Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng và phát triển tư duy cho học sinh trường THPT thường xuân 2 qua dạy học bài thơ vội và

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.37 KB, 17 trang )

1.Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục ngày nay đang tích cực hướng tới mục tiêu phát triển con người
toàn diện nhưng công tác giáo dục đang đứng trước bao thách thức, khó khăn.
Lứa tuổi học sinh, đặc biệt là học sinh Trung học phổ thông là lứa tuổi đang hình
thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham khám phá song còn thiếu hiểu
biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống. Đặc biệt trong xã hội hiện
nay, các em học sinh dễ bị chi phối bởi mặt trái của kinh tế thị trường, khoa học
công nghệ nếu thiếu kĩ năng sống sẽ dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội và mắc
các căn bệnh xã hội như bệnh vô cảm, thực dụng, bạo lực, ích kỉ, lai căng....
Đứng trước thực tế xã hội phát triển đến chóng mặt, các em tiếp thu cái mới
nhanh chóng nhưng cũng dần mất đi những giá trị truyền thống tốt đẹp. Giáo
dục tư tưởng, rèn luyện tư duy cho học sinh là một việc làm thường xuyên và
cần thiết trong nhà trường. Nó giúp các em biết xác định các giá trị và có hành
vi phù hợp để có khả năng ứng phó với các tình huống của cuộc sống, tạo cơ hội
cho các em phát triển hài hoà cả về thể chất lẫn trí tuệ [1].
Môn văn trong trường học nói chung và ở trường THPT nói riêng có vai
trò quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng, rèn luyện tư duy cho học sinh. Tác
phẩm văn chương có khả năng đặc biệt trong việc khơi gợi tình cảm, phát triển
tư duy sang tạo. Trong chương trình môn Ngữ văn nói chung, Ngữ văn 11 nói
riêng có rất nhiều bài có thể lồng ghép giáo dục tư tưởng khi dạy học. Với giới
hạn và phạm vi của vấn đề, tôi chỉ xin đề xuất một sáng kiến nhỏ của mình với
đề tài: “Nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng và phát triển tư duy cho học
sinh trường Trung học phổ thông Thường Xuân 2 qua dạy học bài thơ Vội
vàng”. Tôi mong muốn qua sáng kiến kinh nghiệm này nêu một số kinh nghiệm
thể nghiệm của bản thân về giáo tư tưởng, rèn luyện tư duy cho học sinh qua
việc dạy bài thơ “Vội vàng”, từ đó giúp học sinh có nhận thức đúng đắn về ý
nghĩa của cuộc sống, biết nuôi dưỡng ước mơ, sống có tinh thần trách nhiệm.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống lại những giải pháp mình đã sử dụng trong công tác giảng dạy nói
chung và khi dạy bài “Vội vàng” nói riêng để suy ngẫm, chọn lựa, đúc rút thành


kinh nghiệm của bản thân.
- Đối với đồng nghiệp: Trên đây là những kinh nghiệm có thể sử dụng trong
khi dạy bài “Vội vàng” cũng như các văn bản khác. Qua đề tài, tôi muốn chia sẻ
với đồng nghiệp những kinh nghiệm mà mình đã tích lũy được trong giảng dạy.
Đồng thời qua sáng kiến kinh nghiệm tôi cũng mong nhận được những lời góp ý
chân thành từ đồng nghiệp để làm phong phú hơn kinh nghiệm giảng dạy của
mình.

1


1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những giải pháp để nâng cao hiệu quả
giáo dục tư tưởng và phát triển tư duy cho học sinh qua dạy học bài thơ “Vội
vàng”
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp miêu tả và phân tích: sử dụng phương pháp này để nhận diện
đối tượng nghiên cứu và sau đó phân tích đối tượng để hiểu đối tượng nghiên
cứu một cách cụ thể và chi tiết.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: nghiên cứu về thực trạng
dạy học văn trong nhà trường hiện nay, nghiên cứu về khả năng của môn Văn
trong việc giáo dục học sinh, giải pháp giáo dục tư tưởng, phát triển tư duy cho
học sinh Trung học phổ thông.
- Phân tích thống kê số liệu thực nghiệm theo phương pháp đề xuất.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
Lâu nay, nhiều tài liệu có nói về việc giáo dục tư tưởng, rèn luyện tư duy
cho học sinh trong dạy học môn văn nhưng chỉ nói chung chung, chưa đi vào
từng tác phẩm cụ thể. Sáng kiến kinh nghiệm đã đề xuất ra một số giải pháp khi
dạy bài thơ “Vội vàng” sẽ giúp cho giáo viên có những định hướng cụ thể. Từ

đó có thể áp dụng cho việc dạy học tác phẩm khác.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Khả năng của môn văn trong việc giáo dục tư tưởng cho học sinh
Môn văn trong trường học có khả năng rất lớn trong việc giáo dục tư
tưởng và phát triển tư duy cho học sinh THPT.
Môn văn góp phần to lớn trong việc giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào,
tự tôn dân tộc. Đặt trong hoàn cảnh hiện nay, lòng tự trọng, tự tôn dân tộc đang
bị tổn thương ghê gớm thì việc phát huy vai trò giáo dục tư tưởng cho học sinh
của môn văn càng trở nên quan trọng. Nói như vậy là bởi môn Văn giáo dục
bằng hình ảnh, bằng ngôn từ nghệ thuật gợi hình, gợi cảm nên dễ đi vào lòng
người, có sức truyền cảm mãnh liệt.
Học các tác phẩm văn học, học sinh còn được bồi dưỡng lòng nhân ái,
nhân hậu, tình cảm gia đình, bạn bè.
Môn Văn cũng có khả năng lớn trong việc bồi dưỡng năng lực thẩm mĩ
cho học sinh. Bản chất của văn chương là cái đẹp. Chức năng đặc biệt của văn
chương là chức năng thẩm mĩ. Sứ mệnh của văn chương là đấu tranh chống cái
ác, cái xấu, khẳng định và ngợi ca cái đẹp. Học văn, học sinh sẽ được khám phá
cái đẹp trong nghệ thuật, từ đó khám phá cái đẹp trong cuộc sống và hình thành
năng lực sáng tạo ra cái đẹp.
Tác phẩm văn chương dù ở mức độ này hay mức độ khác đều là những số
phận, những mảnh đời, những cuộc xung đột . Tìm hiểu một tác phẩm văn học là
học sinh được “sống” với những số phận, hoàn cảnh khác nhau, được tham gia
2


