Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu. Đề xuất hướng hoàn thiện quy dịnh pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.96 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Trong pháp luật dân sự, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là một trong những chế định quan
trọng, được thể hiện dưới các hình thức bảo đảm bằng tài sản, phi tài sản và luôn gắn với hợp đồng song vụ. Nội
dung của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự chính là bên có nghĩa vụ dùng tài sản thuộc quyền sở
hữu của mình để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình đối với bên kia theo hợp đồng. Nếu đến
hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ thì tài sản được bảo đảm sẽ
được xử lý theo thỏa thuận trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân
sự.
Theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được quy định tại
Mục 3, Chương XV, Phần thứ ba. Tại điều 292 Bộ luật Dân sự 2015 quy định có 8 biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự bao gồm: Cầm cố tài sản; Thế chấp tài sản; Đặt cọc; Ký cược; Ký quỹ; Bảo lưu quyền sở hữu;
Bảo lãnh; Tín chấp; Cầm giữ tài sản. Như vậy, so với Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật Dân sự 2015 đã bổ sung hai
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mới, đó là: Bảo lưu quyền sở hữu và Cầm giữ tài sản.

Và để tìm hiểu rõ hơn quy định của pháp luật về biện pháp bảo lưu quyền sở
hữu, em xin được lựa chọn đề tài: “Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật
hiện hành về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu. Đề xuất hướng hoàn thiện quy
dịnh pháp luật” làm nội dung cho bài tập học kỳ của mình.

Trang | 1


NỘI DUNG
1.Quy định của BLDS 2015 về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
1.1. Khái niệm bảo lưu quyền sở hữu
Định nghĩa:
Bảo lưu quyền sở hữu lần đầu tiên được quy định như một biện pháp bảo
đảm tại khoản 6 Điều 292 BLDS 2015 và được quy định cụ thể tại tiểu mục 5
BLDS 2015 (từ Điều 331 đến Điều 334).
Khoản 1 Điều 331 BLDS 2015 quy định: “Trong hợp đồng mua bán, quyền
sở hữu tài sản có thể được bên bán bảo lưu cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được


thực hiện đầy đủ”.Đối với chủ thể chuyên kinh doanh tài sản bán trả chậm, trả
dần thường không áp dụng các biện pháp bảo đảm mà dùng chính những tài sản
đó để bảo đảm như vay tiền mua nhà và dùng chính ngôi nhà đó để thế chấp…
Như vậy, việc quy định biện pháp bảo lưu quyền sở hữu nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích của bên bán.
Điều 461 BLDS 2005 quy định về hợp đồng mua trả chậm, trả dần và ví dụ
thực tiễn phổ biến trên thị trường quyền sử dụng đất hiện nay, có rất nhiều hợp
đồng được ký kết mà các bên thỏa thuận phương thức thanh toán nhiều lần, nhiều
kỳ. Bên bán được bảo lưu quyền sở hữu cho đến khi bên mua trả đủ tiền và thực
hiện các nghĩa vụ khác trong hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác.
Đặc điểm:
Là một biện pháp bảo đảm, Bảo lưu quyền sở hữu mang những đặc điểm
chung của một biện pháp bảo đảm, đó là:
+ Bản chất: Đây là một giao dịch phụ (hợp đồng phụ) không tồn tại độc lập,
mà nó luôn được xác lập đi kèm một hợp đồng chính (hợp đồng mua bán).
+ Mục đích: Nhằm đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của bên mua
tài sản, cũng chính là bảo vệ quyền, lợi ích của bên bán trong hợp đồng mua bán
tài sản.
Ngoài những đặc điểm chung như trên, biện pháp Bảo lưu quyền sở hữu
còn mang những đặc điểm riêng sau đây:
+ Đối tượng: Là tài sản (động sản, bất động sản). Khi nào mà quyền sở hữu
đối với tài sản vẫn thuộc về bên bán thì họ vẫn có toàn quyền quyết định đối với

Trang | 2


tài sản. Cái mà bên mua hướng đến cũng chính là quyền sở hữu tài sản một cách
hợp pháp.
Đúng như tên gọi của biện pháp, sau khi tài sản được giao cho người mua

