Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Những nhân tố tác động đến quyết định tham dự đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình của nhà thầu (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.41 KB, 12 trang )

1

2

PHẦN MỞ ĐẦU

- Xây dựng mô hình, đề xuất các giả thuyết, kiểm định và đánh giá mô
hình các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham dự đấu thầu các gói thầu dịch
vụ tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình TCXDCT của nhà thầu.

1. Tính cấp thiết và mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI diễn ra tại thủ đô
Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986, Nhà nước ta đã xây dựng và
thực thi nhiều chính sách quản lý nền kinh tế xã hội mới. Những chính sách đó đều
hướng tới xóa bỏ dần cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đã lạc hậu để thay
bằng cơ chế quản lý nền kinh tế theo hướng thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước.
Trong bối cảnh đó, trong lĩnh vực mua sắm hàng hóa, dịch vụ và xây dựng
các công trình, Nhà nước ta đã nhanh chóng tiếp thu và chuyển đổi cơ chế quản lý
từ chỗ “cấp phát theo kế hoạch” sang thực hiện “quy chế đấu thầu” nhằm từng
bước xóa bỏ cơ chế “xin cho” chuyển sang thực hiện cơ chế cạnh tranh lành mạnh,
tạo cơ hội cho các nhà thầu có đủ năng lực, điều kiện tham dự đấu thầu.
Tuy nhiên, qua theo dõi hoạt động đấu thầu các gói thầu dịch vụ tư vấn
trong những năm 2014 đến 2016, rất nhiều gói thầu dịch vụ tư vấn sau khi mời
thầu, lúc đầu có nhiều nhà thầu mua hồ sơ mời thầu, đăng ký tham dự đấu thầu
nhưng đến thời điểm nộp hồ sơ dự thầu, chỉ có số ít nhà thầu thực sự tham gia.
Hơn thế nữa, theo kết quả nghiên cứu tổng quan các công trình nghiên
cứu trên thế giới và trong nước, hiện nay đang còn khoảng trống nghiên cứu:
chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách cơ bản, khoa học chủ
đề những nhân tố tác động đến quyết định tham dự thầu gói thầu dịch vụ tư vấn
giám sát thi công xây dựng công trình (TCXDCT) của nhà thầu ở Việt Nam để
giúp các nhà thầu đánh giá đúng các nhân tố tác động để ra quyết định tham dự


đấu thầu các gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT một cách chính xác.
Thêm vào đó, cần phải đánh giá và nhận diện những cản trở sự tham dự đấu
thầu đang diễn ra ở Việt Nam để khuyến nghị các cơ quan có liên quan điều chỉnh,
sửa đổi các quy định, thể chế tạo môi trường thuận lợi hơn cho tham dự thầu tự do.
Chính vì những lý do trên, NCS quyết định thực hiện công trình nghiên
cứu “những nhân tố tác động đến quyết định tham dự đấu thầu các gói thầu
dịch vụ tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình của nhà thầu” trên địa
bàn thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Công trình được thực hiện với các mục tiêu gồm:
- Hệ thống hóa các mô hình về nhân tố tác động đến quyết định tham dự
thầu của nhà thầu trên thế giới và trong nước làm tiền đề cho việc xác lập mô
hình nghiên cứu của luận án.

- Đề xuất các giải pháp khuyến nghị giúp các cơ quan quản lý Nhà nước
về đấu thầu, chủ đầu tư (và bên mời thầu) cũng như các nhà thầu tư vấn khắc
phục những hạn chế, hoàn thiện và tạo điều kiện khuyến khích sự tham dự đấu
thầu các gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT của nhà thầu.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án: Những nhân tố tác động đến quyết
định tham dự thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT của nhà thầu tổ chức.
- Phạm vi về không gian nghiên cứu: luận án tập trung thu thập dữ liệu về
đấu thầu dịch vụ tư vấn nói chung, đấu thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT nói
riêng và đặc biệt trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đối tượng điều tra khảo sát ý kiến giới
hạn vào các nhà thầu tổ chức tham dự đấu thầu tổ chức trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Tài liệu thu thập về thực trạng đấu
thầu gói thầu dịch vụ tư vấn nói chung, gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát
TCXDCT được thu thập trong thời gian từ những năm 2014 đến 2017. Dữ liệu
sơ cấp thu thập từ phỏng vấn sâu, điều tra xã hội học được thực hiện trong thời
gian nghiên cứu từ tháng 4 năm 2017 đến tháng 3 năm 2019.
3. Phương pháp nghiên cứu

Công trình nghiên cứu đã áp dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định
tính và phương pháp nghiên cứu định lượng, kết hợp giữa thu thập dữ liệu thứ
cấp và thu thập dữ liệu sơ cấp để phân tích, tổng hợp theo quy trình nghiên cứu
được mô tả trong phần mở đầu và chương 3 của luận án.
4. Những đóng góp mới của luận án
Luận án đã có những đóng góp mới sau đây:
- Bổ sung để hoàn thiện khái niệm về “quyết định tham dự đấu thầu của nhà
thầu” trên cơ sở tham khảo các định nghĩa khác nhau đã được đề cập trước đây. Đây
là cơ sở cho nghiên cứu và đặc biệt cho việc ứng dụng thang đo Likert 5 cấp dộ.
- Kiểm định và xác lập được mô hình những nhân tố tác động đến đến
quyết định tham dự thầu các gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT của nhà
thầu tổ chức trên địa bàn thành phố Hà Nội với độ tin cậy thống kê được chấp
nhận (trong đó có một nhân tố mới với 4 thang đo/biến mới);


3

4

- Phân tích và mô tả rõ sự tác động của các nhân tố đó trong thực tiễn hiện
nay trong các cuộc đấu thầu các gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT của
nhà thầu trên địa bàn thành phố Hà Nội. Phát hiện những hạn chế, khiếm khuyết
ảnh hưởng tiêu cực đến sự tham dự đấu thầu các gói thầu dịch vụ tư vấn giám
sát TCXDCT của các nhà thầu tổ chức;

nhân) không bị tách rời. Khía cạnh tổ chức của người ra quyết định chính là
những thuộc tính tổ chức mà người ra quyết định đại diện cho nó. Những quyết
định mà họ đưa ra là dựa trên những tác động của tổ chức như mong đợi của tổ
chức, năng lực của tổ chức hay những cơ chế chính sách tác động của tổ chức.
Khía cạnh cá nhân của người ra quyết định như cảm nhận của chính cá nhân

người ra quyết định về cơ hội thành công hay thất bại cũng như lợi ích mà
chính họ có thể nhận được từ quyết định mà họ đưa ra.