vào việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột. Từ đó học sinh hiểu được mình,
hiểu được người, tự rút ra cho mình những bài học nhân sinh sâu sắc.
Có thể nói, môn văn trong nhà trường có vai trò lớn trong việc giúp học
sinh xác định các giá trị. Văn học giúp cho học sinh sống có hoài bão, có ước

mơ, có thêm niềm tin và động lực để vươn lên trong cuộc sống.
2.1.2. Khả năng của môn văn trong việc phát triển tư duy cho học sinh
Tác phẩm văn học là sản phẩm của trí tưởng tượng, sáng tạo của nhà văn.
Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là hệ thống ý niệm, biểu tượng, hệ thống tín
hiệu thẩm mĩ hàm ngôn, cô đọng. Vì thế người đọc phải có năng lực tưởng
tượng mới có thể tiếp nhận được. Trí tưởng tượng càng phong phú, sự cảm nhận
càng sâu sắc. Ngược lại, khi học các tác phẩm văn học, học sinh sẽ được rèn
luyện để phát triển tư duy tưởng tượng. Các em sẽ được nâng cao hơn khả năng
liên hệ, so sánh, đối chiếu.
Bên cạnh đó, văn học còn có khả năng phát triển tư duy phê phán, tư duy
phản biện cho học sinh. Văn học có khả năng phát triển tư duy phê phán cho
học sinh vì tác phẩm văn chương là một đề án mở, đặt ra rất nhiều vấn đề: tranh
cãi giữa các nhà văn, giữa các nhân vật trong tác phẩm, giữa nhà văn với bạn
đọc... Đọc văn, học văn, học sinh được tham gia vào các cuộc tranh luận. Đứng
trước những vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học, giải quyết nó học sinh sẽ
được rèn kĩ năng phát hiện vấn đề, kĩ năng đặt câu hỏi, kĩ năng tìm kiếm thông
tin để giải quyết vấn đề, kĩ năng nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc cạnh....
Tư duy phê phán mà các em rèn luyện được qua văn học sẽ giúp các em
biết cách xử lí thông tin, giúp học sinh hình thành bản lĩnh đối mặt với những
cái phức tạp trong đời sống.
Văn học cũng có khả năng phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh. Văn
học tạo ra vô vàn cơ hội cho học sinh phát triển tư duy sáng tạo vì văn chương
có tính hình tượng, đa nghĩa, hàm súc. Đọc tác phẩm văn chương học sinh phải
tìm kiếm ý nghĩa ở tầng sâu của văn bản. Đó là quá trình đồng sáng tạo văn
chương.
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1.Thực trạng của việc dạy học văn hiện nay
Giáo dục tư tưởng và phát triển tư duy cho học sinh là nhiệm vụ của nhiều
môn học trong nhà trường chứ không riêng gì môn văn. Tuy nhiên, đối với môn
văn, xuất phát từ mục đích, yêu cầu của bộ môn ta thấy đây là môn học có khả

năng lớn trong việc giáo dục tư tưởng và phát triển tư duy cho học sinh. Quá
trình này được thực hiện thông qua nội dung bài học và phương pháp, kĩ thuật
dạy học.
Để có thể phát huy hết sức mạnh của môn văn trong việc giáo dục tư
tưởng và phát triển tư duy thì chương trình văn học nhà trường cần có những tác
phẩm hay, phản ánh được đời sống xã hội, phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh.
Tuy nhiên có thể thấy, chương trình môn văn trong nhà trường hiện nay có nhiều
bất cập. Khoảng cách giữa văn học và đời sống còn rất xa. Chương trình ít có tác
3


phẩm mang hơi thở thời đại. Bên cạnh đó, nhiều tác phẩm chưa phù hợp với tâm
sinh lí lứa tuổi, đời sống tư tưởng, tình cảm của học sinh [2].
Trong dạy học môn Ngữ văn đổi mới phương pháp dạy học đóng vai trò
quan trọng. Các phương pháp và kĩ thuật dạy học mới sẽ rất có hiệu quả cho
việc tổ chức học sinh chiếm lĩnh các tác phẩm văn học, kiến thức tiếng Việt và
giáo dục tư tưởng, rèn luyện tư duy. Song dạy học môn văn trong nhà trường
vẫn còn chịu ảnh hưởng lớn từ những phương pháp dạy học trước đây như
phương pháp thuyết trình, phương pháp giảng bình, nêu vấn đề. Việc áp dụng
các phương pháp dạy học mới chưa toàn diện, đồng bộ, chưa tạo ra sự biến đổi
về chất của quá trình dạy học. Học sinh chưa chủ động làm việc theo phương
pháp dạy học mới nên hiệu quả tiếp nhận chưa cao: Còn mang tính thụ động,
phụ thuộc trong quá trình nhận thức. Học sinh rất ít khi đặt câu hỏi, còn tiếp
nhận kiến thức một cách thụ động.
Mặt khác, ngày nay ở một số học sinh xuất hiện tâm lí học lệch: không
thích học các môn xã hội mà chỉ thích học các môn tự nhiên để thi đại học.
Nhiều em thờ ơ với các tác phẩm văn chương. Các em ngại đọc, ngại viết dẫn
đến năng lực cảm thụ văn học của các em rất nghèo nàn, khả năng sử dụng tiếng
Việt hạn chế, cảm xúc khô khan...
2.2.2. Thực trạng của việc dạy học văn ở trường THPT Thường Xuân 2

