic, khụng thit b cụng ngh, cỏc
bn nh buc phi chp hnh k lut, tuõn th cỏc hot ng tp th nờn nõng
cao tớnh t giỏc, ch ng v cú trỏch nhim vi bn thõn. Th nhng, khi quay
v mụi trng gia ỡnh, tr li np sng, hi rng con lm sao gi c nhng
thúi quen tớch cc va mi manh nha hỡnh thnh. a tr li quờn sch v hc
k quõn i hay tri hố 7 ngy sng ý ngha ch l mt k nim ỏng nhớ.
u nm hc 2018 - 2019,qua thc t kho sỏt hc sinh lp 4A Trng
Tiu hc Thị Trấn v k nng sng , kt qu nh sau:
5


Tổng số học
sinh

37

Tổng số
học sinh
37

Tổng số
học sinh
37

Kĩ năng tốt
SL
TL
7
18.9

Có hình thành kĩ năng
SL
TL
22
59.4

Kĩ năng chưa tốt
SL
TL
8
21.7

Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp tác Chưa biết cách lắng nghe, hay tách

ra khỏi nhóm
SL
TL
SL
TL
10
27
27
73
Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Biết cách ứng xử hài hòa, khá
Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi
phù hợp.
chơi.
SL
TL
SL
TL
12
32.4
25
67.6

Từ bảng kết quả trên, tôi nhận thấy: Các nguyên nhân, tình hình thực tiễn
nêu trên là cơ sở để bản thân tìm các giải pháp để rèn luyện kĩ năng sống cho
học sinh lớp 4A thông qua các tiết dạy các môn học và hoạt động ngoài giờ lên
lớp nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
Giải pháp 1: Nâng cao vai trò của người giáo viên chủ nhiệm trong việc
rèn kĩ năng sống cho học sinh

* Vị trí, vai trò của người GVCN:
- GVCN là người được hiệu trưởng bổ nhiệm trong số những giáo viên có
kinh nghiệm và có uy tín. Giáo viên chủ nhiệm lớp được thay mặt Hiệu trưởng
quản lý và tổ chức học tập, rèn luyện đạt mục tiêu đào tạo. GVCN vừa đóng vai
trò quản lý hành chính Nhà nước, vừa đóng vai trò người thầy giáo, đồng thời
còn đóng vai trò người đại diện cho quyền lợi của tập thể lớp.
- GVCN là người chủ chốt của nhà trường làm công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho HS lớp mình chủ nhiệm

6


- GVCN là cầu nối giữa lớp với các GV bộ môn, Ban giám hiệu, Tổ CM, các
tổ chức đoàn thể trong nhà trường (Công đoàn, Đoàn thanh niên, Nữ công…) và
Cha mẹ học sinh
- GVCN là người tổ chức các HĐGD trong lớp, các HĐTT và chịu trách
nhiệm trước hiệu trưởng về công tác GD ĐT, lối sống và chuẩn KTKN cần đạt của
lớp mình được quy định tại QĐ số 16/QQD- BGD ĐT ngày 5/ 5/ 2006 của BGD và
Đt về việc ban hành chương trình GDPT
- GVCN lớp là người đại diện quyền lợi, nguyện vọng chính đáng của tập
thể học sinh, là cầu nối giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
* Nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm trong trường tiểu học:
- Dựa vào tình hình thực tế, vạch kế hoạch giúp lớp tổ chức thực hiện chương
trình đào tạo (học tập, rèn luyện) trong từng tuần, từng tháng, học kỳ và năm
học.
- Cùng cán bộ lớp theo dõi, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của lớp chủ
nhiệm theo từng tháng, học kỳ và năm học; đồng thời báo cáo kết quả đó với
nhà trường vào cuối mỗi tháng.
- Liên hệ với gia đình HS để phối hợp giáo dục HS khi cần thiết.
- Ghi nhận xét, xác nhận các vấn đề thuộc về quản lý hành chính Nhà nước

trong phạm vị hoạt động của lớp (như các đơn từ của HS, các báo cáo của lớp
…)
- Kết thúc thời gian năm học, chủ nhiệm lớp phải bàn giao hồ sơ công tác
chủ nhiệm lớp cho cán bộ văn phòng và bàn giao tình hình lớp cho giáo viên
chủ nhiệm mới.[1]
Với vai trò và nhiệm vụ đó, tôi đã nhận thức rằng:
Tiểu học là quãng thời gian ảnh hưởng lớn nhất đến cuộc sống sau này của
tất cả mọi người. Vào thời điểm này nếu GV có thể kiên nhẫn quan tâm đến
giáo dục kĩ năng sống cho bọn trẻ thì điều chúng học không chỉ là kiến thức mà
còn là nền tảng để thành người. Thực tế, công tác chủ nhiệm ở tiểu học rất
quan trọng, nếu làm tốt, nó sẽ hỗ trợ rất nhiều cho thầy cô trong việc giảng dạy,
giáo dục học sinh (HS). GV tiểu học thường có thời gian gần gũi các em rất
nhiều, một số trường hợp thầy cô tiếp xúc với HS còn nhiều hơn cha mẹ. Vì vậy,
thầy cô chủ nhiệm không chỉ là người dạy chữ mà còn dạy HS nhiều điều tốt
đẹp khác và cũng là người hiểu được tâm tư, tình cảm của trẻ nhiều nhất. Làm
tốt công tác chủ nhiệm, GV có thể ngăn chặn được trẻ bỏ học, trẻ chán học, trẻ
trầm uất vì gia đình, trẻ bỏ nhà đi hoang, trẻ giải quyết bất đồng bằng bạo lực…
7