( mua trả góp, mua trả chậm,trả dần…), cho đến khi người bán nhận đủ tiền thanh
toán thì quyền sở hữu đối với tài sản vẫn thuộc về người bán. Bên mua có quyền
chiếm hữu, quyền đưa tài sản vào khai thác công dụng. Quyền sở hữu chỉ được
chuyển giao cho người mua sau khi thanh toán xong tiền.
Tài sản trong các hợp đồng mua bán có áp dụng biện pháp bảo lưu quyền
sở hữu thông thường là những tài sản có giá trị lớn và có đăng ký quyền sở hữu,
như ô tô, xe máy, nhà ở, quyền sử dụng đất…
+ Phương thức bảo lưu: Người bán có thể bảo lưu bằng cách giữ giấy tờ
đăng ký tài sản hoặc là không sang tên tài sản trên giấy tờ cho người mua.
+ Hình thức bảo lưu: Bảo lưu quyền sở hữu phải được lập thành văn bản
riêng hoặc được ghi trong hợp đồng mua bán.
+ Ý nghĩa: Bảo lưu quyền sở hữu phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ
ba. Tại nghị định 163/2006/NĐ-CP cũng đã có quy định về hiệu lực của các giao
dịch bảo đảm. Trường hợp hợp đồng mua bán có bảo lưu quyền sở hữu được đăng
ký tại cơ quan có thẩm quyền trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày giao kết hợp
đồng mua bán thì bên bán có bảo lưu quyền sở hữu có thứ tự ưu tiên thanh toán
cao nhất khi xử lý tài sản bảo đảm (Khoản 2 Điều 13 Nghị định 163/2006/NĐCP). Sau khi thực hiện hợp đồng mua bán trả góp, trả chậm, trả dần, quyền sở hữu
với tài sản vẫn thuộc về bên bán. Bên mua có thể đem tài sản đó để tham gia vào
các giao dịch khác, hoặc để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ khác. Khi xử lý
tài sản đó, thì bên bán tài sản đó vẫn được ưu tiên thanh toán cho đến khi chuyển
giao quyền sở hữu cho bên mua; Nếu bên mua không thực hiện đúng nghĩa vụ của
mình thì bên bán có quyền truy đòi tài sản và được quyền thanh toán theo quy
định của BLDS 2015.
1.2. Nội dung quy định của BLDS 2015 về biện pháp bảo lưu
quyền sở hữu.
Về xác lập bảo lưu quyền sở hữu
Phạm vi áp dụng biện pháp bảo lưu quyền sở hữu

Trang | 3



Khoản 1 Điều 331 BLDS 2015 quy định “Trong hợp đồng mua bán, quyền
sở hữu tài sản có thể được bên bán bảo lưu cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được
thực hiện đầy đủ”.
Quy định này gián tiếp cho thấy, biện pháp bảo lưu quyền sở hữu này chỉ có
thể áp dụng đi kèm với hợp đồng mua bán tài sản. Trong khi đó, nếu chỉ xét về
bản chất của tên gọi “bảo lưu quyền sở hữu”, có thể hình dung biện pháp này có
thể áp dụng đi kèm với các giao dịch liên quan đến chuyển quyền sở hữu tài sản.
Điều này có nghĩa là, đối với tất cả các giao dịch có liên quan đến việc chuyển
quyền sở hữu tài sản thì các chủ thể đều có thể thực hiện quyền “bảo lưu quyền sở
hữu” của mình. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn nhận ở góc độ này thì chưa đủ, bảo lưu
quyền sở hữu được áp dụng có tính chất của một biện pháp bảo đảm, tức là cùng
với dấu hiệu nhận biết là áp dụng với các giao dịch mà trong đó có động tác
chuyển quyền sở hữu tài sản còn cần thêm dấu hiệu là các giao dịch này phải làm
phát sinh nghĩa vụ của bên được chuyển giao quyền sở hữu. Tức là nó được hình
thành trên cơ sở các hợp đồng song vụ. Với các phân tích trên, hợp đồng mua bán
chỉ là loại điển hình của hợp đồng song vụ có chuyển giao quyền sở hữu tài sản.
Bên cạnh đó, hợp đồng trao đổi tài sản theo quy định tại Điều 455 BLDS 2015
cũng có những tính chất như đã phân tích trên đây. Nếu áp dụng đúng quy định tại
Điều 331 BLDS 2015, bảo lưu quyền sở hữu không được phép áp dụng đối với
hợp đồng trao đổi tài sản. Tuy nhiên, khoản 4 Điều 455 BLDS 2015 quy định:
“Mỗi bên đều được coi là người bán đối với tài sản giao cho bên kia và là người
mua đối với tài sản nhận về. Các quy định về hợp đồng mua bán từ Điều 430 đến
Điều 439, từ Điều 441 đến Điều 449 và Điều 454 của Bộ luật này cũng được áp
dụng đối với hợp đồng trao đổi tài sản”.
Như vậy, theo các quy định nêu trên, bảo lưu quyền sở hữu tài sản được áp
dụng cả đối với hợp đồng trao đổi tài sản.
Hình thức của xác lập
Khoản 2 Điều 331 BLDS 2015 quy định:“Bảo lưu quyền sở hữu phải được
lập thành văn bản riêng hoặc được ghi trong hợp đồng mua bán”. Như vậy, đây là