- Đề xuất các giải pháp, khuyến nghị nhằm thúc đẩy quyết định tham dự
đấu thầu các gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT của nhà thầu trên địa
bàn thành phố Hà Nội nói riêng, trên cả nước nói chung.
5. Kết cấu của luận án
Luận án được kết cấu thành 5 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về những nhân tố tác động đến quyết định tham
dự đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công công trình của nhà thầu
Chương 3: Thiết kế và nghiên cứu chi tiết
Chương 4: Kết quả nghiên cứu những nhân tố tác động đến quyết định
tham dự đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình
của nhà thầu
Chương 5: Thảo luận kết quả nghiên cứu và khuyến nghị.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới
1.1.1.1. Các lý thuyết làm nền tảng cho nghiên cứu
Công trình “Quản lý và hành vi tổ chức - Management and
Organizational Behavior” phát hành năm 2007 của giáo sư Laurie J. Mullins,
trường Kinh doanh Portsmouth của Vương quốc Anh đã được NCS tham khảo.
Theo giáo sư Laurie J. Mullins việc điều hành một tổ chức, mà ở đó có những
cá nhân, các nhóm nhỏ riêng biệt nhưng hành động như một đơn vị thống nhất,
trong đó người đứng đầu hoặc người được ủy quyền giữ vai trò trung tâm. Họ
có trách nhiệm là người ra quyết định của cả tổ chức.
Theo quan điểm của giáo sư Laurie J. Mullins, quyết định của một tổ
chức là quyết định của người đại diện hợp pháp với hai khía cạnh (tổ chức và cá


Những công trình nghiên cứu về “nhân tố tác động đến hành vi của cá nhân,
tổ chức” được tìm đọc và khai thác phục vụ cho công trình nghiên cứu của nghiên
cứu sinh như các công trình: Thuyết hành động hợp lý TRA (Theory of Reasoned
Action), lý thuyết hành vi dự định TPB (Theory of Planned Behavior), Mô hình
chấp nhận công nghệ TAM (Technology Acceptance Model).
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu gần chủ đề nghiên cứu
Nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới đã đề cập đến “nhân tố ảnh
hưởng đến quyết định có hay không tham dự đấu thầu của nhà thầu” như công
trình nghiên cứu của nhà khoa học Anna Zarkada-Fraser (2000); công trình
nghiên cứu của ba nhà khoa học Adnan Enshassi, Sherif Mohamed và Ala’a El
Karrit (2005); và công trình nghiên cứu của nhóm tác giả M. Ravanshadnia và
cộng sự (2011) và một số công trình nghiên cứu đã công bố khác.
Nghiên cứu do Anna Zarkada Fraser phát hiện và chỉ ra 7 nhân tố và 25
thang đo tác động đến quyết định tham dự thầu ở Úc gồm: (1) Sức hấp dẫn của
gói thầu; (2) Mong đợi của nhà thầu; (3) Luật pháp; (4) Các giá trị và niềm tin;
(5) Cảm nhận của người ra quyết định; (6) Các quy định và sự trừng phạt; (7)
Các tiêu chuẩn đạo đức và sự chuyên nghiệp.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Adnan Enshassi và cộng sự (2005) với chủ
đề “Những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham dự đấu thầu thi công các
công trình xây dựng của nhà thầu ở dải Gaza”, Palestine và công trình nghiên
cứu của nhóm tác giả M. Ravanshadnia cộng sự (2011) với chủ đề “Khung ra
quyết định có/không tham dự thầu đối với các công ty xây dựng”, Nước Cộng
hòa Hồi giáo Iran.
Công trình nghiên cứu của nhóm tác giả Adnan Enshassi và cộng sự
(2005) lại đưa ra 4 nhóm nhân tố với 72 biến/thang đo tác động đến quyết định
có/không tham dự thầu đối với các gói thầu thi công xây dựng công trình của


5


6

nhà thầu ở dải Gaza, Palestine. Bốn nhóm nhân tố gồm Nhóm nhấn tố liên quan
đến nhà thầu (18 biến có tác động); (2) Nhóm nhân tố liên quan đến bên mời
thầu, chủ đầu tư (21 biến có tác động); (3) Nhóm nhân tố thuộc về gói thầu (18
biến có tác động) và (4) nhóm nhân tố bên ngoài khác (15 biến có tác động).

Một số công trình nghiên cứu về chủ đề những nhân tố tác động đến
quyết định có/không tham dự thầu đấu thầu trên thế giới đã sử dụng đến việc
đánh giá sự giống hoặc khác nhau giữa các nhóm nhà thầu dựa trên phân nhóm
nhà thầu theo các đặc điểm của nhà thầu như loại hình nhà thầu, quy mô của
nhà thầu. Đây là cơ sở để NCS đề xuất các thang đo đối với biến kiểm soát.

Trong công trình nghiên cứu của nhóm tác giả M. Ravanshadnia và cộng
sự (2011) đã hình thành 5 nhóm nhân tố với 25 biến/thang đo cần xem xét khi ra
quyết định có hay không tham dự thầu các công trình xây dựng gồm: (1) xem xét
khía cạnh của tổ chức; (2) đặc điểm dự án, gói thầu; (3) Rủi ro; (4) Năng lực tài
chính của nhà thầu; (5) và các xem xét khác.
Các công trình nghiên cứu gần với chủ đề nghiên cứu nêu trên đã sử dụng
phương pháp điều tra ý kiến nhà thầu với thang đo Likert 5 cấp độ, nhưng lại
không tiến hành kiểm định độ tin cậy của các biến, và cũng không áp dụng công
cụ hồi quy đa biến để tìm hiểu mối quan hệ giữa các nhân tố (biến độc lập) tới
biến phụ thuộc (quyết định tham dự thầu của nhà thầu) mà sử dụng chỉ số trung
bình và hệ số tầm quan trọng tương đối (Relative Importance Index) để xác định
thứ tự các biến từ tác động mạnh đến tác động yếu. Các công trình này đều coi
quyết định có hay không tham dự thầu đấu thầu gói thầu là biến phụ thuộc và
không kiểm định độ tin cậy của biến này.
Các công trình khác mà NCS tìm đọc đều không đề cập đến nhân tố thứ 7
mà tác giả Anna Zarkada-Fraser (2000) đề cập trong công trình nghiên cứu của
mình đó là nhân tố “các tiêu chuẩn đạo đức và sự chuyên nghiệp”.

Tuy nhiên một nhân tố được nhiều nhóm tác giả đề cập là nhân tố “năng
lực và kinh nghiệm của nhà thầu” nhưng tác giả Anna Zarkada-Fraser (2000) lại
không đưa nhân tố này vào mô hình nghiên cứu của ông.
Để đo lường nhân tố “năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu công trình
nghiên cứu của Nhóm tác giả M. Ravanshadnia, H. Rajaie và H. R. Abbasian
(2011) chỉ đề cập đến 5 thang đo. Công trình nghiên cứu của nhóm tác giả
Adnan Enshassi, Sherif Mohamed và Ala’a El Karrit (2005) đưa ra 8 thang đo.
Công trình nghiên cứu của Jaakko Lemberg (2013) đưa ra 7 thang đo. Sau đây
là 5 thang đo chung có thể được ứng dụng vào mô hình nghiên cứu của tác giả:
(1) Những lợi thế cạnh tranh của nhà thầu; (2) Năng lực tài chính của nhà thầu;
(3) Năng lực chuyên môn kỹ thuật của nhà thầu; (4) Kinh nghiệm thực hiện các
hợp đồng/các gói thầu; và (5) Năng lực nhàn rỗi của nhà thầu.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Nhiều các văn bản pháp luật của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam về công tác đấu thầu đã được NCS tìm hiểu làm nền tảng cho việc
nắm đúng bản chất các khái niệm, các quy định về đấu thầu.
Nhóm các công trình nghiên cứu khoa học, các luận án tiến sỹ có liên quan
đến hoạt động đấu thầu như luận án Tiến sỹ của NCS Nguyễn Thị Tiếp (1999) với
chủ đề “Hoàn thiện chế độ đấu thầu trong xây dựng công trình giao thông đường
bộ quốc gia ở Việt Nam”; Luận án Tiến sỹ của NCS Nguyễn Chí Thành (2003)
với đề tài “Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của các
Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông”; Luận án Tiến sỹ của NCS Trần
Văn Hùng với đề tài “Nâng cao chất lượng Đấu thầu các công trình giao thông ở
Việt Nam” năm 2006. Tất cả các công trình đã được tham khảo nêu trên có đặc
điểm chung là: đã nghiên cứu đến hoạt động đấu thầu nhưng lại chưa nghiên cứu
đến đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình.
Nhiều công trình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi của cá
nhân, của tổ chức đã được tác giả tìm đọc và tham khảo như: Công trình nghiên
cứu “Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến sự thành công của doanh nhân Việt

Nam” của hai tác giả Nguyễn Thanh Hà và PGS. TS. Nguyễn Thành Hiếu trên
tạp chí Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, số 227(II),
tháng 5/2016; Công trình nghiên cứu “Một số nhân tố ảnh hưởng đến sự quan
tâm tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện của người buôn bán nhỏ lẻ trên địa
bàn tỉnh Nghệ An” của các tác giả Nguyễn Xuân Cường, Nguyễn Xuân Thọ và
Hồ Huy Tựu trên tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế và Kinh
doanh, Tập 30, số 1 (2014), trang 36 – 45. Các công trình được kể trên đã
nghiên cứu đến những nhân tố tác động đến hành vi của người tiêu dùng hay
của tổ chức nhưng liên quan đến các hoạt động khác chứ không phải hành
động quyết định tham dự đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công
xây dựng công trình của nhà thầu.