Ở trường THPT Thường Xuân 2, đa số học sinh thuộc khu vực có điều
kiện kinh tế khó khăn nên ít có điều kiện học tập, tâm lí học tập không vững
vàng và chất lượng học tập chưa tốt. Đối với môn Văn, học sinh rất ít có tài liệu
tham khảo, khả năng sử dụng Tiếng Việt hạn chế. Nhiều học sinh ngại viết, ngại
đọc dẫn đến viết sai chính tả, năng lực cảm thụ thẩm mĩ chưa cao. Mặt khác các
em mang tâm lí học chỉ để đủ điểm trung bình, chỉ cần đọc thuộc bài cô giáo
giảng thì có thể đạt điểm trung bình - khá.
Học sinh sinh sống ở khu vực miền núi, xa trung tâm, chủ yếu lại là người
dân tộc thiểu số nên rất thiếu kĩ năng sống, kém linh hoạt và thiếu khả năng ứng
biến với những thay đổi của xã hội. Hướng dẫn cho học sinh học tập tích cực để
các em có thể tự do bày tỏ suy nghĩ của mình là việc làm rất khó với giáo viên.
Phần lớn các em rất thụ động, phụ thuộc vào thầy cô.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua dạy học tác phẩm văn học là việc
làm không mới. Nội dung và địa chỉ giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong
bài thơ “Vội vàng” đã được Bộ giáo dục và đào tạo cung cấp trong cuốn sách
“Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông”. Tuy
nhiên đó mới chỉ là những định hướng có tính chất gợi ý. Tôi thấy cần có những
giải pháp và biện pháp cụ thể, linh hoạt để phù hợp với đối với học sinh trường
trung học phổ thông Thường Xuân 2.
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi luôn trăn trở làm thế nào để phát huy hết
được sức mạnh của văn chương trong việc giáo dục tư tưởng và khả năng tư duy
cho học sinh có hiệu quả trong từng tiết dạy, để môn văn phát huy hết vai trò
trong việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách cho học sinh. Với giới hạn và phạm
vi nghiên cứu, tôi xin đề xuất một sáng kiến nhỏ của mình với đề tài là: “Nâng
4


cao hiệu quả giáo dục tư tưởng và phát triển tư duy cho học sinh trường
Trung học phổ thông Thường Xuân 2 qua dạy học bài thơ Vội vàng”.
2.3. Giải pháp được đề xuất để giải quyết vấn đề

2.3.1. Bồi dưỡng năng lực thẩm mĩ cho học sinh qua dạy học bài thơ “Vội
vàng”
Bài thơ “Vội vàng” được đánh giá là phù hợp với tâm lí học sinh, đặt ra
nhiều vấn đề mà giới trẻ quan tâm. Tuy nhiên, bài này có nhiều lượng kiến thức
nếu giáo viên không khéo léo thì giờ học sẽ gò bó, cứng nhắc, nặng nề, qúa tải
đối với học sinh. Vì vậy để giờ học có hiệu quả tôi đã có sự chuẩn bị kĩ lưỡng:
nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy, tìm hiểu tư liệu, liên hệ nội dung bài học với
thực tế cuộc sống bằng vốn sống, sự trải nghiệm của mình. Khi dạy bài “Vội
vàng”, thông qua việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu bản chất của quan niệm sống
vội vàng, tôi định hướng để học sinh rút ra cho mình những bài học nhân sinh
cao đẹp. Khi học xong bài thơ, các em sẽ hiểu thế nào là cuộc sống đích thực,
phần nào giúp các em tránh xa những căn bệnh như vô cảm, tự ti, ích kỉ...... để
có thể hoàn thiện bản thân mình.
a. Hai khổ thơ đầu:
Bốn câu thơ đầu nêu lên khát vọng của thi nhân: tắt nắng, buộc gió. Đó là
khát vọng chế ngự thiên nhiên, níu giữ thời gian, xoay vần vũ trụ để giữ lại vẻ
đẹp của cuộc sống. Những khát khao đó là không tưởng nhưng mục đích và ước
muốn lại rất thực: muốn lưu lại tất cả những gì đẹp nhất của cuộc sống này. Nó
nói lên một niềm khát khao sống, khát khao tận hưởng cuộc sống, sống một cách
có ý nghĩa.
Chín câu thơ tiếp theo: là câu trả lời, lí giải cho ước muốn ở trên. Nhà thơ
có khát vọng như vậy là vì trần gian này như một thiên đường. Nhà thơ đã phát
hiện ra một thiên đường trên mặt đất này, không xa lạ mà rất đỗi quen thuộc, ở
ngay trong tầm tay của chúng ta. Hình ảnh thiên nhiên và sự sống quen thuộc
hiện ra qua cái nhìn và sự cảm nhận độc đáo của nhà thơ.
Sau khi phân tích, bài học được nhấn mạnh ở đây là: Chúng ta không
nên mải mê đi tìm hạnh phúc ở những nơi xa vời. Hạnh phúc tồn tại ở ngay
quanh ta. Cuộc sống hạnh phúc, có ý nghĩa đôi khi chỉ là được đón bình minh,
được ngắm hoa nở, được nghe tiếng chim hót ... Mỗi ngày là một món quà mà
cuộc sống ban tặng chúng ta. Món quà ấy thật phong phú, đa dạng. Chúng ta hãy