một trong số ít các trường hợp mà pháp luật quy định hình thức phải bằng văn bản
đối với giao dịch.
Trang | 4


Việc yêu cầu xác lập bằng văn bản đối với biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
là một yêu cầu hợp lý. Bởi lẽ, cần có bằng chứng xác thực cho một hành vi đặc
biệt của bên có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu tài sản trong việc không thực
hiện nghĩa vụ này. Trên thực tiễn, yêu cầu này sẽ dẫn đến những trường hợp sau:
Thứ nhất, hoàn toàn không có vấn đề gì nếu theo quy định của pháp luật hợp
đồng mua bán hay hợp đồng trao đổi tài sản phải lập thành văn bản, khi đó điều
khoản bảo lưu quyền sở hữu được ghi vào văn bản – hợp đồng mua bán.
Thứ hai, trong trường hợp hợp đồng mua bán không buộc phải xác lập bằng
văn bản, khi đó các bên sẽ có hai lựa chọn:
Một là, xác lập hợp đồng mua bán bằng văn bản (mặc dù luật không yêu cầu)
và tương ứng với hợp đồng này là điều khoản hay hợp đồng bảo lưu quyền sở
hữu;
Hai là, chấp nhận tình trạng hợp đồng mua bán lập bằng miệng nhưng hợp
đồng (hay điều khoản) bảo lưu quyền sở hữu lại xác lập bằng văn bản.
Về thời điểm xác lập bảo lưu quyền sở hữu tài sản
Biện pháp bảo lưu quyền sở hữu phải được xác lập trước thời điểm thực hiện
việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản. Về logic, biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
tài sản phải xác lập đồng thời (vì ghi cùng) với hợp đồng mua bán tài sản. Tuy
nhiên, chúng tôi cho rằng, để phù hợp với thực tiễn hiện nay, thời điểm xác lập
biện pháp bảo lưu quyền sở hữu, một cách hợp lý, chỉ cần trước thời điểm chuyển
giao quyền sở hữu là được.
Hiệu lực của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
Vấn đề hiệu lực của biện pháp bảo đảm này được xem xét ở góc độ hiệu lực
đối kháng hay quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ.
Về hiệu lực đối kháng

Khoản 3 Điều 331 BLDS 2015 quy định “Bảo lưu quyền sở hữu phát sinh
hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”.
Như vậy, việc đăng ký bảo lưu quyền sở hữu không được xem như một quy
định bắt buộc về hình thức để thoả thuận này có hiệu lực. Nó chỉ là cơ sở để làm
phát sinh giá trị đối kháng của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu với người thứ ba.
Điều này có nghĩa là nếu không được đăng ký, biện pháp bảo đảm này chỉ có giá
trị trong quan hệ giữa các bên tham gia giao dịch.
Bên cạnh đó, BLDS 2015 chưa xác định rõ giá trị của hiệu lực đối kháng
trong trường hợp bên mua tài sản bán lại tài sản này cho người khác. Theo chúng
Trang | 5


tôi, giải pháp cần công nhận là người mua tài sản phải chấp nhận quyền của bên
bán (đang vẫn là chủ sở hữu đối với tài sản).
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong bảo lưu quyền sở hữu
Đối với bên bán: Bên bán có quyền “đòi lại tài sản” được quy định tại Điều
332 BLDS 2015:
+ Bên bán có quyền đòi lại tài sản trong trường hợp bên mua không hoàn
thành nghĩa vụ thanh toán đủ số tiền theo thỏa thuận.
+ Bên bán có quyền yêu cầu bên mua bồi thường thiệt hại trong trường hợp
bên mua làm mất mát, hư hỏng tài sản.
Bên bán có nghĩa vụ hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh toán
sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng.
Đối với bên mua: Quyền và nghĩa vụ của bên mua được quy định tại Điều
333 BLDS 2015:
+ Bên mua có quyền sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản
trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu có hiệu lực.
+ Bên mua có nghĩa vụ phải gánh chịu những rủi ro xảy ra với tài sản trong
thời hạn bảo lưu quyền sở hữu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Về quyền lấy lại tài sản của bên bán