đồng thời phát huy được những năng khiếu tiềm ẩn ở các em, từ đó các em
cũng thích đi học và thích học hơn.
Thầy cô chủ nhiệm không chỉ là người dạy chữ mà còn dạy HS nhiều điều
tốt đẹp khác và cũng là người hiểu được tâm tư, tình cảm của trẻ nhiều nhất.
Để làm tốt công tác chủ nhiệm, việc đầu tiên khi nhận lớp, GV phải nắm
được thông tin cá nhân từng em. Lưu ý các trường hợp HS mồ côi, cha mẹ ly
hôn, cha mẹ làm ăn xa (hoặc lý do khác) phải ở với người thân, gia đình quá khó
khăn về kinh tế, bản thân các em bị bệnh mãn tính, bệnh phải điều trị dài hạn…
Kế tiếp là các em được phụ huynh quá cưng chiều, các em học yếu, các em
thường nghịch phá chọc ghẹo bạn bè. Các trường hợp này thường nảy sinh

nhiều vấn đề trong năm học, bởi ở tuổi tiểu học, trẻ rất nhạy cảm, hành động
theo bản năng, dễ bi quan trước những điều không tốt đẹp từ gia đình hay từ
bạn bè trường lớp….Từ những thông tin này, GV nên gần gũi trò chuyện tiếp xúc
các em nhiều hơn, tạo cho các em sự thân thiết, tin tưởng để có thể dễ dàng
bộc lộ tâm tư tình cảm, điều mong muốn của chính mình.
+ Xác định rõ vai trò trách nhiệm của mình về việc giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh là cần thiết. Vai trò của giáo viên đối với vấn đề này là không nhỏ,
đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm, ngay từ đầu năm học tôi đã lên kế hoạch cho
việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4A thông qua các môn học và hoạt
động ngoại khóa. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện
trong bất cứ lúc nào, giờ học nào. Song để việc rèn luyện diễn ra một cách
thường xuyên và đạt hiệu quả cao bản thân phải nghiên cứu nội dung, phương
pháp, lên kế hoạch bài dạy, liên hệ thực tế vận dụng và phối hợp lồng ghép theo
hướng dạy học tích cực, từ đó mỗi tiết dạy phải đầu tư đồ dùng dạy học,
phương tiện dạy học, phương pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy học…sao
cho phát huy được tính tích cực của học sinh một cách hiệu quả nhất. Đồng
thời lên kế hoạch hoạt động ngoại khóa từng tiết, từng tuần, từng tháng cho
phù hợp.
+ Cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự
chuyên cần, tích cực của học sinh, cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu,
tiềm năng sáng tạo ở mỗi học sinh.Giáo viên chịu khó, gần gũi chuyện trò với
học sinh, trả lời những câu hỏi vụn vặt của các em, không la mắng, giải quyết
hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các em trong lớp.Trong giảng
dạy chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn.

8


+ Mặt khác để dạy kĩ năng sống cho học sinh, bản thân giáo viên phải là
người có kĩ năng sống tốt, giáo viên cần tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh

với giáo viên chủ nhiệm, bản thân sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được
giới thiệu về mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những
sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của mình với các em. Đây là
hoạt động giúp cô trò hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học tập thân
thiện “Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, cô giáo là
người mẹ thứ hai của các em". Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để
phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn,
tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt.
Để HS mạnh dạn tự tin thể hiện mình, có khả năng giao tiếp cũng như biểu
đạt những gì mình muốn nói, điều này là vô cùng quan trọng , Đòi hỏi người GV
phải có các “ mẹo” nhỏ khi giảng dạy trên lớp.
- Không sửa lỗi của HS quá nhiều.
- Luôn khen ngợi các em( tìm điểm mạnh, đúng để khen).
- Giảng dạy ứng dụng với thực tế.
- Cho HS cơ hội để thành công.
- Hình thành và duy trì thói quen từ ngày đầu tiên.
Vì vậy, sau 25 năm giảng dạy và đứng lớp, điều tôi cảm thấy hạnh phúc nhất
là sự yêu quý của học sinh và sự trưởng thành của các em.

9


Lưu bút của học sinh khi chia tay cô.
Giải pháp 2: Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực góp
phần hình thành rèn luyện kỹ năng giao tiếp, hợp tác mạnh dạn,tự tin, sáng
tạo của học sinh.
Như chúng ta đã biết,với cách dạy học truyền thống HS bị hạn chế về việc
vận dụng, phân tích, sáng tạo từ kiến thức lý thuyết. Học sinh thụ động tiếp thu
kiến thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ năng thực hành, kĩ năng tò mò, sáng
tạo của người học do đó kĩ năng ứng dụng vào đời sống bị hạn chế.