7
1.2. Khoảng trống nghiên cứu
Công trình này đã chỉ ra ba khoảng trống nghiên cứu sau:
- Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước đã nghiên cứu về
đấu thầu nhưng chưa thấy có công trình nào nghiên cứu đến đối tượng “quyết
định tham dự đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công xây dựng công
trình của nhà thầu”.
- Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước đã nghiên cứu đến
“những nhân tố tác động đến quyết định tham dự đấu thầu của nhà thầu” trên
thế giới như ở Châu Âu, Úc, Palestine, nhưng chưa có công trình nào nghiên
cứu đến “những nhân tố tác động đến quyết định tham dự đấu thầu gói thầu
dịch vụ tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình của nhà thầu”, ở Việt Nam
và đặc biệt tổ chức trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Chưa thấy có công trình nghiên cứu trước đây trên thế giới và trong
nước đề cập đến nhân tố “thông tin tham dự thầu của các nhà thầu cạnh tranh”
tác động đến quyết định có/không tham dự đấu thầu. Đây là nhân tố, điểm mới
được các nhà thầu ở Việt Nam nhắc đến nhiều.

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN QUYẾT ĐỊNH THAM DỰ THẦU GÓI THẦU DỊCH VỤ TƯ VẤN
GIÁM SÁT THI CÔNG XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH CỦA NHÀ THẦU
2.1. Đấu thầu và những thuật ngữ sử dụng trong đấu thầu và đấu
thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình
2.1.1. Đấu thầu và phân loại đấu thầu theo đối tượng đấu thầu
Theo các nhà nghiên cứu trên thế giới, “Đấu thầu” là quá trình “đọ công
khai” giữa những người cung cấp, bán (được gọi là nhà thầu) sản phẩm hàng
hóa, công trình, dịch vụ, dự án để được nhận làm công trình, dịch vụ, dự án hay
bán hàng hóa cho các cơ quan, tổ chức (được gọi là chủ đầu tư hoặc bên mời thầu)
trên cơ sở đảm bảo và tuân thủ các nguyên tắc: cạnh tranh, công bằng, minh bạch
và hiệu quả kinh tế (Abbulrahman Salem Bageis và Chris Fortune, 2009).
Đấu thầu, xét theo đối tượng đấu thầu, có những loại đấu thầu: đấu thầu mua
sắm hàng hóa; đấu thầu xây dựng và lắp đặt công trình (gọi tắt là đấu thầu xây lắp);
đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn (trong đó có gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi
công công trình); đấu thầu gói thầu dịch vụ phi tư vấn và đấu thầu gói thầu hỗn hợp.
2.1.2. Một số đặc điểm của gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công
xây dựng công trình

8
So với gói thầu mua sắm hàng hóa và gói thầu xây lắp, gói thầu tư vấn giám
TCXDCT có một số đặc điểm chung của gói thầu dịch vụ tư vấn, đó là:
Thứ nhất, đây là hoạt động vô hình bao gồm việc cung cấp kiến thức,
kinh nghiệm để thực hiện những nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, gói thầu tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình là dịch vụ
tư vấn khó đánh giá kết quả.
So với các gói thầu dịch vụ tư vấn khác như gói thầu lập thiết kế kỹ thuật
và bản vẽ thi công, gói thầu lập hồ sơ mời thầu,... gói thầu giám sát TCXDCT
cũng có đặc điểm riêng, đó là:
Thứ nhất, hoạt động giám sát thi công xây dựng công trình luôn đi liền

với quá trình thi công xây dựng công trình.
Thứ hai, hoạt động giám sát thi công xây dựng công trình phải dựa trên nền
tảng cơ sở của việc am hiểu chuyên môn sâu và cần những kỹ năng riêng biệt.
2.1.3. Một số thuật ngữ sử dụng trong đấu thầu, đấu thầu dịch vụ tư
vấn giám sát thi công xây dựng công trình
Khi thực hiện đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT, người ta
thường sử dụng những thuật ngữ chung như bên mời thầu, giá gói thầu, giá dự
thầu, giá trúng thầu,... Những thuật ngữ đó đã được pháp luật quy định chi tiết.
Đối với đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT, có một vài
thuật ngữ dành riêng như “gói thầu dịch vụ tư vấn” giám sát thi công xây dựng
công trình, “nhà thầu tư vấn” giám sát thi công xây dựng công trình.
Thuật ngữ “Gói thầu dịch vụ tư vấn” sử dụng trong trường hợp nói về
gói thầu tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình hay các gói thầu tư vấn
đào tạo, tư vấn lập hồ sơ mơi thầu,...
Thuật ngữ “Nhà thầu tư vấn” được sử dụng khi nói về các nhà thầu tham
dự thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình, các gói
thầu dịch vụ tư vấn khác như tư vấn đào tạo, tư vấn lập hồ sơ mời thầu,...
Thuật ngữ “Chuyên gia tư vấn” là thuật ngữ được sử dụng đối với các cá
nhân, cán bộ chuyên môn thực hiện trách nhiệm tư vấn giám sát thi công xây dựng
công trình được nhà thầu tư vấn phân công trong hồ sơ dự thầu của nhà thầu.
2.1.4. Quy trình đấu thầu tổng quát và khái niệm “Quyết định tham dự
đấu thầu gói thầu của nhà thầu”
2.1.4.1. Quy trình đấu thầu tổng quát
Quy trình đấu thầu tổng quát bao gồm những bước sau: (1) Chuẩn bị đấu
thầu; (2) Tổ chức đấu thầu: Trong giai đoạn này, về phía nhà thầu, họ thu thập