Điều 332 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bên mua không hoàn thành
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài
sản. Bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ giá
trị hao mòn tài sản do sử dụng. Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài sản thì
bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Với điều khoản bảo lưu quyền sở hữu thì bên có quyền vẫn luôn là chủ sở
hữu tài sản. Trong trường hợp này, bản thân quyền sở hữu tài sản là đối tượng của
giao dịch bảo đảm để bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán của bên mua. Vì vậy, nếu
người mua hoàn tất nghĩa vụ thanh toán, quyền sở hữu được chuyển giao, ngược
lại, nếu vi phạm nghĩa vụ thanh toán, với tư cách là chủ sở hữu, bên bán được lấy
lại tài sản. Tính chất bảo đảm cao hơn rất nhiều lần so với các biện pháp bảo đảm
thông thường (như cầm cố, thế chấp)1.
Trên thực tế, việc áp dụng điều khoản bảo lưu quyền sở hữu trong thời gian
qua hay bị nhầm lẫn với một kỹ thuật khác có cơ chế gần tương tự. Việc bảo lưu
quyền sở hữu thường đi kèm với việc trả chậm (hay thanh toán nhiều lần trong
1 Giáp Minh Tâm (2017), Bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật

học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.18.

Trang | 6


thời gian kéo dài), nhưng không phải tất cả các trường hợp trả nhiều lần (trả góp)
đều là bảo lưu quyền sở hữu. Có thể hình dung qua ví dụ đơn giản như sau: A mua
căn hộ chung cư của nhà đầu tư B, vì không có tiền thanh toán một lần, với hỗ trợ
của nhà đầu tư, A được vay tiền với lãi suất ưu đãi của ngân hàng C với thoả
thuận là căn hộ sẽ được thế chấp cho ngân hàng C và A sẽ thanh toán tiền vay
bằng hình thức trả chậm. Với tình huống này, chúng ta có trong thực tế việc “trả
chậm” nhưng không có việc bảo lưu quyền sở hữu mà là một hợp đồng “mua đứt,
bán đoạn”. Do đó, nếu vì lý do gì đó A không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả

nợ cho ngân hàng C thì C chỉ có thể tiến hành các thủ tục đòi nợ hoặc yêu cầu xử
lý tài sản thế chấp là căn hộ mà A đã mua chứ không có quyền lấy lại tài sản như
quy định tại Điều 332 BLDS 2015 nêu trên.
Ngoài ra, Điều 332 còn quy định “Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng
tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại” có thể sẽ gây ra những
tranh cãi trên trên thực tế. Bởi lẽ, có thể xảy ra hai trường hợp sau:
Thứ nhất, khi bên mua vẫn đang tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán, tài
sản bị mất đột ngột. Nếu vẫn tiếp tục thanh toán cho đến hết thì bên bán sẽ chuyển
giao quyền sở hữu tài sản sang cho bên mua? Tài sản không còn, việc chuyển giao
quyền sở hữu liệu có còn ý nghĩa?
Thứ hai, nếu đang thực hiện nghĩa vụ thanh toán, tài sản bị mất, bên mua
ngưng thanh toán, bên bán đòi tài sản thì phát hiện ra tài sản bị mất. Tại đây,
quyền yêu cầu bồi thường sẽ phát sinh. Quy định này của Điều 332, một cách gián
tiếp, đẩy rủi ro cho bên mua tài sản kể từ thời điểm được giao tài sản. Trong khi
đó, bên bán với tư cách chủ sở hữu tài sản sẽ không gánh chịu rủi ro./.
2. Đánh giá các quy định của BLDS 2015 về biện pháp bảo lưu quyền sở
hữu
Trong BLDS 2005, quy định về Bảo lưu quyền sở hữu mới chỉ được đề cập
đến như một trường hợp đặc biệt của hợp đồng mua bán hàng hóa, cụ thể tại Điều
461 về hợp đồng mua trả chậm, trả dần. Như vậy, bảo lưu quyền sở hữu chưa
được công nhận là một biện pháp bảo đảm chính thức trong luật.
Khắc phục sự thiếu sót đó, cùng với tình hình thực tế trong xã hội ngày nay,
các nhà làm luật đã bổ sung thêm quy định về biện pháp Bảo lưu quyền sở hữu
Trang | 7


trong BLDS 2015. Xét về góc độ kinh tế, hợp đồng mua trả chậm, trả dần xem
như là một phương thức khuyến khích bán hàng của nhiều doanh nghiệp. Bên
mua dù chưa có đủ tiền nhưng vẫn có thể có được loại hàng hóa mà mình mong
muốn. Thông thường, lãi suất trong trường hợp mua trả chậm,trả dần là lãi suất ưu