Vì vậy đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực góp phần hình
thành rèn luyện kỹ năng giao tiếp, hợp tác mạnh dạn, tự tin, sáng tạo của học
sinh là giải pháp quan trọng xuyên suốt quá trình dạy học. Ai cũng hiểu kỹ năng
sống không thể được hình thành ngày một ngày hai, 5 buổi, 10 buổi hay một vài
tháng, mà đó là một quá trình rèn giũa từ chính môi trường sống của đứa trẻ.
Luôn tạo cho các em tính chủ động, tích cực, hứng thú trong học tập, phát huy
tính sáng tạo, tạo bầu không khí cởi mở, thân thiện trong lớp. Không ai khác,
chính giáo viên cần tạo cơ hội cho các em được nói, được trình bày trước nhóm
bạn, trước tập thể, nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém qua
đó góp phần tích lũy kĩ năng sống cho các em.
* Đối với môn Toán: Dạy theo hướng trải nghiệm, khám phá và phát hiện
rèn kĩ năng sống. Có thể thấy rằng trong thực tế cuộc sống, những em học giỏi
10


Toán thường khi lớn lên và trưởng thành, họ luôn là những người nhạy bén,
linh hoạt và thành công. Môn Toán rèn cho HS rất nhiều kĩ năng trong đó kĩ
năng phân tích, tổng hợp, tư duy, tưởng tượng...
Vì vậy, với thời lượng 5 tiết/tuần, việc tích hợp để rèn kĩ năng sống cho các
em là vô cùng cần thiết. Muốn vậy đòi hỏi mỗi giáo viên thông qua hoạt động
học tập phải kích thích, lôi cuốn cho học sinh trải nghiệm, khám phá.Cho nên
mỗi tiết học tôi thường giúp HS tự phát hiện, phân tích và vận dụng kiến thức
theo 5 bước:
1. Gợi động cơ, tạo hứng thú.
2. Trải nghiệm.
3. Phân tích, khám phá, rút ra bài học.
4. Tổ chức cho học sinh thực hành
5. Vận dụng

Học sinh trong giờ thực hành về tỉ lệ bản đồ.

* Đối với môn Tiếng Việt:
11


- Kĩ năng sống đặc thù, thể hiện ưu thế của môn Tiếng việt là kĩ năng giao
tiếp, sau đó là kĩ năng nhận thức bao gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự
nhận thức, ra quyết định…Như Gor-ki đã từng nói : “Văn học là nhân học”; Học
văn học là học cách làm người. Thông qua các hoạt động học tập, các em
được phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ,ý kiến cá nhân, đóng vai,
...học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kĩ năng sống cần
thiết.Những KNS chủ yếu đó là: KN giao tiếp; KN tự nhận thức; KN suy nghĩ sáng
tạo; KN ra quyết định; KN làm chủ bản thân: KN giao tiếp
- KN nhận thức (nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận thức) là những KN
mà môn TV cũng có ưu thế vì đối tượng của môn học này là công cụ của tư duy.
Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc,... giữa các thành
viên trong xã hội. Gồm các hành vi giải mã (nhận thông tin), ký mã (phát thông
tin) qua: nghe, nói và đọc, viết. Các KNS này của HS được hình thành, phát triển
dần, từ những KN đơn lẻ đến những KN tổng hợp. [2]
Ví dụ: Khi dạy bài tâp đọc: Ăng - co Vát, ngoài rèn kĩ năng nghe, nói, đoc,
viết. HS còn được trải nghiệm như một chuyến du lịch sang Cam -pu- chia. Cả
lớp là một chuyến xe hành trình, các em chính là khách du lịch, hướng dẫn viên,
lái xe,,, để củng cố về chủ điểm “Du lịch- thám hiểm”
Hay với bài “ Tiếng cười là liều thuốc bổ” tôi cho HS trải nghiệm lên kể các câu
chuyện cười, làm các động tác gây cười để củng cố nội dung bài học.
* Đối với môn Đạo đức:
+ Đạo đức GD cho HS bước đầu biết sống và ứng xử phù hợp với các chuẩn
mực biến nhận thức thành hành vi chuẩn mực thể hiện thông qua kĩ năng sống.
+ Bước đầu trang bị cho HS các KNS cần thiết, phù hợp với lứa tuổi.
+ Rèn cho học sinh biết cách tự phục vụ bản thân và vệ sinh cá nhân, giữ
gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ môi trường.

+ Tạo cơ hội thuận lợi để HS thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và
phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. Trong các chương
trình giáo dục kĩ năng sống cho HSTH :
a) Nhóm kĩ năng nhận thức: Nhận thức bản thân. Xây dựng kế hoạch. Kĩ
năng học và tự học Tư duy tích cực và tư duy sáng tạo. Giải quyết vấn đề