9

10


thông tin về gói thầu; mua hồ sơ mời thầu/hồ sơ yêu cầu; chuẩn bị hồ sơ dự
thầu/hồ sơ đề xuất nhằm đáp ứng những yêu cầu của hồ sơ mời thầu/hồ sơ yêu
cầu; nộp hồ sơ dự thầu/hồ sơ đề xuất trước thời điểm đóng thầu cho bên mời
thầu; (3) Mở thầu và đánh giá hồ sơ dự thầu/hồ sơ đề xuất; (4) Thương thảo
hợp đồng; (5) Trình thẩm định, phê duyệt và công khai kết quả đấu thầu; và
(6) Hoàn thiện, ký kết hợp đồng.
2.1.4.2. Khái niệm “Quyết định tham dự đấu thầu gói thầu của nhà thầu”
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm khác nhau về quyết định tham dự
thầu theo những cách nhìn khác nhau.
Theo Anna Zarkada-Fraser (2000), quyết định tham gia thông thầu được
hiểu là quyết định “có” hay “không” đồng ý tham gia hợp đồng thông thầu kín
của đại diện nhà thầu với các đối tác như chủ đầu tư, bên mời thầu hoặc đại
diện nhà thầu khác để được trúng thầu. Tác giả này không đưa ra bất cứ một
minh chứng nào về quyết định tham gia vào hành vi quyết định tham dự thầu.
Ba nhà khoa học Adnan Enshassi, Sherit Mohamed và Ala’a El Karriri (năm
2005) thuộc trường Đại học The Islamic University of Gara (IUG), Palestin cho
rằng quyết định tham dự thầu được hiểu là quyết định “có” hay “không” tham dự
đấu thầu gói thầu xây dựng của nhà thầu. Ba tác giả này đã đưa ra minh chứng cho
quyết định trên là việc nhà thầu mua hồ sơ mời thầu, lập hồ sơ dự thầu và nộp hồ sơ
dự thầu trước thời điểm đóng thầu. Quan điểm trên của ba nhà khoa học trên về
quyết định tham dự đấu thầu đã bao gồm: (1) quyết định “có” hay “không”
tham dự đấu thầu và (2) minh chứng cho quyết định tham dự đấu thầu. Hạn chế
trong khái niệm của nhóm tác giả này là chưa nói đến việc ai là người quyết
định mà chỉ nói chung là của nhà thầu.
Tác giả Jaakko Lemberg thuộc trường Đại học University of Twente, Hà
Lan (2013) cho rằng: Quyết định tham dự thầu của nhà thầu là việc trả lời “có”
hay “không” tham dự đấu thầu một gói thầu đã được thông báo của người đứng
đầu nhà thầu tổ chức (có thể là người được ủy quyền). Với cách nhìn của Jaakko
Lemberg, quyết định tham dự thầu của nhà thầu là việc khảng định có hay không

tham dự đấu thầu một gói thầu. Jaakko Lemberg cũng cho rằng quyết định tham
dự thầu hay không thuộc người đứng đầu nhà thầu (hoặc người được ủy quyền).

nhà thầu là sự khảng định “có” hay “không” tham dự đấu thầu gói thầu của
người đứng đầu nhà thầu (hoặc người được ủy quyền). Sự khảng định này được
thể hiện bằng việc đăng ký tham dự thầu và có hồ sơ dự thầu nộp cho bên mời
thầu trước thời điểm đóng thầu”.

Qua phân tích những quan điểm khác nhau của các nhà khoa học đã
nghiên cứu sâu về đấu thầu trên thế giới, qua quy định của pháp luật Việt Nam,
tác giả luận án bổ sung để hoàn thiện khái niệm đầy đủ về quyết định tham dự
đấu thầu của nhà thầu như sau: “Quyết định tham dự đấu thầu một gói thầu của

Qua khái niệm trên ta có thể thấy quyết định tham dự thầu của nhà thầu
được thể hiện qua: (1) việc khẳng định “có” hay “không” tham dự đấu thầu
gói thầu; (2) do người đứng đầu (hoặc người được ủy quyền) đưa ra; và (3)
đảm bảo minh chứng cho quyết định đó là có đăng ký tham dự đấu thầu gói
thầu và nộp hồ sơ dự thầu trước thời điểm đóng thầu.
2.2. Đề xuất mô hình nghiên cứu những nhân tố tác động đến quyết
định tham dự đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công xây dựng
công trình của nhà thầu
2.2.1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
Sức hấp dẫn của gói thầu

Mong đợi của nhà thầu
Năng lực, kinh nghiệm của
nhà thầu
Các quy định và thưởng

Luật pháp


Quyết định tham
dự đấu thầu gói
thầu dịch vụ tư vấn
giám sát thi công
xây dựng công
trình của nhà thầu

Các giá trị và niềm tin
Cảm nhận của người ra quyết định

Các biến kiểm soát: theo
đặc điểm của nhà thầu và đặc
trưng của đại diện hợp pháp

Thông tin đăng ký tham dự
thầu của các nhà thầu

Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu tổng quát đề xuất
Nguồn: Đề xuất của tác giả


11

12

2.2.2. Các thang đo
Để đo lường tác động của 8 nhân tố công trình nghiên cứu của tác giả đã
phân tích, tổng hợp và đề xuất sử dụng 32 thang đo đo lường 8 nhân tố. Trong
số đó có nhân tố mới “Thông tin đăng ký tham dự thầu của các nhà thầu” với 5

thang đo được luận án đề xuất.
Đối với biến phụ thuộc, công trình áp dụng 01 thang đo được tác giả
Jaakko Lemberg (2013) sử dụng trong công trình nghiên cứu đã thực hiện.
Để đo lường biến kiểm soát, công trình nghiên cứu của NCS có áp dụng
hai nhóm thang đo gồm nhóm biến phản ánh tác động của tổ chức (quy mô, loại
hình doanh nghiệp) và nhóm biến phản ánh đặc điểm cá nhân người đại diện
hợp pháp nhà thầu (giới tính, tuổi).
2.3. Các giả thuyết nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu được xây dựng với 8 giả thuyết nghiên cứu cần được
đánh giá, kiểm định, gồm:
Giả thuyết H1: nhân tố “sức hấp dẫn của gói thầu” tác động cùng chiều đến
quyết định tham dự đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT của nhà thầu.
Giả thuyết H2: nhân tố “mong đợi của nhà thầu” tác động cùng chiều
đến quyết định tham dự đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT
của nhà thầu.
Giả thuyết H3: nhân tố “năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu” tác động
cùng chiều đến quyết định tham dự đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát
TCXDCT của nhà thầu.
Giả thuyết H4: nhân tố “các quy định và thưởng” tác động cùng chiều
đến quyết định tham dự đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT
của nhà thầu.
Giả thuyết H5: nhân tố “luật pháp” tác động cùng chiều đến quyết định
tham dự thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT của nhà thầu.
Giả thuyết H6: nhân tố “các giá trị và niềm tin” tác động cùng chiều đến
quyết định tham dự thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT của nhà thầu.
Giả thuyết H7: nhân tố “cảm nhận của người ra quyết định” tác động
cùng chiều đến quyết định tham dự thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát
TCXDCT của nhà thầu.
Giả thuyết H8: nhân tố “thông tin đăng ký tham dự đấu thầu của các nhà
thầu” có tác động ngược chiều đến quyết định tham dự thầu gói thầu dịch vụ tư

vấn giám sát TCXDCT của nhà thầu.

CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ VÀ CỨU CHI TIẾT
3.1. Nghiên cứu định tính
3.1.1. Mục tiêu của nghiên cứu định tính
Nghiên cứu định tính nhằm thực hiện bốn mục tiêu chính: (1) Thống nhất
các nhân tố và các thang đo của từng nhân tố và của toàn bộ đề xuất nghiên
cứu; (2) Hoàn thiện thang đo và hoàn thiện bảng hỏi phục vụ nghiên cứu định
lượng; (3) Tổng hợp ý kiến của nhà thầu về thực trạng đấu thầu, tham dự thầu
các gói thầu tư vấn giám sát TCXDCT của nhà thầu; (4) Thu thập ý kiến của
nhà thầu về những thành công, những hạn chế và nguyên nhân của những thành
công, hạn chế của nhà thầu trong việc tham dự thầu các gói thầu tư vấn giám sát
TCXDCT thời gian qua.
3.1.2. Phương pháp nghiên cứu định tính áp dụng
Hai phương pháp nghiên cứu định tính đã được NCS áp dụng, gồm:
3.1.2.1. Khảo sát lấy ý kiến của 50 nhà thầu
50 nhà thầu đã tham dự thầu và đã thắng thầu 01 gói thầu dịch vụ tư vấn
giám sát TCXDCT trong năm 2017 được phỏng vấn theo bảng hỏi chi tiết.
3.1.2.2. Phỏng vấn sâu nhà khoa học và chuyên gia đấu thầu
Phỏng vấn 5 nhà khoa học và 5 chuyên gia về đấu thầu. Họ là những
giảng viên của đại học Kinh tế Quốc dân, trường đại Học Ngoại thương và một số
tổ chức đã từng tham dự đấu thầu và thắng thầu các gói thầu dịch vụ tư vấn trên
địa bàn thành phố Hà Nội. Họ là những nhà khoa học đã có công trình nghiên cứu
có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến lĩnh vực nghiên cứu của NCS. Trong số
đó, có một số đại diện nhà thầu đã cho phép NCS trực tiếp tham gia hoạt động
chuẩn bị HSDT để tham gia đấu thầu trong những năm từ 2010 đến 2017.
3.1.3. Triển khai nghiên cứu định tính và kết quả
3.1.3.1. Khảo sát sơ bộ 50 nhà thầu để hoàn thiện nhân tố và thang đo
Thứ nhất, về các nhân tố tác động. Theo kết quả trả lời phỏng vấn của 40
đại diện nhà thầu (đạt 80% dự kiến), có 5 nhân tố trong mô hình nghiên cứu đã