mở rộng hồn mình để đón nhận cuộc sống, để cảm nhận được ý nghĩa của cuộc
sống tươi đẹp này. Mỗi ngày, chúng ta hãy dành thời gian để thấy vẻ đẹp bí ẩn
của thiên nhiên và những điều kì diệu trong cuộc sống. Bằng những định hướng
trên, tôi mong muốn học sinh nhận ra ý nghĩa của cuộc sống, nhận thấy hạnh
phúc đích thực là gì để thêm yêu đời, yêu cuộc sống.
Thực tế hiện nay nhiều học sinh có lối sống thực dụng, vô cảm. Hơn nữa,
với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, mạng xã hội, nhiều học
sinh “sống ảo”, thiếu thời gian “nhìn ngắm” cuộc sống. Những bài học như trên
sẽ định hướng cảm xúc thẩm mĩ cho các em.
5


b. Quan niệm của Xuân Diệu về thời gian, tuổi trẻ, tình yêu và lẽ sống vội
vàng.
- Bằng cách lắng nghe, trả lời các câu hỏi của giáo viên, học sinh rút ra
được nội dung: Khác với người xưa, quan niệm thời gian là tuần hoàn, bất biến,
Xuân Diệu đã mang đến cho chúng ta một quan niệm sống hoàn toàn mới mẻ:
thời gian là tuyến tính, một đi không trở lại: Xuân đương tới nghĩa là xuân
đương qua / Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già ... Mùa xuân là mùa đẹp nhất
của một năm cũng như tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất của cuộc đời con người, tuổi của
những ước ao và nhựa sống tràn trề. Xuân Diệu nhìn thấy mùa xuân, tuổi trẻ
đẹp. Nhưng Xuân Diệu cũng ý thức được rằng: mùa xuân của đất trời thì tuần
hoàn còn mùa xuân của con người (tuổi trẻ) thì một đi không trở lại. Nhận thức
được điều ấy, Xuân Diệu đã đưa ra một quan niệm nhân sinh đầy mới mẻ: Cuộc
sống đích thực là sống tận hưởng một cách trọn vẹn, gấp gáp những giá trị của
cuộc sống, của tình yêu và tuổi trẻ.
Bài học mà học sinh rút ra được: Tuổi trẻ của con người một đi không trở
lại. Vì vậy khi đang con trẻ chúng ta hãy sống sao cho có ý nghĩa để sau này
không phải nuối tiếc điều gì. Tôi nhấn mạnh: Thời học sinh là quảng thời gian
đẹp nhất trong cuộc đời của các em. Ở tuổi này, các em đang tràn trề sinh lực,

tâm hồn vô tư trong sáng. Các em nên trân trọng những gì mình có. Hãy tận
dụng sức lực của tuổi trẻ để học thật tốt, chơi thật vui và có những kỉ niệm đẹp
với thầy cô, bạn bè, mái trường. Tôi đặc biệt chú ý đến những học sinh chưa
ngoan, chưa có sự cố gắng trong lớp hoặc có biểu hiện chán nản, buông xuôi
trong học tập với mong muốn thay đổi suy nghĩ của các em. Thông qua nội dung
giáo dục kĩ năng sống này các em hiểu được thế nào là cuộc sống đích thực, có ý
nghĩa và biết tự nhận thức về chính bản thân mình. Từ đó khơi gợi ở học sinh
những đam mê, lí tưởng và hoài bão cao đẹp giúp các em sống có ích, có tinh
thần trách nhiệm với bản thân và với mọi người.
2.3.2. Phát triển tư duy cho học sinh qua dạy học bài thơ “Vội vàng”
a. Phát triển trí tưởng tượng
Khi phân tích khổ thơ thứ 2 (Cảm nhận về thiên đường trên mặt đất), học
sinh dùng trí tưởng tượng để hình dung ra một bức tranh tràn đầy sức sống. Bức
tranh ấy có hình ảnh (ong bướm, hoa, lá), có màu sắc (xanh, vàng...) và được so
sánh như một cặp môi gần....
b. Phát triển tư duy phản biện cho học sinh
Giáo viên có thể phát triển tư duy phản biện cho học sinh khi dạy bài thơ
“Vội vàng” bằng cách sau:
Thứ nhất, Lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp. Các phương pháp,
kĩ thuật dạy học tích cực được tôi sử dụng khi dạy bài “Vội vàng” là:
Kĩ thuật “Trình bày một phút”
Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho học sinh tổng kết lại kiến thức đã học và đặt
những câu hỏi về những điều còn băn khoăn bằng các bài trình bày ngắn gọn
trong 1 phút. Qua phần trình bày của học sinh sẽ giúp các em thấy tự tin khi
6


trình bày một vấn đề trước đám đông đồng thời giúp các em củng cố trong quá
trình học tập và cho giáo viên thấy các em hiểu bài như thế nào. [1].
Đối với việc dạy học bài “Vội vàng”, kĩ thuật trình bày một phút sẽ được