12


b) Nhóm kĩ năng xã hội: Kĩ năng giao tiếp. Kĩ năng thuyết trình và nói
được đám đông. Kĩ năng diễn đạt cảm xúc và phản hồi. Kĩ năng làm việc nhóm
(làm việc đồng đội)
c) Nhóm kĩ năng quản lý bản thân: Kĩ năng làm chủ. Quản lý thời gian Giải
trí lành mạnh
d) Nhóm kĩ năng xã hội: Kĩ năng quan sát. Kĩ năng làm việc nhóm. Kĩ năng
lãnh đạo (làm thủ lĩnh).
đ) Nhóm kĩ năng giao tiếp Xác định đối tượng giao tiếp xác định nội dung
và hình thức giao tiếp
e) Nhóm kĩ năng phòng chống bạo lực: Phòng chống xâm hại thân thể.
Phòng chống bạo lực học đường. Phòng chống bạo lực gia đình, tránh tác động
xấu từ bạn bè. Bản thân tổ chức cho các em thảo luận nhóm, đóng vai, chơi trò
chơi. Lúc đầu các em rất ái ngại không tự tin khi đóng vai, bày tỏ ý kiến trước
lớp nhưng bản thân đã kịp thời giới thiệu và hướng dẫn các em khám phá, tư
duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội. [3]
Bản thân tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo
điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn
qua việc học nhóm và nhắc nhở các em những điều cần chú ý trong khi giao
tiếp, cộng thêm một môi trường hòa đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt,
không còn những cái nhìn ái ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng
những câu nói rõ ràng, chắc gọn, mạnh dạn hơn.

Với bài: “Tiết kiệm thời gian” tôi đưa ra nội dung: “Trong ngày chủ nhật,
em đã thực hiện được những công việc nào? Hãy kể những việc em đã làm?
Những công việc nào em dự định làm nhưng chưa thực hiện được? Vì sao? So
sánh số lượng công việc giữa các bạn trong nhóm/ trong lớp? Tại sao số lượng
công việc thực hiện được lại khác nhau giữa các bạn trong cùng một khoảng
thời gian?. Sau vài lời khuyến khích đầu tiên, tôi tổ chức cho các em đứng
thành vòng tròn chia sẻ ý kiến với cả lớp. Lúc đầu các em rất ái ngại không tự
tin khi chia sẻ nhưng tôi nhắc nhở những điều cần chú ý trong khi giao tiếp,
cộng thêm một môi trường hoà đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt,
không còn những cái nhìn ái ngại. Thay vào đó là sự tự tin cùng câu nói chắc
gọn: “Sáng chủ nhật mình ở nhà làm...; Những công việc dự định mình chưa
làm được... So với số lượng công việc của mình với các bạn trong nhóm, trong
lớp thì mình thấy….; vì…..”
13


Tôi luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo
điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn
qua việc học nhóm. Rèn kĩ năng sống có hiệu quả còn được tôi vận dụng khá
nhiều trong trong các môn học thông qua xử lí tình huống hay các trò chơi học
tập có nội dung gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em.
* Đối với các môn Khoa học, Lịch sử và Địa lý: Trên cơ sở trang bị cho học
sinh các kiến thức của môn khoa học về con người và sức khỏe, về các hiện
tượng tự nhiên, các môn này giúp hình thành và phát triển các kĩ năng sống
như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp hợp tác, kĩ năng tư duy bình luận,
kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, kĩ năng làm chủ bản thân.
Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số
chính xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức,
thái độ khác với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi
nói năng... đó chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo

nhóm tạo môi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao
tiếp thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên
thân thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn.
Tham gia sinh hoạt theo nhóm giúp các em học sinh hưng phấn hơn trong học
tập và tạo nên cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống. Khi sinh hoạt nhóm
phải luôn đưa ra nhiều tình huống tạo sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng
là cách tạo sự gần gũi giữa các em với nhau.
Với môn Khoa học: Ở bài: "Tại sao cần ăn phối hợp nhiều loại thức ăn” tôi
cho học sinh thảo luận nhóm và lên thực đơn cho các bữa ăn trong một ngày:
Sáng, trưa, tối dưới sự trợ giúp của giáo viên. Sau khi học sinh nhận xét thực
đơn của nhau, học sinh sẽ khắc sâu kiến thức về một bữa ăn đầy đủ cần đảm
bảo các chất ...

14


.
Các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ
của mình với bạn bè, với thầy cô một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các
kĩ năng này đã tạo ra được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia
một cách chủ động tích cực vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em
chia sẻ những kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó.
Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số
chính xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức,
thái độ khác với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi
nói năng... đó chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo
nhóm tạo môi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao
tiếp thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên
thân thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn.
Tham gia sinh hoạt theo nhóm giúp các em học sinh hưng phấn hơn trong học

tập và tạo nên cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống. Khi học nhóm, tôi luôn
đưa ra nhiều tình huống tạo sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng là cách
rèn các KN hợp tác, KN tìm kiếm sự hỗ trợ, KN giao tiếp, …
Ngoài ra tôi chú ý rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ năng
phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác qua các môn học. Ai
cũng biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quí báu của mỗi con người. Học tập
tốt, năng lực, phẩm chất tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện
sức khỏe tốt cho học sinh là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có
được một sức khỏe tốt và bảo vệ được nó thì thật không dễ. Dù vậy không có