nhận được ý kiến đồng tình tuyệt đối (100% đồng ý có tác động). Có 2 nhân tố
có tỷ lệ đồng thuận khá cao là nhân tố “Quy định và thưởng” có tỷ lệ đồng
thuận là 87,5%, nhân tố “giá trị và niềm tin” với tỷ lệ đồng thuận là 85%. Riêng
nhân tố “Năng lực và kinh nghiệm thực hiện gói thầu của nhà thầu” có 27 nhà


13

14

thầu (chiếm 67,5%) đồng ý cho rằng có ảnh hưởng đến quyết định tham dự thầu
gói thầu của nhà thầu.

Thứ hai, các chuyên gia đấu thầu và các nhà khoa học đã cho nhiều ý kiến
giúp NCS định hình được các thang đo một cách khoa học để hoàn thiện bảng
hỏi để thực hiện điều tra xã hội học rộng rãi trên địa bàn Hà Nội.

Theo kết quả trên, NCS đưa cả 8 nhân tố trên vào mô hình và bảng hỏi
khi nghiên cứu định lượng.
Thứ hai, về các thang đo. Sau đây là kết quả tổng hợp:
- Có 22 thang đo/chỉ báo gắn với 5 nhân tố có tỷ lệ đồng tình 100% cho
rằng chúng có ảnh hưởng đến quyết định tham dự đấu thầu gói thầu đã nêu.
Trong số 22 thang đo trên, nhà thầu đề nghị:
(1) gộp hai thang đo 4 và 5 thuộc nhân tố “Mong đợi của nhà thầu” thành một
thang đo với tên gọi chung là “mong muốn phát huy, tạo dựng quan hệ tốt với Chủ
đầu tư/Bên mời thầu và cá nhân có liên quan” với 22/40 nhà thầu đề nghị;
(2) bỏ thang đo/chỉ báo “Thông tin về danh sách tham dự thầu” trong
nhân tố thứ 8 vì cho rằng đây chính là nội dung của nhân tố thứ 8. Kiến nghị
thứ hai này có 23/40 nhà thầu đề nghị.
- Với 10 thang đo/chỉ báo tương ứng với ba nhân tố còn lại gồm 5 thang

đo nhân tố “năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu”; 2 thang đo nhân tố “các quy
định và thưởng”; và 3 thang đo nhân tố “giá trị và niềm tin” có tỷ lệ đồng thuận
lần lượt là 67,5%, 87,5% và 85%.
- Có 25/40 nhà thầu đề nghị thay đổi thang đo “Có lợi thế cạnh tranh so
với các nhà thầu khác” thuộc nhân tố “Năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu”
thành “Sự thỏa mãn yêu cầu đặc thù trong HSMT”.
3.1.3.2. Phỏng vấn sâu các nhà khoa học và chuyên gia về đấu thầu để
hoàn thiện thang đo
Sau đây là kết quả tham vấn ý kiến các chuyên gia:
Thứ nhất, đồng ý với ý kiến: (1) Gộp 2 thang đo số 4 và 5 thuộc nhân tố
“Mong đợi của nhà thầu” thành một thang đo. Như vậy, nhân tố “Mong đợi của
nhà thầu” còn lại 7 thang đo; (2) Loại bỏ thang đo số 1 thuộc nhân tố thứ 8
“Thông tin đăng ký tham dự thầu gói thầu của các nhà thầu”. Như vậy, nhân tố
thứ 8 chỉ còn 4 thang đo; (3) Sửa chữa tên thang đo/chỉ báo số 1 thuộc nhân tố
“Năng lực, kinh nghiệm tham dự thầu của nhà thầu” cho sát với điều kiện hoàn
cảnh của Việt Nam.
Như vậy, sau nghiên cứu định tính mô hình rút gọn gồm 8 nhân tố với 30
thang đo được hoàn thiện để thực hiện nghiên cứu đinh lượng tiếp theo.

3.2. Thiết kế và thu thập dữ liệu cho nghiên cứu định lượng
3.2.1. Mục tiêu của nghiên cứu định lượng
Nghiên cứu định lượng được thực hiện nhằm ba mục đích: (1) Thu thập
dữ liệu để kiểm định và hình thành mô hình nghiên cứu chính thức; (2) Đo
lường và giải thích tác động của các nhân tố, các biên đến quyết định tham dự
thầu các gói thầu tư vấn giám sát TCXDCT của nhà thầu; (3) Phân tích và đo
lường mối quan hệ giữa biến phụ thuộc (quyết định tham dự thầu của nhà thầu
với gói thầu giám sát TCXDCT) và các biến độc lập là các nhân tố tác động.
3.2.2. Thiết kế phiếu câu hỏi sử dụng cho điều tra xã hội học
Việc hoàn thiện phiếu câu hỏi sử dụng cho điều tra xã hội học đã được
NCS thực hiện trên cơ sở tham vấn ý kiến 5 nhà khoa học và 5 chuyên gia về

đấu thầu.
3.2.3. Thiết kế quy mô mẫu điều tra
- Tổng thể nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là tổng thể các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị có đủ
tư cách pháp nhân tham dự thầu mong muốn tham dự thầu gói thầu dịch vụ tư
vấn giám sát TCXDCT tổ chức trên địa bàn Hà Nội.
- Tính toán cỡ mẫu
Áp dụng các công thức đã được các nhà khoa học trên thế giới và trong
nước đưa ra, có hai mức quy mô mẫu khác nhau được tính toán: (1) Dựa theo
công thức thứ nhất do PGS. TS. Ngô Văn Thứ (2005) đưa ra với độ tin cậy 95%
quy mô mẫu là 245 nhà thầu trở lên. (2) Dựa theo công thức được nhà khoa học
Hair, J. F và cộng sự nêu trong cuốn “Multivariate Data Analysis” vào năm
1998 cho thấy quy mô mẫu tối thiểu là 200 nhà thầu. NCS đặt mục tiêu có được
số quan sát với quy mô trên 245 nhà thầu hợp lệ.
3.2.4. Lựa chọn nhà thầu thuộc mẫu điều tra
Phương pháp lựa chọn phần tử thuộc tổng thể nghiên cứu nêu trên được
áp dụng dựa theo phương pháp “chọn mẫu xác xuất hệ thống” mà hai tác giả
PGS. TS. Lê Công Hoa và PGS. TS. Nguyễn Thành Hiếu (2012) đã nêu ra.


15

16

Theo phương pháp này, danh sách 15.031 nhà thầu đã đăng ký tham dự
đấu thầu trên địa bàn thành phố Hà Nội với Cục Quản lý Đấu thầu của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư và đã được xem xét phê duyệt tư cách pháp nhân tham dự thầu
tính từ ngày 17 tháng 11 năm 2010 đến hết ngày 11 tháng 5 năm 2017 là cơ sở
cho việc chọn. Các phần tử thuộc mẫu nghiên cứu của tác giả là các nhà thầu

trong danh sách có số thứ tự: 10, 20, 30, 40,..., 15.030. Có tất cả 1.503 nhà thầu
được lựa chọn để thu thập dữ liệu điều tra phục vụ phân tích định lượng.