tôi sử dụng ở cuối tiết học. Tôi đặt ra câu hỏi: “Bài học em rút ra được khi học
xong bài thơ “Vội vàng”? Suy nghĩ và trả lời câu hỏi này giúp các em rút ra bài
học bổ ích cho bản thân. Học sinh có thể hoạt động hăng say với những phát
hiện mang tính đột phá của mình. Do đó sẽ kích thích sự ham học và hình thành
cho học sinh các kĩ năng như: Kĩ năng giao tiếp, Kĩ năng tư duy sáng tạo, Kĩ
năng tự nhận thức, kĩ năng thể hiện sự tự tin...
Phương pháp “Thảo luận, tranh luận”
Khi dạy bài “Vội vàng”, ở phần Luyện tập, tôi đưa ra vấn đề cho học sinh
tranh luận: Có ý kiến cho rằng: Bài thơ “Vội vàng” thể hiện quan niệm sống
mới mẻ, tích cực và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Lại có ý kiến cho rằng: bài
thơ “Vội vàng” chỉ thể hiện một quan niệm sống hưởng lạc, sống gấp. Ý kiến
của anh (chị)? .Tìm hiểu và giải quyết câu hỏi trên, học sinh sẽ có khả năng
nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau. Từ đó các em sẽ đưa ra đáp án tối
ưu nhất. Học sinh sẽ phân biệt được giữa quan niệm sống mới mẻ, tích cực với
quan niệm sống hưởng lạc, sống gấp. Trả lời được câu hỏi của giáo viên, học
sinh sẽ dần biết đặt câu hỏi. Việc các em suy nghĩ, trả lời câu hỏi trên sẽ giúp
các em hình thành cảm xúc tích cực và hứng thú học tập đồng thời rèn luyện kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng thể hiện sự tự tin.
Thứ hai, đặt ra những vấn đề để học sinh tranh luận: Để tổng kết nội dung
bài học, tôi đưa vấn đề cho học sinh thảo luận và tranh luận:
Có ý kiến cho rằng : Bài thơ “Vội vàng” thể hiện quan niệm sống mới
mẻ, tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc. Lại có ý kiến cho rằng: Bài thơ
“Vội vàng” chỉ thể hiện một tư tưởng hưởng lạc, sống gấp. Ý kiến của anh
(chị)?
Học sinh tự do trình bày quan điểm của mình, lí giải, lập luận để bảo vệ
quan điểm của mình và phản bác lại quan điểm của người khác. Phần trình bày
vấn đề giúp các em thêm tự tin trong giao tiếp, nâng cao năng lực sử dụng Tiếng
Việt đồng thời được bộc lộ quan điểm, suy nghĩ của bản thân. Tôi căn cứ vào đó
để biểu dương những nhận thức đúng đắn, tích cực và uốn nắn những nhận thức
có biểu hiện lệch lạc ở học sinh.

Khi nghe ý kiến trình bày của các học sinh, tôi nhận xét, chốt ý : “Vội
vàng” thể hiện một quan niệm sống mới mẻ, tích cực và có giá trị nhân văn.
Quan niệm sống vội vàng trong bài thơ là sống hết mình với cuộc đời, tận dụng
từng giây phút của tuổi trẻ để sống có ích.
Sau khi khẳng định vấn đề, tôi liên hệ nội dung giáo dục kĩ năng sống:
Các em chú ý phân biệt quan niệm sống vội vàng mang ý nghĩa nhân văn tích
cực của Xuân Diệu với quan niệm sống vội, sống gấp của một bộ phận thanh
niên trong xã hội ngày nay. Một số biểu hiện như yêu sớm, ăn chơi, hưởng lạc...
không phải là quan niệm sống vội vàng mang ý nghĩa tích cực mà là lối sống ích
kỉ, buông thả, không có trách nhiệm với bản thân và người khác.
7


Tôi đưa ra một số ví dụ, dẫn chứng cho nhận định trên, từ đó giúp các em
rút ra bài học cho bản thân mình: Lứa tuổi học sinh (tuổi trẻ) là khoảng thời gian
đẹp nhất trong cuộc đời con người. Nó chỉ đến một lần và không bao giờ quay
trở lại. Hãy tận dụng thời gian, phát huy sức trẻ để học tập tốt và vui chơi, để sau
này không phải nuối tiếc vì đã để tuổi trẻ trôi đi một cách uổng phí, nuối tiếc vì
đã sống một cách nhạt nhoà.
c. Phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh
Vấn đề đặt ra trong bài thơ “Vội vàng” có ý nghĩa tích cực với tuổi trẻ.
Ngoài các đề văn nghị luận văn học, nội dung trong bài học sẽ được tôi sử dụng
để thiết kế một số đề văn nghị luận xã hội để học sinh có thể tiếp cận vấn đề ở
nhiều góc độ. Các bài tập để phát triển tư duy sáng tạo khi dạy bài “Vội vàng”
là:
Đề 1: Từ thái độ vội vàng của Xuân Diệu trong bài thơ cùng tên, hãy viết
một bài văn bàn về mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ của mỗi con
người.
Đề 2: Từ quan niệm sống của Xuân Diệu trong bài thơ “Vội vàng” hãy
viết bài văn trình bày cảm nhận của mình về cách sống của thanh niên trong xã

hội ngày nay.
Đề 3: Từ quan niệm về thời gian của Xuân Diệu trong bài thơ “Vội
vàng”, anh (chị) hãy viết bài văn làm sáng tỏ nhận định: thời gian là thứ quý
giá trong cuộc đời con người.
Đề 4: Ai cũng có cuộc sống nhưng chỉ một số người mới có cuộc sống
đích thực. Từ thái độ sống của Xuân Diệu trong bài thơ “Vội vàng” anh (chị)
hãy viết bài văn bàn về cuộc sống đích thực.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Giáo dục tư tưởng, rèn luyện kĩ năng cho học sinh là cả một quá trình chứ
không thể ngày một ngày hai. Vì vậy, để đánh giá hiệu quả của nó trong dạy học
bộ môn là công việc không dễ. Song với sự quan sát, kinh nghiệm của bản thân
và kết quả chấm bài viết số 6 tôi cũng đã nhận thấy phần nào hiệu quả của việc
triển khai kinh nghiệm. Tôi nhận thấy học sinh tích cực, chủ động hơn trong giờ
học. Học sinh hứng thú, say mê hơn, tiếp thu bài học tốt hơn, tiết học nhẹ nhàng,
không cứng nhắc, không bị dập khuôn máy móc. Sau bài học, học sinh đã rút ra
được nhiều bài học nhân sinh có giá trị tích cực. Học sinh nhận thức được thế
nào là cuộc sống đích thực, để có cuộc sống đích thực con người cần làm gì, cần
phải sống như thế nào. Từ đó các em sẽ có định hướng đúng đắn, tốt đẹp cho
tương lai của mình. Bên cạnh đó, với việc áp dụng các phương pháp và kĩ thuật
dạy học tích cực, học sinh đã tự tin hơn trong giao tiếp, trong quá trình chiếm
lĩnh kiến thức, các em biết thắc mắc, bày tỏ quan điểm riêng...., khoả lấp được
phần nào khoảng thiếu hụt kĩ năng mà các em mắc phải [1].