15


nghĩa là không làm được, nhiều khi sức khỏe của các em phụ thuộc vào những
điều rất giản dị. Đó chính là giáo dục một lối sống khoa học.
Ở môn Khoa học: Các bài: “Phòng bênh béo phì; Phòng bênh lây qua
đường tiêu hóa; Bạn cảm thấy thế nào khi bị bệnh; Phòng tránh tai nạn đuối
nước; Ôn tập con người và sức khỏe...” giáo dục các em hiểu rằng cần ăn uống
cân đối hợp lý; hoạt động phù hợp với lứa tuổi; có trách niệm giữ vệ sinh,
phòng bênh cho bản thân; gia đình và cộng đồng. Thân thể sạch sẽ giúp cho
chúng ta khoẻ mạnh, biết những việc nên làm và không nên làm để cơ thể luôn
sạch sẽ, có ý thức tự giác làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác thực hiện nếp
sống vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết tham gia các
hoạt động và nghỉ ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt. Có ý thức tự phòng
tránh các tai nạn, đặc biệt là tai nạn đuối nước.
Ngoài ra để các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước
và các thương tích khác tôi đã giáo dục các em thông qua các tiết: An toàn giao
thông hướng dẫn các em phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích
khác bằng cách đưa ra những tình huống cho các em xử lí.
Giải pháp 3: Tổ chức cho học sinh tham gia tích cực, hiệu quả các hoạt

động ngoài giờ lên lớp.
1. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp :Là những hoạt động giáo dục được
tổ chức theo các chủ đề giáo dục từng tháng với thời lượng 4 tiết/tuần.
(Chương trình giáo dục cấp Tiểu học, Ban hành kèm theo Quyết định số
16/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo). Với quan niệm này thì hoạt động GDNGLL, Hoạt động tự chọn và Hoạt
động tập thể (sinh hoạt toàn trường dưới cờ, sinh hoạt lớp, sinh hoạt Đội TNTP
HCM, sinh hoạt Sao Nhi đồng) là những hoạt động giáo dục độc lập với nhau
trong nhà trường. Như chúng ta đã biết, hoạt động giáo dục bao gồm hoạt
động giáo dục trong giờ lên lớp và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp nhằm
rèn luyện đạo đức, phát triển năng lực, bồi dưỡng năng khiếu, giúp đỡ HS yếu
sao cho phù hợp đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi HS tiểu học. Hoạt động giáo dục
trong giờ lên lớp được tiến hành thông qua việc dạy học các môn học bắt buộc
và tự chọn trong chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học do Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao
gồm hoạt động ngoại khoá, hoạt động vui chơi, thể dục thể thao, tham quan du
lịch, giao lưu văn hoá; hoạt động bảo vệ môi trường; lao động công ích và các
hoạt động xã hội khác.
16


2. Vai trò của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp - Hoạt động GDNGLL là
một bộ phận quan trọng của chương trình giáo dục nhà trường. Hoạt động
GDNGLL nối tiếp hoạt động dạy học các môn văn hóa; là con đường quan trọng
để gắn học với hành, lí thuyết với thực tiễn, nhà trường với xã hội. Hoạt động
GDNGLL tạo cơ hội cho HS được thực hành, trải nghiệm những điều đã học vào
trong thực tiễn cuộc sống. Trên cơ sở đó củng cố, khắc sâu, mở rộng những
kiến thức, kĩ năng các môn học cho HS. - Hoạt động GDNGLL có vai trò quan
trọng góp phần giáo dục nhân cách, phát triển toàn diện cho HS tiểu học. Các
nghiên cứu về tâm lí - giáo dục cũng cho thấy, nhiều nét tính cách cơ bản của

con người được hình thành trước và trong tuổi học đường. Việc tham gia vào
nhiều hoạt động GDNGLL phong phú, đa dạng sẽ tạo cơ hội cho HS được thể
hiện, bộc lộ, tự khẳng định bản thân; tạo cơ hội cho các em được giao lưu, học
hỏi bạn bè và mọi người xung quanh; tạo cơ hội thuận lợi cho HS được tham
gia một cách tích cực vào đời sống cộng đồng …Từ đó sẽ tác động tích cực đến
nhận thức, tình cảm, niềm tin và hành vi của HS, giúp các em phát triển nhiều
phẩm chất tích cực như: tinh thần đồng đội, tinh thần trách nhiệm, lòng nhân
ái, khoan dung, sự cảm thông, tính kỉ luật, trung thực, mạnh dạn, tự tin,…và
giúp các em phát triển những kĩ năng hoạt động tập thể và kĩ năng sống cơ bản
như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng ra
quyết định và giải quyết vấn đề, kĩ năng kiên định, kĩ năng tư duy phê phán, tư
duy sáng tạo, kĩ năng ứng phó với căng thẳng, kĩ năng thương lượng, kĩ năng
hợp tác, kĩ năng lập kế hoạch, kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng, kĩ năng quản
lí thời gian, kĩ năng thu thập và xử lí thông tin,... Xét ở phạm vi rộng hơn, hoạt
động GDNGLL còn tạo điều kiện để HS được tham gia, được hội nhập vào dòng
chảy các hoạt động chung của trẻ em ở địa phương, đất nước, khu vực và trên
thế giới. Điều này giúp phát triển năng lực hoạt động thực tiễn, năng lực hoạt
động chính trị - xã hội, năng lực hòa nhập cộng đồng cho HS. Đó chính là những
phẩm chất và năng lực cơ bản, cần thiết của người công dân Việt Nam để đáp
ứng yêu cầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế hiện
nay. Thông qua các hình thức hoạt động như: trò chơi, tham quan du lịch, cắm
trại, thể dục thể thao, văn hóa, nghệ thuật,...hoạt động GDNGLL còn giáo dục
HS tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người, giúp các em phát triển thể chất
và thẩm mĩ; đồng thời giúp các em giải tỏa những mệt mỏi, căng thẳng trong
quá trình học tập cả ngày ở trường.[4]
Với mục đích đó, tôi đã tổ chức cho lớp mình tham gia các hoạt động theo
các chủ đề sau:
17