4.1.1. Hoạt động đấu thầu các gói thầu dịch vụ tư vấn diễn ra sôi động và
không ngừng tăng lên với tốc độ nhanh chóng qua các năm.

3.2.5. Gửi và thu thập phiếu điều tra
Phiếu điều tra đã được hoàn thiện đã được gửi đến 1.503 nhà thầu đã xác
định bằng nhiều hình thức khác nhau: gửi thư qua bưu điện, gửi trực tiếp qua
văn thư, gọi điện hẹn và chuyển phát nhanh (mỗi nhà thầu một phiếu). Kết quả
đã nhận được 286 phiếu trả lời, trong đó có 272 phiếu trả lời hợp lệ.
3.2.6. Xử lý dữ liệu điều tra
Các số liệu thu thập được từ phiếu điều tra đã được tổng hợp và phân tích
dựa vào phần mềm là công cụ thống kê SPSS statistic 22 để phân tích, tổng hợp
đưa ra những luận điểm chung. Những công cụ chi tiết áp dụng trên phần mềm
SPSS 22.0 được áp dụng gồm: (1) Phân tích nhân tố khám phá EFA (Explatory
Factor Analysis) để loại biến rác; (2) Đánh giá độ tin cậy Chronbach’s Alpha
của các thang đo RT (Reliability Testing); (3) Phân tích nhân tố khẳng định
CFA (Confirmatory Factor Analysis); (4) Kiểm định tương quan Pearson và
kiểm định giả thuyết nghiên cứu; (5) Phân tích hồi quy đa biến MRA (Multiple
Regression Analysis và (6) Phân tích phương sai một chiều One-Way ANOVA.
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN QUYẾT ĐỊNH THAM DỰ THẦU GÓI THẦU DỊCH VỤ TƯ VẤN
GIÁM SÁT THI CÔNG XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH CỦA NHÀ THẦU
4.1. Tổng quan hoạt động đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn, dịch vụ
tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình ở Việt Nam và trên địa bàn
thành phố Hà Nội
Nghiên cứu đề tài này được thực hiện trong bối cảnh hoạt động đấu thầu
các gói thầu dịch vụ tư vấn, dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT trên cả nước và
Hà Nội gần đây, đặc biệt là các năm 2015 đến 2017 được mô tả qua bức tranh

dưới đây.

4.1.2. Các gói thầu dịch vụ tư vấn được tổ chức trên cả nước bao gồm
nhiều lĩnh vực dịch vụ tư vấn khác nhau, trong đó đấu thầu gói thầu dịch cụ tư
vấn giám sát thi công xây dựng công trình chiếm tỷ trọng cao
4.1.3. Các gói thầu dịch vụ tư vấn, tư vấn giám sát TCXDCT có giá trị
không cao, trong đó các gói thầu có giá trị từ 200 triệu đồng trở xuống chiếm
khoảng 55% đến 65% về số lượng
4.1.4. Tính cạnh tranh trong đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn không cao,
phần lớn kết quả trúng thầu có giá trúng thầu ngang bằng với giá gói thầu,
mức tiết kiệm trong đấu thầu còn thấp.
4.1.5. Cơ cấu đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công xây
dựng công trình trên địa bàn thành phố Hà Nội có sự thay đổi với việc xuất
hiện và tăng các lĩnh vực mới gắn với sự phát triển của thời đại công nghệ 4.0
4.2. Kết quả nghiên cứu các nhân tố tác động đến quyết định tham dự
thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT của nhà thầu trên địa bàn
thành phố Hà Nội
4.2.1. Giới thiệu mẫu điều tra
Trong số 286 phiếu điều tra trả lời với tỷ lệ phản hồi thấp chỉ đạt 19,03%,
có 272 phiếu trả lời hợp lệ.
a). Về vị trí địa lý của nhà thầu: Có 68,8% là nhà thầu đến từ 12 Quận,
29,7% đến từ 18 Huyện của của thành phố Hà Nội. Có 1,5% là các nhà thầu
đến từ các tỉnh thành lân cận của Hà Nội như Tỉnh Hà Nam, tỉnh Hà Bắc, tỉnh
Bắc Giang.
b). Về việc đã từng tham dự đấu thầu: Tất cả 272 nhà thầu đã phản
hồi phiếu điều tra hợp lệ (100%) đều đã từng tham dự đấu thầu gói thầu dịch
vụ tư vấn, trong đó có 237 nhà thầu đã từng tham dự đấu thầu gói thầu dịch vụ
tư vấn giám sát TCXDCT (chiếm 87,1%). Chỉ có 35 nhà thầu chưa từng tham
dự đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT (chiếm 12,9%).
c). Về “vị trí” của người trả lời phiếu điều tra: Có 40,8% người trả lời

phiếu điều tra hợp lệ là “người đứng đầu” nhà thầu, và số còn lại là “người
được ủy quyền” với tỷ lệ 59,2%.


17

18

d). Giới tính của những người trả lời phiếu điều tra: Trong 272 đại
diện nhà thầu trả lời phiếu điều tra, có 204 là nam, chiếm 75%. Người trả lời
phiếu điều tra là nữ gồm có 78 người, chiếm 25%.
e). Độ tuổi của những người trả lời phiếu điều tra: Cơ cấu độ tuổi độ
tuổi đại diện nhà thầu tham gia trả lời phiếu điều tra là: Nhóm trung niên từ
trên 40 tuổi đến 50 tuổi chiếm 60,7%, Nhóm cao niên từ trên 50 tuổi trở lên
chiếm 30,9%, nhóm trẻ tuổi từ 40 tuổi trở xuống chiếm 8,5%.
4.2.2. Phân tích nhân tố khám phá EFA, kiểm định độ tin cậy của
thang đo và phân tích nhân tố khẳng định CFA
4.2.2.1. Phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor Analysis)
Sau hai vòng xoay nhân tố, kết quả phân tích EFA cho ta mô hình rút gọn
gồm 6 nhân tố với 23 thang đo có tác động đến quyết định tham dự đấu thầu gói
thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT của nhà thầu với hệ số KMO là 0,807
lớn hơn 0,5, nhỏ hơn 1 với mức ý nghĩa Sig = 0,000 <0,05.
4.2.2.2. Kiểm định độ tin cậy của thang đo (Reliability Testing)
Sau khi thực hiện kiểm định độ tin cậy Chronbach’s Alpha tất cả 6 nhân
tố với 23 thang đo đã được giữ lại trong mô hình nghiên cứu trên phần mền
SPSS 22.0 ta có kết quả là cả 6 nhân tố với 23 thang đo được giữ lại trong mô
hình nghiên cứu đều đạt độ tin cậy cao và có giá trị cho mô hình “Những nhân
tố tác động đến quyết định tham dự thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát
TCXDCT của nhà thầu.
4.2.3.3. Phân tích nhân tố khẳng định (CFA – Confirmatory Factor Analysis)

Để khẳng định giá trị của mô hình nghiên cứu rút ra từ thực tiễn ở Hà Nội
Việt Nam, một lần nữa công trình nghiên cứu đã thực hiện phân tích nhân tổ
khẳng định CFA trên nền phần mềm AMOS. Kết quả: khẳng định mô hình
nghiên cứu với 23 thang đo đo lường 6 biến độc lập MDCNT, NLKN, LP,
TTDK, SHDGT, QDVT và 1 thang đo đo lường biến phụ thuộc QDTDT là phù
hợp với thông tin thị trường, đều là các thang đo có chất lượng vì cả 5 điều kiện
của phân tích CFA đều đảm bảo, cụ thể như sau: (1) Mức ý nghĩa P của Chisquare là 0,000 < 0,05; (2) Giá trị Chi-square điều chỉnh theo bậc tự do Chisquare/df = 1,815 < 2; (3) Chỉ số Tucker & Lewis TLI = 0,927 > 0,9; (4) Chỉ số
thích hợp so sánh CFI = 0,937 > 0,9; và (5) chỉ số RMSEA = 0,055 <0,08.