8


3. Kết luận, kiến nghị
- Môn Ngữ văn có khả năng lớn trong việc hình thành nhân cách cho học
sinh. Không chỉ cung cấp cho các em những bài học nhân sinh tích cực, môn
học còn giúp các em hình thành những kĩ năng sống cần thiết. Qua quá trình

nghiên cứu, tôi thấy đề tài có tính khả thi, vừa phù hơp với đặc điểm học sinh,
vừa đáp ứng được mục tiêu của dạy học môn Ngữ văn trong thời kì hiện đại.
Qua đề tài này, tôi mong muốn các em học sinh sẽ yêu thích hơn môn văn.
Mong muốn lớn hơn nữa là qua nội dung giáo dục tư tưởng và qua việc sử dụng
các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực học sinh thực sự được trải nghiệm,
tự nhận thức, xác định các giá trị, thái độ và hình thành những hành vi, thói quen
tích cực, tiến bộ để hoàn thiện nhân cách.
- Với thời gian ngắn và khả năng có hạn của bản thân nên đề tài khó tránh
khỏi những thiếu sót. Vì vậy rất mong nhận được sự góp ý của các nhà giáo dục,
của đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện và có tính khả thi hơn.
2. Đề xuất, kiến nghị
Đối với tổ chuyên môn:
- Xây những giờ dạy thể nghiệm để đồng nghiệp đúc rút kinh nghiệm.
- Đưa vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học vào nội dung các buổi
sinh hoạt chuyên môn để thảo luận.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thường Xuân ngày 10 tháng 5 năm 2018
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam kết: sáng kiến kinh nghiệm
trên là do tôi viết, không coppy từ nguồn
tài liệu nào.
Người thực hiện
Nguyễn Thị Thu

9


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. “Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ
thông”, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, năm 2010.
[2]. Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet

- Nguồn:

10


Tiết: 78,79:

PHỤ LỤC
GIÁO ÁN MINH HỌA
VỘI VÀNG
(Xuân Diệu)

I. MỤC TIÊU
Sau bài học, học sinh đạt được:
1.1 Về kiến thức:
Hiểu được lòng yêu đời, ham sống, quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu về
thời gian, tuổi trẻ, tình yêu và những cách tân nghệ thuật trong bài thơ.
1.2. Về kĩ năng:
Biết cách tiếp cận và tìm hiểu một bài thơ Mới qua cảm hứng thơ, hình
ảnh, ngôn ngữ...
1.3.Về thái độ:
Thêm yêu đời, quý trọng cuộc sống và có ý thức làm cho cuộc sống tốt đẹp,
có ý nghĩa.
1.4. Định hướng phát triển năng lực: năng lực giao tiếp, năng lực sử dụng ngôn
ngữ, năng lực tư duy, năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tự quản bản thân.
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
2.1 Chuẩn bị của giáo viên
- Thiết bị dạy học: Phòng máy
- Học liệu: SGK, giáo án, tài liệu tham khảo
2.2 Chuẩn bị của học sinh:

- SGK, vở ghi, vở soạn, tài liệu tham khảo
III. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
3.1. Ổn định lớp: 2 phút
3.2 Kiểm tra bài cũ (7 phút)
Lớp
Câu hỏi
Điểm
11 B4

11 B5

- Kể lại câu chuyện “hầu trời” của Tản
Đà? Cái “tôi” của Tản Đà thể hiện như
thế nào trong tác phẩm?
- Hãy chỉ ra tính chất giao thời trong bài
thơ.
- Kể lại câu chuyện “hầu trời” của Tản
Đà? Cái “tôi” của Tản Đà thể hiện như
thế nào trong tác phẩm?

3.3. Tiến trình bài học:
Hoạt động 1: Giới thiệu bài, tạo tâm thế tiếp nhận (5 phút)
- Phương pháp: hỏi – đáp, thuyết trình.
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, GV đưa ra một số câu hỏi có tính
chất tái hiện, gợi mở để học sinh trả lời:
11


- Em hãy nhắc lại những giá trị cơ bản của thơ Mới. Hãy kể tên một số tác
giả tiêu biểu của phong trào thơ này? Em yêu thích nhất tác giả nào trong phong

trào thơ này? Trình bày hiểu biết về nhà thơ Xuân Diệu?
- Học sinh trả lời, giáo viên chuyển ý và giới thiệu về nhà thơ Xuân Diệu:
Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong phong trào thơ Mới; là người hết lòng yêu
đời, yêu cuộc sống.... Bài thơ “Vội vàng” thể hiện rõ điều này.
Hoạt động 2: Tìm hiểu tác giả, vị trí của bài thơ (13 phút)
- Phương pháp: thảo luận chung cả lớp, một số đại diện trả lời.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
- Gv hướng dẫn học sinh đọc phần
I.
Tìm hiểu chung
Tiểu dẫn trong sgk và tóm tắt ý chính
1. Tác giả:
- Hs đọc phần Tiểu dẫn, tóm tắt các ý - Những nét chính về tiểu sử, con
theo hướng dẫn của GV(1 - 2 em trình người Xuân Diệu (sgk)
bày)
- Nội dung cơ bản của thơ Xuân Diệu
- Gv chốt ý, nhấn mạnh nội dung quan (sgk)
trọng, khắc sâu kiến thức.
2. Vị trí của bài thơ: Bài thơ “Vội
vàng” tiêu biểu cho nội dung và quan
điểm sáng tác trong thơ Xuân Diệu:
lòng yêu cuộc sống và quan niệm nhân
sinh mới mẻ của nhà thơ.
Hoạt động 3: Tìm hiểu nội dung bài thơ (46 phút).
- Phương pháp: đọc diễn cảm, thảo luận chung cả lớp.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
- Gv hướng dẫn cách đọc: đọc theo II. Đọc hiểu văn bản
mạch cảm xúc (lúc sôi nổi, tươi vui, II.1. Đọc diễn cảm và tìm hiểu bố cục