đãi mang tính chất hỗ trợ cho bên mua tài sản trả chậm, trả dần.
Tuy nhiên, biện pháp này vẫn còn có những vướng mắc trong việc áp dụng,
đặc biệt là quy định về vấn đề quyền sở hữu.
Thứ nhất, theo quy định của BLDS 2015, tài sản được chuyển giao cho bên
mua nhưng quyền sở hữu vẫn thuộc về bên bán cho đến khi bên mua thanh toán
đủ tiền. Có ý kiến cho rằng: “Việc công nhận điều khoản bảo lưu quyền sở hữu
trong hợp đồng mua bán là một biện pháp bảo đảm chưa hợp lý bởi người mua
chỉ đơn thuần có quyền chiếm hữu tài sản trong khi người bán vẫn có quyền sở
hữu tuyệt đối đối với tài sản theo thỏa thuận của các bên : biện pháp bảo đảm
phải phát sinh từ việc bên bảo đảm trao quyền đối với tài sản của mình cho bên
nhận bảo đảm chứ không thể là việc bên chủ sở hữu tài sản bảo lưu quyền sở hữu
của mình”2 . Vậy có nghĩa là, bên mua không có quyền đem tài sản đó bán, tặng
cho, cho thuê hoặc đảm bảo cho các nghĩa vụ dân sự khác. Như vậy có đảm bảo
quyền cho bên mua hay không, khi mà bên mua cũng đã trả một phần tiền cho bên
bán và thực tế cũng có nhiều trường hợp như vậy xảy ra và các bên không biết
phải xử lý như thế nào?. Nếu như, người mua đã bán tài sản cho người thứ ba khi
có sự đồng ý của người bán, thì các bên phải có thỏa thuận rõ ràng về việc ai có
nghĩa vụ thanh toán nốt số tiền còn lại cho người bán, người mua hay người thứ
ba? Và người bán có quyền đòi nợ với ai? Chỉ khi thỏa thuận rõ ràng mới hạn chế
tối đa việc xảy ra những tranh chấp.
Trên thực tế, với những loại giao dịch dân sự có điều kiện, đối tượng của hợp
đồng là những tài sản bắt buộc phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
mà theo tinh thần của luật 2015, người bán có quyền bảo lưu quyền sở hữu bằng

2 Bùi Đức Giang, “Sửa quy định về giao dịch bảo đảm: bước tiến hay lùi”, tại địa chỉ:

/>truy cập 10/10/2019.

ngày


Trang | 8


cách không làm thủ tục đăng kí hoặc giữ lại giấy tờ đăng ký, như vậy sẽ gây ra
không ít khó khăn cho người mua trong quá trình sử dụng tài sản.
Ví dụ: Quy định người tham gia giao thông phải sử dụng các phương tiện
chính chủ, pháp luật quy định đối với người điều khiển xe máy trong khi tham gia
giao thông đều phải có giấy tờ đăng kí xe… nhưng do chưa trả hết tiền cho người
bán nên người bán đã giữ lại giấy tờ đăng kí xe của người mua. Vậy khi họ mắc
lỗi đi sai làn đường, không lẽ lại mắc luôn lỗi không mang giấy đăng ký xe ?.
Thứ hai, trường hợp các bên trong hợp đồng mua bán đã thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ thanh toán cho nhau nhưng lại không thể thực hiện được hợp đồng bởi lý
do khách quan, bất khả kháng không xuất phát từ hai bên chủ thể của hợp đồng,
dẫn đến hợp đồng không thực hiện được thì trường hợp này bên bán có được thực
hiện quyền bảo lưu quyền sở hữu tài sản của mình hay không?
Ví dụ: Hợp đồng mua bán nhà là một trong những giao dịch dân sự có điều
kiện, pháp luật về nhà ở quy định hợp đồng chỉ có hiệu lực sau khi hai bên đã
thực hiện thủ tục công chứng tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, trong
trường hợp này, sau khi hai bên đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình như thanh
toán, chuyển giao tài sản, nộp thuế… nhưng sau đó lại có quyết định của cơ quan
nhà nước về việc thu hồi tài sản để thực hiện dự án thì trong trường hợp này
người bán có được bảo lưu quyền sở hữu tài sản của mình hay không? Còn quyền
lợi của người mua có được đảm bảo không? Trường hợp trên sẽ được giải quyết
như thế nào theo quy định của pháp luật.3
Thứ ba, bảo lưu quyền sở hữu được áp dụng đối với tài sản là vật trong các
hợp đồng mua trả chậm, trả dần. Tuy nhiên, đối với các tài sản tiêu hao thì không
thể bảo lưu quyền sở hữu được, vì khi sử dụng vật không còn nữa. Khi tài sản đã
tiêu hao mà bên mua không thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì bên bán cũng không thể
lấy lại tài sản đó và cũng không thể yêu cầu bên mua trả số tiền còn lại, hoặc phải
chứng minh nghĩa vụ trả tiền của bên mua rất phức tạp. Trường hợp này giải