Hình 4.1: Kết quả phân tích nhân tố khám phá CFA
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu điều tra năm 2018
4.2.3. Kiểm định tương quan giữa các biến, phân tích hồi quy bội và
kiểm định các giả thuyết của mô hình nghiên cứu
4.2.3.1. Kiểm định tương quan giữa các biến
Thực hiện phân tích tương quan Pearson bằng phần mềm SPSS 22.0,
NCS có được kết quả: khẳng định giữa biến phụ thuộc và 6 biến độc lập có mối
tương quan tuyến tính với nhau trong mô hình hồi quy vì tất cả 6 mức ý nghĩa
Sig. (2-tailed) của các hệ số tương quan Pearson đều < 0,05; không hiện tượng
đa cộng tuyến vì tất cả các hệ số phóng đại phương sai (VIP) đều nhỏ hơn 2 khi


19

20

thực hiện hồi quy đa biến.
Bảng 4.4: Các hệ số của mô hình hồi quy

Bảng 4.1: Trích kết quả phân tích hệ số tương quan Pearson
QDTDTSHDGTMDCNT NLKN

QDTD Pearson
T
Correlation

1

0,317

Sig. (2-tailed)
N

272

0,381

0,626

LP
0,514

0,000

0,000

0,000

0,000

272


272

272

272

0,334 -0,329

272

Mô hình hồi quy bội giữa 6 biến độc lập TTDK, LP, QDVT, NLKN,
MDCNT và SHDGT với biến phụ thuộc QDTDT là có giá trị vì:
(1) giá trị Sig. của phân tích hồi quy và của tất cả 6 biến độc lập đều có
giá trị < 0,05 cho ta kết luận mô hình hồi quy và 6 biến đều có có ý nghĩa;
Bảng 4.2: Kết quả kiểm định hồi quy ANOVA
Mô hình

df

Hồi quy (Regression)

20,642

6

Phần dư (Residual)

12,476

265


Tổng số (Total)

33,118

271

F

Sig.

1

0,789a

0,623

Sig.

Beta

H ệ số
Độ chấp phóng đại
nhận phương sai
(VIF)

(Constant)

1,836


0,175

10,480

0,000

SHDGT

0,069

0,021

0,127 3,244

0,001

0,930

1,075

MDCNT

0,109

0,024

0,178 4,528

0,000


0,915

1,093

NLKN

0,238

0,022

0,437 10,705

0,000

0,854

1,171

LP

0,180

0,027

0,279 6,738

0,000

0,832


1,202

QDVT

0,052

0,023

0,092 2,293

0,023

0,879

1,137

TTDK

-0,134

0,025

-0,206 -5,386

0,000

0,970

1,031


Nguồn: Kết quả xử lý số liệu điều tra năm 2018

QDTDT = 0,069 SHDGT + 0,109 MDCNT + 0,238 NLKN + 0,180 LP +

Bảng 4.3: Tóm tắt kết quả mô hình hồi quy
R binh phương

t

Mô hình hồi quy sử dụng hệ số hồi quy chuẩn hóa Beta được biểu diễn
qua công thức sau:

0,047

(2) kết quả R bình phương là 0,623 > 0,5 cho thấy mô hình hồi quy giải
thích được mối tương quan tuyến tính giữa các biến của mô hình.

R

1

Sai số
chuẩn
(Std.
Error)

Thống kê

đa cộng tuyến


a. Biến phụ thuộc (Dependent Variable): QDTDT

3,440 73,074 0,000b

Nguồn: Kết quả xử lý số liệu điều tra năm 2018

Mô hình

B

272

Nguồn: Kết quả xử lý số liệu điều tra năm 2018

Bình phuong
của trung binh

Mô hình

0,000 0,000

4.2.3.2. Mô hình hồi quy bội

Tổng các
binh phương

Hệ số hồi quy Hệ số hồi
chưa chuẩn quy chuẩn
hóa
hóa


QDVT TTDK

R binh phương
hiệu chỉnh
0,615

Sai số chuẩn
của ước lượng
0,217

Nguồn: Kết quả xử lý số liệu điều tra năm 2018

+ 0,052 QDVT – 0,134 TTDK
4.2.3.3. Kiểm định giả thuyết mô hình nghiên cứu
Do mô hình thực nghiệm đã loại bỏ 2 nhân tố ứng với 2 giả thuyết nghiên
cứu H6 và H7 đã bị loại, nên công trình nghiên cứu chỉ kiểm định 6 giả thuyết
còn lại H1 , H2 , H3 , H4 , H5 và và H8. Kết quả cho thấy, cả 6 giả thuyết nghiên
cứu trên đều được chấp nhận vì tất cả 6 giá trị Sig. của kiểm định đều ≤ 0,05.
4.2.5. Phân tích phương sai một chiều (One-way ANOVA)
Luận án đã thực hiện phương pháp phân tích phương sai một chiều (Oneway ANOVA) để đánh giá xem có sự khác biệt hay không giữa các nhóm nhà


21

22

thầu và các nhóm đại diện nhà thầu trong đánh giá 6 nhân tố độc lập (6 biến độc
lập) và biến phụ thuộc (quyết định tham dự thầu gói thầu giám sát TCXDCT
của nhà thầu).


CHƯƠNG 5

Kết quả, không có sự khác biệt giữa các nhóm nhà thầu chia theo các tiêu
chí khác nhau có sự khác nhau trong đánh giá các nhân tố, các biến cũng như
quyết định tham dự đấu thầu gói thầu giám sát TCXDCT của nhà thầu.
Hình 4.2 mô tả đầy đủ mô hình 6 nhân tố với 23 thang đo tác động đến
quyết định tham dự đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT trên địa
bàn thành phố Hà Nội, Việt Nam đã được kiểm định.
Beta = 0,437

Năng lực, kinh nghiệm
của nhà thầu (4 thang đo)
Beta = 0,279

Luật pháp (3 thang đo)
Beta = 0,174

Mong đợi
của nhà thầu (7 thang đo)

Beta = 0,127

Sức hấp dẫn
của gói thầu (3 thang đo)

Quyết định
tham dự
thầu gói
thầu dịch

vụ tư vấn
giám sát thi
công xây
dựng công
trình của
nhà thầu

Beta = 0,052

Quy định và thưởng (2 thang đo)

Thông tin đăng ký tham dự thầu của
các nhà thầu(4 thang đo)

Beta = -0,206

Hình 4.2: Kết quả mô hình các nhân tố tác động đến quyết định
tham dự thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công xây dựng công
trình của nhà thầu
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu điều tra năm 2018

THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KHUYẾN NGHỊ
5.1. Tóm tắt và thảo luận kết quả nghiên cứu
Công trình nghiên cứu đã thu được những kết quả nghiên cứu như sau:
Thứ nhất: Đã khái quát hóa và đề xuất về mặt lý luận khái niệm đầy đủ
hơn về “Quyết định tham dự thầu của nhà thầu”.
Thứ hai: Phát hiện khoảng trống nghiên cứu và đề xuất mô hình nghiên cứu
tổng quát với 8 nhân tố (biến độc lập) tác động đến quyết định tham dự thầu gói
thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT của nhà thầu. Tám nhân tố đó gồm: (1)
Nhân tố “sức hấp dẫn của gói thầu”; (2) Nhân tố “Mong đợi của nhà thầu”; (3)