lúc ngậm ngùi, băn khoăn...)
- Bố cục:
- Hs đọc theo hướng dẫn của GV.
+ Phần 1 (13 câu đầu): Tình yêu cuộc
- Gv nhận xét, đọc mẫu 1 – 2 đoạn.
sống say mê, tha thiết;
? Em hãy xác định bố cục của bài thơ? + Phần 2 (15 câu tiếp theo): quan niệm
- Hs tìm bố cục.
về thời gian, tuổi trẻ, tình yêu;
+ Phần 3 (còn lại): lời giục giã hãy
sống vội vàng.
II.2. Đọc - hiểu chi tiết
1. Phần 1 (13 câu đầu): Tình yêu cuộc
- ? 4 câu thơ đầu nói lên khát vọng gì sống say mê, tha thiết.
của thi nhân? Khát vọng đó có gì đặc - 4 câu thơ đầu nêu lên khát vọng của
biệt?
thi nhân: tắt nắng, buộc gió. Đó là khát
- Hs trả lời
vọng chế ngự thiên nhiên, níu giữ thời
- Gv nhận xét, chốt ý.
gian, xoay vần vũ trụ để giữ lại vẻ đẹp
của cuộc sống. Những khát khao đó là
không tưởng nhưng mục đích và ước
muốn lại rất thực: muốn lưu lại tất cả
những gì đẹp nhất của cuộc sống này.
12


? Bức tranh thiên nhiên được miêu tả
như thế nào ở đoạn thơ tiếp theo?

- Hs trả lời
? Biện pháp nghệ thuật chủ yếu nào
được tác giả sử dụng trong đoạn thơ?
- Hs trả lời
? Hình ảnh nào được xem là sáng tạo
độc đáo nhất của thi nhân?
Gv nhận xét, chốt lại nội dung: Chúng
ta không nên mải mê đi tìm hạnh phúc
ở những nơi xa vời. Hạnh phúc tồn tại
ở ngay những sự vật, hiện tượng
quanh ta. Cuộc sống hạnh phúc, có ý
nghĩa đôi khi chỉ là được đón bình
minh, được ngắm hoa nở, được nghe
tiếng chim hót ... Mỗi ngày là một món
quà mà cuộc sống ban tặng chúng ta.
Món quà ấy thật phong phú, đa dạng.
Chúng ta hãy mở rộng hồn mình để
đón nhận cuộc sống, để cảm nhận
được ý nghĩa của cuộc sống tươi đẹp
này. Mỗi ngày, chúng ta hãy dành thời
gian để thấy vẻ đẹp bí ẩn của thiên
nhiên và những điều kì diệu trong cuộc
sống.
Gv hướng dẫn học sinh tìm hiểu nỗi
băn khoăn của Xuân Diệu trước cuộc
đời trong đoạn 3 của bài thơ.
? Xuân Diệu cảm nhận về thời gian
như thế nào? Cảm nhận ấy có gì đặc
biệt?
- Gv nhận xét, chốt ý.

GV cung cấp thêm cho học sinh một số
câu thơ trong các bài khác của Xuân
Diệu, một số nhận định, ý kiến có cùng
hoặc gần quan điểm với nhà thơ nhằm
giúp học sinh khắc sâu kiến thức, thêm
tư liệu viết văn đồng thời định hướng
giáo dục kĩ năng sống. Đó là các câu

Nó nói lên một niềm khát khao sống,
khát khao tận hưởng cuộc sống, sống
một cách có ý nghĩa.
- 9 câu thơ tiếp theo: Nhà thơ đã phát
hiện ra một thiên đường trên mặt đất
này, không xa lạ mà rất đỗi quen thuộc,
ở ngay trong tầm tay của chúng ta.
Hình ảnh thiên nhiên và sự sống quen
thuộc hiện ra qua cái nhìn và sự cảm
nhận độc đáo của nhà thơ:
+ Hình ảnh thiên nhiên: tươi
đẹp, xanh non, biếc rờn...
+ Biện pháp nghệ thuật: điệp
ngữ: này đây=> thể hiện sự phấn khởi,
say mê của tác giả
+ Hình ảnh độc đáo, mới mẻ:
Tháng giêng ngon như một cặp môi
gần (dùng hình ảnh cụ thể so sánh với
cái trừu tượng tạo liên tưởng mới mẻ
về tình yêu, hạnh phúc)

2 . Phần 2, 3 (còn lại): Quan niệm của

Xuân Diệu về thời gian, tuổi trẻ, tình
yêu và lẽ sống vội vàng.
a. Đoạn 3:
- Quan niệm về thời gian: Khác với
người xưa, quan niệm thời gian là tuần
hoàn, bất biến, Xuân Diệu đã mang
đến cho chúng ta một quan niệm sống
hoàn toàn mới mẻ: thời gian là tuyến
tính, một đi không trở lại: Xuân đương
13


thơ, nhận định, ý kiến sau:
+ Thơ của Xuân Diệu:
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em em ơi tình non sắp già rồi
Mau với chứ! Thời gian không đứng
đợi ...
+ Pa-ven Cooc-sa-ghin trong
“Thép đã tôi thế đấy” đã trải qua quá
trình tìm đường vất vả để rút ra những
chiêm nghiệm quý báu về cuộc sống:
“Cái quý giá nhất của con người ta là
sự sống. Đời người chỉ sống có một
lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân
hận về những năm tháng đã sống hoài,
sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti
tiện và đớn hèn của mình...”
- Gv liên hệ, định hướng để giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh: Tuổi

trẻ của con người một đi không trở lại.
Vì vậy khi đang con trẻ chúng ta hãy
sống sao cho có ý nghĩa để sau này
không phải nuối tiếc điều gì. Thời học
sinh là quảng thời gian đẹp nhất trong
cuộc đời của các em. Ở tuổi này, các
em đang tràn trề sinh lực, tâm hồn
trong sáng, có tình bạn đẹp. Các em
nên trân trọng những gì mình có. Hãy
tận dụng sức lực của tuổi trẻ để học
thật tốt, chơi thật vui và có những kỉ
niệm đẹp với thầy cô, bạn bè.

tới nghĩa là xuân đương qua / Xuân
còn non nghĩa là xuân sẽ già ...
+ Lấy sinh mệnh của cá thể làm
thước đo thời gian.
+ Cảm nhận tinh vi về thời gian:
thấm đẫm mùi vị chia phôi...

