Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo mô hình trường học mới việt nam VNEN nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường TH đông cương TPTH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.16 KB, 22 trang )

1.MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài.
Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn
vinh của đất nước. Giáo dục cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của
nhân loại cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những hiểu biết cơ bản cần thiết
về khoa học và cuộc sống. Mặt khác, giáo dục còn góp phần hình thành và bồi
dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh, đặc biệt là Giáo dục Tiểu học, đây là bậc
học mang tính chất nền móng để các em học tiếp các bậc học cao hơn. Vậy để
GD có hiệu quả và đạt chất lượng cao đòi hỏi chúng ta phải Đổi mới PPDH.
Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay không chỉ là phong trào mà còn là một
yêu cầu bắt buộc với mọi giáo viên. Bộ GD&ĐT cũng đã đưa ra định hướng chỉ
đạo, phát động và triển khai mạnh mẽ tại hầu khắp địa phương trên cả nước. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy giai đoạn hiện nay nhiều nhà trường, giáo viên đã đổi mới
PPDH nhằm đem đến cho các em học sinh những giờ học thực sự bổ ích, lý thú.
Dự án mô hình trường học mới (VNEN) đã được lựa chọn là Dự án về sư
phạm với trọng tâm đổi mới phương pháp, tổ chức lớp học và đánh giá học sinh
theo xu hướng của giáo dục hiện đại.
Mô hình VNEN là mô hình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo
nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người đóng vai trò tổ chức
hoạt động, hướng dẫn các em hoạt động để thu nhận kiến thức. Giáo viên không
trực tiếp cung cấp kiến thức có sẵn trong sách. Học sinh tự thảo luận theo nhóm,
phân công nhiệm vụ cho nhau và khi gặp vấn đề khó không giải đáp được mới
yêu cầu sự trợ giúp của giáo viên bằng thẻ cứu trợ.
Mô hình này vừa kế thừa những mặt tích cực của mô hình trường học
truyền thống, vừa có sự đổi mới căn bản về mục tiêu đào tạo, tài liệu học tập,
phương pháp dạy học, cách đánh giá, cách tổ chức quản lí lớp học, cơ sở vật
chất phục vụ cho dạy học…
Đặc biệt, ở mô hình này các em sẽ được học 2 buổi trên ngày và học
theo một chương trình sách giáo khoa riêng (Tài liệu hướng dẫn học tập). Tài
liệu hướng dẫn học tập (TLHDHT) được thiết kế theo kiểu 3 trong 1, nghĩa là
TLHDHT dùng cho học sinh, giáo viên và phụ huynh.


Với nhiều ưu điểm nổi trội của chương trình, qua 5 năm thực hiện mô
hình VNEN và đang triển khai ở năm học 2017- 2018. Đơn vị chúng tôi đã nhận
được sự quan tâm sâu sắc của lãnh đạo ngành, lãnh đạo địa phương, sự ủng hộ
nhiệt tình của phụ huynh học sinh. Đặc biệt là sự nhiệt huyết của Ban Giám hiệu
và đội ngũ giáo viên trong nhà trường. Hầu hết giáo viên dạy VNEN đã thực
hiện thành công việc chuyển đổi từ vai trò giảng giải, truyền thụ kiến thức sang
tổ chức, hướng dẫn học sinh cách học, theo dõi kiểm soát học sinh tự học; đa số
giáo viên VNEN đã tập trung vào nghiên cứu nội dung bài học, hoạt động học
trong tài liệu hướng dẫn học để điều chỉnh, dự kiến tình huống sư phạm, chuẩn
bị đồ dùng dạy học… nhằm đạt được hiệu quả bài học cao nhất.
1


Sau thời gian thực hiện và phát huy hiệu quả của Mô hình trường học mới
tại đơn vị, bản thân đã mạnh dạn viết lại những kinh nghiệm đã được áp dụng để
mong được chia sẻ cùng đồng nghiệp. Đồng thời với mong muốn làm thế nào để
có thể duy trì và phát huy hiệu quả của mô hình trường học mới trong những
năm học tới vì năm học 2017-2018 này là năm tiếp tục thực hiện thí điểm mô
hình trường học mới (VNEN) tại Trường Tiểu học Đông Cương chúng tôi. Đó
chính là lý do bản thân tiếp tục chọn đề tài:“Một số biện pháp chỉ đạo dạy học
theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện ở trường Tiểu học Đông Cương Thành phố Thanh Hóa".
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đây là mô hình thí điểm, mọi điều còn rất mới mẻ từ cách thức tổ chức
đến thực hiện dạy và học. Phải thực hiện mô hình này thành công và được xã hội
chấp nhận là mô hình dạy học tiên tiến nhất từ trước đến nay. Thay đổi cách làm,
cách nghĩ của giáo viên, thay đổi cách học của học sinh, thay đổi cách nhìn nhận
của cha mẹ học sinh. Phải thực sự đổi mới để người học thật sự là học, thật sự
tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức một cách chủ động.
1.3. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu giải pháp và biện pháp chỉ đạo và tổ chức dạy và học mô hình
trường học mới (VNEN) nhằm năng cao chất lượng dạy và học tại trường Tiểu
học Đông Cương – Thành phố Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp khảo sát.
1.5. Những điểm mới của SKKN.
Dựa vào kết quả đạt được từ những giải pháp của SKKN đã đạt loai C cấp
Tỉnh năm học 2015 - 2016, năm học 2017-2018, bản thân đã vận dụng và bổ
sung thêm một số các giải pháp sau để chỉ đạo dạy học theo mô hình trường học
mới Việt Nam (VNEN). Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường
Tiểu học Đông Cương Thành phố Thanh Hóa.
- Nâng cao năng lực cho CBGV thông qua việc tổ chức các hoạt động tập thể.
- Nâng cao năng lực cho CBGV thông qua việc tăng cường CSVC, trang
thiết bị phục vụ dạy và học, đưa UDCNTT vào dạy học một cách đồng bộ.
- Khuyến khích cách làm sáng tạo của giáo viên, động viên khen thưởng kịp thời.
- Tăng cường sự tham gia của cộng đồng nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện cho học sinh theo mô hình trường học mới VNEN.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của việc dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN)
Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam (Dự án GPE-VNEN, Global
Partnership for Education – Viet Nam Escuela Nueva) là một Dự án về sư phạm
nhằm xây dựng và nhân rộng một kiểu mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại,
phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục Việt Nam.
2


Mô hình trường học mới khởi nguồn từ Côlômbia từ những năm 19952000 để dạy học trong những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn, theo nguyên
tắc lấy học sinh làm trung tâm. Từ năm 2012, Dự án Mô hình trường học mới đã

triển khai áp dụng mô hình VNEN trong 5 năm học liên tiếp, gây dựng được
niềm tin cho giáo viên, cha mẹ học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục Việt Nam.
So với mô hình truyền thống nặng về truyền thụ kiến thức có tính áp đặt,
mô hình VNEN khắc phục được nhược điểm này, đảm bảo sự hài hòa giữa dạy
chữ và dạy làm người. Có thể thấy sự khác biệt trên nhiều phương diện. Thứ
nhất, tài liệu dạy và học trong mô hình VNEN không phải sách giáo khoa mà là
tài liệu “hướng dẫn học” dùng chung cho giáo viên, học sinh và phụ huynh. Thứ
hai, mô hình VNEN lấy “hoạt động học” làm trung tâm, giáo viên không giảng
giải, không truyền thụ kiến thức một chiều cho cả lớp nghe, mà tập trung theo
dõi, hướng dẫn học sinh tự học và hỗ trợ kịp thời từng nhóm học sinh khi gặp
khó khăn. Thứ ba, tổ chức lớp học thay đổi căn bản, các em ngồi học theo nhóm,
có nhóm trưởng luân phiên điều hành. Bên cạnh đó, mô hình này chú trọng hoạt
động tự giáo dục của học sinh, bao gồm tự quản, tự học, tự đánh giá.
2.2. Thực trạng về việc dạy dạy học theo mô hình trường học mới
VNEN ở trường Tiểu học Đông Cương – Thành phố Thanh Hóa.
2.2.1.Vài nét khái quát về tình hình địa phương, tình hình nhà trường.
a, Thuận lợi:
Trường tiểu học Đông Cương là trường nằm ở vùng ven về phía Bắc
thành phố Thanh Hóa. Đông Cương là một phường có số dân đông với 1876 hộ
dân và hơn 8365 khẩu. Người dân nơi đây sống chủ yếu bằng nghề nông chăn
nuôi, trồng trọt và buôn bán nhỏ lẻ. Điều kiện kinh tế không đồng đều, tỉ lệ hộ
đói nghèo chiếm tỷ lệ 2,8 %. Chính vì vậy, việc đầu tư cho con cái đi học còn
nhiều hạn chế. Trong những năm gần đây, phần đông phụ huynh cũng đã dần
nhận thức đúng đắn về công tác giáo dục và đã có ý thức quan tâm đến con em
nhiều hơn. Mặt khác, được sự quan tâm của Đảng uỷ, chính quyền địa phương,
của ngành Giáo dục; tranh thủ được sự hỗ trợ từ các chương trình dự án, nên
CSVC trang thiết bị, khuôn viên nhà trường ngày càng xanh sạch, đẹp. Trường
được công nhận là trường chuẩn Quốc gia mức độ 1 vào tháng 10 năm 2007 đây
cũng là điều kiện thuận lợi để nhà trường thực hiện hoạt động chuyên môn cũng