Chủ đề tháng 9: Mái trường thân yêu của em.
Chủ đề tháng 10: Vòng tay bạn bè.
Chủ đề tháng 11: Biết ơn thầy, cô giáo.
Chủ đề tháng 1: Ngày Tết quê em.
Chủ đề tháng 2: Em yêu tổ quốc Việt Nam.
Chủ đề tháng 3: Yêu quý mẹ và cô giáo.
Chủ đề tháng 4: Hòa bình và hữu nghị
Chủ đề tháng 5: Bác Hồ kính yêu.
- Ở mỗi chủ đề GVCN cần nghiên cứu, thiết kế, lựa chọn các loại hình hoạt
động sao cho sinh động, hấp dẫn để HS tích cực tham gia. Các chủ đề này
thường gắn với các ngày lễ lớn trong năm như: trong dịp lễ khai giảng năm học
mới, kỉ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam, ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt
Nam, lễ hội Tết cổ truyền của dân tộc, ngày sinh nhật Bác Hồ, ngày thành lập
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh,…Ở mỗi chủ đề GVCN cần tổ chức nhiều
các hoạt động khác nhau để tăng sức hấp dẫn của chương trình như: văn nghệ,
kể chuyện, trò chơi, thi đấu thể thao, thi tìm hiểu về An toàn giao thông, thi vẻ
đẹp đội viên, thi nghi thức Đội, tham quan, tổ chức giao lưu, thi rung chuông
vàng,…Qua đó HS có cơ hội trải nghiệm để hình thành những KNS cần thiết.
* Sau đây là một số ví dụ về việc tích hợp GDKNS cho HS trong các
HĐNGLL được lồng ghép vào chủ đề sinh hoạt hàng tháng mà tôi đã làm:
Ở chủ đề tháng 5 là “Bác Hồ kính yêu”. Với chủ đề này tôi có thể tổ chức
các hoạt động như sau:
Tuần 1: Thi hùng biện về Bác Hồ kính yêu
Hình thức: Tổ chức theo tổ
Phương pháp: Giáo viên chủ nhiệm cho học sinh làm việc theo nhóm (HS
chuẩn bị nội dung theo nhóm và cử đại diện mỗi nhóm một em thi hoặc nối
tiếp nhau mỗi em một đoạn). Qua việc thảo luận, chia sẻ với các bạn trong
nhóm và việc tự phân công nhiệm vụ cho từng thành viên trong nhóm để rèn
cho HS KN hợp tác, KN đảm nhận trách nhiệm, KN lắng nghe tích cực, KN tìm
kiếm sự hỗ trợ, KN tìm kiếm và xử lí thông tin,…Việc khuyến khích HS tham gia

hùng biện sẽ giúp HS rèn KN tự tin và KN diễn đạt trước đám đông.
18


HS lớp 4A Thi rung chuông vàng chào mừng ngày 26/3
Tuần 2: Giao lưu văn nghệ (Ca ngợi Bác Hồ, ca ngợi quê hương, đất nước).
Hình thức: Tổ chức thi hoặc tham gia trò chơi giữa các với nhau.
Phương pháp: GVCN cho HS chuẩn bị theo nhóm, các nhóm tự lựa chọn
các tiết mục và tự thiết kế cách biểu diễn, trình bày; qua đó rèn cho HS các KN:
tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải qvfuyết vấn đề, hợp tác,…Khi tổ chức cho HS
giao lưu GV có thể tổ chức dưới dạng một cuộc thi hoặc dưới dạng trò chơi (thi
hát đối, thi hát đuổi, thi hát tiếp sức,…) để tăng sự hào hứng cho HS và phát
huy tối đa KN hợp tác của HS.

19


Học sinh giao lưu văn nghệ chúc mừng thầy cô.
Tuần 3: Tổ chức chơi các trò chơi dân gian
Hình thức: Tổ chức cho HS chơi theo
các trò chơi dân gian
gần gũi với các em như bịt mắt bắt bóng, rồng rắn lên mây, mèo đuổi chuột,…
Phương pháp: GV CN chia nhóm cho HS chơi theo nhóm sau đó các nhóm
thi với nhau hoặc mỗi nhóm đều cử người sang chơi giao lưu với nhóm khác để
chia sẻ lẫn nhau. Qua đó HS sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn
cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong những tình huống cụ thể và
hình thành năng lực quan sát, KN nhận xét, đánh giá hành vi, KN hợp tác, KN
thương lượng,..