3 Phạm Thanh Sơn, “Một số góp ý với dự thảo bộ luật dân sự (sửa đổi)”, tại địa chỉ:

ngày truy cập 10/10/2019.

Trang | 9


quyết như thế nào? 4 Để tránh những rắc rối xảy ra sau đó, ngay từ đầu các bên
phải thỏa thuận rõ ràng về việc người bán có quyền yêu cầu người mua trả tiền
trong một thời hạn nhất định.
Một điều nữa là theo BLDS 2015, khi có rủi ro xảy ra thì bên mua sẽ phải
gánh chịu hậu quả đó, nhưng như vậy có công bằng không?
Ví dụ: Một người mua nhà trả góp, thực chất bên mua nợ bên bán một khoản
tiền và bên bán vẫn đứng tên là chủ sở hữu để đảm bảo nghã vụ trả đủ tiền của
bên mua, bên mua được giao nhà và sử dụng nhà. Vấn đề đặt ra là trong trường
hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng như mưa, bão làm căn nhà bị sập hoặc hỏa hoạn
khiến căn nhà bị thiêu rụi… và theo quy định của luật thì bên mua phải gánh chịu
rủi ro ngay cả khi thiệt hại gây ra nhưng không phải lỗi của họ.
3. Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện các quy định của
pháp luật về bảo lưu quyền sở hữu
Một là, hợp nhất quy định về bảo lưu quyền sở hữu trong một chế
định
Cụ thể, theo quy định của BLDS 2015 thì:
(i) Trong hợp đồng mua trả chậm, trả dần, bảo lưu quyền sở hữu
được xác lập tự động khi các bên lựa chọn phương thức thanh toán là trả
chậm, trả dần mà không cần có điều khoản hay văn bản riêng về bảo lưu
quyền sở hữu;
(ii) Với vị trí là biện pháp bảo đảm, bảo lưu quyền sở hữu không
được xác lập một cách tự động mà các bên bắt buộc phải lập thành văn

bản thỏa thuận cụ thể về bảo lưu quyền sở hữu hoặc thiết lập một điều
khoản riêng về bảo lưu quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán5.
Như vậy, rõ ràng về bản chất của bảo lưu quyền sở hữu trong hợp
đồng mua trả chậm, trả dần với bảo lưu quyền sở hữu với vị trí là một
biện pháp bảo đảm không có sự khác nhau về bản chất nên không cần
4 Nguyễn Minh Tuấn,“Những nội dung của phần nghĩa vụ và hợp đồng còn bất cập”, tại địa chỉ:

ngày truy cập 10/10/2019.
5 Giáp Minh Tâm (2017), Bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật
học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.77.