như các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường.
Tập thể cán bộ giáo viên có trình độ đạt chuẩn 100%, trên chuẩn 93%, có
năng lực chuyên môn vững vàng, nhiệt tình, có tinh thần ham học hỏi, có chí
phấn đấu, dễ tiếp cận với các PPDH mới, hiện đại. Có tinh thần trách nhiệm với
học sinh, phụ huynh. Có đội ngũ giáo viên trẻ, cốt cán là những nòng cốt trong
các hoạt động giảng dạy của trường.
b, Khó khăn:
Địa bàn quản lý học sinh của nhà trường rộng. Trường có 22 lớp, số học
sinh/lớp đông vượt quá quy định (Trung bình 37 HS/lớp). CSVC còn thiếu các
3


phòng học như: phòng đọc, phòng giáo dục nghệ thuật, phòng giáo dục âm nhạc,
phòng đa năng...
Sự quan tâm, chăm lo của 1 số bậc cha mẹ đối với việc học tập của con
em mình chưa được đúng mức như: trang bị chưa đầy đủ các điều kiện, đồ dùng
học tập cần thiết, phần nào đã ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh.
Về đội ngũ giáo viên, hiện tại nhà trường vẫn còn thiếu 03 giáo viên đặc
thù (nhà trường phải tự hợp đồng),
Một bộ phận nhỏ GV năng lực còn hạn chế, thích kê bàn ghế và dạy theo
chương trình đại trà, một số giáo viên mới chuyển công tác về trường, chưa tiếp
cận nhanh với cách dạy học theo mô hình mới VNEN. Chưa ƯDCNTT thường
xuyên vào dạy học theo chương trình VNEN với cách nghĩ " Học sinh học nhóm
là chủ yếu - không cần máy chiếu". Nên cũng ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo
hoạt động dạy – học chung ở nhà trường.
2.2.2.Thực trạng chung.
Năm đầu tiên tiếp cận với Mô hình trường học mới VNEN, mọi cái đều
mới lạ, bỡ ngỡ đối với giáo viên và học sinh. Giáo viên chưa nắm rõ bản chất,
đặc trưng của Mô hình trường học mới VNEN, lúng túng trong việc tổ chức lớp
học, cảm xúc hồi hộp, lo lâu và có đôi chút ái ngại. Bởi lẽ, giáo viên đã quen

thuộc với phương pháp dạy học trước đây, giờ mọi thứ dường như thay đổi, liệu
có đạt được những thành công? Hơn nữa, học sinh lớp 2, 3 còn nhỏ, khả năng
đọc hiểu còn hạn chế, trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều. Việc bầu
chọn Hội đồng tự quản, các ban trong lớp và các nhóm trưởng cũng như việc
thực hiện nhiệm vụ của các thành viên này là vô cùng khó khăn, bởi các em
chưa có kỹ năng điều hành nhóm, kỹ năng tổ chức trò chơi, chưa biết hợp tác
trong học tập, chưa mạnh dạn trình bày ý kiến của mình. Không khí lớp học
nặng nề, căng thẳng. Phần ứng dụng học tập ở nhà học sinh không tự giải quyết
được vì không có sự hướng dẫn của phụ huynh. Phụ huynh học sinh thiếu quan
tâm đến con em, còn phó mặc cho nhà trường. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng
được với mô hình này vì học sinh trong một lớp quá đông, vượt xa so với quy
định của mô hình. Đón đoàn Tư vấn giám sát của Sở giáo dục và PGD về khảo
sát sau một năm thực hiện dự án với nhận xét về nhà trường: " Học sinh thụ
động trong học tập, rụt dè trong giao tiếp, giáo viên tổ chức lớp học, truyền đạt
kiến thức chưa đúng tinh thần VNEN. CSVC lớp học, nhà trường chưa đảm bảo
cho việc dạy theo mô hình VNEN" Xuất phát từ thực trạng đáng lo ngại trên,
Ban Giám hiệu đã triệu tập cuộc họp cùng với các tổ trưởng chuyên môn trong
nhà trường đề ra một số giải pháp nhằm từng bước tháo gỡ những khó khăn để
thực hiện thành công mô hình này.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Nêu cao vai trò, trách nhiệm của người Hiệu trưởng, của BGH, tổ
chuyên môn trong công tác chỉ đạo dạy học theo Mô hình trường học mới Việt
Nam (VNEN) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở nhà trường.
a, Vai trò “đầu tàu” của Hiệu trưởng nhà trường.
Là cán bộ quản lý, về nhận nhiệm vụ khi nhà trường đang áp dụng Dự án
Mô hình trường học mới Việt Nam VNEN. Khi dự án được thực hiện 1 năm, kết
4


quả nhà trường được đoàn tư vấn giám của SGD, PGD đánh giá: " Học sinh e

dè, nhút nhát, giáo viên chưa mạnh dạn, chưa sáng tạo, cơ sở vật chất còn thiếu,
không đủ phòng học cho việc dạy 2 buổi/ngày".
Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, là người đứng đầu đơn vị chịu trách nhiệm
trước cơ quan quản lý cấp trên (Phòng Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban nhân
phường Đông Cương) về mọi hoạt động giáo dục của nhà trường, bản thân đã
xác định: phải cố gắng bằng mọi giá để tiếp tục thực hiện thành công mô hình
trường học mới. Tôi bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu, đọc tài liệu để sớm tiếp cận
với mô hình, dần từng bước áp dụng mô hình vào thực tiễn công tác, phù hợp
với đặc trưng, điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, đơn vị.
Bám sát các dấu hiệu đặc trưng của mô hình trường học mới, mạnh dạn tổ
chức lớp học theo mô hình trường học mới, hướng dẫn, giúp đỡ giáo viên để các
đồng chí nắm chắc nhiệm vụ, phối hợp tổ chức triển khai thực hiện. Bản thân
phải là nòng cốt trong các hoạt động chuyên môn của nhà trường, phải nắm rõ
bản chất, nội dung, phương pháp, cách tổ chức dạy học theo Mô hình trường
học mới VNEN. Làm tốt công tác tuyên truyền tới phụ huynh học sinh, tổ chức
các đợt tập huấn cho giáo viên về Mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN).
Đặc biệt, có vai trò quan trọng trong việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo
thực hiện và kiểm tra đánh giá chất lượng hoạt động dạy học theo mô hình
trường học mới Việt Nam (VNEN) trong nhà trường. Những hoạt động chỉ đạo
của bản thân sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động giáo dục trong nhà trường
như: hoạt động dạy học của GV và HS, sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học, các
lần hội giảng, các cuộc thi, viết sáng kiến kinh nghiệm, tổ chức các hoạt động
GDNGLL, … Chú trọng xây dựng cảnh quan môi trường, lớp học.
- Năm học 2017 - 2018 này, bản thân đã mạnh dạn bàn bạc thống nhất làm
tốt công tác XHHGD, phấn đấu có đủ các thiết bị dạy học hiện đại, đưa ứng
dụng CNTT vào dạy học Mô hình VNEN trong toàn trường.
- Chỉ đạo tổ chức học theo mô hình VNEN thì phải trung thành, thực hiện
đúng yêu cầu nội dung chương trình, không sa vào cách tổ chức dạy học chương
trình hiện hành. Quán triệt kịp thời tới những giáo viên có tư tưởng không ổn
định, bắt trước các trường bạn, tự ý sắp xếp bàn ghế mà không xin phép BGH,

muốn thay đổi, tổ chức lớp học không đúng với yêu cầu của Mô hình.
b, Đối với Ban giám hiệu:
Ngay vào đầu năm học, nhà trường tổ chức các cuộc họp với chính quyền
địa phương, ban đại diện Cha mẹ học sinh và toàn thể phụ huynh học sinh của
các lớp tham gia thí điểm mô hình trường học mới (VNEN) nhằm tuyên truyền,
triển khai nội dung và cách thức thực hiện chương trình. Từ đó, mọi người sẽ
nắm bắt và đồng tình ủng hộ. Nắm được tình hình trên, BGH nhà trường đã họp
bàn lên kế hoạch cụ thể trong việc chỉ đạo chuyên môn như :
- Quan tâm, chỉ đạo sát sao việc chọn cử giáo viên đi tập huấn chuyên đề
mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) cấp Tỉnh, cấpTP. Tổ chức tập huấn
chuyên đề cấp trường trong hè và bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên.
- Tăng cường dự giờ, tư vấn, rút kinh nghiệm.
5


- Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt chuyên môn cấp trường vào thứ 7, giao lưu
chuyên môn Cụm (3 trường dạy thí điểm mô hình trường học mới VNEN trong thành
phố: Đông Hải 1, Hoằng Quang, Đông Cương) theo kế hoạch, các chuyên đề sinh
hoạt chuyên môn dựa trên giờ dạy cho toàn giáo viên trong đơn vị tham gia, thảo luận
rút kinh nghiệm về phương pháp dạy học, kỹ năng điều hành lớp của Chủ tịch Hội
đồng Tự quản, của nhóm trưởng, trang trí lớp học, cách sử dụng các công cụ học tập ở
các góc học tập…
- Sắp xếp thời khóa biểu phù hợp, đảm bảo tính sư phạm, khoa học.
- Khuyến khích giáo viên chăm chuyên, linh hoạt, sáng tạo trong dạy học.
- Yêu cầu mỗi giáo viên phải viết nhật kí giảng dạy những vấn đề bất cập
về sách, những khó khăn của học sinh, những giải pháp thực hiện đạt hiệu quả,
nhật ký đánh giá học sinh.
- Chỉ đạo cho giáo viên Tổng phụ trách Đội nghiên cứu, triển khai tổ chức
các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, các trò chơi, tiểu phẩm trong sinh hoạt
tập thể, sinh hoạt dưới cờ, trong giờ học thể dục, múa hát sân trường, các trò

chơi dân gian…để làm phong phú các hoạt động trong nhà trường, tạo không khí
vui tươi, thoải mái cho các em vào học kiến thức và để mỗi học sinh thực sự
cảm nhận được “Mỗi giờ đến trường là một giờ khám phá, mỗi ngày đến trường
là một ngày vui”.
- Thường xuyên kiểm tra giáo viên về: Sổ nhật kí giảng dạy và nhật ký
đánh giá học sinh theo TT30, sửa đổi theo TT22 của Bộ GD&ĐT để tư vấn điều
chỉnh kịp thời.
- Đăc biệt, đầu năm học Ban Giám hiệu kiểm tra chất lượng học tập, nắm
chắc tên từng em, số lượng học sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo của từng
lớp, rồi phân đều cho mỗi giáo viên đứng lớp chịu trách nhiệm hướng dẫn, kèm
cặp bao nhiêu em cụ thể, hằng tháng BGH phối hợp với các tổ trưởng chuyên môn dự
giờ kiểm tra đánh giá sự tiến bộ của những em này và đưa vào đánh giá giáo viên.
- Ưu tiên những lớp học chương trình VNEN được học 10 buổi/tuần. Các
môn học đặc thù, học sinh được học với giáo viên chuyên trách.
c. Đối với Tổ chuyên môn:
Các tổ chuyên môn là tổ chức quan trọng và nòng cốt trong các nhà
trường nói chung, trường Tiểu học nói riêng. Bởi các hoạt động chủ yếu của nhà
trường là hoạt động chuyên môn và tổ chuyên môn là nơi thực hiện hóa mọi chủ
trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước, địa phương, nhà trường về
giáo dục đào tạo.
- Chủ động lên kế hoạch sinh hoạt chuyên môn trong tổ, nội dung sinh
hoạt đi vào chiều sâu và có chất lượng, mỗi lần sinh hoạt nêu lên được những
tồn tại, khó khăn bất cập, những vướng mắc gặp phải trong quá trình dạy học.
Tổ chức thảo luận và thống nhất trong tổ những điều chỉnh, những giải pháp
khắc phục tồn tại trong thời gian tới.
6


- Tăng cường dự giờ, tư vấn cho giáo viên trong tổ để trao đổi thống nhất về
phương pháp, cách thức tổ chức lớp học, cách điều hành của nhóm trưởng cũng như

việc học sinh có thực sự tự học, tự giác, tích cực trong giờ học và thực hiện đúng 10
bước lên lớp hay hoàn thành các hoạt động theo yêu cầu của bài học. Bên cạnh còn
chú trọng về sự giúp đỡ lẫn nhau của các bạn trong nhóm, của giáo viên với học sinh
yếu, câu lệnh cùng những ngữ điệu của giáo viên trong các tiết dạy.

Ảnh: 10 bước học tập theo mô hình trường học mới (VNEN)
- Ngoài ra, còn tổ chức các chuyên đề ở các môn học, hoạt động giáo dục
chưa có tài liệu hướng dẫn học mà giáo viên còn lúng túng (Giáo dục Âm nhạc,
Mỹ thuật, Thể dục, Đạo đức, Thủ công (Kỹ thuật) rút kinh nghiệm trong tổ để có
phương pháp giảng dạy tốt.
- Thường xuyên kiểm tra Sổ nhật kí giảng dạy và nhật ký đánh giá học
sinh của giáo viên để tư vấn điều chỉnh kịp thời. Đồng thời đề xuất với nhà
trường những khó khăn bất cập và xin ý kiến chỉ đạo để triển khai điều chỉnh
nhằm giúp giáo viên trong tổ thực hiện tốt hơn sổ nhật kí dạy học.
2.3.2. Tiếp tục bồi dưỡng cho giáo viên về bản chất của mô hình trường
học mới VNEN.
- GV cần hiểu thấu đáo cơ sở khoa học và thực tiễn, ý đồ soạn thảo và vận
dụng của tài liệu Hướng dẫn học.
- Bồi dưỡng cho GV ý thức sâu sắc về sự tự học, tự bồi dưỡng, tích cực
học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp.
- Nghiên cứu kĩ bài dạy (mục tiêu cần đạt, câu lệnh, lôgô...) để trao đổi
với các giáo viên trong khối, điều chỉnh cho phù hợp; nắm chắc 5 bước giảng
dạy và 10 bước học tập để tổ chức dạy học trên lớp đạt hiệu quả.
7


- Thời gian đầu khi học sinh chưa quen cách học, trước khi tổ chức cho
học sinh trải nghiệm, phân tích khám phá, rút ra kiến thức mới, giáo viên cần
linh hoạt kết hợp tính kế thừa của phương pháp dạy học truyền thống để giao
nhiệm vụ rõ ràng cho các nhóm thực hiện.