Nhân tố “Năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu”; (4) Nhân tố “Quy định và thưởng”;
(5) Nhân tố “Luật pháp”; (6) nhân tố “Giá trị và niềm tin”; (7) Nhân tố “cảm nhận
của người ra quyết định” và (8) nhân tố “Thông tin đăng ký tham dự thầu của các
nhà thầu”. Trong 8 nhân tố đó, nhân tố thứ tám là đề xuất mới của nghiên cứu sinh.
Thứ ba: NCS đã phát triển “phiếu điều tra” để lấy ý kiến về “những nhân
tố tác động đến quyết định tham dự thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát
TCXDCT của nhà thầu”.
Thứ tư: Đã thực hiện các công cụ phân tích, kiểm định thống kê để có
được kết luận về mô hình “6 nhân tố với 23 thang đo ảnh hưởng đến quyết
định tham dự thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT của nhà thầu”,
loại bỏ 2 nhân tố và loại bỏ 7 thang đo dự kiến vì không phù hợp, có độ tin
cậy, độ hội tụ thấp.
Thứ năm: Khẳng định mô hình tác động của 6 nhân tố với 23 thang đo
đảm bảo độ tin cậy cao và phù hợp với thông tin thị trường.
Thứ sáu: Nhân tố mới mà NCS đề xuất cho mô hình “Thông tin đăng ký
tham dự thầu của các nhà thầu” với 4 thang đo được chấp nhận trong mô hình
với độ tin cậy cao.
Thứ bẩy: Kết quả nghiên cứu cho thấy hướng tác động của 6 nhân tố đến
quyết định tham dự thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT của nhà
thầu đúng như giả thuyết đã nêu.
Thứ tám: Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ tác động của từng nhân tố
đến quyết định tham dự thầu gói thầu tư vấn giám sát TCXDCT của nhà thầu. Trừ
nhân tố “Thông tin đăng ký tham dự thầu của nhà thầu” có tác động ngược chiều


23

24

đến quyết định tham dự đấu thầu gói thầu trên của nhà thầu, trong 5 nhân tố có

tác động dương (cùng chiều) thứ tự tác động được sắp xếp như sau: (1) Nhân tố
có tác động mạnh nhất trong 5 nhân tố trên là nhân tố “Năng lực kinh nghiệm
của nhà thầu – NLKN”; (2) Nhân tố có mức tác động được xếp thứ hai là nhân
tố “Luật pháp – LP”; (3) Nhân tố có mức tác động được xếp thứ ba là nhân tố
“Mong đợi của nhà thầu – MDCNT”; (4) Nhân tố có mức tác động được xếp
thứ tư là nhân tố “Sức hấp dẫn của gói thầu”; và (5) Nhân tố “Quy định và
thưởng” có mức độ ảnh hưởng thấp nhất trong số 5 nhân tố có tác động cùng
chiều nêu trên.

5.2.2.2. Bổ sung vào các quy định (luật, nghị định) đấu thầu quy định
“nghiêm cấm việc đưa những yêu cầu đặc thù của gói thầu vào hồ sơ mời thầu,
hồ sơ yêu cầu”
Thực tế rất nhiều nhà thầu bất bình với những quy định “yêu cầu có tính
chất đặc thù của gói thầu” được đưa vào trong hồ sơ mời thầu/hồ sơ yêu cầu”
như một thách đố nếu nhà thầu muốn vượt qua vòng đánh giá về kỹ thuật. Tình
trạng trên cần được chấm dứt bằng cách bổ sung vào các quy định về đấu thầu
nội dung “ nghiêm cấm” những hành vi như vậy.
5.2.2.3. Tăng cường kiểm tra, kiếm soát, giám sát hoạt động đấu thầu, phát
hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi ngăn cản tham dự đấu thầu của nhà thầu
NCS đề xuất: Thứ nhất, phải tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm
soát, giám sát hoạt động đấu thầu, hoạt động đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn
giám sát TCXDCT; Thứ hai, phải xử lý thật nghiêm những sai phạm đã được
phát hiện trong đấu thầu; Thứ ba, khen thưởng kịp thời những tổ chức, cá nhân
đã dũng cảm đấu tranh để phát hiện “những hành vi tinh vi” ngăn cản sự tham
gia của nhà thầu đảm bảo sự “công bằng, bình đẳng” giữa các nhà thầu.
5.2.2.4. Các công ty, doanh nghiệp, các cơ quan đơn vị trường học (nhà
thầu) cần quan tâm hơn nữa đến việc xây dựng và công khai chế độ thanh quyết
toán và khen thưởng cho các hoạt động chuẩn vị tham dự thầu
Để khuyến khích tham dự thầu, nhà thầu cần quan tâm hơn nữa đến việc
có những quy định rõ ràng đối với việc chuẩn bị tham dự thầu trên tinh thần

“không được xem việc không thắng thầu là do lỗi của những người thực hiện”.
5.2.2.5. Chấn chỉnh mạnh mẽ công tác đào tạo về đấu thầu cho đội ngũ
cán bộ chuyên môn về đấu thầu của chủ đầu tư/bên mời thầu
Ba giải pháp được đề xuất, gồm: (1) Ban hành chương trình đào tạo chuẩn
về đấu thầu; (2) Thực hiện đánh giá kết quả đào tạo phải thực chất; (3) Thay đổi
phương pháp đào tạo để tạo sự hấp dẫn, hứng thú hơn đối với người học.
5.2.2.6. Xử lý nghiêm khắc, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật đấu
thầu
Kiến nghị thực hiện nghiêm túc ba giải pháp cụ thể: Thứ nhất, cần phải
kiểm tra, thanh tra, giám sát thường xuyên, liên tục các hoạt động đấu thầu. Thứ
hai, phải xử lý thật nghiêm khắc những tập thể, cá nhân sai phạm dù người đó
là ai. Thứ ba, khen thưởng và bảo vệ những người dũng cảm, có công phát hiện
và tố cáo các sai phạm trong đấu thầu.

Thứ chín: Kết quả phân tích phương sai một chiều one – way ANOVA
cho thấy không có sự khác biệt giữa các nhóm đại diện nhà thầu trả lời phiếu
điều tra trong việc đánh giá tác động của nhân tố cũng như của biến phụ
thuộc “Quyết định tham dự thầu gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT của
nhà thầu.
Thứ mười: Kết quả nghiên cứu của công trình cho phép giải thích một số
hiện tượng xẩy ra trong quá trình nhà thầu ra quyết định tham dự thầu các gói
thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT trên địa bàn thành hố Hà Nội nói riêng.
5.2. Một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy quyết định tham dự đấu thầu
các gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình của nhà thầu
5.2.1. Định hướng của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt động đấu thầu
Công trình nghiên cứu đã đề xuất một số khuyến nghị trên cơ sở quán
triệt định hướng của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt động đấu thầu.
5.2.2. Một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy quyết định tham dự đấu thầu
các gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình của nhà thầu
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy tham dự đấu thầu của các nhà thầu đối

với gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT đã được phân tích và nêu lên.
5.2.2.1. Kiến nghị bổ sung vào các quy định về đấu thầu (luật hoặc Nghị
định) quy định “Nghiêm cấm hành vi chia nhỏ gói thầu thiếu căn cứ xác đáng”
Vì nhiều lý do như đã phân tích, NCS kiến nghị phải đưa nội dung
“nghiêm cấm hành vi chia nhỏ gói thầu khi lập kế hoạch đấu thầu” cho toàn bộ
dự án hay toàn bộ công trình xây dựng vào các quy định (luật, nghị định) đấu
thầu để điều chỉnh hành vi của chủ đầu tư.



×