20



Học sinh hào hứng tham gia hoạt động ngoại khóa
Tuần 4: Tham quan một di tích lịch sử, di tích văn hóa ở địa phương
Hình thức: Tổ chức theo đơn vị lớp .
Phương pháp: Trong quá trình hướng dẫn HS tham quan, GVCN kết hợp sử
dụng các phương pháp, kĩ thuật “Viết tích cực” (HS ghi chép những thông tin,
những nhận xét của mình dưới hình thức cá nhân hoặc nhóm), kĩ thuật giao
nhiệm vụ, kĩ thuật đặt câu hỏi (giao nhiệm vụ và định hướng cho HS nội dung
tham quan, thời gian tham quan), kĩ thuật trình bày 1 phút (HS trình bày những
hiểu biết, những nhận xét hoặc những băn khoăn sau khi tham quan), kĩ thuật
hỏi chuyên gia (HS xung phong làm “chuyên gia” để giải đáp cho các bạn trong
lớp về những vấn đề còn băn khoăn, thắc mắc),…Nếu vận dụng tốt các kĩ thuật,
các phương pháp này vào trong quá trình hướng dẫn HS tham quan sẽ làm cho
buổi tham quan trở nên hữu ích, đem lại tác dụng GD cao; đồng thời sẽ tạo cơ
hội để HS rèn được các KNS như: KN hợp tác, KN đặt mục tiêu, KN quản lí thời
gian, KN tư duy phê phán, KN giao tiếp, KN kiên định,…

21


Học sinh thăm lăng Bác
Ngoài việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp ngay tại phạm vi lớp
mình, tôi còn gắn việc GDKNS thông qua HĐNGLL với phong trào thi đua, các
hoạt động chung của nhà trường theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT và
Phòng GD&ĐT đã quy định về việc tổ chức các HĐNGLL trong nhà trường .

HS được giáo dục kĩ năng sống qua chuyến thăm quan làng gốm Bát Tràng
Khi tổ chức các HĐNGLL với nhiều hình thức đa dạng, phong phú như vậy
HS sẽ rất hào hứng tham gia. Ở mỗi hoạt động, HS có được những trải nghiệm

khác nhau để hình thành những KNS khác nhau. Qua trò chơi, các em rèn được
KN tự quản lí thời gian, KN hợp tác, KN tư duy tích cực, KN tự tin,…; qua thi văn
nghệ, thời trang các em rèn được KN mạnh dạn tự tin, KN nhận thức và óc
22


thm m; qua thi u th thao cỏc em rốn c KN hp tỏc, KN tỡm kim s h
tr, KN lm ch cm xỳc,; qua hi ch cỏc em rốn c KN giao tip, KN th
hin s cm thụng,
Vic tớch hp GDKNS vo trong HNGLL nú khụng lm cho HNGLL cng
knh thờm m cũn giỳp cho vic tham gia cỏc hot ng ca HS vui v, tớch
cc , ho hng, sụi ni v nh nhng hn, to tinh thn on kt, gn bú, quan
tõm giỳp ln nhau trong hc tp. Hc sinh n lc tip thu bi ging v tỡm tũi
nhng kin thc liờn quan n bi hc liờn h ỏp dng vo thc tin, qua ú
phỏt huy tớnh tớch cc, ch ng, sỏng to ca hc sinh. Cỏc em cm thy rt vui
v bit thờm nhiu kin thc.Vic vn dng linh hot v hp lớ cỏc phng phỏp
v k thut dy hc vo cỏc HNGLL s lm tng thờm hiu qu giỏo dc ca
HNGLL ng thi s to iu kin HS c thc hnh, tri nghim cỏc KNS
cn thit.
Ngay nhng ngy u tiờn khi cỏc em vo lp hc, bn thõn ó phỏt ng
cỏc phong tro: Núi li hay lm vic tt qua cỏch ng x l phộp nh bit i
tha v trỡnh, cho hi nhng ngi ln tui, bit xin li khi cú khuyt im,
cm n khi c tng qu, vui v ho nhó vi bn bố, l phộp vi thy cụ v
nhng ngi ln tui,... v tng kt vo cỏc tit sinh hot lp cho tng em
c nhn xột bn ca mỡnh. Bn thõn hc cỏch lng nghe, tỡm hiu nguyờn
nhõn, v dựng li l mm mng bng nhng tỡnh cm, c ch yờu thng ca
mỡnh khi yờu cu iu gỡ ú vi hc sinh. Trỏnh hnh hung, núi nng li cỏc
em bt i tớnh hung hng i vi nhng hc sinh nghch ngm, mc li.
rốn k nng sng cú hiu qu bn thõn cũn vn dng thụng qua cỏc
hot ng ngoi gi hc. ú l qua cỏc bui ngoi khúa ca trng, lp,cỏc

bui sinh hot cõu lc b vo chiu th t hng tun
Vớ d: Nhõn ngy l Cho mng ngy nh giỏo Vit Nam 20-11. i ó phỏt
ng phong tro thi ua :
+ Tit hc tt, tun hc tt: Phong tro ny ó giỳp cho cỏc em hng thỳ
trong hc tp, lp c nhiu thnh tớch xut sc nh: Em Phạm Đức Tài,
Mai Hà Thanh, Lê Thị Minh Thanh, Bùi Đức Anh Minh, Mai Linh
Phơng, Hoàng Hà Anh, Phạm Quỳnh Anh...
+ Phong tro vn ngh: Chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam
20/11, lp 4A cú 1 tit mc t gii Nht l bi mỳa Niềm vui đến trờng,