- Cập nhật vào nhật kí giảng dạy và nhật ký đánh giá học sinh những khó
khăn, những giải pháp thực hiện đạt hiệu quả trong quá trình giảng dạy.
- Hướng dẫn học sinh lựa chọn và bình bầu những bạn mạnh dạn, nhanh
nhẹn, học lực khá, giỏi vào Hội đồng tự quản và làm nhóm trưởng.
- Tập huấn cho nhóm trưởng và Hội đồng tự quản kỹ năng điều hành
nhóm học tập cũng như tổ chức các hoạt động vui chơi khi khởi động.
- Tăng cường kiểm tra bài tập ứng dụng. Tăng cường (phần đọc và viết)
vào đầu buổi học.
- Phân nhóm nhiều đối tượng để học sinh hỗ trợ nhau trong học tập.
- GV quan tâm, giúp đỡ nhiều hơn đối với những học sinh yếu, nhẹ nhàng,
tôn trọng, gần gũi, giải thích từ từ, lôgic các kiến thức có liên quan để học sinh
hiểu ra vấn đề, không nổi nóng, quát tháo học sinh. Thường xuyên động viên,
khuyến khích khi các em có tiến bộ.
- Trong dạy học phải bao quát lớp, quy định các kí hiệu để học sinh thực hiện
theo lệnh và kiểm tra giám sát, giúp đỡ các nhóm kịp thời. Nhất thiết phải tổ chức
bước khởi động để tạo hứng thú cho học sinh trước khi bước vào tiết học.
- Đối với những bài có kênh hình và kênh chữ không phù hợp hoặc quá
trừu tượng với học sinh, giáo viên mạnh dạn điều chỉnh và giảng giải, phân tích
để học sinh hiểu.
- Phân loại đối tượng học sinh để giao việc phù hợp và bồi dưỡng, phụ
đạo cho các em… Hướng dẫn cho học sinh sử dụng triệt để các góc học tập.
Chỉ khi hiểu thấu đáo bản chất của mô hình trường học VNEN, GV mới
đủ tự tin và bản lĩnh để linh hoạt triển khai dạy học hiệu quả theo mô hình này.
2.3.3. Tổ chức các đợt tập huấn, sinh hoạt chuyên môn nhằm nâng cao
năng lực cho giáo viên:
Một trong những đổi mới căn bản về bồi dưỡng giáo viên của mô hình
VNEN là tổ chức bồi dưỡng, tập huấn. Đây là việc làm hết sức cần thiết để giáo
viên tự tin khi áp dụng phương pháp dạy học VNEN nhằm mục đích:
- Giúp giáo viên có hiểu biết sâu về mô hình trường học mới – VNEN.
- Từng bước đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới sư phạm một cách

vững chắc đáp ứng yêu cầu của mô hình trường học mới – VNEN.
- Trên cơ sở bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn nhằm giải quyết những
vấn đề mới và khó, những tình huống sư phạm nhằm thực hiện tốt chương trình
và đạt hiệu quả cao ở mô hình trường học mới – VNEN.
8


Cụ thể, hoạt động tập huấn, bồi dưỡng đã được tổ chức tại đơn vị dưới
nhiều hình thức:
+ Tổ chức cho giáo viên học tập, nghiên cứu để hiểu rõ hơn về mục tiêu,
nội dung, phương pháp, cách tổ chức lớp học…theo Mô hình VNEN.
+ Tổ chức sinh hoạt các chuyên đề, sinh hoạt chuyên môn dựa trên giờ dạy cho
toàn giáo viên trong đơn vị tham gia, thảo luận rút kinh nghiệm về phương pháp dạy
học, kỹ năng điều hành lớp của Chủ tịch Hội đồng tự quản, của nhóm trưởng, sử dụng
các góc học tập, trang trí lớp …vào các ngày thứ 7 hằng tuần.

Ảnh: Trong một tiết sinh hoạt chuyên môn
Vấn đề lựa chọn phương án hợp lý khi sử dụng tài liệu Hướng dẫn học ở
mô hình VNEN là một trong những nội dung chính trong sinh hoạt chuyên môn
tại trường và đi tới thống nhất việc lựa chọn phương án hợp lý khi sử dụng tài
liệu Hướng dẫn học (điều chỉnh tài liệu) nhằm giúp mỗi giáo viên có kế hoạch
bài dạy tốt nhất trước khi lên lớp để tổ chức dạy học.
Ví dụ: Lựa chọn phương án hợp lý (điều chỉnh) khi sử dụng tài liệu
Hướng dẫn học Tiếng Việt, lớp 4, tập 2A
TIẾNG VIỆT - Lớp 4
Bài 20A: CHUYỆN VỀ NHỮNG NGƯỜI TÀI GIỎI (Tiết 1)
I. Mục tiêu
- Đọc – hiểu truyện Bốn anh tài - phần tiếp theo.
II. Hoạt động học:
A. HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN

*Khởi động:
- Ban văn nghệ tổ chức cho các bạn chơi trò chơi khởi động tiết học.
* Trò chơi: Ai nhanh, ai đúng.
9


- Thi nói nhanh tên của các nhân vật trong truyện Bốn anh tài.
+ Quản trò nêu đặc điểm của các nhân vật, một bạn nói tên nhân vật.
+ Nhận xét.
* Hình thành kiến thức:
CHƯA ĐIỀU CHỈNH
BÀI ĐÃ ĐƯỢC ĐIỀU CHỈNH
* Trước đây ở sách HDH, * Theo cách điều chỉnh tài liệu hiện nay ở HĐ này tiến
HS thực hiện theo hình hành theo các bước sau:
thức sau:
6. Thảo luận, trả lời câu hỏi.
6.Thảo luận, trả lời câu hỏi.

- Nhóm trưởng tổ chức cho
các bạn trong nhóm thảo
luận lần lượt các câu hỏi và
đưa ra câu trả lời. Các bạn
khác nhận xét bổ sung.
- Thư kí tổ ghi lại kết quả
và thống nhất trong nhóm.
- Báo cáo với thầy cô giáo.

Việc 1: - Từng bạn đọc thầm và trả lời các câu hỏi và ghi ra
nháp ý trả lời của mình


- Việc 1: Viết xong, Em chủ động chia sẻ câu trả lời của
mình cho bạn bên cạnh để bạn có ý kiến đánh giá và cùng
trao đổi lại và bổ sung nếu thiếu.
- Việc 2: Em và bạn đổi vai hỏi và trả lời
- Việc 1: Nhóm trưởng đọc câu hỏi và mời bạn trả lời,
các bạn khác chú ý nghe, đánh giá và bổ sung cho mình.
-Việc 2: Nhóm trưởng cho các bạn nêu nội dung bài.
- Việc 3: Nhóm trưởng, đề nghị bạn thư ký tổng kết ý
kiến thống nhất của cả nhóm và báo cáo cô giáo.
- Việc 4: Ban học tập mời cô chia sẻ.

Lưu ý: Khi điều chỉnh nội dung các môn học, giáo viên phải điều chỉnh
từng việc làm cụ thể, rõ ràng đối với học sinh, sử dụng từ ngữ khi điều chỉnh
phải gần gũi, phù hợp ( tránh dùng những từ ngữ quá khó hoặc quá dễ, không
phù hợp với đối tượng học sinh)
- Thực hiện đổi mới về sinh hoạt chuyên môn, đưa SHCM trở thành hoạt
động thường xuyên, có chất lượng, kịp thời tháo gỡ những khó khăn về chuyên
môn để có giải pháp phù hợp với đối tượng học sinh, điều kiện của nhà trường
cũng như của địa phương. Nội dung sinh hoạt chuyên môn bao gồm: đổi mới
phương pháp dạy học và phương pháp học, đổi mới tổ chức lớp học, đổi mới
đánh giá học sinh, đổi mới sự tham gia của cộng đồng với giáo dục, điều chỉnh
và phát triển tài liệu.
- Luyện viết chữ đẹp hàng tháng và tổ chức Hội thi" Viết chữ đẹp" được
tổ chức thường xuyên hàng năm vào dịp 26/3.
- Tổ chức cho CBGV tham gia các hoạt động Tập thể như giao lưu văn
nghệ vào các giờ HĐNK cùng với học sinh; Hội thi giáo viên tài năng duyên
10