Trang | 10


thiết phải quy định trong hai chế định. Do vậy, nên hợp nhất hai chế định
này thành một chế định duy nhất để hạn chế những quan điểm mâu thuẫn
cũng như để áp dụng thống nhất trong việc thực hiện các quy định về bảo
lưu quyền sở hữu.
Hai là, sửa tên điều luật 332 thành quyền và nghĩa vụ của bên bán.
Tại BLDS 2015 đặt tên điều luật là quyền đòi lại tài sản nhưng nội
dung của điều luật lại bao gồm cả quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về
tài sản. Ngoài ra, việc quy định đan xen giữa quyền và nghĩa vụ sẽ gây
khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật do đó, ngoài việc sửa tên
Điều 332, nội dung về quyền và nghĩa vụ trong điều luật cũng cần có sự
tách biệt thành các khoản khác nhau.
Ba là, hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong
thực hiện bảo lưu quyền sở hữu
Với những quy định như hiện nay, quyền và nghĩa vụ của bên bán là
do luật định. Tức là, khi bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán
tiền mua tài sản, bên bán có hai quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi

thường thiệt hại (nếu có) và có nghĩa vụ hoàn trả lại số tiền mà bên mua
đã thanh toán cho bên bán. Quy định này dường như đi ngược lại với
nguyên tắc thỏa thuận trong giao kết hợp đồng. Hơn nữa, theo quy định
của Điều 331 BLDS 2015 thì bảo lưu quyền sở hữu được xác lập theo
thỏa thuận của các bên. Như vậy, rõ ràng quy định hiện nay về quyền và
nghĩa vụ của các bên đang bị nhà làm luật gò bó trong các quy định của
pháp luật điều này vô hình chung làm mất đi quyền lợi chính đáng của
bên bán trong việc thực hiện hợp đồng bảo lưu quyền sở hữu
Chính vì vậy, quyền và nghĩa bên bán cần phải được bổ sung theo
hướng thêm cụm từ “trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”, cụ thể
như sau: “Bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh toán
sau khi trừ giá trị hao mòn của tài sản do sử dụng, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác”
Bốn là, đối với các trường hợp chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu
Trang | 11


BLDS 2015 chỉ quy định ba trường hợp chấm dứt bảo lưu quyền sở
hữu. Tuy nhiên, ngoài ba trường hợp thì bảo lưu quyền sở hữu vẫn có thể
chấm dứt trong các trường hợp khác như: Bảo lưu quyền ở hữu được
thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác; chấm dứt do bị hủy bỏ hoặc bị
đơn phương chấm dứt,… Chính vì vậy cần bổ sung thêm các trường hợp
chấm dứt bảo lưu vào Điều 334 BLDS 2015.

Trang | 12


KẾT LUẬN
Bảo lưu quyền sở hữu là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự thông dụng được các nước trên thế giới ghi nhận và áp dụng rộng

rãi, điển hình như Pháp, Đức, Nhật Bản … Việc bổ sung thêm biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ trên vào BLDS 2015 là hết sức cần thiết nhằm tạo hành lang
pháp lý cho các bên tham gia vào giao dịch dân sự có nhiều phương án để lựa
chọn biện pháp bảo đảm, đảm bảo được tính linh hoạt cho quá trình ký kết, tham
gia, thực hiện hợp đồng dân sự của các chủ thể, góp phần thúc đẩy sự phát triển
chung của nền kinh tế đất nước.. Tuy nhiên, cần phải đưa ra những quy định hợp
lý, cụ thể hơn để khắc phục những bất cập từ thực tế, để hoàn chỉnh hơn hệ thống
pháp luật.

Trang | 13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 2, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2017;
2. Phạm Văn Tuyết, Hoàn thiện chế định pháp luật về giao dịch bảo đảm, Đề
tài khoa học cấp trường Đại học Luật Hà Nội, 2014;
3. Bộ luật Dân sự 2015;
4. Giáp Minh Tâm (2017), Bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt
Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
5. Bùi Đức Giang, “Sửa quy định về giao dịch bảo đảm: bước tiến hay lùi”,
tại địa chỉ: ngày truy cập 10/10/2019.
6. Phạm Thanh Sơn, “Một số góp ý với dự thảo bộ luật dân sự (sửa đổi)”, tại
địa chỉ: ngày truy cập 10/10/2019.
7. Nguyễn Minh Tuấn,“Những nội dung của phần nghĩa vụ và hợp đồng còn
bất cập”, tại địa chỉ: ngày
truy cập 10/10/2019.

Trang | 14



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................1
1.Quy định của BLDS 2015 về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu............................2
1.1. Khái niệm bảo lưu quyền sở hữu......................................................................2
1.2. Nội dung quy định của BLDS 2015 về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu........4
2. Đánh giá các quy định của BLDS 2015 về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu......8
3. Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo lưu
quyền sở hữu..........................................................................................................10
KẾT LUẬN............................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang | 15



×