23


+ Phong trào thi làm báo tường giữa các chi đội trong toàn trường. Bản
thân đã hướng dẫn các em cùng sưu tầm bài và viết bài, vẽ và trang trí báo. Qua
hoạt động này rèn cho các em nhiều kĩ năng như: trình bày, trang trí,…các em
rất nhiệt tình, đoàn kết và hợp tác nhau rất tốt. Kết quả tê b¸o cña liªn khèi
4 vµ 5 đã đạt được giải Nhất.
Đối với học sinh bậc học tiểu học trò chơi có một vai trò rất quan trọng
trong viêc rèn kĩ năng sống cho các em. Nhân ngày 26/3/2019, Liên đội tổ chức
trò chơi “Rung chuông vàng”, tôi đã động viên các em tham gia, qua hoạt động
rèn cho các em kĩ năng trình bày suy nghĩ, kĩ năng giao tiếp ứng xử, kĩ năng tư
duy ra quyết định phù hợp kÕt qu¶ em: Ph¹m §øc Tµi giµnh gi¶i NhÊt
khèi 4…
Ngoài ra để các em có kĩ năng phòng tránh tai nạn giao thông và các
thương tích khác, bản thân đã giáo dục các em thông qua các tiết: An toàn giao
thông, thi Giao thông thông minh, bằng cách đưa ra những tình huống cho các
em xử lí.
Giáo dục cho các em tránh các tai nạn trên đường: không được chạy lao ra
đường, không được bám bên ngoài ô tô, không được thò tay, chân, đầu ra

ngoài khi đi trên tàu, xe, ghe, đò, khi ngồi trên xe máy tham gia giao thông phải
đội mũ bảo hiểm… Đặc biệt đường đến trường của các em lưu lượng người đi
lại rất đông, các em lại đi học bằng xe đạp, nếu các em không nắm vững luật
giao thông khi tham gia giao thông sẽ rất nguy hiểm. Vì thế, tôi đã cho các em
thực hành đi bộ và đi xe đạp an toàn ngay từ cổng trường. Như vậy, các em có
thể tự lập, xử lí được những vấn đề đơn giản khi gặp phải.
Ngoài ra, giáo viên cần tranh thủ đọc sách cho các em nghe trong mọi tình
huống như những lúc sinh hoạt đầu giờ, hoặc đọc sách các em nghe trong giờ
sinh hoạt lớp.Tăng cường kể cho các em nghe các câu chuyên cổ tích, câu
chuyện trong bài tập đọc, bài thơ,…để qua đó rèn luyên đạo đức cho các em,
giúp các em hoàn thiên mình, dạy các em yêu thương bạn bè, yêu thương con
người. Tạo hứng thú cho các em qua các truyên bằng tranh tùy theo lứa tuổi,
gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ. Không
những thế, bản thân còn khuyến khích các em cùng chia sẻ những cảm nhận,
những suy nghĩ, những quan sát của mình với cô với bạn một cách thoải mái, tự
nhiên không gò bó, áp đặt. Hoặc ở những giờ sinh hoạt lớp, giờ ra chơi bản
thân cùng các em tham gia những trò chơi dân gian, trò chơi giúp các em phát
triển trí tuệ.

24


Đồng thời giáo dục cho các em tham gia hoạt động xã hội và hoạt động lao
động công ích. Tham gia các hoạt động xã hội, hoạt động công ích để giúp các
em nâng cao hiểu biết về con người, đất nước, xã hội. Đây là một hoạt động
mang một ý nghĩa vô cùng to lớn. Thông qua hoạt động này, các em sẽ được bồi
dưỡng thêm về nhân cách, đặc biệt là tình người. Như vậy, hoạt động này phải
được khai thác một cách triệt để nhằm phát triển tối đa nhân cách ở các em.
Thông qua lao động công ích sẽ giúp các em gắn bó với đời sống xã hội.
Ngoài ra lao động công ích còn góp phần làm cho trẻ hiểu thêm về giá trị lao

động, từ đó giúp trẻ có ý thức lao động lành mạnh. Lao động công ích giúp trẻ
vận dụng kiến thức vào đời sống như: Trực nhật, vệ sinh lớp học, sân trường,
làm đẹp bồn hoa, cây cảnh cho đẹp trường, lớp và chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ.
Đây là hoạt động thật sự cần thiết giúp các em thích nghi với cuộc sống xung
quanh. Sau này dù có rơi vào hoàn cảnh khắc nghiệt nào thì các em vẫn có thể
tồn tại được. Đó là nhờ các em biết lao động.

Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang
trí lớp học xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, bản thân đã
hướng dẫn các em trồng cây xanh và chăm sóc cây xanh hàng ngày.
Song song với việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là rèn học sinh các nề nếp
hằng ngày như đi học đúng giờ buộc học sinh phải có thói quen dậy sớm, có tác
phong nhanh nhẹn (rèn kĩ năng khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu), yêu cầu
xếp hàng ra vào lớp thẳng hàng, ngay ngắn, không xô đẩy nhau trong hàng (rèn
cho học sinh kĩ năng kiềm chế bản thân, kĩ năng vận động, gây ảnh hưởng), yêu
cầu học sinh đến lớp phải có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập (rèn cho học sinh
kĩ năng tự kiểm tra, xây dựng kế hoạch).
25


×