dáng nhân ngày 08/3, thi làm đồ dùng, Hội thảo đổi mới phương pháp dạy học

bằng phương pháp dạy học tích cực, học khiêu vũ, giao lưu với các trường bạn...
Đây là một hoạt động rất bổ ích và cần thiết để rèn luyện và nâng cao năng lực
cho cán bộ giáo viên. Hơn thế nữa thông qua hoạt động tập thể, tổ chuyên môn
trong nhà trường đoàn kết, gắn bó với nhau hơn. Đặc biệt các em học sinh trong
nhà trường tin yêu về thầy cô của mình hơn và môi trường sư phạm trở nên thân
thiện hơn, nâng cao kĩ năng sống cho CBGV.
Trong quá trình thực hiện dạy học theo Dự án mô hình trường học mới
Việt Nam, Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm đến cách làm sáng tạo, hiệu
quả của giáo viên. Phát động phong trào tìm cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả
trong quá trình thực hiện.
Hàng tháng, các tổ chuyên môn tập hợp ý kiến đề xuát của các thành viên
trong tổ báo cáo với Ban giám hiệu. Chuyên môn của nhà trường xem xét, kiểm
nghiệm và nhân rộng cách làm đó, đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả. Từ đó, bản
thân mỗi giáo viên đều nhiệt tình, ham mê tìm tòi phương pháp dạy tốt để đưa
vào thực hiện dạy học của lớp mình phụ trách.
Dựa trên kết quả thảo luận và những điều ðã quan sát, học tập được qua dự giờ,
các giáo viên (đối với sinh hoạt chuyên môn cấp tổ), các tổ chuyên môn (đối
với sinh hoạt chuyên môn cấp trường) đề ra phương hướng áp dụng để đổi mới hoạt
động dạy và hoạt động học theo mô hình trường học mới vào thực tiễn dạy học.
Tất cả những nội dung tập huấn, bồi dưỡng trên đều tập trung và xoay
quanh những vấn đề liên quan tới hoạt động học của học sinh.
2.3.4. Tổ chức và bồi dưỡng kĩ năng cho HĐTQ và nhóm trưởng tham
gia vào các hoạt động giáo dục:
* Thành lập Hội đồng tự quản học sinh.
- Trước tiên, ngay từ đầu năm học sau khi nhận danh sách lớp, GVCN trao
đổi ngay với GVCN năm trước để tìm hiểu tình hình lực học cũng như năng lực
phẩm chất của từng học sinh. Sau đó, giáo viên đặt ra những tiêu chí để lớp lựa
chọn ra các bạn trong HĐTQ phải có năng lực như: mạnh dạn, tự tin, nhanh
nhẹn hoạt bát, có năng lực học tập tốt, có khiếu văn nghệ hoặc thể dục thể thao...
- Bước tiếp theo, GVCN thông báo cho phụ huynh học sinh, BGH về thời

gian kế hoạch bầu cử, lấy ý kiến tư vấn của giáo viên bộ môn, học sinh, phụ
huynh học sinh; đăng ký danh sách ứng cử - đề cử; tổ chức bầu cử chủ tịch và
phó chủ tịch, thành lập các ban của HĐTQ.
- Đây là bước vô cùng quan trọng để thành lập HĐTQ. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy rằng nhiều giáo viên còn xem nhẹ hoạt động này hoặc cũng tổ chức bầu
cử nhưng chỉ qua loa mang tính hình thức. Điều quan trọng trong việc bầu
HĐTQ là giáo viên phải tạo ra bầu không khí sôi nổi, kịch tính nhưng mang tính
đoàn kết, dân chủ. Giáo viên tạo cơ hội cho học sinh được tranh cử vào các vị trí
chủ tịch và phó chủ tịch. Qua việc tranh cử đó, giáo viên sẽ phát hiện được
những học sinh mạnh dạn, có khả năng thuyết phục trước đám đông. Đây là một
trong những năng lực quan trọng trong vai trò là HĐTQ. Sau khi việc đăng ký
11


hoàn tất, các ứng viên sẽ trình bày đề xuất có liên quan đến những hoạt động mà
các em có thể thực hiện khi trúng cử.
- Các ban trong HĐTQ học sinh phải được thay đổi luân phiên nhau ít
nhất 3 tháng/ lần. Việc thay đổi đó sẽ là động lực để học sinh phấn đấu.
-Việc lựa chọn HĐTQ học sinh là vô cùng quan trọng. Một HĐTQ năng
động, tự tin sẽ là một trong nhũng yếu tố quyết định thành công của việc dạy
học theo nhóm.
* Phân công và bồi dưỡng vai trò của nhóm trưởng
- Sau khi thành lập được HĐTQ, giáo viên tập huấn cho HĐTQ biết từng
nhiệm vụ cụ thể. Để tiết học thành công phụ thuộc rất nhiều vào nhóm trưởng.
- Nhóm trưởng thay giáo viên điều hành các hoạt động nhóm, phải biết làm
thế nào để mọi người trong nhóm cùng tham gia hoạt động tích cực bằng cách:
+ Chọn 1 nhóm làm tốt thảo luận 1 hoạt động nào đó cho các nhóm còn
lại chú ý học tập.
+ Đầu tiết hoặc cuối tiết giáo viên mời các nhóm trưởng ngồi thành một
nhóm, giáo viên hướng dẫn từng bước một.

+ Giáo viên đóng vai trò là một trưởng nhóm nào đó để các nhóm khác quan sát.
+ Chọn 1 số học sinh nhanh nhẹn, tự tin để huấn luyện, sau đó phân công
về làm trưởng nhóm.
+ Cho nhóm trưởng của lớp mình sang lớp bạn dự giờ để quan sát và học tập.
* Xây dựng tập thể lớp đoàn kết, thân thiện giàu lòng nhân ái: Chính các
em HĐTQ là sợi dây nối các thành viên lại với nhau, chủ động tạo ra không khí
tập thể, tiếng cười bè bạn và lòng nhân ái.
*Sơ đồ tổ chức Bộ máy Hội đồng tự quản học sinh bao gồm:

12


Hội đồng tự quản là do các em học sinh tổ chức và thực hiện; Hội đồng tự
quản học sinh bao gồm các thành viên là học sinh. Hội đồng tự quản được thành
lập là vì học sinh, bởi học sinh và để bảo đảm cho các em tham gia một cách dân
chủ và tích cực vào đời sống học đường; khuyến khích các em tham gia một
cách toàn diện vào các hoạt động của nhà trường.
2.3.5. Thiết kế, xây dựng môi trường lớp học, nhà trường thân thiện,
tích cực theo mô hình VNEN để lôi cuốn sự hứng thú cho HS trong các giờ
học nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Muốn đổi mới phương pháp dạy học thì cần đến môi trường lớp học
(phòng học) xây dựng mỗi phòng là một môi trường giáo dục (Sử dụng lực
lượng và không gian lớp học để tổ chức các hoạt động giáo dục gắn với các tư
liệu, phương tiện…
Đối với học sinh tiểu học nặng cảm tính hơn lí tính. Các em có xu hướng
thích mà làm nhiều hơn hiểu mà làm. Một lớp học thân thiện sẽ tạo động cơ dạy
tốt học tốt cho thầy và trò. Đây là việc làm đặc trưng thể hiện cả hai kĩ năng
giảng dạy và giáo dục học sinh của GV tiểu học, đây cũng là yếu tố hình thành
đội ngũ GV giỏi của nhà trường. Mỗi thầy cô giáo của trường phải biết tổ chức
trang trí, sắp xếp phòng học mang tính thẩm mĩ và tính giáo dục như: phần trưng

bày sản phẩm của học sinh, các tranh ảnh hoạt động của lớp, bảng điều em
muốn nói, điều học sinh làm và không nên làm, hoa điểm mười, bảng ghi ngày
sinh nhật của học sinh, cây xanh và hoa… Ngoài ra trong phòng học GV bố trí
các góc như Tiếng Việt - Toán - TNXH - góc Cộng đồng. Các góc đó tập trung
miêu tả lại những kiến thức cơ bản đã học, những sản phẩm của học sinh làm tại
lớp thông qua hoạt động nhóm, cá nhân hoặc những sản phẩm học sinh sưu tầm
được ở nhà mang đến lớp phục vụ cho bài học và bài dạy của GV.
Giáo viên cần tận dụng hết không gian của lớp học: Từ mảng tường trên
cao, mảng tường hai bên lớp học để thể hiện những mảng màu sắc, những hình
ảnh sống động thu hút sự tiếp cận của học sinh bởi trên tất cả không gian trong
và ngoài lớp được chuẩn bị và hỗ trợ quá trình học tập rất rõ nét: những câu tục ngữ, từ
vựng những bài văn hay, bài viết đẹp, sản phẩm khéo tay của học sinh đều được trưng
bày, tạo cơ hội cho tất cả học sinh được đọc, được hiểu nhiều hơn sự trong sáng của
Tiếng Việt. Giáo viên cần đưa những đồ dùng học tập do Bộ giáo dục cấp, những đồ
dùng tự làm vào cá góc môn Toán, góc môn Tiếng Việt, góc Tự nhiên và xã hội phục
vụ cho việc học tập của các em. Các loại sách tham khảo, sách truyện của nhà trường.
Ngoài ra giáo viên còn vận động phụ huynh và học sinh quyên góp sách, truyện cũ,
các loại báo nhi đồng, thế giới trong ta… để xây dựng vào thư viện lớp học, thư viện
nhà trường quản lí, nhằm tạo điều kiện cho học sinh đọc sách ở mọi lúc, mọi nơi, rèn
kĩ năng đọc cho học sinh. Xây dựng 10 bước học tập là nội dung không thể thiếu trong
lớp học VNEN, nó được treo ở nơi mà học sinh dễ quan sát nhất vì đó là yêu cầu
trọng tâm mà các em vận dụng hằng ngảy trong học tập theo mô hình trường học
mới.
Bàn ghế đảm bảo kích cỡ phù hợp với học sinh, luôn thay đổi cách sắp xếp để
không gây sự nhàm chán, và có thể cho HS dễ dàng hoạt động theo nhóm.
13