GV chuyển ý: Mùa xuân là mùa đẹp
nhất của một năm cũng như tuổi trẻ là
tuổi đẹp nhất của cuộc đời, tuổi của
những ước ao và nhựa sống tràn trề.
Xuân Diệu nhìn thấy mùa xuân, tuổi
trẻ đẹp. Nhưng Xuân Diệu cũng ý thức
được rằng: mùa xuân của đất trời thì
tuần hoàn còn mùa xuân của con người
(tuổi trẻ) thì một đi không trở lại. Nhận
14



thức được điều ấy, Xuân Diệu đã đưa
ra một quan niệm nhân sinh đầy mới
mẻ: quan niệm sống vội vàng.
Gv hướng dẫn học sinh tìm hiểu tình
yêu cuộc sống bùng lên cuồng nhiệt,
hối hả thể hiện quan niệm sống “vội
vàng” ở đoạn cuối.
? Nhận xét về hình ảnh, từ ngữ, nhịp
điệu thể hiện trong khổ thơ cuối?
- Hs phát biểu
- Gv nhận xét, chốt nội dung
b. Đoạn 4 (đoạn cuối)
- Hình ảnh: sự sống mơn mởn, mây
đưa gió lượn, cánh bướm, tình yêu...
=> hình ảnh gần gũi, quen thuộc mà
tươi mới, giàu sức sống.
- Từ ngữ: phong phú, đậm chất Xuân
Diệu: động từ tăng tiến (ôm, riết, say
thâu, cắn); kết hợp từ lạ: xuân hồng...)
- Nhịp điệu: sôi nổi, hối hả, cuồng
nhiệt.
Hoạt động 4: Tổng kết, luyện tập (12 phút)
- Phương pháp: Nêu và giải quyết vấn đề, thảo luận, tranh luận
- Kĩ thuật dạy học: Trình bày một phút.
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN VÀ NỘI DUNG CẦN ĐẠT
HỌC SINH
GV đưa vấn đề cho học sinh thảo luận III. Tổng kết, luyện tập.
và tranh luận:

1. Tổng kết:
Có ý kiến cho rằng : Bài thơ
“Vội vàng” thể hiện quan niệm sống
mới mẻ, tích cực và có giá trị nhân văn
sâu sắc. Lại có ý kiến cho rằng: Bài
thơ “Vội vàng” chỉ thể hiện một tư
tưởng hưởng lạc, sống gấp. Ý kiến của
anh (chị)?
“Vội vàng” thể hiện một quan niệm
Hs tự do trình bày quan điểm của sống mới mẻ, tích cực và có giá trị
mình, lí giải, lập luận để bảo vệ quan nhân văn sâu sắc. Thực chất quan niệm
điểm của mình và phản bác lại quan sống vội vàng trong bài thơ là sống hết
điểm của người khác.
mình với cuộc đời, tận dụng từng giây
15


Gv nhận xét, chốt nội dung, khắc sâu phút của tuổi trẻ để sống có ích.
kiến thức.
GV Liên hệ: Các em chú ý phân biệt
quan niệm sống vội vàng mang ý nghĩa
nhân văn tích cực của Xuân Diệu với
quan niệm sống vội, sống gấp của một
bộ phận thanh niên trong xã hội ngày
nay. Một số biểu hiện như yêu sớm, ăn
chơi, hưởng lạc... không phải là quan
niệm sống vội vàng mang ý nghĩa tích
cực mà là lối sống ích kỉ, buông thả,
không có trách nhiệm với bản thân và
người khác.

GV đưa ra một số ví dụ, dẫn
chứng cho nhận định trên, từ đó giúp
các em rút ra bài học cho bản thân
mình: Lứa tuổi học sinh (tuổi trẻ) là
khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc
đời con người. Nó chỉ đến một lần và
không bao giờ quay trở lại. Hãy tận
dụng thời gian, phát huy sức trẻ để học
tập tốt và vui chơi, để sau này không
phải nuối tiếc vì đã sống hoài, sống
phí.
Gv ra câu hỏi yêu cầu học sinh trình
bày trong 1 phút: Bài học mà bản thân
rút ra được khi học xong bài thơ “Vội 2. Luyện tập.
vàng”.
Bài tập 1:
Bài học mà bản thân rút ra được khi
- Học sinh trình bày 1 phút (2- 3 học học xong bài thơ “Vội vàng”.
sinh)
Bài tập 2 (Bài tập về nhà): Viết một
Lưu ý: học sinh có thể trình bày khác đoạn văn (khoảng 30 dòng) trình bày
nhau, Gv điều chỉnh nếu nhận thức sai cảm nhận của em về cách sống của
lệch.
thanh niên hiện nay.
Gv ra bài tập về nhà, hướng dẫn học
sinh học ở nhà, kiểm tra vào giờ kiểm
tra bài cũ tiết sau.
4. Hướng dẫn học bài (5 phút)
- Học thuộc bài thơ, nắm nội dung bài học.
- Làm bài tập 2 (phần Luyện tập) ở nhà

- Soạn: Tràng giang
16


17



×