- Tổ chức, phân công cụ thể cho các lớp chăm sóc bồn cây, vườn thuốc nam.
Các đồng chí giáo viên là đoàn viên làm nhiệm vụ trồng và chăm sóc bồn hoa, cây

cảnh; các đồng chí giáo viên chủ nhiệm cùng học sinh trong lớp trồng và chăm sóc
cây hoa treo trong và ngoài lớp học của mình, để làm đẹp trường lớp.
- Tổ chức cho GV đi thăm quan các trường bạn để chia sẻ, học tập về vận
dụng cho trường lớp của mình.
- Tổ chức thi trang trí lớp học vào ngày nhà giáo Việt Nam 20/11 hàng
năm, có đánh giá, xếp giải, góp ý để việc trang trí tránh rườm rà, chưa khoa học
để GVCN chỉnh sửa cho lớp học gọn gàng, đẹp mắt, thân thiện hơn.
- Đưa thêm nội dung thi " Cây và hoa đẹp lớp em" vào đầu tháng 5 để duy
trì việc chăm sóc cây, trang trí lớp học thân thiện trong suốt cả năm học.
- Giữ gìn trường, lớp luôn sạch sẽ, đẹp, gọn gàng, đảm bảo tính sư phạm.
Điều đó được minh chứng qua các lần kiểm tra của các cấp lãnh đạo, nhà trường
luôn được đánh giá cao là trường có môi trường, khuôn viên đẹp và sạch sẽ
thoáng mát, thực hiện đúng chủ đề của năm học.
2.3.6. Chỉ đạo. tổ chức các HĐGD nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện cho học sinh theo mô hình trường học mới VNEN .
HĐGD thực sự đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện cho học sinh và đặc biệt với phương pháp giáo dục
mới theo mô hình VNEN thì HĐGD thực sự phù hợp với đặc trưng của mô hình.
Xác định tầm quan trọng như vậy, ngay từ đầu năm học thứ 2 thực hiện dự án,
bản thân đã cùng bàn bạc với BGH, TT chuyên môn, TPT Đội trong cuộc họp
mở rộng và lên kế hoạch phải tổ chức tốt các HĐGD dựa trên đặc điểm của mô
hình dạy học mới để lồng ghép các hoạt động giáo dục cho phù hợp và đạt hệu
quả cao trong HĐGD tập thể, HĐGD theo chủ đề, HĐGD ngoại khóa....
Để định hướng, nhà trường xây dựng các kế hoạch HĐGD cho phù hợp với
phương pháp dạy học mới theo quy trình tổ chức hoạt động: Thiết kế hoạt động ->
Chuẩn bị hoạt động -> Thực hiện hoạt động -> Đánh giá rút kinh nghiệm.
* Hoạt động tập thể: Đây là hoạt động diễn ra hàng ngày, hàng tuần với
nhiều nội dung và hình thức phong phú. Việc tổ chức sân chơi đầu tuần mà mấy
năm nay nhà trường đã làm tốt vì đây là hoạt động tập thể mà ở sân chơi này HS
được thể hiện mình, được học hỏi dược vui chơi. Dưới góc độ của HS VNEN

các em là chủ tịch hội đồng tự quản của các lớp có thể đứng ra tổ chức, dưới các
hình thức hái hoa dân chủ, bắt thăm, thảo luận nhóm, để trả lời các câu hỏi với
thói quen làm việc nhóm, hợp tác trong nhóm và đạt hiệu quả cao.
- Sinh hoạt lớp:
+ Tổ chức tố việc sinh hoạt lớp cuối tuần, tổ chức cho HĐTQ có nhiệm
vụ điều hành dưới sự cố vấn của GVCN lớp.
+ Các em được chủ động nhận xét đánh giá những việc các em đã làm
được, CTHĐ, các phó chủ tịch điều hành lớp như thế nào, các ban trong tuần
qua có hoàn thành nhiệm vụ hay không.
Tổ chức tốt sinh hoạt lớp trong chương trình VNEN càng tăng cường tính
tự chủ của học sinh, giúp học sinh tự trải nghiệm để điều chỉnh hành vi.
- Hoạt động giao lưu;
14


+ Giao lưu giữa học sinh với khách đến thăm quan lớp học, ở đây các thầy cô
giáo phải tập cho Ban đối ngoại, cho học sinh trong lớp biết cách giao tiếp ứng xử.
+ Giao lưu giữa học sinh với phụ huynh trong ngày bỏ phiếu bầu hội đồng
tự quản lớp học.
+ Giao lưu giữa các ban của các lớp.....
* Hoạt động giáo dục theo chủ đề và ngoại khóa:
- Triển khai, thực hiện tốt hoạt động giáo dục theo các chủ đề trong
chương trình học theo chủ đề của từng tháng.
- Hoạt động ngoại khóa:
+ Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả những tiết chào cờ đầu tuần, 15 phút
sinh hoạt đầu giờ, hoạt động TD giữa giờ và múa hát sân trường ở mỗi buổi học
phong phú tạo không khí vui tươi, thoải mái sau những giờ học trên lớp.
+Tổ chức các hoạt động tập thể theo chủ đề, theo đợt thi đua nhân dịp những
ngày lễ lớn ( Trung Thu, ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11, viếng nghĩa trang liệt sĩ
22/12, ngày 08/3, ngày thành lập Đoàn 26/3, ), thi trang trí lớp học, thi kể chuyện,

văn nghệ, thể thao, báo tường, nét đẹp Đội viên, phụ trách sao giỏi vv...
+ Vận động HS tham gia một số cuộc thi: “ Viết thư Quốc tế UPU”, “ Tìm
hiểu an toàn giao thông”, “ thi vẽ tranh chiếc ô tô mơ ước ” , "Giao lưu Tiếng
Anh" các cuộc thi văn nghệ được các giáo viên và học sinh hưởng ứng và tham
gia có chất lượng
+Tổ chức câu lạc bộ Võ thuật, Erobic, khiêu vũ, VCĐ cho HS toàn trường tham gia.
+ Tổ chức cho HS được trải nghiệm thông qua các buổi dã ngoại do nhà
trường tổ chức trên tinh thần tự nguyện của HS và phụ huynh.
Làm tốt các hoạt động này, góp phần lớn vào việc nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện cho học sinh theo mô hình trường học mới VNEN.
2.3.7. Đầu tư và sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học.
Làm tốt công tác XHH, tham mưu cho lãnh đạo địa phương để dần hoàn
thiện CSVC nhà trường.
Ở trường Tiểu học Đông Cương, chúng tôi xem giải pháp tăng cường
CSVC, trang thiết bị dạy học hiện nay là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong kế
hoạch năm học. Vào đầu năm học, chúng tôi cho các tổ chuyên môn rà soát lại
các trang thiết bị của tổ mình, trên cơ sở đó lập kế hoạch dự trù mua sắm phù
hợp với yêu cầu giảng dạy, đồng thời phát động phong trào làm đồ dùng dạy học
đối với giáo viên. BGH giao chỉ tiêu bắt buộc phải có ít nhất một bộ đồ dùng tự
làm trong năm học. Nhờ làm tốt công tác đó nên trang thiết bị dạy học ở nhà
trường được liên tục cải tạo, nâng cấp, cụ thể: 100% các phòng học nhà trường
được kết nối mạng, có máy chiếu đầy đủ để phục vụ cho giảng dạy và đổi mới
phương pháp theo Mô hình trường học mới VNEN.
Khuyến khích giáo viên khai thác, sử dụng hiệu quả các thiết bị dạy học,
CSVC hiện có.
Khuyến khích học sinh tìm tòi, tự tạo ra những vật dụng, đồ dùng phục
vụ cho việc trang trí lớp học, hoạt động học tập (xây dựng góc học tập, góc thư
viện, góc cộng đồng,…) phù hợp với điều kiện, khả năng của lớp, tận dụng
được những vật liệu sẵn có ở địa phương.
15



Làm tốt công tác XHH giáo dục: kêu gọi các doanh nghiệp, các nhà hảo
tâm, các bậc cha mẹ học sinh có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục ủng hộ về
tinh thần, vật chất cho nhà trường trong những hoạt động giáo dục. Năm học
2017 - 2018 phụ huynh đã trao tặng cho nhà trường thêm 17 máy chiếu để vận
dụng vào dạy ở 17 lớp học chương trình VNEN. Các trang thiết bị dạy học,
CSVC nhà trường luôn được cải tạo và nâng cấp.
Chủ động tích cực tham mưu với lãnh đạo các cấp, việc tham mưu cũng
phải có kế hoạch, mỗi lần được bố trí làm việc phải chuẩn bị kỹ nội dung để
trình bày một cách toàn diện, trọng tâm. Luôn chủ động tranh thủ sự quan tâm
của cấp ủy, chính quyền địa phương, không trông chờ hay ỷ lại. Mỗi lần đề xuất
chủ trương để phát triển giáo dục ở địa phương, Hiệu trưởng đều phải tham mưu
cụ thể các biện pháp thực hiện. Việc tham mưu phải thuận theo ý Đảng, lòng dân
và được thể hiện bằng các nghị quyết của cấp ủy, văn bản chỉ đạo của địa
phương mới được toàn cộng đồng ủng hộ.
Phát huy tốt vai trò của cộng đồng trong việc giam gia vào các hoạt động
giáo dục học sinh. Thay vì sự thờ ơ, phó mặc con cho nhà trường trong những
năm trước đây, sau khi triển khai dự án, bằng sự tuyên truyền tích cực, với sự
nhiệt tình của cán bộ, giáo viên trong nhà trường, những ảnh hưởng tích cực của
mô hình đã lan tỏa đến cộng đồng, đến các bậc phụ huynh học sinh.
Khi phụ huynh đã hiểu rõ tinh thần của mô hình, nhà trường phối hợp với
phụ huynh tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh có tính chất rộng lớn hơn
như tổ chức tham quan, dã ngoại, tổ chức các ngày hội lớn của học sinh…
Phụ huynh không chỉ tham gia hướng dẫn học sinh trong phần hoạt động
ứng dụng mà còn tích cực tham gia hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất, tham gia lao
động xây dựng trường. Mỗi công việc của nhà trường đều đã trở thành việc chung
của phụ huynh, họ đã cùng tham gia tổ chức thành công nhiều sự kiện của nhà
trường. Trong các ngày lễ, nhà trường đã tổ chức hoạt động ngoại khóa vui chơi
cho các em cùng với sự tham gia của nhiều phụ huynh học sinh. Họ vừa là khán

giả, vừa là diễn viên, vừa là Ban giám khảo. Chính những việc làm đó đã góp
phần thắt chặt thêm tình cảm, trách nhiệm của phụ huynh đối với con em và góp
phần không nhỏ giúp nhà trường hoàn thành nhiệm vụ năm học.
Trên đây là một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo Mô hình trường học
mới ( VNEN) mà tôi đã vận dụng thành công ở trường Tiểu học Đông Cương –
Thành phố Thanh Hóa.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
“Một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo mô hình trường học mới VNEN
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường Tiểu học Đông Cương TP Thanh Hóa” được tiến hành thực nghiệm khoa học một cách nghiêm túc từ
năm học 2012 – 2013 cho đến nay đã cho kết quả khả quan.
Một cảnh quan môi trường sư phạm với nhiều thay đổi, cơ sở vật chất
trường lớp luôn được tăng cường, những yêu cầu tối thiểu đối với công tác quản
lý, giảng dạy dần được đáp ứng và quan trọng hơn cả là ấn tượng về một “ngôi
nhà chung” Tiểu học Đông Cương được đông đảo nhân dân, phụ huynh học
16


sinh, cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể ở địa phương cảm tình
và luôn ủng hộ mọi hoạt động, phong trào do nhà trường tổ chức, phát động.
Hiệu quả các hoạt động giáo dục của nhà trường đã nâng lên đáng kể. Sau gần
sáu năm áp dụng mô hình VNEN, phải nói rằng đội ngũ giáo viên của nhà
trường đã nỗ lực hết mình, tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm để mang đến cho học
sinh những tiết học bổ ích đầy lí thú. Từ đó, chất lượng học tập của các em đã có
chuyển biến rõ rệt. Chất lượng học sinh đạt cao hơn những năm học trước. Các
em đã chủ động trong việc tự học, mạnh dạn, tự tin trao đổi với bạn bè, với thầy
cô giáo để tìm kiến thức mới, được hướng dẫn học tập dưới sự điều hành của
nhóm trưởng, cùng nhau chia sẻ những điều đã biết hoặc chưa biết, phát huy vai
trò tự giác, ý thức tập thể và tinh thần tự quản trong từng hoạt động học tập.
Những kỹ năng giao tiếp, hợp tác và tự quản,… giúp học sinh từng bước tự
khẳng định mình.


Ảnh: Trong một tiết học của học sinh
Việc triển khai mô hình VNEN đã giúp trường, lớp có nhiều đổi thay. Tất
cả các lớp học đều được trang trí hấp dẫn, cuốn hút các em học sinh, khiến cho
mỗi em đều có tâm trạng háo hức chờ đón một ngày mới để đến trường. Điều đó
đã trở thành niềm hạnh phúc, niềm tự hào của mỗi giáo viên, tạo được sự tin cậy,
yên tâm của phụ huynh và chính quyền địa phương.
Đội ngũ giáo viên đã thành thục với phương pháp dạy học mới. Trường được
PGD thành phố tặng giấy khen đạt kết quả cao trong Hội thi GV dạy giỏi cấp TP,
Giám đốc SGD tặng giấy khen Hoàn thành Xuất sắc dạy học theo dự án mô hình
trường học mới VNEN. Nhà trường được nhiều đơn vị trong TP, trong tỉnh đến thăm
quan, trao đổi kinh nghiệm. Trong Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp thành phố 3/3 giáo
viên giáo viên tham gia đạt loại giỏi đạt tỉ lệ 100% (Tăng 67% so với năm 2015-2016),
01 giáo viên đạt thủ khoa dạy chương trình VNEN.
17


85% học sinh có khả năng giao tiếp tốt. Trên 90% học sinh có khả năng
điều hành các hoạt động tập thể ở các mức độ và quy mô tổ chức khác nhau.
Chất lượng dục được nâng lên, đảm bảo yêu cầu đề ra. Học sinh tham gia
các hội thi, giao lưu cấp Thành phố, cấp Tỉnh, cấp Quốc gia tổ chức đạt kết quả
cao. Cụ thể:
* Chất lượng giáo dục:
Năm học
Môn Toán
Môn TV
Năng lực
Phẩm chất
HT
C.HT

HT
C.HT
Đ
C.Đ
Đ
C.Đ
2015-2016
2016-2017
+/-

620
651

0
620
2
620
0
620
0
0
650
1
651
0
651
0
+31
0
+30

-1
+ 31
0
+ 31
0
(Học sinh chưa hoàn thành là học sinh khuyết tật học hòa nhập)
* Học sinh được khen thưởng:Tổng số học sinh học VNEN: 651. Số học
sinh được khen thưởng: 565/651 = 86,7% (Trong đó khen học tập: 442/651 =
67,9% ; Năng lực: 58/651 = 8,9 %; Phẩm chất: 65/651 = 9,9 %)
* Thi giao lưu OLYMPIC tiếng Anh cấp TP: 10 HS đạt giải.
* Thi Cờ vua: Đạt 01 giải Nhất Cấp Quốc gia
* Thi bóng đá nhi đồng:2 lần đạt giải nhì cấp thành phố Cúp FLC và
PVF; 01 HS được chọn tham gia đội bóng dự thi cấp tỉnh và cấp Quốc gia.
Và đặc biệt, học sinh được phát triển một cách toàn diện, có kỹ năng sống
tốt. Khi Đoàn tư vấn giám sát của SGD và PGD về kiểm tra, giám sát lần cuối
cùng kết thúc dự án đã nhận xét: “ Học sinh tích cực trong các hoạt động học
tập, tự tin, nói năng lưu loát, ứng xử tốt, sử dụng hiệu quả các công cụ học tập ở
góc học tập....; Giáo viên nắm vững bản chất mô hình, điều chỉnh, vận dụng hiệu
quả, trang trí lớp học đẹp, khoa học...” Điều đó càng minh chứng cho việc vận
dụng hiệu quả các biện pháp trên.
Nhận thấy rõ hiệu quả của việc tổ chức dạy học theo mô hình VNEN
mang lại, Ban Giám hiệu Trường Tiểu học Đông Cương chúng tôi đã nhận định:
"Một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam
(VNEN) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường Tiểu học Đông
Cương Thành phố Thanh Hóa" có thể triển khai áp dụng ở các trường dạy học
VNEN trong phạm vi toàn thành phố và các trường dạy VNEN trong toàn tỉnh.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận
Qua năm năm thực hiện “Mô hình trường học mới” tôi thấy đã có những
chuyển biến rõ rệt: học sinh mạnh dạn, tự tin, linh hoạt, sáng tạo, tích cực hơn

trong học tập và các hoạt động. Không khí học tập trong lớp tự nhiên, nhẹ
nhàng, thân thiện. Giáo viên và học sinh tương tác với nhau nhiều hơn. Học sinh
hứng thú tiếp nhận kiến thức. Các em được phát huy năng lực tự học, học sinh
có nhiều cơ hội độc lập suy nghĩ, bộc lộ ý kiến riêng khi làm việc cá nhân và có
nhiều cơ hội phát huy năng lực hợp tác khi học nhóm. Phát huy tốt vai trò lãnh
18


đạo, nhiều em thể hiện được khả năng của mình khi điều hành các bạn. Khả
năng giao tiếp, ứng xử của học sinh tiến bộ hơn nhiều. Học sinh mạnh dạn tham
gia đánh giá quá trình học tập, rèn luyện của mình, của bạn. Một số học sinh có
tính cách nhút nhát đã dần trút bỏ được sự tự ti và trở nên mạnh dạn, tự tin để
thể hiện khả năng của bản thân mình.
Cha mẹ học sinh đã hiểu được lợi ích từ mô hình trường học mới đối với
con em họ và nhiệt tình hưởng ứng. Giáo viên chúng tôi đã thuần thục với cách
tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh theo mô hình VNEN.
Mô hình trường học mới Việt Nam - VNEN được đánh giá là “luồng gió
mới” góp phần tích cực làm thay đổi tư duy trong dạy và học ở nước ta. Đây là
kiểu mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại. Từ thực tế chỉ đạo và giảng dạy, tôi
thấy vẫn có những khó khăn, vướng mắc về cơ sở vật chất, về quá trình giảng
dạy của giáo viên, về khả năng học tập của học sinh. Tuy nhiên, những vấn đề
trên không phải “một sớm, một chiều” là khắc phục được ngay mà đòi hỏi người
giáo viên phải thật kiên trì, nhẫn nại, tích cực tự học, tự bồi dưỡng; luôn quan
tâm, chia sẻ và động viên học sinh để các em tự tin học tập. Phối hợp chặt chẽ
với phụ huynh và cộng đồng để nhận được sự hỗ trợ. Thực hiện tốt mô hình này
là một đóng góp không nhỏ trong công cuộc đào tạo thế hệ trẻ có kỹ năng sống
tốt, có đủ cả đức, trí, thể, mỹ cho tương lai đất nước. Mô hình trường học mới
Việt Nam sẽ là mô hình dạy học mới tràn đầy niềm tin trong tương lai và cho ta
thật nhiều hứa hẹn.
3.2. Kiến nghị:

Để mô hình thực sự là tiền đề cho đổi mới căn bản giáo dục, trong thời
gian tới, ngành giáo dục cần có giải pháp nhân rộng mô hình, chú trọng công tác
đào tạo, bồi dưỡng giáo viên; tổ chức hội thảo chia sẻ kinh nghiệm để phát huy
hiệu quả; tăng thời lượng dạy học tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1.
- Đối với giáo viên, phải coi trọng công tác tự học tự bồi dưỡng, có ý thức
phấn đấu học tập nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn. BGH nhà trường phải
tạo điều kiện tốt nhất để giáo viên có thời gian tự học, tự bồi dưỡng .
- Tham mưu với chính quyền địa phương xây dựng cơ sở vật chất, thêm
phòng học để số học sinh/lớp không quá đông, đáp ứng được tiêu chuẩn của mô
hình VNEN. Bổ sung trang thiết bị trường học, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của mục tiêu giáo dục, đảm bảo các tiêu chí để đề nghị công nhận trường đạt
chuẩn Quốc gia Mức độ 2.
Sau thời gian làm việc nghiên cứu đề tài “ Một số biện pháp chỉ đạo dạy
học theo Mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện ở Trường Tiểu học Đông Cương thành phố Thanh Hóa”.
Được sự giúp đỡ của tập thể CBGV, HS Trường Tiểu học Đông Cương, cùng
với kinh nghiệm của bản thân, tôi đã hoàn thành đề tài này. Do thời gian có
hạn, phạm vi nghiên cứu và năng lực cá nhân còn hạn chế, đề tài không
tránh khỏi những thiếu thiếu sót. Kính mong các đồng chí lãnh đạo cùng các
bạn đồng nghiệp góp ý xây dựng và những ý kiến đóng góp chỉ đạo để đề tài
hoàn thiện hơn./.
19


m
2018
Xác nhận của đơn vị

Đông Cương, ngày 10 tháng 4 năm
Tôi xin cam đoan đây là SKKN là của mình viết,

không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT

Nguyễn Thị Thúy Hòa

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT

Tên tài liệu
Tổ chức lớp học theo Mô hình trường học

1

Tác giả
Nhà xuất bản giáo dục

mới tại Việt Nam
Tài liệu tập huấn: Dạy học theo mô hình
2

Nhà xuất bản giáo dục
trường học mới, tập 1
Tài liệu tập huấn: Dạy học theo mô hình

3

Nhà xuất bản giáo dục

trường học mới, tập 2
Hướng dẫn tổ chức sinh hoạt chuyên môn

4

tại các trường thẹc hiện Mô hình trường học

Nhà xuất bản giáo dục

mới Việt Nam
5
6

Hướng dẫn học Tiếng Việt, lớp 4, tập 2A
Kỷ yếu Hội thảo kinh nghiệm nâng cao hiệu

Nhà xuất bản giáo dục
Các tác giả

quả mô hình trường học mới tại Việt Nam.
7

Sáng kiến kinh nghiệm của bản thân năm

Nguyễn Thị Thúy Hòa

2015 – 2016 đạt loại C cấp tỉnh.
8

Sáng kiến kinh nghiệm của bản thân năm


Nguyễn Thị Thúy Hòa

2016 – 2017 đạt loại A cấp Thành phố.
9

Một số văn bản chỉ đạo của ngành

SGD&ĐT, PGD&ĐT TP
Thanh Hóa.

MỤC LỤC
TÊN ĐẦU MỤC
1.MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài

TRANG
1
1
21


1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3.Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
2.2. Thực trạng vấn đề
2.2.1. Vài nét khái quát về tình hình địa phương, tình hình nhà

trường.
2.2.2. Thực trạng chung.
2.3. Các giải pháp thực hiện
2.3.1.Nêu cao vai trò, trách nhiệm của người Hiệu trưởng, của
BGH, tổ chuyên môn...

2
3
3

2.3.2. Tiếp tục bồi dưỡng cho giáo viên về bản chất của mô hình
trường học mới VNEN.

8

2.3.3. Tổ chức các đợt tập huấn, sinh hoạt chuyên môn nhằm nâng
cao năng lực cho giáo viên:
2.3.4. Tổ chức và bồi dưỡng kĩ năng cho HĐTQ và nhóm trưởng
tham gia vào các hoạt động giáo dục:
2.3.5. Thiết kế, xây dựng môi trường lớp học, nhà trường thân
thiện, tích cực theo mô hình VNEN.
2.3.6. Chỉ đạo. tổ chức các HĐGD nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện cho học sinh theo mô hình trường học mới VNEN.
2.3.7. Đầu tư và sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy
học. Làm tốt công tác XHH, tham mưu cho lãnh đạo địa phương để
dần hoàn thiện CSVC nhà trường.
2.4.Kết quả đạt được.

9


3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Đề xuất

3
3
3
3
4
5
5

11
13
14
16

17
19
19
20

22



×